1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

HỌC VIỆN Y DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - VƯỜN THUỐC GIA ĐÌNH

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi nkmanh, 16/03/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    HỌC VIỆN Y DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - VƯỜN THUỐC GIA ĐÌNH

    Rau diếp

    Rau diếp - Lactuca sativa L var longifolia Lam, thuộc họ Cúc - Asteraceae.

    Mô tả: Cây thảo sống 1-2 năm, có thân thẳng hình trụ. Lá mọc ngay từ gốc thân, càng lên càng nhỏ dần; lá ở gốc có cuống còn lá ở thân không cuống. Khác với các thứ xà lách là lá không cuộn bắp và lá mềm nhẵn, màu xanh thẫm. Cụm hoa gồm nhiều đầu hoa hợp lại thành chuỳ kép, mỗi đầu có 10-24 hoa dạng lưỡi nhỏ màu vàng. Quả bế hình trái xoan dẹp, màu nâu, có mào lông trắng.

    Ra hoa tháng 3-4.

    Bộ phận dùng: Phần cây trên mặt đất - Herba Lactucae Longifoliae.

    Nơi sống và thu hái: Rau diếp chỉ là một thứ của xà lách vốn xuất xứ từ châu Âu, được nhập vào trồng ở nước ta. Hiện ta có các chủng như diếp vàng, diếp xanh, diếp ngõ và diếp lưỡi hổ. Rau diếp chịu nóng khá hơn, có thể trồng sớm muộn được.

    Thành phần hoá học: Trong rau diếp tươi có 92,3% nước, 1,7% protid, 0,5% lipid, 9% cellulose, 3,2% dẫn xuất khô protein và 1% khoáng toàn phần.

    Người ta còn biết cây có nhiều Vitamin (E. G.K và cholin và các muối khoáng. Trong cây có 0,023mg% As. Cây tươi cho 0,0038% và cây khô chứa 0,071% acid oxlic. Trong cây alcaloid lactucopicrin và cũng như các thứ khác cùng loài các loài cũng chỉ Lactuca, đều chứa Lactucarinum.

    Tính vị, tác dụng: Có vị đắng, tính lạnh; có tác dụng bổ gân cốt, lợi cho tạng phủ, thông kinh mạch, lợi khí làm thông miệng, sáng mắt, dễ ngủ và giải độc rượu.

    Công dụng, chỉ định và phối hợp: Rau diếp thường dùng làm rau ăn sống, trộn đều giấm hoặc làm cuốn diếp. Cũng được làm thuốc thông sữa, thông tiểu, sát trùng.

    Ở Ấn Ðộ, người ta dùng Rau diếp như xà lách làm thuốc gây buồn ngủ trong bệnh viêm khí quản, hen suyễn, còn dùng ngoài trị bỏng và loét nhức nhối.

    Ðơn thuốc:

    1. Sữa không thông: Dùng 100g rau diếp đem sắc nước thêm một chén rượu uống.

    2. Tiểu tiện không thông hoặc đái ra máu: Dùng một nắm rau diếp giã nhỏ đắp lên trên rốn.

    3. Sâu kiến trong tai không ra: Dùng rau diếp vắt lấy nước cốt nhỏ vào tai.
  2. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Giền
    Giền, Giền đỏ, Sai, Mạy sản săn - Xylopia vielana Pierre, thuộc họ Na - Annonaceae.
    Mô tả: Cây gỗ nhỡ có thể đến 10-18m, đường kính tới 20-25Cm. Thân thẳng, tròn, vỏ thân màu vàng đen, dễ bóc, có cành mảnh, khi non màu xám nhạt, có lông hung sau chuyển sang màu đen, có chấm trắng (lỗ bì). Lá mọc so le, phiến lá xoan, dài 7-10cm, rộng 3-4cm, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới có lông vàng và mốc mốc; cuống 4mm. Hoa mọc 1-2 cái ở nách lá, màu hồng nhạt; đài có 3 thuỳ, mập, tràng có 6 cánh hoa hàn liền ở gốc, dính nhau trước khi nở, hình dải hẹp, có lông dày, nhị nhiều, các nhị ngoài lép, nhị sinh sản xếp nhiều vòng, bao phấn có ngăn ngang; các lá noãn có lông. Quả kép gồm nhiều quả đại hình trụ có cuống dài xếp toả ra, thường có eo giữa các hạt; mặt ngoài màu lục hoặc vàng nhạt, mặt trong màu đỏ; 3-5 hạt màu nâu đen, có áo hạt.
    Mùa hoa tháng 4-7; quả tháng 8-11.
    Bộ phận dùng: Vỏ cây - Cortex Xylopiae Vielanae.
    Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở các rừng kín và rừng thưa vùng đồi núi thấp và trung bình ở nhiều tỉnh từ Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Bắc, Tuyên Quang, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Ninh Bình, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam-Ðà Nẵng, Kontum, Gia Lai, Ðắc Lắc, Bình Ðịnh, Khánh Hoà, tới Tây Ninh, Ðồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu. Có nơi như ở Hà Bắc, cây mọc nhiều được chặt làm củi. Người ta dùng vỏ thân làm thuốc, nên có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất là vào mùa xuân, mang về cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô.
    Thành phần hoá học: Trong vỏ khô có tanin thuộc loại pyrocatechic (4,55%) alcaloid (0,31%-0,33%) saponin (4,5-4,9% thô, nếu tinh chế là 2,8%), tinh dầu (0,23%).
    Tính vị, tác dụng: Không có độc, saponin của vỏ đều có tác dụng an thần.
    Công dụng, chỉ định và phối hợp: Nhân dân dùng vỏ cây Giền để làm thuốc bổ máu, chữa xanh xao suy nhược, điều trị sốt rét, làm rượu bổ cho phụ nữ sau khi đẻ, làm thuốc điều kinh. Một số nơi còn dùng làm thuốc trợ tim. Ngày dùng 10-20g dưới dạng bột, thuốc viên, rượu thuốc. Hoặc nấu cao pha rượu. Ðồng bào dân tộc ở Hà Bắc, dùng lá cây Giền để điều trị các bệnh đường ruột, đau nhức tê thấp.
    Quả chín ăn được.
    Ghi chú: Người ta sử dụng cây làm thuốc bổ máu, trị sốt rét, nên có người thường gọi nó là Canh ki na. Ngoài loài Giền này, còn có một số loài khác như Xylopia pierrei Hance, gọi là Giền trắng và X. nitida Ast., gọi là Giền láng, chỉ phân bố giới hạn ở một số nơi của các tỉnh phía Nam của nước ta.
  3. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Mộc nhĩ
    Mộc nhĩ, Nam tai mèo, Nấm mèo - Auricularia auricula (L.) Underw., thuộc họ Mộc nhĩ - Auriculariaceae.
    Mô tả: Thể quả dạng cái tai mèo gồm mặt không sinh sản ở phía trên, hầu như nhẵn đến phủ lông nâu, mô nấm chất keo và mặt sinh sản nhẵn hay nhăn theo nhiều hay ít, phủ lớp phấn trắng do bào tử phóng ra khi nấm trưởng thành. Cơ quan sinh sản là đảm đa bào, hình chùy, nằm sâu trong chất keo. Một tế bào đảm có một cuống nhỏ ở bên dưới kéo dài qua lớp bao nhầy và tới bề mặt của thể quả. Trên mỗi cuống nhỏ này có một bào tử đảm. Thịt nấm dày 1-3mm.
    Bộ phận dùng: Thế quả của Mộc nhĩ - Auricularia.

    Nơi sống và thu hái: Nấm mọc trên thân cành hay gỗ mục của nhiều loại cây, lành nhất là nấm của các cây Hoè, Ðậu, Sung, Mít, Dướng, Ruối, Sắn, So đũa... Ngoài việc thu hái nấm mọc tự nhiên, người ta thường trồng Mộc nhĩ trên gỗ cây Mít, trên thân cây Sắn, cây So đũa để có sản lượng nhiều và bảo đảm phẩm chất tốt. Thu hái nấm vào mùa hè, mùa thu, rửa sạch, cắt bỏ phần bẩn dính vào giá thể, rồi phơi khô.
    Tính vị, tác dụng: Mộc nhĩ có vị ngọt, tính bình; có tác dụng dưỡng huyết, thông mạch, cầm máu. Ăn nhiều thì nhẹ mình, nhớ lâu, quang nước mắt.
    Công dụng: Thường được sử dụng chữa: 1. Suy nhược toàn thân, thiếu máu, ho; 2. Khái huyết, trị xuất huyết, chảy máu cam, xuất huyết tử cung; 3. Huyết áp cao, táo bón; còn dùng chữa chứng nhiệt lỵ, trĩ, đau răng. Dùng 10-30g dạng thuốc sắc hay tán bột uống.
    Ðơn thuốc:
    1. Chữa đi lỵ ra máu: 20g Mộc nhĩ sao tán bột, uống làm 3 lần.
    2. Chữa đau răng: Dùng Mộc nhĩ và Kinh giới, sắc lấy nước ngậm và súc miệng.
    3. Chữa suy nhược: Mộc nhĩ 30g, Chà là 30g, sắc uống.
    4. Trị xuất huyết, táo bón: Mộc nhĩ 6g, Hồng khô 30g nấu chè ăn.
    5. Chữa bệnh trĩ lâu ngày: Nấu Mộc nhĩ ăn luôn thì khỏi.
    6. Huyết áp cao, xơ cứng tiểu động mạch, chảy máu võng mạc...: Mộc nhĩ 30g ngâm trong nước một đêm, rồi đem hấp chín với đường trong 1-2 giờ, dùng ăn trước khi đi ngủ.
  4. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Bí đao
    Bí đao, Bí phấn, Bí xanh - Benincasa hispida (Thunb.) Cogn., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae.
    Mô tả: Cây thảo một năm mộc leo dài tới 5m, có nhiều lông dài. Lá hình tim hay thận, đường kính 10-25cm, xẻ 5 thuỳ chân vịt; tua cuốn thường xẻ 2-1 nhánh. Hoa đơn tính màu vàng. Quả thuôn dài 25-40cm, dày 10-15cm lúc non có lông cứng, khi già có sáp ở mặt ngoài, nặng 3-5kg, màu lục mốc, chứa nhiều hạt dẹp.
    Hoa tháng 6-9; quả tháng 7-10.
    Bộ phận dùng: Vỏ quả - Exocarpium Benincasae; thường gọi là Đông qua bì.
    Hạt cũng được sử dụng.
    Nơi sống và thu hái: Bí đao gốc ở Ấn Độ, được trồng rộng rãi ở khắp các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới của châu á và miền Ðông của châu Ðại Dương. Ở nước ta, Bí đao cũng được trồng khắp nơi để lấy quả. Ta thường gặp 2 giống chính là Bí đá và Bí gối. Bí đá có quả nhỏ, thuôn dài, vỏ xanh, khi già vỏ xanh xám và xứng, hầu như không có phấn trắng ở ngoài. Bí đá dày cùi, ít ruột, ăn ngon nhưng cho năng suất thấp. Còn Bí gối quả to, khi già phủ lớp sáp trắng, giống này dày cùi nhưng ruột nhiều, lại cho năng suất cao. Bí đao dễ bảo quản; nếu để nơi mát, khô ráo cho thoáng, đừng xếp chồng lên nhau thì có thể để dành bí trong nhiều tháng. Ðể làm thuốc, ta dùng quả già lấy thịt quả, vỏ quả và hạt.
    Thành phần hoá học: Bí đao tươi có tỷ lệ % các chất như sau: nước 67,9, protid 0,1, lipid 0,1, cellulos 0,7, dẫn xuất không protein 30,5, khoáng toàn phần 0,1. Trong các loại kháng có calcium 26mg, phosphor 23mg, sắt 0,3mg. Còn có các vitamin caroten 0,01mg, vitamin B1 0,01mg, vitamin B2 0,02mg, vitamin PP 0,03mg và vitamin C 16mg. Nhiệt lượng do 100g bí cung cấp cho cơ thể là 12calo. Hạt chứa ureaza.
    Tính vị, tác dụng: Bí đao có vị ngọt, tính lạnh, không độc, có tác dụng lợi tiểu tiện, tiờu phự thũng, thanh nhiệt, tiêu viêm. Vỏ Bí đao vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm tiêu thũng, giải nhiệt. Hạt có tác dụng kháng sinh, tiêu độc trừ giun.
    Công dụng, chỉ định và phối hợp: Bí đao là loại rau xanh thường dùng trong các bữa ăn của nhân dân ta, cũng như dưa chuột. Có thể dùng Bí đao ăn luộc hoặc nấu canh tôm, canh cua, làm nộm, xào thịt gà, thịt lợn. Bí đao còn dùng làm mứt; mứt Bí đao thường dùng trong dịp Tết Nguyên đán. Ăn Bí đao thông tiểu, tiêu phù, giải khát, mát tim, trừ phiền nhiệt, bớt mụn nhọt. Vỏ quả dùng chữa đái dắt do bàng quang nhiệt hoặc đái đục ra chất nhầy. Hạt Bí đao cũng dùng rang ăn và dùng chữa ho, giải độc và trị rắn cắn. Lá Bí đao giã nát trộn với giấm rịt đắp chữa các đầu ngón tay sưng đau (chín mé). Ở Cămpuchia, người ta dùng rễ nấu nước tắm để trị bệnh đậu mùa.
    Ðơn thuốc:
    1. Chữa phù thũng: Khi cả mình và mặt đều phù, dùng Bí đao cùng Hành củ nấu canh với cá chép ăn thường (Nam dược thần hiệu) hoặc dùng Bí đao 40g, Ðậu đỏ 40g sắc đặc uống hàng ngày (Kinh nghiệm dân gian).
    2. Chữa đái không thông do bàng quang nhiệt, hoặc đái đục ra chất nhầy, dùng vỏ Bí đao sắc đặc, uống nhiều sẽ đái thông (Nam dược thần hiệu).
    3. Chữa ung nhọt ở phổi hay ở đại tràng, dùng hạt Bí đao, Bồ công anh, Kim ngân hoa, ý dĩ, Diếp cá, đều 40g. Rễ lau 20g, Hạt đào, Cát cánh, Cam thảo đều 10g, sắc uống.
  5. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Bạch phụ tử
    Bạch phụ tử. Dầu mè đỏ, San hô - Jatropha multifida l., thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.
    Mô tả: Cây nhỡ rất nhẵn, cao tới 6m. Lá xẻ thuỳ chân vịt sâu, các thuỳ có nhiều răng hẹp, gốc phiến lá hình tròn, cuống dài bằng lá, lá kèm chia thành nhiều phiến hình chỉ. Cụm hoa hình xim dạng tán, có cuống dài mang hoa đơn tính màu đỏ. Hoa có 5 lá đài, 5 cánh hoa; ở hoa đực có 8 nhị; ở hoa cái có bầu nhẵn. Quả nang, hình trứng ngược, nhẵn, màu vàng nhạt, dài cỡ 3cm.
    Bộ phận dùng: Rễ củ - Radix -jatrophae. Hạt, mủ, lá cũng được dùng.
    Nơi sống và thu hái: Cây nguyên sản ở miền nhiệt đới châu Mỹ, được đem vào trồng ở nước ta làm cây cảnh và làm hàng rào. Rễ phình thành củ, cũng ăn được như củ Sắn (sau khi nướng chín). Củ giống như Thảo ô dầu mà nhỏ hơn, dài hơn 4cm, lúc khô vỏ sần sùi có vân, tương tự như củ Phụ tử. Củ thu hoạch vào tháng 3, phơi khô hoặc lùi nướng để dùng làm thuốc. Lá mủ thu hái quanh năm. Quả thu vào mùa thu.
    Thành phần hoá học: Lá, thân, rễ đều chứa acid cyanhydric. Hạt chứa 30% dầu, có thể dùng thắp được.
    Tính vị, tác dụng: Bạch phụ tử (củ) có vị cay ngọt, rất nóng, có độc, có tác dụng tán ứ, tiêu thũng, chỉ huyết.
    Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng trị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu, mặt. Hạt cũng được dùng như hạt Dầu mè làm thuốc tẩy mạnh nhưng nguy hiểm, dễ gây ngộ độc. Có khi được dùng trị ho, làm ra mồ hôi. Lá cũng gây xổ nhưng kém hơn lá Dầu mè. Mủ cây dùng cầm máu và đắp vết thương cho liền gân. Cũng dùng trị rắn cắn. Liều dùng 3-6g củ, phối hợp với các vị thuốc khác.
    Ðơn thuốc:
    1. Chữa trúng phong liệt nửa người: Bạch phụ tử, Tằm gió, Bò cạp (Toàn yết) với lượng bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 6g với rượu, ngày uống 3 lần.
    2. Chữa trẻ cấp kinh sốt cao co giật, co cứng: Bạch phụ tử, Nam tinh chế với Mật bò, Toàn yết. Tằm gió, Câu đằng, Phấn nứa, Bạch đàn, mỗi vị 4g sắc uống.
    3. Chữa tim đau do máu ứ nguy cấp: Bạch phụ tử, Nhục quế, Đương quy đều 6g, sắc uống liên tục.
  6. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    CÀ RỐT

    Tên nước ngoài: Carrot (Anh); Cartotte (Pháp).

    Mô tả:
    Cây thảo, sống hai năm. Rễ (thường gọi là củ) hình trụ ngắn màu vàng hoặc đỏ. Lá mọc so le, xẻ lông chim, càng gần phía đầu càng hẹp lại; không có lá kèm, bẹ lá khá phát triển.
    Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành tán kép có tổng bao gồm nhiều lá bắc xẻ lông chim. Hoa có lá dài rất nhỏ, hình tam giác, cánh hoa có mép gập vào trong, số nhị bằng số cánh hoa.. Quả bế đôi, thuôn, có cạnh lồi tua tủa những tơ cứng.

    Phân bố và thu hái:
    Cà rốt là loại cây ưa sáng, ưa vùng có khí hậu ẩm ướt. Ở Việt Nam, cây chỉ được trồng từ cuối thu đến đầu xuân. Được trồng chủ yếu như ở Sa Pa, Đà Lạt. Người ta trồng Cà rốt thành nhiều vụ trong năm., sau khi giao trồng từ 100 -120 ngày, có thể thu hoạch củ, thường vào trước hoặc sau tết âm lịch.

    Bộ phận dùng:
    Rễ cà rốt thu hái vào mùa đông, bỏ thân, lá, rễ con, rửa sạch.
    Quả thu hái từ quả chín đã phơi khô.
    Lá đôi khi cũng được sử dụng.

    Tính vị và công dụng:
    Rễ cà rốt có vị ngọt, cay, mùi hăng, tính bình, vào các kinh: tỳ, vị, đại tràng. Có tác dụng hạ khí, bổ trung, yên ngũ tạng, tăng tiêu hoá, bổ huyết. Hạt cà rốt có vị đắng, ấm, có tác dụng lợi tiểu, sát trùng.

    Công dụng, liều dùng:
    Ngoài công dụng làm thức ăn, rễ cà rốt được dùng cho người gầy còm, thiếu máu, ăn uống chậm tiêu, chữa lỵ mạn tính, trẻ em tiêu chảy, chậm lớn hay răng mọc chậm. Ngày dùng 20 ?" 50g; có thể đến 100g bột rễ phơi khô.
    Nước ép cà rốt là nguồn nguyên liệu giàu caroten chống ôxy hoá có khả năng bảo vệ nuôi dưỡng tái tạo tế bào da.Giảm nguy cơ mắc bệnh tim và cao huyết áp. Rất tốt với người bị tiểu đường.
    Hạt cà rốt được dùng làm thuốc lợi tiểu, điều kinh, sát trùng, trị giun sán, tiêu chảy, lỵ mãn tính . Ngày dùng 12 ?" 18g.
    Ngoài ra cà rốt còn chữa được một số bệnh như tiêu chảy, suy dinh dưỡng và ở trẻ em, chữa kém ăn, ít ngủ, mệt mỏi sau khi ốm, chữa cao huyết áp, tiểu đường, chữa táo bón, mắt quáng gà và khô giác mạc?


    (Theo ?oCây thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam?)
  7. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    CẢI BẮP

    Tên khoa học là Brassca oleraea Lim. Var capitala D.C. Thuộc họ cải Brasscaceae.

    Mô tả cây:
    Cây thảo có lá áp sát vào nhau tạo thành một bắp sít chặt ở ngọn thân cây thành hình đầu với đường kính 25-30cm trước khi nở hoa. Hoa thành chùm có phân nhánh. Lá đài dựng đứng, nhị gần bằng nhau. Quả loại cải, hẹp và dài, trên có một mỏ hình nón, mảnh vỏ lồi có 1-3 gân. Hạt nâu, nhẵn, xếp thành một dãy. Lá , mầm hình thận, có hai thuỳ, gập đôi.

    Phân bố, thu hái và chế biến:
    Cải bắp được trồng ở khắp nước ta như Đà Lạt, Sa Pa, trung du Bắc Bộ... chủ yếu lấy làm rau vào mùa đông. Năm 1948 người ta phát hiện trong cải bắp tươi có một chất chống loét còn gọi là vitamin U có khả năng chữa lành khá mau chóng các ổ loét nhân tạo gây được trong bộ máy tiêu hoá của chim, chuột bạch, do đó cải bắp được dùng làm thuốc chữa loét, viêm dạ dày và ruột. Dùng làm rau hay làm thuốc đều dưới dạng lá tươi, do đó chủ yếu thu hoạch vào mùa đông hay ở vùng có khí hậu lạnh.
    Nước ép bắp cải rất có lợi cho sức khoẻ, có thể chữa được một số bệnh như viêm loét dạ dày, hành tá tràng, viêm dạ dày ruột và bệnh đường mật. Chúng ta có thể tự chế biến tại gia đình bằng phương pháp rất đơn giản.

    Công dụng và liều dùng:
    Cải bắp từng lá (không bỏ lá xanh), rửa nhiều lần với nước sạch, rọc đôi từng lá theo sống lá. Chần trong nước sôi. Vớt ra để ráo nước. Dùng bàn ép, ép lấy nước, bã bỏ đi. 1kg cải bắp tươi ép cho từ 500-700ml nước ép có màu vàng xanh, thơm, vị ngọt, hơi hăng hắc. Ở nơi không có bàn ép, thì sau khi chần rau xong cho vào cối sạch, giã nát rồi lọc lấy nước bỏ bã. Làm theo cách này, 1kg cải bắp cho từ 250-500ml.
    Nước ép thu được nếu không có điều kiện bảo quản rất chóng thiu, vì trong cải bắp có hợp chất sunfua. Liều dùng điều trị trong ngày trung bình 1.000ml chia làm nhiều lần uống, mỗi lần 200-250 ml, uống thay nước. Có thể pha thêm đường, muối, uống nóng hay lạnh tuỳ theo khẩu vị. Mỗi đợt điều trị là 2 tháng kèm theo chế độ dinh dưỡng và lao động thích hợp. Có những trường hợp loét tá tràng 14-20 năm cũng chữa được lành. Nhưng đối với ổ loét quá sâu thì tác dụng ít.
    Điều trị bằng nước ép cải bắp không có biến chứng gì.Và không có chống chỉ định.

    (theo ?oNhững cây thuốc và vị thuốc Việt Nam?)
  8. nkmanh

    nkmanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/03/2009
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    NGẢI CỨU
    Tên khác: Ngải diệp, Bắc ngải, Nhả ngải, Quá sú, Ngỏi, Co linh ly. Tên khoa học là Artemisia vulgris L.
    Mô tả: Cây Ngải cứu là cây thảo sống nhiều năm, cao 0,60?" 1m, thân có rãnh dọc, cành non có lông mọc thành khóm; lá mọc so le, không cuống (lá phía dưới cây thường có cuống) phiến lá sẻ sâu thành thuỳ nhọn, phiến lá sẻ lông chim, mặt trên mầu lục sẫm, mặt dưới màu trắng xám có lông nhung trắng, vò ra có mùi thơm hắc. Cụm hoa hình chùm kép gồm nhiều đầu nhỏ, mầu vàng lục nhạt, mọc tập trung ở đầu cành hình trứng. Quả bế nhỏ dài và nhẵn. Cây có mùi thơm đặc biệt. Mùa hoa tháng 10-12. Ngải cứu phơi khô trong râm mát. Có khi hái về phơi khô, tán nhỏ, rây lấy phần lông trắng và tơi gọi là ngải nhung, dùng làm mồi cứu để kích thích huyệt trong phương pháp châm cứu, xông, rửa.
    Nơi sống: Ở Việt Nam mọc hoang ở nhiều nơi và được trồng làm thuốc ưa ẩm, chịu được bóng râm. Bộ phận dùng: Dùng toàn cây, trừ gốc rễ.
    Thành phần hoá học: Cây ngải cứu có 0,25% tinh dầu; cây còn có flavonoid, dẫn xuất coumarin, tanin, nhựa, vulgarin.
    Tính vị, qui kinh: Tân, khổ, ôn có tiểu độc; vào các kinh can, tỳ, thận.
    Công năng và chủ trị: Tán hàn chỉ thống, ôn, kinh chỉ huyết, khu thấp chỉ dương.
    *** Dùng điều trị: kinh nguyệt không đều, bụng lạnh đau, tử cung lạnh không thể có thai, thổ huyết, nục huyết, băng lậu kinh nhiều, có thai, đới hạ. Trị mụn trứng cá, mẩn ngứa, ghẻ nở.
    - An thai ở Phụ nữ có thai nếu xuất hiện đau bụng, ra máu thì có thể dùng lá ngải cứu 16 g, tía tô 16 g, cho 600 ml nước sắc còn 100 ml, thêm chút đường, chia 3-4 lần uống trong ngày. Ngải cứu có tác dụng an thai.
    - Làm thuốc điều kinh: Một tuần trước ngày kinh dự kiến, lấy mỗi ngày 6-12g (tối đa 20g) sắc với nước hoặc hãm với nước sôi như trà, chia làm 3 lần uống trong ngày. Có thể uống dưới dạng bột (5-10g) hay dạng cao đặc (1-4g). Thuốc không có tác dụng kích thích với tử cung có thai nên không gây sảy thai.
    - Kinh nguyệt không đều: Hằng tháng đến ngày bắt đầu kỳ kinh và cả những ngày đang có kinh, lấy ngải cứu khô 10g, thêm 200 ml nước, sắc còn 100 ml, thêm chút đường chia uống 2 lần/ngày. Có thể uống liều gấp đôi, cũng 2 lần/ngày. Sau 1-2 ngày thấy hiệu quả, người đỡ mệt, máu kinh đỏ và ít hơn.
    - Tăng sức khỏe cho cơ thể: Dùng nhiều lá ngải cứu tươi hoặc khô cho vào túi lọc rồi cho nước nóng chảy qua trước khi chảy vào bồn tắm. Làm theo cách này có tác dụng tẩy tế bào chết, làm mềm da và các vết chai, giúp máu lưu thông mạnh hơn, làm dịu các cơ đang bị đau và các chỗ bị sưng hay viêm.
    - Những người kiệt sức hay các bà mẹ đang cho con bú: Lấy 5 cành lá ngải cứu tươi (hoặc khô), rửa sạch, băm nhỏ, pha với một cốc nước sôi, uống hàng ngày sẽ mau hồi phục sức khỏe.

    *** Làm đẹp với Ngải cứu: tác dụng khôi phục và giữ ẩm, làm da trở nên mềm mại
    - Ngải cứu rửa sạch và chần sơ với nước sôi.
    - Vớt lên rồi thái nhỏ, đun sôi lại khoảng 20 phút (với lượng nước là 500ml)
    - Lọc bỏ bã, nước để nguội sau đó đổ vào bình đậy kín nắp. Dùng nước ngải cứu để bôi lên mặt vào các buổi sáng, trưa, và tối trước khi đi ngủ.
    - Trị mụn trứng cá: Lá ngải cứu tươi giã nát, đắp lên mặt, để khoảng 20 phút, rồi rửa lại mặt, làm liên tục sẽ cho bạn làn da mịn màng và trắng hồng.
    - Trị mẩn ngứa, ghẻ lở, rôm sảy ở trẻ: Với những trẻ nhỏ thường hay bị rôm sảy, xay nát lá ngải cứu, lọc lấy nước cốt rồi hòa vào nước tắm của trẻ. Làm liên tục trong vài ngày, các nốt ngứa sẽ lặn mất.
    *** Món ăn với ngải cứu:
    - Canh ngải cứu nấu thịt nạc: Bài thuốc chữa các bệnh của phụ nữ (kinh nguyệt không đều, khí hư, đau bụng do lạnh...). Thịt nạc heo băm nhỏ, ướp hạt nêm, xào qua, nêm nước, đun sôi cho rau ngải cứu. Canh sôi đều, nêm hạt nêm vừa miệng, ăn nóng.
    - Trứng gà tráng ngải cứu: Giúp lưu thông máu lên não trị bệnh đau đầu. Lấy một nắm lá ngải cứu, xắt nhỏ, đánh tan đều với 1 quả trứng gà, nêm hạt nêm vừa miệng, đổ vào chảo chiên chín.
    - Gà tần ngải cứu: Bồi bổ sức khỏe, hoạt huyết, xương cốt dẻo dai: 1 con gà đen khoảng 500gr, 3 trái táo đỏ, ý dĩ, kỷ từ, 3 lát sâm ta, ngải cứu, hạt sen, tam thất, hạt nêm. Gà làm sạch, mổ moi, nhồi tất cả các nguyên liệu vào trong gà, cho gà vào nồi, đổ săm sắp nước, nêm hạt nêm vừa miệng, tần cho đến khi gà mềm nhừ.
    (theo ?osử dụng thuốc đông y thiết yếu?)

Chia sẻ trang này