1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hồi Giáo và những vấn đề lịch sử, địa chính trị có liên quan

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi macay3, 20/06/2014.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    NHÀ TIÊN TRI MOHAMMED (570-632) VÀ ĐẠO HỒI
    Phạm Văn Tuấn

    1/ Đạo Hồi và ảnh hưởng.

    Đạo Hồi (Islam) là một lối sống chứa đủ ba hình thái tôn giáo, chính trị và văn hóa, và ba hình thái này hòa lại với nhau, lẫn vào nhau. Đạo Hồi gồm nhiều giáo phái, mỗi thứ lại có thêm các niềm tin riêng khiến cho tôn giáo này thích hợp với các nhu cầu địa phương. Ngày nay có vào khoảng 450 triệu người thuộc mọi sắc dân sống trên mọi lục địa của trái đất là các tín đồ của nhà Tiên Tri Mohammed và các quốc gia Hồi Giáo trải dài từ Maroc ở phía tây tới Pakistan ở phía đông, và tại vùng Viễn Đông còn có hai nước theo Hồi Giáo là Mã Lai và Indonesia.

    Về hình thái tôn giáo, đạo Hồi rất gần với đạo Do Thái (Judaism) và đạo Thiên Chúa (Christianity) và hai thế giới Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo ít khác nhau về ý thức hệ (ideology) hơn là về chính trị và kinh tế. Hệ thống niềm tin của đạo Hồi chứa trong Kinh Koran do Mohammed đọc ra và được bổ túc bằng bộ sách Ha***h, ghi lại những gì Mohammed đã nói và đã làm. Rồi vào các thời đại khác nhau và tại các địa điểm khác nhau, các người kế tiếp Mohammed đã biến đổi giáo luật, làm bành trướng Đế Quốc Hồi Giáo, lấn át hai đế quốc Byzantine và Ba Tư (Persan), mở mang tầm ảnh hưởng rộng lớn hơn cả Đế Quốc La Mã với phạm vi trải dài từ Tây Ban Nha tới Ấn Độ.

    Nền văn hóa Hồi Giáo là tập hợp của nhiều nền văn hóa khác nhau trong đó có văn hóa Cổ Do Thái, Cổ Hy Lạp, Ấn – Ba Tư của thời Trung Cổ. Trong khoảng 400 năm từ giữa thế kỷ thứ 8 tới thế kỷ thứ 12, nền văn hóa tổng hợp Hồi Giáo đã phát triển rực rỡ và đã là kiểu mẫu cho Khoa Học và Văn Chương của thời kỳ Phục Hưng của châu Âu.

    Thánh Kinh và các sách Lễ của Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo là các tuyển tập bao gồm các lời tiên tri và cầu nguyện, các luật lệ, các câu thơ và châm ngôn, các chuyện kể tôn giáo của nhiều thời kỳ, viết ra do nhiều tông đồ khác nhau nhưng, mỗi lời nói trong Kinh Koran của đạo Hồi lại từ miệng của một người duy nhất là nhà Tiên Tri Mohammed đã nói ra trong vòng 22 năm vào đầu thế kỷ thứ 7. Kinh Koran là cuốn sách dày vào khoảng cuốn Tân Ước (New Testament), là một trong các thánh thư đáng kể nhất trong Lịch Sử, đã ảnh hưởng tới đời sống của hàng trăm triệu người.

    Kinh Koran là trái tim của Đạo Hồi, có các chương gọi là “suras”, một số tuy ngắn gọn nhưng đã đề cập tới “Ngày Phán Xét” (the Day of Judgment) đòi hỏi mọi người phải tôn thờ một Thượng Đế (one God). Các chương khác nói về các lời tiên tri, đề cập tới các quy luật về công lý (justice), tài sản và gia đình. Tất cả các lời kinh được viết bằng tiếng Ả Rập vừa có tính thôi miên (a hypnotic Arabic), vừa mang tính hùng biện khiến cho lời kinh không phải là lời nói của một con người mà có vẻ là lời của chính Thượng Đế (the Word of God Himself).

    Trong 6 thế kỷ cho tới năm 1258 khi quân Mông Cổ tàn phá thành phố Baghdad là thủ đô của Hồi Giáo, đạo Hồi đã gây được các ảnh hưởng mạnh mẽ nhất về tôn giáo, chính trị và văn hóa. Văn hóa Hồi Giáo đã liên kết các sắc tộc thuộc các vùng đất xa xôi khác nhau: người Tây Ban Nha, người Phi Châu, người Ba Tư, người Ai Cập, người Ấn Độ. Người theo đạo Hồi đã học hỏi kỹ thuật làm giấy của người Trung Hoa và truyền phát minh này qua Tây Phương. Các chữ số Ả Rập do người Hồi mang về từ xứ Ấn Độ để về sau trở nên các chữ số Toán Học. Người Hồi cũng phiên dịch lại các tác phẩm văn chương, triết học và khoa học của thời Cổ Hy Lạp mà đối với Tây Phương đã bị thất lạc trong nhiều thế kỷ.

    Các nhân tài người Hồi đã học hỏi từ nhiều nền văn hóa, khai triển các học thuyết cổ, làm phát triển và đóng góp vào nhiều bộ môn bao gồm cả Y Khoa, Hóa Học, Vật Lý, Toán Học và Thiên Văn Học. Nền Kiến Trúc Hồi Giáo cũng có các nét đặc thù, thêm vào là các ngành nghệ thuật khác như dệt thảm, làm đồ gốm, khắc ngà voi và khắc gỗ. Văn chương Hồi Giáo cũng bao gồm các tác phẩm danh tiếng chẳng hạn như tập thơ cổ điển Ba Tư Rubaiyat của Omar Khayyam hay tập truyện “Ngàn Lẻ Một Đêm” (the Arabian Nights) mà nhiều học giả cho rằng tập truyện này đã mở đường cho các cuốn tiểu thuyết của Tây Phương (western novels).

    Đạo Hồi bắt nguồn từ các vùng đất nhỏ, nóng cháy, khô cằn, rải rác trên diện tích một triệu dặm vuông nằm giữa châu Á và châu Phi. Nơi đây vào mùa hè có các trận gió mạnh nóng hơn 110 độ F còn về mùa đông là các cơn gió lạnh thấu xương. Cư dân trên các vùng đất này là các người thuộc bộ lạc Bedouin trú ngụ trong các túp lều dệt bằng lông dê hay lông lạc đà, họ sống bằng thứ khẩu phần thanh đạm gồm có sữa và trái trà là (dates). Các bộ lạc này trước thời kỳ Hồi Giáo, đã sinh sống dưới nền cai trị của người Ba Tư, người Ethiopia, hay người Thổ Nhĩ Kỳ và họ phải đóng thuế cho kẻ thống trị. Tuy nhiên, các bộ lạc này đã không bị chinh phục, họ chạy trốn trước các đoàn quân viễn chinh bằng cách lẩn sâu vào trong sa mạc mênh mông mà chỉ có họ mới biết cách sống còn. Họ thường cướp bóc các bộ lạc khác và coi đó là một lối sống. Do luôn luôn di chuyển, các người Bedouin chỉ mang theo mình các vật dụng cần thiết: một số ít quần áo, lều đen dệt bằng lông lạc đà, bình nước, vũ khí và yên cương. Họ là những người mù chữ nhưng lại giàu về thi văn truyền khẩu, kể lại lịch sử qua các thế hệ. Chính các bộ lạc Bedouin này đã giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử của Đế Quốc Hồi Giáo.

    Trước khi theo đạo Hồi, người Bedouin thờ các thần linh mà họ cho rằng có các quyền lực siêu nhiên và cư ngụ tại các tảng đá, các gốc cây lớn hay các khúc gỗ quý. Đối với họ, các đức tính tối thượng của con người là lòng trung thành, đại lượng và can đảm. Nhờ lòng trung thành (loyalty), con người được bộ lạc che chở để sống còn. Lòng trung thành là căn cốt (core) của tinh thần băng nhóm (clan spirit = asabiyya) và mỗi người phải tỏ ra can đảm cho tới chết để bảo vệ các quyền lợi của bộ lạc, và các quyền lợi này liên quan tới miền đất có cây xanh và nước uống mà chính tại nơi khô cằn này, nước còn được quý hơn vàng. Lòng đại lượng (generosity) biểu hiện bằng tình hiếu khách, sẵn lòng cung cấp thực phẩm, nước uống và nơi trú ngụ cho kẻ lữ hành trên sa mạc. Tính can đảm được coi là cần thiết để bảo vệ đàn bà và trẻ em, và để tham dự vào các cuộc cướp bóc, muốn vậy người thanh niên phải thông thạo kỹ năng cưỡi ngựa và kỹ thuật bắn cung.

    2/ Khởi thủy của Đạo Hồi.

    Vào giữa thế kỷ thứ 6 tại miền bắc của xứ Ả Rập (Arabia) có ba địa điểm đặc biệt tọa lạc trên một vùng núi gọi là Hijaz và vùng này có phía tây là Hồng Hải (the Red Sea) còn phía đông là một sa mạc bao la. Chính giữa vùng Hijaz là thị trấn Yathrib, một ốc đảo (oasis) xanh tươi với các nông trại và làng mạc nhỏ trải dài trên một diện tích 20 dặm vuông. 250 dặm về phía nam của Yathrib là thị xã Taif, nơi nghỉ mát mùa hè của các gia đình Ả Rập giàu có và tại phía tây bắc của Taif, cách Hồng Hải 50 dặm vào sâu trong đất liền là thành phố Mecca, nơi sầm uất và quan trọng nhất.

    Mecca là nơi dừng chân của các đoàn thương nhân, dùng lạc đà chở rất nhiều sản phẩm như hương liệu, kim loại quý, đồ gốm, ngà voi, lụa. Họ từ miền nam lên, từ Hadhramaut hay từ Yemen, để đi tới các chợ phiên nằm trong xứ Syria. Cũng có các đoàn khác chở hàng hóa từ Hồng Hải, dừng chân tại Mecca rồi đi qua sa mạc đến xứ Iraq. Tới Mecca còn có các tín đồ đi hành hương, họ đến ngôi đền thờ nằm giữa thành phố có kiến trúc mang hình dạng một khối vuông gọi là Kaaba. Vật linh thiêng nhất trong ngôi đền này là một vẩn thạch (meteorite) được gọi là Tảng Đá Đen (the Black Stone) được gắn vào trong tường của đền thờ. Người dân ở đây thờ Allah, là Đấng Tạo Hóa của Vũ Trụ và ngoài Thần Allah còn có khoảng 300 vị thần nam nữ khác với các bức tượng được bày trong đền. Ngoài việc đi hành hương tới Mecca, người dân các vùng khác còn tham dự vào các phiên chợ cùng các đoàn thương nhân ở xa, khiến cho thành phố Mecca càng trở nên sầm uất và giàu có.

    Quyền hành điều khiển thành phố Mecca này ở trong tay bộ lạc Kuraish (Quraysh) và họ đã quản trị thành phố với các người đại biểu bầu lên từ các gia đình có thế lực. Chính tại thành phố Mecca bận rộn này mà Mohammed đã ra chào đời, vào khoảng năm 570 sau Tây Lịch, với tên có ý nghĩa theo tiếng Ả Rập là “được ca tụng nhiều”. Mohammed là con của ông Abdullah thuộc nhóm Beni Hashim của bộ lạc Kuraish, qua đời chỉ ít lâu sau khi sinh ra Mohammed. Tuy không giàu có nhưng theo truyền thống của gia đình có địa vị, Mohammed được gửi tới một bà mẹ nuôi Bedouin để sống ở sa mạc, nơi có khí hậu trong lành hơn. Năm lên 6 tuổi, mẹ chết, Mohammed sống với ông nội rồi sau đó ít lâu, ông già này cũng qua đời và người nuôi dưỡng và là cha đỡ đầu của Mohammed là Abu Talib, một người chú. Do không có tài sản, Mohammed phải làm nhiều việc để kiếm sống như chăn cừu, mua bán… rồi tới làm công cho một người đàn bà góa chồng tên là Khadija, có một cơ sở thương mại nhỏ. Do công việc thương mại của bà góa này, Mohammed đã có lần được cử theo đoàn thương nhân đi tới Syria vào thời đó còn nằm trong tầm ảnh hưởng của đế quốc Byzantine theo Thiên Chúa Giáo. Chính tại Syria mà Mohammed đã gặp gỡ các người theo đạo Thiên Chúa.

    Đạo Thiên Chúa đi vào miền Arabia qua ngả Syria, qua Palestine, và từ vùng đất Abyssinia ở phía bên kia của Hồng Hải và tại thành phố Mecca cũng đã có các nhóm người Do Thái gốc Ả Rập theo Thiên Chúa giáo. Trong hoàn cảnh như thế và nhất là sau chuyến đi tới Syria, Mohammed đã được nghe nói tới Chúa Jesus và các nhà tiên tri, và đã quan sát thấy các người Do Thái và người theo Thiên Chúa giáo tôn thờ Thượng Đế ra sao. Mohammed nhận thấy đồng bào của ông ta thiếu hẳn một niềm tin để kết hợp lại với nhau và do từ nhỏ bị nghèo khó, mồ côi và ở giai cấp thấp, ông ta đặc biệt bất mãn đối với những kẻ giàu có kiêu ngạo, chỉ biết coi trọng tiền bạc. Lòng trung hậu, tính dịu dàng và bản chất trầm tư đã khiến Mohammed được tôn trọng tại Mecca. Ông ta được mọi người gọi là al-Amin hay “người đáng tin cậy” (the Trustworthy). Mohammed lại có một cá tính mạnh, hấp dẫn, một vẻ ngoài đẹp trai và vạm vỡ, vai rộng, tay dài, vầng trán cao và đôi lông mày rậm rạp chắn phía trên đôi mắt to và đen. Vóc người tầm thước, Mohammed bước đi với dáng vẻ oai nghiêm khiến cho nhiều người mới gặp đã phải kính nể. Bà Khadija khi đó cũng đã mang lòng cảm phục, một phần vì vẻ người, một phần vì cách điều hành công việc của Mohammed. Khadija đã hai lần lập gia đình và lớn hơn Mohammed 15 tuổi nhưng vẫn đề nghị hôn nhân với Mohammed. Mohammed nhận lời và đã trung thành với bà vợ già này trong suốt 25 năm liền. Họ có ba con trai đều bị chết lúc còn trẻ và bốn người con gái trong số này chỉ có Fatima là người đã sinh con và sau này giữ một vai trò trong lịch sử của đạo Hồi.

    Từ ngày lập gia đình, Mohammed không phải bận tâm về sinh kế, ông ta có đủ thời giờ để suy ngẫm và thường hay tránh khỏi thành phố Mecca ồn ào, có khi đi một mình, có khi đi với gia đình tới một hang động để suy nghĩ về cuộc sống và cõi chết, và về bản chất của Vũ Trụ. Theo nhà tiểu sử học đầu tiên viết về Mohammed là Ibn Ishaq, vào năm 610 sau Tây Lịch khi Mohammed vào khoảng 40 tuổi và tỉnh giấc sau một giấc ngủ trên núi Hira, ông ta đã nghe thấy tiếng nói từ trên Trời của một thiên thần có hình dạng người, bảo như sau: “Ô, Mohammed, nhà ngươi là Tông Đồ của Thượng Đế và ta là Gabriel”.

    Mohammed trở về nhà, gặp Khadija và kể lại câu chuyện đã xẩy ra. Bà vợ này liền đi gặp vị trưởng giáo trong bộ lạc và vị này công bố rằng Mohammed đã được mặc khải giống như Moses và ông ta là nhà Tiên Tri cho dân tộc Ả Rập. Nhưng Mohammed đã không giữ vai trò Tiên Tri ngay, và vào lần khải huyền thứ hai, ông ta được Thượng Đế bảo phải đi thông báo cho dân chúng biết những điều răn dạy của Thượng Đế.

    Từ năm 613 tại Mecca, Mohammed bắt đầu đi thuyết giảng tại các nơi công cộng. Ông ta dạy người dân thời đó rằng Allah là Chúa Tể Duy Nhất của Vũ Trụ và con người phải biết ơn và tôn thờ Allah vì lẽ sống của mình. Mohammed cũng rao giảng rằng mọi người đều bình dẳng trước Thượng Đế, rằng người giàu có phải san sẻ tài sản cho người nghèo khó và cảnh cáo mọi người về số mệnh của con người ở trong tay Thượng Đế: sẽ có một Ngày Phán Xét (a Day of Judgment) dành cho mọi người.

    Vào thời đại trước, người dân Ả Rập theo tà giáo (paganism) đã tin rằng tiêu chuẩn của sự thành công là tài sản giàu có mà người ta tích lũy được và sự chết là sự chấm dứt tất cả, kể cả đời người, nhưng tới thời này Mohammed lại dạy bảo rằng vào Ngày Phán Xét, trái đất sẽ bị tách ra làm hai, các ngôi sao sẽ rơi xuống và tất cả nhân loại, người sống cũng như người chết đều ra trước ngai vàng của Allah. Lúc này cuốn Sách ghi chép về các việc làm tốt (the Book of Deeds) sẽ được đọc lên, các người làm việc thiện sẽ được tưởng thưởng và lên Thiên Đường, còn các kẻ có tội sẽ bị cột bằng dây xích, kéo xuống hỏa ngục và bị hành hạ. Mohammed tự coi mình là nhà Tiên Tri cuối cùng, sau Adam, Noah, Abraham, Moses và Jesus.

    Mohammed đã trở nên một Sứ Đồ (the Messenger) của Thượng Đế, là nhà Tiên Tri (the Prophet) của một tôn giáo mới là Đạo Hồi và đã có 4 tín đồ, đầu tiên là bà vợ Khadija, tới người em họ trẻ tuổi Ali, rồi Zayd, một tên nô lệ được trả tự do và cuối cùng là Abu Bakr, một người giàu có. Riêng Abu Bakr và Ali là hai nhân vật sau này sẽ giữ các vai trò quan trọng trong việc bành trướng đạo Hồi.

    Các tín đồ khác vào thuở ban đầu của nhà Tiên Tri là những kẻ nghèo hèn, các kẻ bị áp chế, họ đón nhận lời rao giảng với hy vọng ở kiếp này và ở kiếp sau, trong khi các kẻ giàu có, quyền thế thuộc giới quý tộc Kuraish lại chống đối kịch liệt. Họ đã nhìn thấy ở các lời rao giảng đó những đe dọa ảnh hưởng tới cuộc sống ưu đãi của họ. Họ cũng e ngại khi đã có một số đông người tin theo, Mohammed sẽ có một sức mạnh ảnh hưởng đến quyền lực chính trị tại thành phố Mecca và các lời chỉ trích các thần tà giáo có thể tác dụng đến các quyền lợi thương mại của họ. Do ngôi đền Kaaba có chứa 300 bức tượng thần nam nữ, nếu phá bỏ các hình tượng này, nhóm người Benni Ommaya sẽ mất đi nguồn lợi từ các kẻ hành hương, vì thế họ đã chế nhạo Mohammed, coi như một kẻ nói dối, lường gạt và các khải huyền chỉ là do trí tưởng tượng mà ra. Một số người theo đạo Hồi lúc ban đầu đã bị ném đá, bị đánh đập. Khoảng 80 người Hồi giáo đã bỏ chạy qua miền Abyssinia để lánh nạn. Một đoàn đại biểu của người Kuraish đã qua miền đó, đề nghị với Vua và người Negus của miền này trục xuất họ, không cho cư ngụ vì họ đã nói xấu đạo Thiên Chúa. Tuy nhiên, các người Hồi giáo đã đọc một đoạn Kinh Koran về Bà Mary theo đó Chúa Jesus Christ và Bà Mary rất được kính trọng nhưng Kinh Koran chỉ coi Chúa Jesus là một nhà Tiên Tri mà không phải là Con của Thượng Đế. Người Negus đã thấy quan điểm đó không xúc phạm tới họ, nên đã cho phép các người Hồi cư trú.

    Trong khi đó tại Mecca, Mohammed và các tín đồ còn bị ngược đãi nhiều hơn. Các điều không may vẫn tới với nhà Tiên Tri: bà vợ Khadija qua đời, rồi sau đó tới lượt ông chú Abu Talib, người đã từng nuôi dạy và che chở Mohammed. Trước các khó khăn tại Mecca, Mohammed đã đi tới thị xã Taif để thuyết giảng nhưng cũng bị dân cư tại nơi đây chế nhạo và nhục mạ nên sau đó phải quay trở về Mecca. Đúng vào lúc này, vận may đã đến với Mohammed. Một nhóm người đi hành hương tại Mecca, do đã nghe Mohammed thuyết giảng và vì khâm phục, nên đã mời ông ta tới Yathrib để dàn hòa cho cuộc tranh chấp giữa 2 bộ lạc thù nghịch nhau. Mohammed nhận lời và cử một nhóm tín đồ đi trước còn chính mình đi sau vài tuần lễ. Chuyến đi định mạng này xẩy ra vào tháng 9 năm 622 sau Tây Lịch, được gọi là Hegira hay Hijra và sau này được coi là dịp khởi đầu cho kỷ nguyên Hồi Giáo.

    Tại Yathrib, Mohammed bắt đầu xây dựng một cộng đồng Hồi Giáo cho mình và nơi đây trở nên trái tim của Đạo Hồi và được gọi là Madinat al-Nabi hay “thành phố của nhà Tiên Tri”, hay theo cách gọi đơn giản là “Medina = thành phố”, một tên quen thuộc ngày nay. Từ nay, Mohammed đã giữ một vai trò quan trọng về quyền lực tinh thần và chính trị.

    3/ Các việc làm của nhà Tiên Tri.

    Một trong các vấn đề đầu tiên của Mohammed tại Medina là đối phó với các người Do Thái. Đây là nhóm người kiểm soát các miền đất giàu có nhất và đã liên lạc với một trong hai bộ lạc có quyền lực tại ốc đảo. Mohammed muốn làm sao cho người Do Thái chấp nhận mình là một nhà Tiên Tri nên đã cố gắng giành được sự ủng hộ của họ bằng cách chấp nhận một số lễ nghi Do Thái, chẳng hạn như việc ăn chay vào ngày chuộc tội (the Day of Atonement) và việc cắt da quy đầu, việc không ăn thịt heo vì con heo bị coi là một con vật dơ bẩn, và khi cầu nguyện thì hướng về thành phố Jerusalem. Một số người Do Thái vì thế đã cải sang đạo Hồi trong khi một số khác lại cho rằng các mặc khải của Mohammed đã trái ngược với Thánh Thư của họ và vì thế bị coi là sai. Mohammed bèn phản ứng lại, cho rằng người Do Thái đã theo các Thánh Thư sai lầm và chỉ có Kinh Koran mới thực sự là Lời của Thượng Đế.

    Sau khi đã thấy rõ không thể lôi cuốn được người Do Thái, Mohammed bèn quyết tâm xây dựng riêng cho mình một cộng đồng Hồi Giáo lúc đầu chỉ gồm người Ả Rập. Để kêu gọi giáo dân đi cầu nguyện vào các ngày giờ nhất định, nhà Tiên Tri đã không dùng tiếng gõ bằng các khúc gỗ hay tiếng tù và thổi từ sừng dê mà dùng tiếng người, và Bilal, một người Abyssinia cải theo đạo Hồi, là người gọi đi lễ (muezin) đầu tiên. Việc ăn chay vào ngày chuộc tội cũng được sửa thành cả một tháng ăn chay Ramadan, tháng thứ 9 trong năm Âm Lịch Hồi Giáo và thay vì hướng về Jerusalem để quỳ lạy, tín đồ Hồi Giáo được lệnh quay về hướng Đền Kaaba ở thành phố Mecca. Việc hôn lên Tảng Đá Đen gắn trong bức tường của Đền Kaaba cũng được coi là một biểu hiện cao quý của đức tin và các người hành hương làm như vậy được mang tước hiệu “Hadji”.

    Cũng vào thời gian này bắt đầu các hành động của người Hồi giáo chống lại các kẻ thù của đức tin tại Mecca. Mohammed đã cho phép các tín đồ đánh cướp các đoàn thương mại của Mecca đi qua lãnh thổ Medina, một phần vì cần tới đồ ăn và các vật dụng để giúp đỡ những ngươi di dân mới trong vùng, một phần để trả thù cho các thân nhân người Hồi giáo bị hành hạ và ngược đãi tại Mecca. Từ nay đã xẩy ra các cuộc đụng độ giữa hai vùng đất và trong trận chiến lớn nhất diễn ra tại Badru, phía tây nam của Medina, hai lực lượng đã đối đầu nhau. Phe Hồi giáo có 300 người còn phía Mecca gồm 1,000 chiến binh. Lực lượng Mecca muốn nhân dịp này dạy cho người Hồi một bài học là không được đụng chạm tới họ, còn người Hồi giáo cũng không thể rút lui vì e ngại mất danh dự. Cuộc chiến tàn sát đã diễn ra trong khi Mohammed chăm chú cầu nguyện. Một điều may mắn đã xẩy ra cho nhà Tiên Tri là đội quân nhỏ Hồi giáo đã chiến thắng nhờ chiến đấu kiên cường. Sự chiến thắng này đã được người Ả Rập coi là một điều huyền diệu (the Miracle at Badru), một dấu hiệu của Thượng Đế coi Mohammed là một tông đồ thật sự. Người Hồi giáo đã chia nhau của cải cướp được, coi việc tuân theo lời Thượng Đế đã mang lại lợi ích trên trái đất cũng như sau này trên Thiên Đường. Người Hối giáo từ nay tin tưởng rằng nếu chiến thắng trong các lần phục kích kẻ địch, họ sẽ nhận được của cải, còn nếu bị giết nơi trận mạc, họ sẽ được tưởng thưởng, lên thẳng Thiên Đường mà không cần phải chờ đợi tới Ngày Phán Xét. Nhiều bộ lạc gần đó vì thế đã cải theo đạo Hồi và chiến đấu dưới cờ của Mohammed.

    Người Kuraish sau đó đã không chịu thua, năm sau đã tấn công Medina bằng lực lượng 3,000 người và chính nhà Tiên Tri đã bị thương trong lần giao tranh này. Rồi vào năm 627 sau Tây Lịch, người của thành phố Mecca đã quyết định thanh toán Mohammed bằng một đạo quân 10,000 người với 600 kỵ binh. Do lời khuyên của một tín đồ mới gốc Ba Tư, Mohammed đã cho đào một cái hào khô rất lớn, chắn ngang trước lối tiến vào thành phố Medina. Đây là một chiến thuật mới trong kỹ thuật chiến tranh sa mạc khiến cho đạo quân của Mecca phải đóng trại bên ngoài, chờ đợi sự nổi loạn của số người Do Thái bên trong. Thời tiết trở lạnh, nguồn tiếp tế lương thực bị thiếu thốn đã khiến cho người Mecca phải rút lui sau 40 ngày vây thành.

    Sau chiến thắng này, Mohammed đã ra lệnh chặt đầu khoảng 600 người Do Thái phản loạn, vợ con của họ bị bắt làm nô lệ. Có người cho rằng hành động tàn nhẫn này của nhà Tiên Tri là để làm chia rẽ các bộ lạc Ả Rập và Do Thái và khiến cho mọi bộ lạc Ả Rập khác từ nay chỉ còn một lòng trung thành là đối với đạo Hồi.

    Năm 628, Mohammed lại dẫn một đoàn hành hương tới Mecca gồm 1,000 tín đồ. Lực lượng Mecca đã ra ngăn chặn với 200 kỵ binh. Trận chiến sắp xẩy ra nhưng cuối cùng là một cuộc dàn xếp để tránh cho hai bên không bị mất mặt theo đó người dân Medina có thể tới cầu nguyện tại Mecca vào năm sau. Đây là một thắng lợi của Mohammed vì thế lực của ông ta đã được coi như ngang hàng với tầm vóc của Mecca. Việc đi hành hương, một phong tục trước kia của tà giáo, đã làm cho đạo Hồi trở nên một tôn giáo mang màu sắc Ả Rập.

    Do thỏa thuận hưu chiến trong 10 năm, Mohammed đã từng dẫn các đoàn hành hương 2,000 người tới lễ Đền Kaaba và tới năm 630, các tín đồ đã lên tới 10,000 người. Lúc này, lực lượng Mecca bị yếu dần vì nhiều nhà lãnh đạo đã bị chết trong trận mạc, vì sự chia rẽ nội bộ và cuối cùng, Mohammed tiến vào Đền Kaaba, phá hủy tất cả các tượng tà giáo và tuyên bố: “Sự Thật đã đến và sự Giả đã bị tan biến”. Từ nay thành phố Mecca chỉ cho phép người theo đạo Hồi đi vào và ngôi Đền Kaaba trở nên trung tâm linh thiêng nhất của đạo Hồi.

    Mohammed sau đó đã hành động nhân từ, tha thứ cho các kẻ chiến bại tại Mecca đã chống đối mình khi trước khiến cho những người đó về sau cũng cải sang đạo Hồi. Các đội quân Hồi Giáo từ dạo đó đã đánh phá các nơi xa xôi hơn, một phần do quyền lợi vật chất, trong khi các người theo Do Thái Giáo và Thiên Chúa Giáo vẫn được phép duy trì tôn giáo của họ miễn là họ đóng thuế đầy đủ cho người Hồi.

    Trong 22 năm làm sứ mạng của nhà Tiên Tri, ông Mohammed đã mang lại cho người Ả Rập niềm tin vào một Thượng Đế, đã đoàn kết các bộ lạc du mục rời rạc bằng một ý thức hệ quốc gia để chiến đấu và chiến thắng. Trong khi đó, mặc dù là một nhà thống trị tuyệt đối, Mohammed vẫn theo đuổi một cuộc sống đạm bạc và người ta còn kể rằng ông ta vẫn tự mình vá lấy quần áo bị rách. Mohammed cũng thể hiện lòng nhân đạo bằng cách hủy bỏ chế độ nô lệ, một sự việc đáng khen, đồng thời các việc uống rượu, đánh bạc và cho vay nặng lãi đều bị coi là vi phạm luật lệ của Thượng Đế. Mohammed được người Ả Rập coi là có đủ mọi đức tính tốt, đặc biệt là sự tử tế và lòng trung thành. Nhiều người tây phương đã coi nhà Tiên Tri này ưa thích nhục dục, đã có 9 người vợ sau khi bà Khadija qua đời, nhưng thực ra Mohammed đã trung thành với người vợ cao tuổi hơn mình cho đến khi bà này chết và các lần hôn nhân khác đều vì các lý do chính trị hay nhân đạo. Vài người vợ của nhà Tiên Tri đã là góa phụ của các tướng tá bỏ mình vì đạo Hồi, một số khác là con gái của các nhà lãnh đạo Ả Rập quan trọng. Người vợ được sủng ái nhất của Mohammed là A’isha, con gái của Abu Bakr là người bạn thân nhất và là cố vấn thân cận nhất. Mohammed đã lấy cô gái này khi nàng chưa được 10 tuổi.

    Vào năm thứ 10 của kỷ nguyên Hồi Giáo, lúc 63 tuổi, Mohammed ngã bệnh và đã yêu cầu các người vợ khác cho mình được sống gần A’isha. Vào lúc này nhà Tiên Tri vẫn cố lê bước tới đền thờ Hồi Giáo và nói với các tin đồ rằng các người giữ vững miền tin sẽ theo ông ta lên Thiên Đường. Mohammed đã chết trong vòng tay của A’isha. Khi nghe tin nhà Tiên Tri qua đời, các tín đồ Hồi giáo đã hoảng hốt và trong hoàn cảnh bối rối đó, Abu Bakr đã la lên “Thượng Đế còn sống và không chết. Mohammed chỉ là nhà Tiên Tri, trước ông ta còn có các nhà Tiên Tri khác”. Thi hài của Mohammed được chôn dưới nền túp lều của nhà Tiên Tri tại Medina, nơi này ngày nay được coi là ngôi đền linh thiêng thứ hai của Đạo Hồi.
    halosunALPHA3 thích bài này.
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    Các Giáo Chủ Đạo Hồi sau Mohammed
    Phạm Văn Tuấn

    [​IMG]

    1. Các Giáo Chủ Đạo Hồi sau Mohammed

    Đạo Hồi bắt đầu từ thế kỷ thứ 7, là một tôn giáo lớn với số tín đồ chiếm 1/7 dân số trên thế giới, sống trải dài từ châu Phi qua miền Trung Đông tới vùng Đông Nam châu Á và các hòn đảo Indonesia. Đạo Hồi không chỉ là một tôn giáo mà còn là một cách sống, đã đòi hỏi các tín đồ không những phải tuân theo các nghi thức thờ phượng mà cả các tiêu chuẩn văn hóa và xã hội. Các lời giáo huấn và các đòi hỏi về tôn giáo là các thử thách đối với mọi người nếu xét theo các yếu tố sắc dân, ngôn ngữ và địa phương.

    Các giáo điều của đạo Hồi rất trực tiếp và dễ hiểu. Danh từ “islam” có nghĩa là “phục tùng” bởi vì niềm tin Hồi giáo đòi hỏi cách tuyệt đối phục tùng theo Đấng Allah, tức là vị Thượng Đế Sáng Tạo Toàn Năng. Người theo đạo Hồi tin tưởng mãnh liệt rằng “không có vị linh thiêng nào khác ngoài Thượng Đế Allah” và mọi người sẽ bị xét xử vào lúc mãn đời, những người có công sẽ được ân sủng một đời sống vĩnh viễn trên một thiên đường tràn đầy vui thú, còn các kẻ ác sẽ lãnh chịu các hình phạt như lửa nóng và tra khảo.

    Đạo Hồi là một tôn giáo không dùng tới các bí tích (sacraments) và các tu sĩ, điểm này khiến cho đạo Hồi tương tự như đạo Do Thái (Judaism) bởi vì tín đồ đạo Hồi chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đấng Allah mà không qua người trung gian. Giới giáo sĩ đạo Hồi chỉ là các học giả có nhiệm vụ bình giảng các vấn đề niềm tin và giáo luật.

    Đạo Hồi đã phát triển theo nhiều hướng, đã gây được ảnh hưởng lớn lao trong lịch sử của nhiều quốc gia tại châu Phi, miền Đông Nam Á và đặc biệt là miền Trung Đông. Đạo Hồi là một tôn giáo khác với đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, không những do các quan niệm về Thượng Đế, về các nhà tiên tri mà còn cả về sự kết hợp chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội với tôn giáo, khiến cho đạo Hồi có những nét đặc thù, rất thích hợp với các xứ Ả Rập. Tín đồ đạo Hồi tin tưởng rằng chỉ có 6 nhà tiên tri là Adam, Noah, Abraham, Moses, Jesus và Mohammed, vị tiên tri cuối cùng. Các vị sứ đồ này đã mang đến cho con người Lời của Thượng Đế và các lời dạy của Mohammed sẽ dẫn dắt con người tới Ngày Phán Xét sau này.

    Nhà tiên tri Mohammed chào đời vào khoảng năm 570 sau Công Nguyên và theo nhà tiểu sử học đầu tiên viết về Mohammed là Ibn Ishaq, thì vào năm 610 khi ở tuổi 40 và tỉnh giấc sau một giấc ngủ trên núi Hira, ông Mohammed đã nghe thấy tiếng nói từ trên Trời cao của một thiên thần có hình dạng người, bảo như sau: “Ô, Mohammed, ông là tông đồ của Thượng Đế và ta là Gabriel”. Từ năm 613, nhà tiên tri Mohammed bắt đầu đi giảng đạo tại Mecca và các lời rao giảng của Mohammed được chép thành cuốn Kinh Koran. Ngoài Mecca, Medina là thành phố thứ hai được coi là linh thiêng của đạo Hồi.

    Sau khi giáo chủ Mohammed qua đời vào năm 632, đạo Hồi đã trải qua các thời kỳ thay đổi và chinh phục từ đầu thế kỷ thứ 7 tới giữa thế kỷ 18, từ một tôn giáo của một cộng đồng nhỏ trở thành một đế quốc chính trị rộng lớn, nhiều quyền lực và mặc dù tốc độ biến chuyển rất nhanh chóng, bên trong đạo Hồi vẫn xẩy ra các vụ nổi loạn, nội chiến. Các nhân vật kế nghiệp giáo chủ Mohammed được gọi là “caliph” hay giáo chủ đạo Hồi, là vị lãnh đạo tối cao về chính trị và tôn giáo. Ba trong 4 vị giáo chủ này đã bị ám sát và 2 triều đại Hồi giáo đã thay đổi thủ đô từ Medina qua Damascus rồi Baghdad và trong triều đại thứ hai Abbasid, đạo Hồi đã lên tới trình độ cực thịnh với lực lượng quân sự mạnh nhất, với thủ đô đẹp nhất và lớn lao nhất trên thế giới.

    Giáo chủ Mohammed khi qua đời đã không để lại cách chọn lựa hay không chỉ định người kế nghiệp. Vẫn biết rằng không ai có thể thay thế nhà Tiên Tri nhưng một nhà lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo được coi như rất cần thiết. Một phương pháp đơn giản là các bậc cao tuổi trong cộng đồng chọn lựa ra người nào xứng đáng nhất để lãnh đạo tôn giáo. Việc chọn lựa này được căn cứ vào sự liên hệ do huyết thống hay do sự thân cận với nhà Tiên Tri, do đã từng làm quen với các khuôn mẫu của nhà Tiên Tri khi điều hành chính quyền, chính trị, tôn giáo và quân sự. Các quyết định quan trọng của những vị giáo chủ này còn được dựa vào các lời cố vấn của các bạn thân, đáng tin cẩn, tức là những người tiếp xúc với nhiều tín đồ, trực tiếp hướng dẫn các tín đồ trong cách hành lễ, cầu nguyện và có uy quyền trực tiếp về tinh thần, chính trị và quân sự.

    1/ Giáo Chủ Abu Bakr.

    Giáo chủ đạo Hồi đầu tiên sau Mohammed là ông Abu Bakr. Ông này đã từng là một người bạn và cố vấn của nhà tiên tri, lại là cha của A’isha, người vợ nhỏ tuổi và được cưng yêu nhất của Mohammed lúc sắp qua đời. Ông Abu Bakr khi đó vào khoảng 60 tuổi, dáng người lom khom, có bộ râu nhuộm đỏ theo phong tục Hồi giáo, là người ăn mặc giản dị nhưng được mọi người kính nể nhờ bản tính ân cần, khiêm tốn và rất hiểu biết. Khi làm giáo chủ, ông mang danh hiệu Khalifat Rasul Allah, tức là người kế tục của Sứ Đồ của Thượng Đế.

    Khi bắt đầu giữ nhiệm vụ kế tiếp nhà Tiên Tri, ông Abu Bakr đã gặp ngay khó khăn vì vài bộ lạc Ả Rập muốn tách ra khỏi khối Hồi giáo. Trước kia, họ đã từng trung thành với ông Mohammed và đóng thuế vì uy tín của nhà Tiên Tri là người đã mang lại niềm tin, đã kết hợp các sắc dân du mục bedouin và các nhóm dân khác nhưng đến nay, đã không còn sự ràng buộc nữa và họ đã từ chối nạp tiền cho các người đi thu thuế. Sự chống đối lan rộng và trở nên nghiêm trọng khiến cho các nhà lãnh đạo Hồi giáo tin rằng khó mà hàn gắn nổi những rạn nứt này, dù cho phải dùng tới sức mạnh quân sự. Nhưng mặc dù bản tính dịu dàng, ông Abu Bakr đã không chấp nhận cách ly khai này bằng cách gửi các đoàn quân chinh phục và trong vòng 2 năm, các kẻ bỏ đạo và các nhà tiên tri giả như Musailima đã phải quy hàng.

    Sau đó giáo chủ Abu Bakr còn muốn mang Lời của Thượng Đế tới các dân tộc khác sống tại phía bắc và đạo quân Hồi giáo bắt đầu đánh chiếm các lãnh thổ của 2 đế quốc Byzantine và Ba Tư. Kinh Koran và lưỡi kiếm đã chinh phục dần dần các miền đất lạ, vào thời kỳ này tôn giáo là một lý do, là một động cơ thúc đẩy các cuộc chinh phục nhưng còn một yếu tố khác là cảnh nghèo nàn của xứ Ả Rập đang thiếu thốn các tài nguyên. Dân chúng miền này thường xuyên không có đủ thực phẩm và họ đã chú ý tới miền đất xanh tươi hình cánh cung trải dài từ thành phố Palestine qua phía bắc xứ Syria, dẫn tới thung lũng của hai con sông Euphrates và Tigris rồi đến vịnh Ba Tư.

    Các bộ lạc Ả Rập nằm nằm rải rác gần miền cánh cung này trong nhiều thập niên đã là các xứ sở đệm giữa hai đế quốc thù nghịch là Byzantine và Ba Tư (Persia). Hai đế quốc này thường dùng những người Ả Rập làm lính đánh thuê vì thế lớp người này đã trông cậy vào người Hồi giáo như những kẻ giải phóng họ.

    Yếu tố thứ hai giúp cho người Hồi giáo là sự thù nghịch giữa hai đế quốc kể trên. Từ đầu thế kỷ thứ 7, đế quốc Byzantine trị vì bởi vua Heraclius tại kinh đô Constantinople với dân chúng theo đạo Thiên Chúa, đã tràn qua xâm lăng vùng Trung Đông, chiếm thành phố Jerusalem và rồi lấn qua chiếm xứ Ai Cập là những nơi chịu ảnh hưởng cai trị do vua Yezdegerd trị vì tại Ctesiphon, thuộc xứ Ba Tư của những người theo đạo thờ lửa Zoroastrianism.

    Sự thành công của lực lượng Hồi giáo không chỉ nhờ vào sự tương tranh và suy tàn của hai đế quốc kể trên mà còn nhờ vào tài năng của các viên tướng tài ba theo đạo Hồi. Những nhà quân sự này đã chuyển dần các vụ cướp bóc, hôi của, thành các chiến dịch chinh phục những miền đất mới. Một trong các vị tướng có tài là Khalid ibn al-Walid, người lúc ban đầu ở trong lực lượng của thành phố Mecca chống lại nhà Tiên Tri, nhưng sau đã cải sang đạo Hồi và chiến đấu cho Hồi giáo. Trong một trận đánh tại Mu’ta gần thành phố Palestine, vị chỉ huy Hồi giáo bị giết chết và Walid đã lên nắm quyền, điều khiển hữu hiệu 3,000 quân khiến cho quân địch phải thối lui. Do tài lãnh đạo và lòng cam đảm, tướng Walid đã được nhà Tiên Trị gọi là “Lưỡi Gươm của Hồi giáo”.

    Về sau Khalid trở nên viên tướng chính của giáo chủ Abu Bakr, đã cùng với các viên chỉ huy khác tổ chức các bộ lạc Ả Rập trở thành một lực lượng quân sự lớn lao nhất thời bấy giờ. Các vị tướng lãnh tài giỏi này đã là những nhà chiến lược của sa mạc, giống như những người Vikings biết lợi dụng biển cả, nhờ đó họ xuất sắc hơn cả các người La Mã nổi danh vì các đạo quân viễn chinh. Sa mạc đối với người Ả Rập là một hậu phương rộng lớn, che chở họ khi rút lui cũng như lúc tấn công. Người Ả Rập đã khai thác hai yếu tố quân sự, đó là tính bất ngờ và tốc độ phục kích. Họ hiểu rõ chiến thuật dùng ngựa và lạc đà hơn tất cả các dân tộc khác trên thế giới, họ lại có tài về cách bắn cung, đánh kiếm và rất gan dạ trên chiến trường nhờ lòng tin tưởng mãnh liệt vào tôn giáo. Khi xung trận, các lính bộ binh bắn ra các trận mưa tên rồi tiếp theo là các toán kỵ binh Ả Rập lăn xả vào địch quân với gươm sắc và giáo nhọn khiến cho mọi hàng ngũ quân địch phải bị tan rã.

    Các đội quân Ả Rập đã tiến về ba hướng: phía bắc tiến vào Iraq và Palestine, phía đông đánh phá Iraq và Ba Tư là cửa ngõ của miền Trung Á, còn phía tây xâm chiếm Ai Cập với vùng Bắc Phi. Khi tướng Khalid đang ở tại mặt trận đối đầu với lực lượng Ba Tư, ông ta được lệnh của Abu Bakr phải điều khiển một đoàn quân tăng cường cho mặt trận ở Syria, Khalid đã thực hiện một cuộc chuyển quân thần tốc, vượt 200 dặm qua sa mạc không có nước uống và theo chuyện kể, ông ta đã cho lạc đà uống no nước rồi mổ bụng lạc đà, lấy nước cho ngựa chiến uống. Đoàn quân tiếp viện này đã kịp thời tới Ajnadain nằm giữa Jerusalem và Gaza, nhờ thế quân đội Hồi giáo đã đánh thắng quân lính của vua Heraclius và tiến vào thành Damascus sau 6 tháng vây thành. Đó là vào năm 635. Trước khi tiến quân vào thành phố đầu hàng, tướng Khalid cho công bố một bản văn mà từ đó về sau, đã trở thành một tiêu chuẩn cho các cuộc chinh phục của Hồi giáo: “Với danh nghĩa của Allah là Đấng Từ Bi, Đấng Cứu Rỗi, sau đây là những gì Khalid ibn al-Walid sẽ ban cho các cư dân của thành Damascus: Tôi hứa sẽ cung cấp cho tất cả sự an toàn về mạng sống, tài sản và nhà thờ. Kinh thành sẽ không bị phá hủy và người Hồi giáo sẽ không ở trong nhà của dân chúng. Vì chúng tôi đã cho tất cả lời thỏa ước với Thượng Đế và sự che chở của nhà Tiên Tri, của các giáo chủ và các tín đồ. Không có gì xẩy ra cho dân chúng cả một khi họ đóng thuế đầy đủ”.

    Vì Damascus được người thời đó coi là một kinh thành cổ nhất của thế giới nên vua Heraclius phải tìm cách chiếm lại. Nhà vua này đã tập trung 50 ngàn quân để đánh đuổi người Ả Rập ra ngoài sa mạc. Trước sức mạnh lớn lao này, tướng Khalid đã rút quân khỏi kinh thành Damascus, lui về gần dòng sông Yarmurk tại phía nam của biển Galilee và chờ đợi.

    Cuối cùng hai đạo quân đối đầu nhau vào một ngày mùa hè nóng nực trong năm 636, gió thổi mạnh từ hướng đông nam, tung cát vào mặt đoàn quân Byzantine đang tiến tới. Lợi dụng lúc này, quân Hồi giáo đã che mặt, theo trận gió cát mà tấn công dữ dội kẻ địch. Viên chỉ huy của lực lượng Byzantine là Theodorus bị giết và đoàn quân lớn mạnh nhất của ông ta cũng bị tàn sát. Sau trận đánh quyết định này, tất cả miền Syria và Palestine đều rơi vào tầm tay của người Ả Rập ngoại trừ hai thành phố Caesarea và Jerusalem.

    2/ Giáo Chủ Umar.

    Trước ngày chiến thắng kể trên 2 năm, ông Abu Bakr đã qua đời vì bị bệnh sốt vào năm 634 ở tuổi 52 nhưng trước khi chết, đã nghĩ tới người kế tiếp mình. Ông Umar được chọn vì là một người cố vấn của nhà Tiên Tri và cũng của ông Abu Bakr. Ông Umar đã tự gọi mình là “Người kế tiếp của người kế tiếp của Sứ Đồ của Thượng Đế” (Successor of the Successor of the Messenger of God) nhưng về sau dùng danh hiệu đơn giản hơn là “Lãnh tụ của các tín đồ” (Commander of the Faithful).

    Ông Umar là một trong vài giáo chủ đạo Hồi lớn lao nhất vì là nhân vật có đủ năng lực, can đảm và khiêm tốn với niềm tin đạo rất cao. Chuyện còn kể rằng đã có lần ông Umar đánh đứa con trai bằng roi vì các hành vi thiếu đạo đức của cậu con này. Giáo chủ Umar lãnh đạo Hồi giáo trong một thập niên, vào thời gian này đạo Hồi đã thực hiện được các cuộc chinh phục lớn lao nhất.

    Sau khi Tướng Khalid đánh thắng đoàn quân Byzantine, kinh thành Jerusalem đã cầm cự được cuộc vây hãm trong một năm, cho tới năm 637, giáo trưởng của kinh thành là Sophonius chấp nhận đầu hàng với điều kiện rằng vị giáo chủ đạo Hồi phải ra nhận bàn giao thành phố thánh địa. Ông Umar đồng ý với đề nghị kể trên và đã dùng lạc đà đi từ Medina, trên mình vẫn mặc bộ y phục tầm thường, nhiều miếng vá. Khi tới Jerusalem, giáo chủ Umar đã cư xử tử tế đối với những người Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo, giống như Tướng Khalid đã ôn hòa đối với cư dân thành phố Damascus.

    Trong khi thăm viếng ngôi Nhà Thờ Chúa có Ngôi Mộ Đá (the Church of the Holy Sepulcher), nơi mà người Thiên Chúa giáo tin tưởng rằng đây chính là ngôi mộ của Chúa Kitô, và vào thời giờ mà người Hồi giáo cầu nguyện, giáo chủ Umar đã không cầu kinh trong khuôn viên nhà thờ để tránh cho sau này các người theo đạo Hồi không đòi hỏi ngôi nhà thờ này trở thành đền thờ Hồi giáo. Ông Umar đã ra bên ngoài bãi đất trống, hướng về thành phố Mecca mà sụp lạy.

    Sau khi đã chiếm xong hai xứ Palestine và Syria, các đoàn quân Hồi Giáo tiếp tục các chinh phục mới. Vào năm 61, một danh tướng Hồi khác tên là Amr ibn al-As bắt đầu đưa quân qua Ai Cập, mở đầu việc tràn qua Bắc Phi. Lý do chính của công cuộc chinh phục này là vì đồng bằng sông Nile là một vựa ngũ cốc và xứ Ai Cập có thể là một căn cứ phản công của thế lực Byzantine. Sau 7 tháng vây hãm, thành Babylon, gần thành phố Cairo ngày nay, đã phải đầu hàng và sau 3 năm, thành phố Alexandria và toàn thể xứ Ai Cập nằm dưới quyền của người Hồi.

    Trong khi một đoàn quân Hồi đánh chiếm Ai Cập thì đế quốc Ba Tư cùng với tất cả kho tàng cũng thuộc về thế lực Hồi giáo vào năm 644, như vậy lãnh thổ của đạo Hồi đã trải dài từ miền Địa Trung Hải tới tận xứ Ấn Độ. Các miền đất khác nhau này đều thuộc quyền hành của giáo chủ Umar và vài nhân vật kế tiếp. Chính sách cai trị của giáo chủ Umar được căn cứ vào các lời giảng dạy trong kinh Koran qua đó việc bắt buộc đóng thuế đã được xác định như sau: “Hãy đánh chiếm các kẻ nào không tuân theo tôn giáo của sự thật cho đến khi nào họ nạp tiền thuế”. Như vậy đối với những người không theo đạo Hồi, họ thường phải nạp thuế thân và thuế đất.

    Tại các xứ sở quy phục đạo Hồi một cách hòa bình, người dân được giữ lại mảnh đất và được che chở vì đã đóng thuế. Đối với các dân tộc chống lại bằng sức mạnh, tài sản và đất đai của họ bị coi là chiến lợi phẩm và theo như kinh Koran quy định, 1/5 của cải chiếm được thuộc về đạo Hồi, phần còn lại chia cho các chiến binh. Tuy nhiên người Hồi cho rằng họ có lợi hơn nếu các dân tộc bị chinh phục chịu đầu hàng, trả thuế và cung cấp thực phẩm cho các đoàn quân chiếm đóng.

    Các dân tộc bị chinh phục bởi các đạo quân Hồi giáo không bị bắt buộc phải cải theo đạo Hồi nhưng họ không được hành lễ bên ngoài các ngôi giáo đường của họ, bị cấm đánh chuông, cấm xây dựng các tòa nhà thờ phượng mới và dù sao, họ vẫn cảm thấy dễ chịu hơn trước, khi sinh sống dưới quyền thống trị của các thế lực cũ. Còn về các dân tộc cải sang đạo Hồi, họ bị gọi là “mawali”, một tầng lớp dân chúng thấp kém, để phân biệt với giai cấp cai trị người Ả Rập, và họ phải đóng nhiều thuế hơn so với người dân gốc Ả Rập.

    Ông Umar tiếp tục củng cố việc công việc cai trị đế quốc Hồi giáo cho tới năm 644, vị giáo chủ này đã bị một tên nô lệ theo Thiên Chúa giáo đâm chết khi ông ta đang cầu nguyện vào lúc rạng đông. Trước khi qua đời, ông Umar còn biểu lộ sự vui mừng là tên sát nhân không phải là một người theo Hồi giáo.

    Ông Umar đã thực hiện sứ mạng bằng hai đường hướng, do khuyến khích việc bành trướng đế quốc Hồi giáo qua cách tiếp tục công cuộc thánh chiến “jihad” và do cách truyền giáo có hệ thống tới các bộ lạc Bedouin, với chủ đích thay thế các niềm tin thần linh bộ lạc bằng lòng trung thành vào thứ thần quyền mới và vào các giáo lệnh của nhà Tiên Tri. Cũng nhờ các cuộc chinh phục, các bộ lạc trong đế quốc Hồi giáo trở nên giàu có hơn nhờ các chiến lợi phẩm, nhờ việc chiếm đóng các miền đất trù phú mới.


    3/ Giáo chủ Uthman.

    Sau đó quyền hành giáo chủ được chuyển qua ông Uthman, một nhà quý tộc Hồi giáo cao niên, mộ đạo nhưng ưa thích mặc áo đẹp. Ông Uthman thuộc gia đình Umayyad giàu có và thế lực, đã chống lại nhà Tiên Tri vào lúc ban đầu nhưng sau chiến thắng của đạo Hồi, đã ngả theo quyền lực mới.

    Ông Uthman đã giữ chức giáo chủ trong 12 năm. Công trình chính của ông là việc tiêu chuẩn hóa kinh Koran. Trong thời kỳ này đã có nhiều địa phương chống đối chính quyền trung ương, lý do chính vì ông Uthman đã bổ nhiệm nhiều người nhà và bạn thân vào các chức vụ cao, đặc biệt tại xứ Ai Cập, viên tổng trấn cũ đã bị thay thế bởi người bà con của giáo chủ là người chỉ có khả năng thu thuế giỏi, hơn là cai trị tốt. Đoàn 500 người Ả Rập phản đối đã về Medina để khiếu nại nhưng do áp lực của gia đình, giáo chủ Uthman đã lên án họ nhân buổi lễ vào ngày thứ Sáu tại một ngôi đền Hồi giáo. Các kẻ chống đối sau đó đã bao vây ngôi nhà của giáo chủ và một tên lính đã lẻn vào phòng và đâm chết ông Uthman. Đây là lần đầu tiên một vị giáo chủ đạo Hồi bị một người Hồi giáo ám sát và sự việc này đã làm chia rẽ đạo Hồi, tạo nên các cuộc nội chiến sau này.

    4/ Giáo Chủ Ali.

    Giáo chủ mới được bầu lên trong số những vị cao niên uy tín của đạo Hồi để thay thế ông Uthman, là ông Ali. Đây là con trai của người chú, ông Abu Talib, người đã nuôi dưỡng nhà Tiên Tri lúc ban đầu. Ông Ali còn là con rể của nhà Tiên Tri, đã kết hôn với Fatima và là một trong vài người đầu tiên công nhận sự mặc khải của giáo chủ Mohammed.

    Ông Ali còn được nhiều người kính trọng vì tính tình rộng lượng, vì tài hùng biện và nhất là vì tài năng của một tướng lãnh. Vào thời gian này, ông ta là một người mập mạp, đầu hói, có râu bạc trắng, dáng người bệ vệ đủ gây uy tín đối với mọi người khác. Nhiều người còn cho rằng đáng lý ra ông Ali phải là vị giáo chủ thứ nhất mà không phải là thứ tư.

    Khi mới nhận chức vị giáo chủ, ông Ali đã gặp phải nhiều chống đối dữ dội, đặc biệt từ hai người cùng tranh chức vị và từ nàng A’isha, bà vợ góa trẻ của nhà Tiên Tri. Có sử gia cho rằng mối oán thù này là do nàng A’isha bị ông Ali nghi ngờ về tấm lòng chung thủy khi nàng đến thành phố Medina trễ cùng với một người bộ lạc trẻ với lý do ở lại để tìm kiếm một món nữ trang bị thất lạc, và nàng A’isha đã không bao giờ tha thứ cho ông Ali về vấn đề này.

    Tới khi chức vụ giáo chủ bị bỏ trống, nàng A’isha đã hợp tác với hai nhân vật nhiều tham vọng tên là Zubair và Talha, âm mưu một cuộc nổi loạn, tố cáo ông Ali đã không đưa vụ ám sát ông Uthman ra công lý. Các người âm mưu đã chiếm được thành phố quân sự Basra thuộc xứ Iraq, lật đổ viên tổng trấn theo phe của ông Ali.

    Do không có lực lượng quân sự để dẹp tan những người nổi loạn, ông Ali đã cùng một số người ủng hộ tại Medina, đi tới thành phố Kufa cách Basra 200 dặm về phía tây bắc, rồi cả hai phe củng cố binh lực. Tại Basra, hai đội quân Hồi giáo đối đầu nhau trong một trận giáp chiến danh tiếng được gọi là “Trận Chiến Lạc Đà” (The Battle of the Camel), bởi vì trong trận đánh này, nàng A’isha thúc quân từ một cái kiệu đặt trên lưng một con lạc đà. Trận chiến kết thúc với chiến thắng về phía ông Ali, với một kẻ đối nghịch bị giết trong trận mạc và kẻ thứ hai thiệt mạng sau này do các người Bedouin, nàng A’ish bị giải về thành phố và sống một cuộc đời âm thầm từ đó.

    Sau chiến thắng này, ông Ali đã không đặt bộ chỉ huy mới tại Medina mà tại Kufa nằm ngay trung tâm của đế quốc Hồi giáo và ông đã cố gắng tìm cách hòa giải với các kẻ thù cũ, tuy nhiên các khủng hoảng đã xẩy ra tại Syria khi ông Ali tìm cách thay thế những người thân thuộc của cựu giáo chủ Uthman. Một trong những người này là Mu’awiya, viên tổng trấn quyền thế của xứ Syria và cũng thuộc gia đình Umayyad của thành phố Mecca. Ông Mu’awiya đã không chịu rút lui dễ dàng mà đã tố cáo ông Ali đồng lõa trong vụ giết giáo chủ Uthman và yêu cầu ông Ali mang vụ sát nhân ra xét xử. Việc đòi hỏi này đã được nhiều người ủng hộ và sau đó, sự do dự của ông Ali bị tố cáo là cách che chở cho các kẻ phạm pháp. Trong một buổi lễ tại một đền thờ Hồi giáo thuộc thành phố Damascus, ông Mu’awiya đã cho trưng ra tấm áo đẫm máu mà cựu giáo chủ Uthman đã mặc.

    Ông Mu’awiya không những là một nhà cai trị có khả năng mà còn là một chính khách khéo léo. Ông ta được sự ủng hộ của dân chúng Syria và của viên tướng Amr, người đã bị giáo chủ Ali cho thay chức tổng trấn tại Ai Cập.

    Sự chống đối trong nội bộ đạo Hồi đã khiến cho giáo chủ Ali phải dẫn quân đội tới đối phó với ông Mu’awiya. Hai đoàn quân đối mặt nhau vào tháng 7 năm 657, gần thành phố La Mã cổ Siffin, thuộc phía bắc của thung lũng con sông Euphrates. Sau một trận chiến ác liệt, quân của ông Mu’awiya đã phải thoái lui nhưng sau đó viên tướng Amr đã cho quân sĩ cắm trên đầu ngọn giáo các trang giấy của cuốn kinh Koran và hô lớn câu “Quyết định chỉ thuộc về Thượng Đế”, khiến cho binh lính của ông Ali từ chối chống lại các người đang làm theo Lời của Thượng Đế. Cuộc chiến vì thế bị ngưng lại và việc dàn hòa kéo dài trong 6 tháng.

    Do giáo chủ Ali chấp nhận sự đàn hòa, phe Mu’awiya đã ở tại vị thế ngang bằng, lại được sự cố vấn của một người vừa quỷ quyệt, vừa xuất sắc là Amr. Tướng Amr đã đề nghị nên chọn một vị giáo chủ mới cho việc tranh chấp. Ông Ali đã không chấp nhận điều này nhưng cũng không làm sao tiếp tục cuộc chiến chống lại ông Mu’awiya. Vì các chia rẽ nội bộ, các kẻ chống đối ông Ali sau đó đã lập ra một phe ly khai gọi tên là Kharijites.

    Vào tháng 7 năm 658, quân lực của ông Ali và của phe Kharijites đã đối đầu nhau trong một trận chiến tại phía đông của dòng sông Tigris, thuộc miền trung tâm của xứ Iraq. Ông Ali đã thắng trận này nhưng lực lượng của ông bị suy yếu, không đủ sức chống lại phe Syria do ông Mu’awiya chỉ huy và phe này đã lập nên một miền đất bao gồm cả xứ Ai Cập, độc lập trong đế quốc Hồi giáo và quân đội Syria đã nhiều lần đánh phá các thành phố của ông Ali.

    Ba năm sau khi chiến thắng phe ly khai, một hôm giáo chủ Ali vào cầu nguyện trong một ngôi đền Hồi giáo tại Kufa thì bị một kẻ cuồng tín Kharijite từ chỗ ẩn núp, xông ra và dùng gươm đâm chết. Các người trung thành với ông Ali đã quy tụ chung quanh người con trai lớn Hasan của cựu giáo chủ nhưng Hasan là một người không có tham vọng chính trị nên sau vài tháng, đã quy phục viên tổng trấn Syria để nhận được món trợ cấp lớn, vì vậy chức vụ giáo chủ thuộc về ông Mu’awiya.
    ALPHA3 thích bài này.
  3. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    5/ Các triều đại Umayyads.

    Ông Mu’awiya trở nên giáo chủ đạo hồi vào năm 661, đã thiết lập tại Damascus một thủ đô Hồi giáo mới bởi vì từ lâu, ông ta đã hiểu rõ miền này và ông đã cai trị xứ sở Hồi giáo như một nhà vua thông thường hơn là một lãnh tụ tôn giáo. Chung quanh ông là các cố vấn có thể nói thẳng mà không sợ bị trừng phạt. Quyền lực Hồi giáo này dựa vào đội quân Syria được tập trung dần dần vào trung ương và từ nay, các giáo chủ Umayyads càng trở nên độc tài hơn.

    Dưới các triều đại Umayyads, văn hóa Hồi giáo bắt đầu thành hình, tiếng Ả Rập từ nay trở nên ngôn ngữ chính, thay thế tiếng Hy Lạp và tiếng Ba Tư. Các loại tiền tệ Hồi đầu tiên ra đời gồm có các đồng dinars bằng vàng và dòng dirhams bằng bạc, trên đó có khắc các câu văn trích trong kinh Koran. Hệ thống thông tin được khai triển bằng cách dùng cách truyền tin bằng ngựa. Nhiều công trình đào kênh và làm đường được bắt đầu, nhiều đền thờ Hồi giáo rực rỡ được xây dựng nên, đặc biệt nhất là Ngôi Đền Lớn tại Damascus.

    Các vua chúa của triều đại Umayyads là những người hưởng thụ mọi xa hoa vật chất trong đế quốc Hồi giáo, nhưng họ cũng là các nhà lãnh đạo quốc gia có tài, về phía đông đã xâm lấn tới thung lũng Indus của xứ Ấn Độ, còn về phía tây đã chiếm đóng lãnh thổ Tây Ban Nha và bờ biển Đại Tây Dương. Từ năm 711, đạo quân Hồi đã tiến vào Gibraltar và trong vòng 7 năm, toàn thể bán đảo Iberian đã nằn dưới quyền cai trị của người Hồi. Tại miền Trung Đông, sau khi chiếm giữ Syria, quân đội Hồi tiến gần tới thành Constantinople, đóng quân tại một địa điểm trọng yếu gần thủ đô của xứ Byzantine này trong 7 năm trước khi phải rút lui.

    Giống như các triều đại khác, đế quốc Umayyads cũng dần dần suy kém vì các mối bất hòa nội bộ, vì kinh tế suy thoái và các bất công xã hội. Tầng lớp người bất mãn nhất trong xã hội Hồi giáo này có tên là “mawali”, họ là những người cải sang đạo Hồi nhưng vẫn bị coi là thấp hèn, vẫn phải đóng các loại thuế cao, khi được tuyển vào trong quân đội họ bị xếp vào đội ngũ bộ binh, nhận ít lương hơn nhiều so với giới kỵ binh là những thành phần quý tộc. Đã có nhiều vị lãnh đạo Hồi giáo tìm cách sửa chữa bớt các bất công, đặc biệt là giáo chủ Umar II trị vì từ năm 717 tới năm 720. Ông này đã cải tổ thuế vụ, ra đạo luật miễn mọi thứ thuế cho người Ả Rập ngoại trừ thuế tôn giáo bắt buộc. Tuy nhiên cải cách này đã làm suy yếu nền kinh tế của đất nước và các giáo chủ kế tiếp không tìm ra phương cách sửa chữa.

    Do bất mãn, nhiều người Hồi đã tham gia các phe phái chống lại triều đình Umayyad strong số này có nhóm Kharijites và nhóm chủ trương quân phiệt Shi’a hay Shi’ite. Đây là những người tin rằng dòng họ Umayyads đã chiếm đoạt ngôi vị giáo chủ chân chính của ông Ali và những người kế tiếp.

    Khi ông Mu’awiya qua đời vào năm 680, phe Shi’a đã cố gắng giành cho người con nhỏ của ông Ali tên là Husayn lãnh ngôi vị giáo chủ. Cùng với gia đình và một số người ủng hộ, ông Husayn đã đi từ Medina tới thủ đô Kufa cũ nhưng trên đường đi, ông ta bị chặn lại do một toán quân dưới quyền của Yazid là con trai giáo chủ Mu’awiya. Ông Husayn này đã bị bắt, bị giữ 10 ngày rồi bị chém đầu, đầu lâu đưa về cho ông Yazid đóng đô tại Damascus.

    Sự việc giết chết người cháu của nhà Tiên Tri đã làm chấn động thế giới Hồi giáo và gây thêm kẻ thù chống lại triều đại Umayyads. Hiện nay ngày tử nạn của ông Husayn vẫn còn được thế giới Hồi giáo kỷ niệm.

    Để phản kháng chính quyền trung ương, các bộ lạc Bedouin trước kia chia rẽ, nay đoàn kết lại với nhau và với các phe phái khác để tìm cách lật đổ triều đại Umayyads. Trong số phe chống đối, đáng kể nhất là đảng Abbasid, đứng đầu do một người Hồi nhiều thủ đoạn tên là Abbas, có nguồn gốc từ một người chú của nhà Tiên Tri Mohammed. Trung tâm của đảng Abbasid này được đặt trong xứ Ba Tư và người dân của xứ sở này vẫn tự coi là có nền văn hóa cao hơn người Ả Rập. Phe Abbasid còn tuyên truyền rộng lớn rằng các vua Umayyads không phải là các giáo chủ chính thống, đã theo lối sống suy đồi mà quên đi nền chính trị thần quyền Hồi giáo.

    Phe Abbasid đã nổi dậy vào tháng 7 năm 747, dùng ngọn cờ đen làm biểu hiệu, lật đổ viên tổng trấn Umayyad tại Ba Tư và chiếm giữ quyền hành. Đoàn quân Ba Tư dưới quyền chỉ huy của Tướng Abu Muslim đã đánh thắng đạo quân địch. Sau đó các người Hồi này đã tôn ông Abbas lên làm giáo chủ vào năm 749 và qua năm sau, đoàn quân Ba Tư dàn trận tại Great Zab, gần nhánh sông Tigris thuộc phía bắc Iraq. Vị giáo chủ gốc Umayyad thua trận, phải bỏ chạy qua xứ Ai Cập rồi về sau bị bắt, đầu bị chém và đưa về trình vị giáo chủ mới. Kể từ khi ông Mu’awiya lên nắm quyền vào năm 661 tới khi dòng họ Umayyads cuối cùng bị lật đổ vào năm 750, đã có 14 giáo chủ đạo Hồi thuộc về dòng họ này.

    Các người thuộc thế lực Hồi giáo mới tại Ba Tư đã tìm cách quét sạch hệ thống cai trị trước. Trong cuộc tàn sát tiêu biểu nhất, viên tướng Ba Tư tên là Abdullah đã mời hơn 80 nhân vật thuộc dòng họ Umayyads tới dự một bữa tiệc rồi vào giữa cuộc vui, đã ra lệnh giết sạch những ngươi kể trên, che phủ các tử thi rồi tướng Abdullah cùng các người khác lại tiếp tục ăn uống. Trong cuộc tàn sát tập thể này, chỉ có một người tên là Abd al-Rahman thuộc dòng họ Umayyad trốn thoát được, đã lẩn tránh sau đó qua xứ Tây Ban Nha và lập ra một triều đại tồn tại trong 300 năm.

    Các người Abbasids còn tìm cách khai quật các ngôi mộ của các vị giáo chủ Umayyads trước kia, ngoại trừ mộ phần của ông Umar II không bị xúc phạm bởi vì họ coi ông này là vị lãnh tụ Hồi giáo chân chính duy nhất. Để củng cố chính quyền, các người Abbasids tìm cách loại trừ một cách độc ác mọi kẻ chống đối, kể cả phe Shi’ite. Abu Muslim là viên tướng Ba Tư xuất sắc cũng bị nghi ngờ và bị chém thành nhiều mảnh. Một nạn nhân danh tiếng khác là viên tướng đã từng tàn sát hơn 80 nhân vật Umayyad trong bữa đại tiệc.

    Triều đại Abbasid đã kéo dài được 500 năm với giai đoạn rực rỡ nhất dưới thời giáo chủ đạo Hồi Harun al-Rashid, từ năm 786 tới năm 809.

    6/ Đạo Hồi ngày nay.

    Hiện nay có vào khoảng một tỉ người theo đạo Hồi, rải rác trên 40 quốc gia thuộc cả 5 lục địa. Đạo Hồi là một tôn giáo lớn, linh hoạt, đang phát triển nhưng các cộng đồng theo Hồi giáo lại khác nhau về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục v.v. bởi vì đây là một thế giới rộng lớn, đa quốc gia, đã từng xuất phát từ một nền văn minh nhiều ảnh hưởng sâu sắc.

    Kế tiếp nhà Tiên Tri Mohammed có 4 nhân vật được coi là các vị giáo chủ chân chính, đã lãnh đạo thời đại Hồi giáo lý tưởng trong khoảng 30 năm. Vị giáo chủ thứ hai là ông Umar, điều hành từ năm 634 tới năm 644, đã lập nên 2 thành phố Hồi giáo mới là Al Basra vào năm 635 và Kufa vào năm 638 và từ hai nơi này mà nền cai trị được tiến hành về hai hướng đông và tây.

    Sau khi vị giáo chủ thứ 4 Ali qua đời, ông Mu’awiya đã lập nên triều đại Umayyads, cai trị đế quốc Hồi giáo trong gần một thế kỷ. Những người theo giáo chủ Ali về sau lập ra giáo phái Shi’a hay Shi’ite, với các giáo điều và lý thuyết thần học khác biệt. Biến cố lịch sử của giáo phái này là cái chết bị thương tại Karbala của ông Husayn, người con trai của ông Ali, cùng với bà Fatima, người con gái của nhà Tiên Tri Mohammed. Ông Husayn cùng với gia đình 70 người đã bị tàn sát do đội quân của ông Yazid, giáo chủ thứ 6 thuộc dòng họ Umayyads. Người Hồi giáo Shi’a coi ông Husayn là một nhân vật tử đạo, đã sống theo đúng lời răn cho tới chết.

    Giáo phái Shi’a, hay Shi’ite, có nhiều nhánh, trong đó nhánh Ithna Ashiriyya hay nhánh 12 Shi’a, chủ trương rằng nhà Tiên Tri đã chỉ định 12 người kế tiếp, được gọi là 12 imams hay lãnh tụ cộng đồng Shi’a, những người này được thừa kế từ cha xuống con với thẩm quyền chính trị bắt đầu từ chính nhà Tiên Tri Mohammed. Nhà lãnh tụ Iran nổi tiếng Ayatollah Khomeini đã từng là một imam tối cao.

    Trong đạo Hồi còn có giáo phái Sunni rất quan trọng. Khởi đầu từ triều đại Abbasid tức là vào năm 750, giáo phái này chủ trương 4 trường phái về luật lệ tôn giáo (4 legal schools): Malikis, Hanafis, Shafi’is và Hanbalis. Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Shi’ite khác nhau giống như đạo Cơ Đốc (Catholicism) và đạo Tin Lành (Protestantism) dù cho cùng là đạo Thiên Chúa. Đạo Hồi Shi’ite có các đẳng cấp tu sĩ giống như đạo Cơ Đốc, với vị Imam tối cao giống như Giáo Hoàng. Người theo đạo tin tưởng vào các truyền thống huyền bí và trong lịch sử của họ đã có nhiều anh hùng cũng như nhân vật tử đạo (martyrs), nhiều luật lệ về thừa kế và ly dị được coi là cởi mở hơn đối với phụ nữ, một phần cũng vì lòng kính trọng bà Fatima, vợ của ông Ali và cũng là người con gái của nhà Tiên Tri.

    Đạo Hồi Sunni không có giới tu sĩ chính thức mà chỉ có các học giả (scholars) và các nhà luật học (jurists) góp các ý kiến về các luật lệ và tập tục theo Hồi giáo. Người theo đạo Hồi Sunni tin tưởng các thẩm quyền lãnh đạo cộng đồng hơn là các nhà chính trị và một người theo đạo này có quyền chọn một trong 4 trường phái tư tưởng Hồi giáo. Trong các cộng đồng Sunni, các học giả tôn giáo được kính trọng và là những người có quyền lực về mặt xã hội, ảnh hưởng tới nền chính trị.

    Sau thời kỳ của 4 vị giáo chủ chân chính, đạo Hồi đã không thể đoàn kết lại thành một định chế về mặt tôn giáo và chính trị, và thông thường trong đạo Hồi vẫn có hai thế lực xung đột nhau. Trong chiều dài của lịch sử, các người Shi’ite thường bị ngược đãi nhưng kể từ cuộc Cách Mạng Iran năm 1979 do ông Khomeini lãnh đạo, các tranh đấu vì lý tưởng Shi’ite đã lan rộng. Iran đã ủng hộ các người Hồi giáo thuộc các xứ Palestine, Afghanistan và Lebanon. Nhóm du kích Hezbollah là một tổ chức Shi’ite.

    Ngược lại tại xứ Iraq và dưới quyền cai trị của nhà độc tài Saddam Hussein, đa số người Hồi giáo Shi’ite đã bị đàn áp một cách tàn nhẫn, các đền thờ Shi’ite linh thiêng bị triệt hạ, các lãnh tụ Shi’ite bị ám sát hoặc phải bỏ chạy qua xứ Iran, và ngay cả ông Mohammed Sadiq al-Sadr, dù cho đã được Saddam Hussein bổ nhiệm làm nhà lãnh đạo cộng đồng Shi’ite, cũng vẫn bị hành quyết vào năm 1999 khi ảnh hưởng của ông ta đủ lớn lao. Người kế tiếp là Đại Ayatollah Sayyed Ali al-Sistani cũng bị quản chế trong 15 năm.

    Ngoài hai giáo phái chính Sunni và Shi’ite, còn một giáo phái đạo Hồi quan trọng khác: giáo phái Sufi. Giáo phái này chủ trương truyền thống khắc kỷ (ascetic tra***ion), chú trọng tới tính linh thiêng (spirituality) hơn là các luật lệ tôn giáo. Vào thế kỷ thứ 9, giáo phái Sufi đã làm phát triển các giáo điều huyền bí và trong các buổi lễ, các giáo dân Sufi cùng nhau nhẩy nhót theo nhiều nhịp điệu tôn giáo cuồng nhiệt.

    Đạo Hồi Sufi chú trọng vào tấm lòng yêu thương Thượng Đế, nhấn mạnh vào kiến thức trực giác (intuitive knowledge), làm phát triển tập thể giáo dân do chủ trương tình huynh đệ, do các hành động nhân đạo như việc giúp đỡ các kẻ nghèo khó thuộc đủ mọi loại đức tin. Các người theo đạo Hồi Sufi là những kẻ trung gian giữa dân chúng và chính quyền, và cũng vì những việc làm từ thiện của họ mà họ đã thành công và thế giới Hồi giáo đã lan rộng ra ngoài vùng Trung Đông, tới nhiều vùng thuộc châu Phi và Đông Nam Á.

    Sở dĩ đã xẩy ra các xung đột giữa các giáo phái của đạo Hồi bởi vì đã có các mâu thuẫn giữa các tinh thần lý tưởng (idealism) và tinh thần thực tế (pragmatism), giữa các đòi hỏi tổng quát về chân lý đối nghịch với các nhu cầu thực tế của hoàn cảnh chính trị. Thực tại này tương tự như trường hợp của nước Pháp sau cuộc Cách Mạng năm 1789 hay của nước Nga năm 1917 sau khi đảng Bolshevik nắm được chính quyền. Các người theo đạo Hồi hiện nay đang tìm kiếm một căn bản ý thức hệ để dùng vào việc thiết lập một trật tự Hồi giáo mới.
    ALPHA3 thích bài này.
  4. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    Các nhà khoa học và triết học của Đạo Hồi
    [​IMG]

    1. Các nhà khoa học và triết học của Đạo Hồi

    Hiện nay, các danh từ như đại số (algebra = al-jabr), thuật giả kim (alchemy = al-kimiya), chất kiềm (alkali = al-qili), độ phương vị (azimuth = al-sumut) cùng nhiều danh từ khoa học khác đều có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập và từ đạo Hồi, như vậy các nhà toán học, hóa học, kinh tế, bác sĩ … đều mang nợ các khoa học của đạo Hồi sống vào thời Trung Cổ. Trong suốt 5 thế kỷ, từ thế kỷ 9 tới thế kỷ 14, trong đạo Hồi đã có các nhà vật lý, hóa học, toán học, thiên văn học, địa dư học… họ không những làm sống lại nền Khoa Học của xứ Hy Lạp mà còn nới rộng, đào sâu, lập nên nền móng của nhiều bộ môn kiến thức ngày nay.

    Nền khoa học của đạo Hồi không những chỉ quan tâm tới môi trường vật lý của con người mà còn tìm cách phân tích con người theo tinh thần, theo xã hội trong đó con người sinh sống. Tinh thần tìm hiểu này đã phát triển tốt đẹp khiến cho nhiều người phương tây thời bấy giờ đã phải hướng về các nhà khoa học của đạo Hồi để học hỏi.

    Các nền khoa học của Hồi giáo đã căn cứ vào sự hiểu biết của người Hy Lạp thuộc nhiều thế kỷ về trước theo đó ngự trị trong vũ trụ trông có vẻ phức tạp, thực ra có các định luật tổng quát mà con người có thể hiểu rõ bằng lý trí (reason) nhờ đó nhiều hiện tượng tưởng chừng như không liên hệ với nhau mà thực ra đã bị chi phối bởi cùng một nguyên lý, chẳng hạn như về Thiên Văn Học, nếu một nhà khoa học hiểu rõ định luật đã khiến cho các thiên thể đi theo các quỹ đạo, thì nhà khoa học này có thể tiên đoán vị trí của một ngôi sao trong nhiều năm tới.

    Sự hiểu biết vũ trụ, theo danh từ Ả Rập, được gọi là “falsafa”, bao gồm mọi kiến thức của con người, cả về phương diện lý thuyết cũng như thực hành, gồm cả các khoa vật lý, tự nhiên và triết học cũng như các học thuyết tôn giáo. Như vậy một triết gia về khoa học (a scientist philosopher) của thời đại bấy giờ không phải là một chuyên gia về một ngành học eo hẹp mà là một học giả hiểu rõ nhiều phạm vi học thuật như y khoa, thiên văn, hóa học, toán học, luận lý, siêu hình và ngay cả âm nhạc và thơ văn. Thời đó không có nhiều học giả với trình độ cao, những vị này đã sinh sống nhờ sự bảo trợ của một triều đình hay của vài gia đình giàu có, và sự uyên bác của họ đã khuyến khích việc tìm hiểu kiến thức tại các thành phố thuộc thế giới Hồi giáo và đã thu hút các học viên từ khắp nơi theo học các trường học của đạo Hồi.

    Trong khi kiến thức được tìm hiểu và mở rộng thì các áp dụng thực tế đã mang lại các ích lợi cho đời sống hàng ngày, chẳng hạn như bộ môn Toán Học đã đáp ứng các nhu cầu trong các ngành thương mại và đo đạc, như bộ môn Thiên Văn đã xác định giờ cầu nguyện, ngày mặt trăng xuất hiện đầu tiên trong tháng Ramadan, phương hướng nhắm về thành phố Mecca và sự hiểu biết các tinh tú trên bầu trời đã hướng dẫn các kẻ đi xa trên đất liền và trên biển cả.

    1/ Ngành Y Khoa.

    Trong nhiều phạm vi học thuật, các nhà khoa học Hồi giáo rất hiểu rộng nhưng họ xuất sắc nhất về ngành Y Khoa. Trước kia, người Ả Rập thường tin tưởng vào những điều dị đoan, gồm cả việc dùng bùa ngải, dùng các lời cầu nguyện và một số thuốc men sơ khai như loại phẩm đỏ (henna) để chữa bệnh xưng khớp xương, mật ong để trị bệnh nhức đầu và bệnh sốt, họ cũng dùng một số lá cây để cầm máu. Qua thế kỷ thứ 8, trường Y Khoa của xứ Ba Tư tại thành phố Jundishapur bắt đầu giảng dạy các phương pháp trị bệnh căn cứ vào những điều thực hành hữu lý của các y sĩ Hy Lạp. Tới năm 765, khi nhà cai trị thành phố Baghdad là Mansur bị chứng đau dạ dầy kinh niên và các lương y của thành phố kể trên không thể chữa khỏi, vì thế vị giáo chủ đạo Hồi đã phải trông cậy vào vị y sĩ chính của thành phố Jundishapur, tên là Jurjis Ibn Bakhtishu, một người theo đạo Thiên Chúa. Ông Jurjis đã thành công và được bổ nhiệm làm y sĩ của triều đình.

    Thành phố kiến thức đã thu hút các học giả vào đầu thế kỷ 9 là Baghdad. Khi cai trị từ năm 813 tới năm 833, giáo chủ đạo Hồi Ma’mun đã thiết lập một trung tâm học thức gọi là “Tòa Nhà Hiểu Biết” (The House of Wisdom) bên trong gồm có một thư viện, một cơ sở phiên dịch và một trường học. Giống như nhiều nhà lãnh đạo đương thời, giáo chủ Ma’mun lúc đầu rất do dự khi lý luận về vũ trụ của Thượng Đế nhưng rồi, theo chuyện kể lại, ông ta đã gặp vong hồn của nhà triết học Aristotle trong một giấc mơ và Aristotle đã bảo đảm với giáo chủ rằng sẽ không có sự xung khắc giữa lý trí (reason) với tôn giáo, do đó giáo chủ Ma’mun đã ra lệnh thiết lập trung tâm học thức kể trên.

    Từ nay, trong khoảng thời gian 75 năm, các tư tưởng cao siêu của các học giả của xứ Hy Lạp và của các dân tộc khác đã được chuyển dịch sang tiếng Ả Rập trong số này đáng kể là các tác phẩm của Aristotle, Plato (triết học), các khảo cứu chính yếu của Euclid (toán học), Ptolemy (thiên văn), Archimedes (vật lý) và của nhóm y sĩ Hy Lạp danh tiếng như Hippocrates, Dioscorides và Galen cũng như nhiều công trình khoa học của người Ba Tư, người Ấn Độ… Những bản văn gốc một phần từ những chiến lợi phẩm khi quân đội Hồi giáo xâm chiếm xứ Byzantium và Ba Tư, một phần do các phái viên của giáo chủ Ma’mun gửi đi xa, chẳng hạn tới tận thành phố Constantinople để thu thập các văn bản Hy Lạp rồi mang về Baghdad.

    Tại Tòa Nhà Hiểu Biết, các học giả Hồi giáo đã chuyển dịch hàng ngàn tác phẩm, mở đầu các công tác trí thức. Một trong các nhà bác học của tòa nhà kể trên là Hunayn ibn Ishaq, dịch giả của nhiều tác phẩm của Galen. Sinh ra tại Hira thuộc miền tây của xứ Ba Tư, ông Hunayn đã theo học y khoa tại Baghdad dưới sự hướng dẫn của một vị bác sĩ đã từng giảng dạy tại trường y khoa Jundishapur, một nơi đã gây nên các ảnh hưởng sâu sắc tới nền y học Hồi giáo. Một hôm Hunayn đã hỏi thầy dạy các câu hỏi khó trả lời, khiến cho ông thầy nổi giận, đuổi Hunayn ra khỏi lớp học. Cậu sinh viên này do bất mãn, đã theo học nhiều vị giáo sư khác, học thêm tiếng Hy Lạp và được các học giả mướn đi tìm kiếm các tác phẩm y học của Galen đang bị thất lạc. Vì mục đích này, Hunayn đã đi tới thành phố Damascus, tới miền Mesopotamia, các xứ Palestine, Ai Cập và Syria.

    Về sau Hunayn được nhận làm phụ tá cho vị y sĩ của giáo chủ Ma’mun rồi từ đây phụ trách “Tòa Nhà Hiểu Biết” để trông coi tất cả các bản dịch thuật. Với sự trợ giúp của người con trai, người cháu và khoảng 90 đệ tử, học giả Hunayn và các người cộng tác đã sản xuất được các tác phẩm chuyển ngữ rất chính xác và quan trọng. Đầu tiên, các tác phẩm này được dịch sang tiếng Syriac là ngôn ngữ mà ông Hunayn rất giỏi, rồi sang tiếng Ả Rập để sau vài thế kỷ, được chuyển đổi sang tiếng La Tinh và truyền qua phương tây qua ngả Sicily và Tây Ban Nha.
    Công trình của học giả Hunayn và các giáo sư đạo Hồi khác đã là nền móng của nhiều bộ môn khoa học hiện nay, đặc biệt là ngành Y Khoa. Những nhà trí thức này đã được vị giáo chủ đánh giá cao đến nỗi rằng theo chuyện kể, ông Hunayn được trả công bằng số vàng cân nặng ngang với số sách. Ngoài các công trình phiên dịch, học giả Hunayn còn viết ra nhiều cuốn sách thuộc bộ môn Nhãn Khoa (ophthalmology).

    Vào thời Trung Cổ, phần lớn các y sĩ Ả Rập là các người gốc Ba Tư, trong số này nhân vật danh tiếng nhất là ông Razi, có tên La Tinh là Rhazes, đã viết ra hơn 200 cuốn sách từ bộ môn Y Khoa tới thuật Giả Kim (alchemy), Thiên Văn và Thần Học. Ông Razi sinh sống trong khoảng thời gian từ năm 865 tới năm 925. Nhiều người của thời đại này đã gọi ông là “vị Y Sĩ nhiều kinh nghiệm” và trong cách trị bệnh, ông Razi được coi như ngang hàng với Hippocrates. Ông Razi đã khuyên cách điều trị bệnh nhân bằng việc nghỉ ngơi, môi trường dưỡng bệnh phải sạch sẽ và phải giữ cho bệnh nhân được thoải mái. Dù cho không hề biết tới vi trùng, ông Razi đã đề cập tới các nguyên tắc vệ sinh. Trong công việc chọn lựa nơi xây dựng một bệnh viện cho thành phố Baghdad, ông Razi đã treo các miếng thịt sống tại nhiều nơi và đã lựa nơi nào có miếng thịt bị hư thối chậm nhất.

    Trong bộ sách đồ sộ 100 cuốn viết về Y khoa, ông Razi đã biên tập nhiều hiểu biết từ các nhà lương y người Hy Lạp, Syria, Ba Tư, Ấn Độ và Ả Rập, và các tác phẩm này đã ảnh hưởng sâu rộng tới nền Y Khoa Tây Phương.

    Một nhân vật cũng có danh tiếng như ông Razi tên là Ibn Sina, với tên La Tinh là Acevina, sống trong các năm từ 980 tới 1037. Người thời bấy giờ gọi ông là “Hoàng Tử của các nhà Triết Học” (the Prince of Philosophers) và cho tới ngày nay, ông Acevina vẫn còn được coi là một trong các bộ óc lớn lao của mọi thời đại. Người ta còn kể lại rằng khi lên 10 tuổi, ông Acevina thuộc lòng quyển kinh Koran, 18 tuổi trở thành y sĩ riêng của vua Hồi giáo tại Bukhara trong xứ Turkestan. Ông Acevina đã viết xong 170 cuốn sách về Y Khoa, Triết Học, Toán Học, Thiên Văn, Thơ Phú và Tôn Giáo. Tác phẩm danh tiếng nhất của ông tên là “Các Quy Tắc của Y Khoa” (Canon of Medicine), một bộ sách bách khoa đề cập tới mọi cách trị bệnh. Không một tác phẩm nào được nhiều người dùng tới hơn cuốn sách này bởi vì trong suốt chiều dài 6 thế kỷ, từ thế kỷ 12 tới thế kỷ 17, các trường đại học của châu Âu đã dùng bộ sách 5 cuốn này làm căn cứ. Ông Acevina còn nhận ra bản chất lây lan của bệnh lao phổi, ông cũng mô tả các bệnh ngoài da, bệnh xáo trộn tâm lý, bệnh tương tư và ông còn cho rằng các bệnh tật truyền đi do nước và đất.

    Một học giả khác rất danh tiếng là vị y sĩ người Tây Ban Nha tên là Ibn Rushd, có tên viết theo tiếng La Tinh là Averroes. Học giả này đã viết nhiều sách về Y Khoa, Luật Khoa, Triết Học và Thiên Văn, và do tài năng đa diện, ông Averroes này đã vừa là y sĩ chính của vua Abu Yaqub Yusuf, nhà cai trị xứ Tây Ban Nha từ năm 1163 tới năm 1184, vừa là quan tòa tại hai thành phố Seville và Cordoba. Hơn nữa ông Averroes còn được người đời biết tới do là một trong những học giả quan trọng viết về nhà triết học Hy Lạp Aristotle, nhờ các bài khảo luận của ông liên quan tới các nhà tư tưởng Hy Lạp mà người phương Tây đã chú ý đến nền Triết Học này, và như vậy ông đã đóng góp vào công cuộc tạo nên các tư tưởng triết học của châu Âu.

    Ảnh hưởng tới thế giới Tây Phương còn có một y sĩ Do Thái khác sinh ra tại Tây Ban Nha, là ông Ibn Maymun, có tên khác là Maimonides. Ông này đã viết sách Y Khoa, Thiên Văn, Thần Học, Triết Học và cũng là y sĩ triều đình của vua Saladin, vị vua Hồi giáo của hai xứ Ai Cập và Syria vào thế kỷ 12. Người đời sau ca tụng trí khôn ngoan và tầm hiểu rộng của ông do cuốn sách Triết Học “Hướng dẫn những người chưa xác tin” (Guide for the Perplexed). Đây là một khảo luận Triết Học làm hòa hợp các tư tưởng tôn giáo với các lời giảng dạy khoa học của Aristotle. Trong các tác phẩm viết về Y Khoa, học giả Maimonides đã bình luận về hai danh y Hippocrates và Galen, ngoài các nhận xét riêng của ông với phần lớn về vệ sinh cá nhân và chế độ ăn uống.

    Mặc dù ngành giải phẫu bị coi là một phần nhỏ của Y Khoa, các y sĩ đạo Hồi cũng làm phát triển ngành này. Bị lãng quên cho tới thế kỷ 10, lương y Abulcasis sinh trưởng tại xứ Tây Ban Nha, đã viết sách giải phẫu căn cứ vào công trình của vị y sĩ Hy Lạp Paul of Aegina và trong các tác phẩm của ông có nhiều hình vẽ mô tả các dụng cụ và phương pháp giải phẫu.

    Vào thời kỳ văn minh đạo Hồi, các y sĩ đã thực hiện được nhiều cuộc giải phẫu rất phức tạp đối với thời bấy giờ, gồm cả mổ óc, mổ mạch máu và phần bụng, cắt bỏ tay và chân bị bệnh. Danh y Acevina đã khuyên nên cắt đi các tế bào bị ung thư vào thời kỳ sơ khởi. Trong khi giải phẫu, các y sĩ đạo Hồi đã gây mê bệnh nhân bằng cách dùng thuốc phiện, đôi khi lại trộn với rượu để làm cho liều thuốc mạnh hơn. Ngoài ra chuyện còn kể rằng có nhà hóa học đã khám phá ra một chất gây mê khiến cho bệnh nhân bất tỉnh trong 7 ngày và vì sự nguy hiểm lớn lao này mà nhà hóa học kể trên đã mang theo bí mật khi qua đời.

    Vào thời kỳ văn minh Hồi giáo, các y sĩ giải phẫu phải học lý thuyết Y Khoa của Galen, phải đậu kỳ thi về cơ thể học và học chuyên môn về một ngành. Một bác sĩ mắt ngoài tầm hiểu biết về con mắt, còn phải biết pha chế vài hợp chất trị bệnh đau mắt. Có lẽ do cát bụi nơi sa mạc nên các y sĩ đạo Hồi rất giỏi về cách chữa mắt trong thời Trung Cổ, họ đã viết ra nhiều sách Nhãn Khoa, phát minh ra cách cắt màng mắt (soft cataract) cũng như nhiều dụng cụ y khoa khác.

    Việc chữa bệnh bằng thuốc men cũng rất tiến bộ. Nhiều y sĩ đạo Hồi biết điều chế các liều thuốc và tại thành phố Baghdad đã có các hiệu thuốc tây chế thuốc theo toa của y sĩ. Các loại thuốc này làm từ cây cỏ và sinh vật và cũng từ những khoáng chất như sulphate đồng dùng làm chất cầm máu và lành vết thương.

    Người theo đạo Hồi thời đó đã coi thuốc men là nguy hiểm nên trong ngành thuốc có loại nhà thanh tra theo dõi việc bào chế các thuốc chữa bệnh, kiểm soát cả sự sạch sẽ của các chai lọ đựng thuốc. Dù cho dược sĩ không biết khi nào viên thanh tra tới kiểm soát nhưng vẫn có các vụ gian lận, vụ bán ra các thứ thuốc giả và đã có các hình phạt đối với những người phạm pháp.

    Nhà cầm quyền đạo Hồi cũng đòi hỏi các y sĩ phải có bằng cấp. Vào năm 931, một công dân của thành phố Baghdad bị chết do nhầm thuốc, vì thế vua Hồi giáo Muqtadir đã ra lệnh cho lương y của triều đình Sinan Ibn Thabit kiểm tra tất cả y sĩ và 860 người hành nghề y khoa đã phải qua kỳ thi, dù cho vẫn có các sơ sót. Các y sĩ có giấy phép phải điều trị bệnh nhân tại bệnh viện giống như hiện nay. Qua thế kỷ 9, thành phố Baghdad xây dựng bệnh viện đầu tiên theo kiểu mẫu của bệnh viện trong trường y khoa Jundishapur và các địa phương khác cũng bắt chước, nhờ vậy đã có 34 bệnh viện trong thế giới Hồi giáo. Vài bệnh viện rất tiến bộ do có các chuyên ngành để chữa trị vài thứ bệnh đặc biệt, chẳng hạn chữa các người loạn trí, và các người bị thương nhẹ được cho về nhà sau khi chăm sóc tại bệnh viện. Bệnh viện của đạo Hồi còn có thư viện chứa nhiều sách y khoa. Vào thế kỷ 11, đã có các bệnh viện lưu động nhờ đoàn lạc đà đi tới các làng mạc và các nơi hẻo lánh. Khi tới một địa điểm chữa bệnh, các bác sĩ dựng lều rồi khám bệnh và cho thuốc. Vào thời kỳ có các bệnh dịch, các bệnh viện lưu động này rất hữu ích trong việc chữa trị.

    2/ Ngành Hóa Học và các ngành khác.

    Ngoài các đóng góp quan trọng trong ngành Y Khoa, các nhà khoa học Hồi giáo còn đặt nền móng cho ngành Hóa Học. Nhiều kỹ thuật và danh từ đã được phát minh từ môn giả kim (alchemy) của thời Trung Cổ. Nhà giả kim học danh tiếng nhất của vua Hồi giáo Harun, tên là Jabir Ibn Hayyan đã tin tưởng rằng mọi hợp chất có căn bản là thủy ngân và lưu huỳnh (sulphur) và ông này đã tốn nhiều công sức để tìm cách chế ra vàng và bạc. Ông Jabir đã khám phá ra nhiều kỹ thuật mới dùng vào việc tinh lọc kim loại, chế tạo phẩm nhuộm, dùng giấm để tạo nên acít acêtic và làm ra thủy tinh từ manganese dioxide. Ông ta cũng khảo sát nhiều hợp chất, biến nhiều chất thành tinh thể… và các danh từ mà ông Jabir sử dụng đã được truyền qua ngôn ngữ của châu Âu, chẳng hạn như alkali, alembic, antimony và aludel.
    Sau khi ông Jabir qua đời, các nhà khoa học đạo Hồi khác cũng đóng góp vào các công cuộc nghiên cứu. Một trong những người này là y sĩ Razi nổi danh về y khoa và thuật giả kim. Trong số 12 cuốn sách viết về kỹ thuật sau này, tác phẩm được nhiều người nhắc nhở nhất là cuốn “Sách ghi các Bí Mật” (The Book of the Secret of Secretes) có chủ đích trình bày thành phần hóa học của nhiều khoáng chất. Ông Razi không chỉ mô tả các hóa chất và các dụng cụ cần thiết trong một phòng thí nghiệm hóa học chẳng hạn như các loại bình, đĩa thủy tinh (beakers, flasks, dishes) mà còn phân loại sự vật theo sinh vật (animal), khoáng vật (mineral), thảo mộc (vegetable)… và cách phân loại này ngày nay còn được dùng tới.

    Ngoài các đóng góp vào các phạm vi Y Khoa và Hóa Học, các học giả đạo Hồi còn làm tiến bộ ngành Toán Học bằng cách dùng các quan niệm Toán của các xứ Ấn Độ và Hy Lạp, khai triển và tinh lọc những ý thức trừu tượng rồi sau này được truyền qua thế giới tây phương. Các toán gia đạo Hồi đã áp dụng 3 dụng cụ Toán căn bản là “số không” (zero), hệ thống thập phân và hệ thống “số Ả Rập” (Arabic numerals) nhờ đó mọi người có thể tính toán bằng các con số lớn hơn trước một cách tiện lợi hơn, hoặc bằng các chữ dùng làm biến số. Khởi đầu, các nhà toán học Ả Rập đã viết ra số không bằng một vòng tròn nhỏ với tên là “sifr” có nghĩa là “một vật trống” (an empty object). Khi dịch sang tiếng La Tinh, danh từ “sifr” trở nên “zephyrum” rồi sang tiếng Ý là “zero”. Về sau danh từ tiếng Anh “cipher” có nguồn gốc từ chữ “sifr”.

    Các nhà toán học đạo Hồi cũng đã bỏ nhiều thời giờ nghiên cứu các bài toán phức tạp của các người Hy Lạp và Ấn Độ trước kia, kể cả các khung ô vuông con số (magic boxes) với cùng tổng số cộng theo đường ngang, đường dọc và đường chéo. Do áp dụng “số không”, các nhà toán học từ đó có thể sử dụng các quan niệm trừu tượng, diễn tả hiệu số của hai lượng bằng nhau và số không còn được dùng trong nhiều bộ môn khoa học khác như Vật Lý, Hóa Học, Thiên Văn.

    Nhà toán học đạo Hồi danh tiếng nhất vào đầu thế kỷ 9 là ông Khwarizmi, rất bận tâm về môn Đại Số (Algebra), đã viết ra cuốn sách giáo khoa đầu tiên của môn học này, với tên sách là “Nghệ Thuật mang các ẩn số lại với nhau để hợp với một lượng đã biết” (The art of bringing together unknowns to match a known quantity = Hisab al-Jabr wa’l Mulqabala). Sách toán của ông Khwarizmi được dịch sang tiếng La Tinh vào thế kỷ 12, đã mở đường cho môn Đại Số vào châu Âu và cuốn sách này đã được dùng làm sách dạy Toán chính thức cho tới thế kỷ 16.

    Các nhà toán học đạo Hồi còn làm phát triển và truyền qua châu Âu các bộ môn Toán phức tạp, gồm cả môn Hình Học Phẳng (plane geometry), Lượng Giác Phẳng và Lượng Giác Cầu (plane and spherical trigonometry) với các kiến thức căn bản phát xuất từ các nhà toán học Hy Lạp. Nhờ các khảo sát này, các nhà khoa học thời đó đã tính ra khoảng cách của các ngôi sao, tốc độ của một vật rơi tự do, diện tích của một thửa ruộng hay thể tích ngũ cốc chứa trong một vựa lúa.

    Một ngành mà bên trong Toán Học đã giữ một vai trò rất quan trọng, đó là bộ môn Quang Học. Nhà vật lý danh tiếng của bộ môn này tên là Alhazen, người Ba Tư, sinh sống trong thế kỷ 10. Cho tới thời bấy giờ, người ta đều tin rằng con mắt phát ra các tia sáng chiếu tới đồ vật, khiến cho chúng ta nhìn rõ sự vật. Nhưng ông Alhazen đã dùng Hình Học để chứng minh rằng các tia sáng đã từ đồ vật phản chiếu tới con mắt.

    Nhưng có lẽ áp dụng Toán Học quan trọng nhất của các nhà khoa học đạo Hồi là vào môn Thiên Văn. Từ thời còn sinh sống trong sa mạc, người theo đạo Hồi đã đặc biệt quan tâm tới các hành tinh và các ngôi sao bởi vì họ đã theo hướng các thiên thể này mà đi qua sa mạc. Họ đặt tên cho từng thiên thể trên bầu trời và các tên gọi này vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, chẳng hạn như “Algol”, “Betelgeuse” và “Vega”. Sự quan tâm về Thiên Văn thực sự bắt đầu khi vua đạo Hồi Harun al-Rashid ra lệnh dịch tác phẩm thiên văn “Almagest” của nhà thiên văn lừng danh người Hy Lạp Ptolemy.

    Vào năm 830, một đài thiên văn được dựng lên tại thành phố Baghdad do vua Hồi giáo Ma’mun, cùng thời với “Tòa Nhà Hiểu Biết” (The House of Wisdom). Tại đài thiên văn này, các nhà khoa học đạo Hồi đã quan sát bầu trời, kiểm chứng các khám phá của Ptolemy và tìm ra các ngôi sao mới. Họ thường dùng kính trắc vị (astrolabe), một dụng cụ của người Hy Lạp trước kia, trên đó có vòng tròn chia theo độ để tính vị trí của các ngôi sao, chuyển động của các hành tinh và cho biết thời giờ, và họ đạt được các con số khá chính xác. Các nhà thiên văn đạo Hồi đã vẽ ra các bản đồ bầu trời và bản đồ địa dư, nhờ vậy họ tin tưởng rằng trái đất thì tròn, họ cũng tìm ra chu vi và đường kính của trái đất.

    Trong khi các nhà thiên văn lập ra các bản đồ ngôi sao thì các học giả khác cũng viết ra danh sách các con đường, địa điểm các thành phố cùng với khoảng cách. Các báo cáo của các thương nhân đi xa đã mô tả xứ Trung Hoa và xứ Ấn Độ vào năm 851 và các du khách người Hồi đầu tiên tới nước Nga vào năm 921, đã gửi về các bản báo cáo gồm bên trong nhiều kinh nghiệm du lịch. Một trong những du khách này là nhà khoa học Biruni, đã đi tới xứ Ấn Độ vào thế kỷ 11 và đã mô tả nhiều chi tiết.

    Trong các học giả đạo Hồi, nhân vật danh tiếng nhất là nhà Sử học Ibn Khaldun, người đầu tiên cứu xét xã hội một cách khoa học. Ông Khaldun không chỉ sưu tầm mọi biến cố của quá khứ như những sử gia đi trước, mà còn cố gắng tìm ra các định luật hữu lý để cắt nghĩa các cách hành sử của con người và nhờ vậy khiến cho Lịch Sử có được một chiều hướng mới. Trong cuốn lịch sử tổng hợp Muqaddima, Sử gia Khaldun đã trình bày lý thuyết đầu tiên về sự phát triển theo quan điểm sử học căn cứ vào các yếu tố như khí hậu, địa dư và kinh tế cũng như các ảnh hưởng từ luân lý và tinh thần tới vận mệnh của con người.

    Giống như nhiều nhà tư tưởng đạo Hồi, ông Ibn Khaldun đã đi du lịch nhiều nơi, làm bí thư cho nhiều ông hoàng, làm đại sứ tại nhiều triều đình ở Tây Ban Nha và châu Phi, vì vậy ông đã phối hợp tầm hiểu rộng của mình vào các hoạt động chính trị, đã đưa ra các nhận xét sâu sắc do quan sát các xáo trộn chính trị. Khi nhìn thế giới Hồi giáo đi xuống vào thế kỷ 14, học giả Ibn Khaldun đã nêu lên những vấn đề quan trọng khiến cho các xã hội trở nên mạnh lên hay yếu đi. Học giả này đã nói rõ sự suy tàn của xã hội sau 2 hay 3 thế hệ ích kỷ và ham thích xa hoa, và tác phẩm Muqaddima đã hàm chứa các hiểu thấu không những của thời đại tác giả mà còn của các thời đại về sau.

    Nền văn minh và văn hóa của đạo Hồi đã suy tàn do cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ đánh chiếm thành Baghdad vào năm 1258, do các nhân vật Hồi giáo chính thống (orthodox Muslims) trong các thế kỷ về sau đã dùng quyền lực và uy tín để chống lại các cải cách và tiến bộ.
    ALPHA3 thích bài này.
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    NĂM NIỀM TIN CỦA ĐẠO HỒI

    Vào thế kỷ thứ 7, đạo Hồi trở nên một tôn giáo mới, khác với đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa không những do quan niệm về Thượng Đế mà còn về sự kết hợp cả chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội với tôn giáo, khiến cho đạo Hồi có những nét đặc thù, rất thích hợp với xã hội của các xứ Ả Rập.

    Qua nhiều thế kỷ, hình thái chính trị và kinh tế của đạo Hồi đã bị biến đổi nhưng hình thái tôn giáo vẫn được giữ nguyên. Hệ thống các niền tin tôn giáo của đạo Hồi gồm các bổn phận đạo đức và các giá trị luân lý, được đặt căn bản trên 5 niềm tin là: đức tin, các việc cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn và đi hành hương. Đây là các điều bắt buộc đối với người theo đạo Hồi nhờ đó đạo Hồi đã có được một hình thức duy nhất, đã đứng vững và được duy trì lâu dài.

    1/ Niềm tin thứ nhất.

    Niềm tin thứ nhất là lòng tin tưởng tuyệt đối vào Allah và vào Nhà Tiên Tri. Một người được coi là đã theo đạo Hồi khi tuyên bố về đức tin trước một tín đồ Hồi giáo khác, gồm câu xác nhận: “Không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah và Mohammed là Sứ Đồ của Ngài”. Đây là câu xác nhận đức tin ngắn gọn nhất trong lịch sử, lại có vần điệu rất âm nhạc nếu được đọc theo tiếng Ả Rập: “La ilaha illa Allah, Muhammad rasul Allah”. Đức tin vào câu xác nhận này còn bao gồm 3 điều tin tưởng khác: niền tin vào Kinh Koran là Lời của Thượng Đế, niền tin vào các thiên thần như là những nhân vật làm theo ý muốn của Thượng Đế và niềm tin vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng dành cho mọi người. Rồi sau khi đã xác nhận đức tin, người tín đồ không có cách nào xoay trở khác và hình phạt dành cho kẻ bỏ đạo là sự chết.

    Việc xác nhận niềm tin trong đạo Hồi thật là đơn giản, không đòi hỏi phải làm một lễ nghi, dù một phép bí tích như lễ rửa tội, lễ ban thánh thể cũng như theo các khóa học về giáo lý. Đạo Hồi cũng không tổ chức một hệ thống tu sĩ mặc dù vẫn có một đội ngũ lớn lao các học giả gọi là “ulama = các nhà trí thức” (the learned), những vị này là những nhà lãnh đạo trí thức và tinh thần của cộng đồng Hồi giáo, giữ vai trò quan trọng là lập ra và diễn đạt các luật lệ Hồi giáo. Qua nhiều thế kỷ, đạo Hồi vẫn giữ được tính đơn giản, ít ra là về bề ngoài bằng cách không dùng các lễ nghi phức tạp, không ưa sự hào nhoáng phô trương nhưng bên trong lại có rất nhiều vấn đề thần học (theological) phức tạp khiến cho các học giả đã tranh cãi nhau, chẳng hạn như về định mệnh.

    Người theo Hồi giáo lúc đầu chỉ có một giáo điều duy nhất không được phép tranh luận: niềm tin vào Allah duy nhất, vừa siêu việt, vừa vạn năng, là vị sáng tạo ra thế giới và là vị Cha không có ai là Con, không chia xẻ quyền uy với ai và nếu nghĩ khác điều này là sẽ phạm tội “shirk”, tội gán cho Thượng Đế có các người cộng tác khác. Allah như vậy là Đấng Tối Thượng, có mọi quyền năng và con người chỉ có một lòng tuân theo Lời của Ngài (His Word). Kinh Koran cũng xác nhận rằng ông Abraham không phải là người Do Thái, cũng không phải là một người Thiên Chúa giáo, ông ta là một con người thẳng thắn, đã thần phục Allah và những người nào gần Abraham nhất được coi là đi theo Nhà Tiên Tri này.

    Thượng Đế có tính siêu việt nhưng lại ở không xa con người. Kinh Koran đã mô tả “Thượng Đế ở gần con người hơn là mạch máu nơi cổ” và đã có nhiều bài thơ ca ngợi lòng đại lượng, thương xót của Thượng Đế đối với con người và nhiều người đã gọi Allah là Đấng Từ Bi, Đấng Đại Lượng và còn rất nhiều mỹ từ khác. Sau niềm tin vào Thượng Đế, tới niềm tin vào các nhà Tiên Tri và các lời giảng dạy của các vị này. Theo đạo Hồi, trước Mohammed chỉ có 5 nhà Tiên Tri: Adam, Noah, Abraham, Moses và Jesus. Mỗi vị Sứ Đồ này đã từng mang đến cho con người Lời của Thượng Đế nhưng con người đã lẩn tránh các lời giảng dạy đó, vì vậy một vị Tiên Tri mới khác là Mohammed lại được phái xuống thế gian để chỉ dẫn cho con người đi tới sự cứu rỗi. Nhà Tiên Tri Mohammed vì thế có một nhiệm vụ đặc biệt, đây là vị Tiên Tri cuối cùng và các lời nói của Mohammed sẽ dẫn dắt con người tới Ngày Phán Xét sau này.

    Vì Kinh Koran là lời nói của Thượng Đế nên người theo đạo Hồi tin rằng Kinh này không thể sai nhầm được. Việc đọc kinh là một phần trong việc thờ phượng và nhiều người Hồi đã nhớ thuộc lòng quyển Kinh, chứa vào khoảng 78,000 từ (words) và dày như cuốn Kinh Tân Ước.

    Sau khi Mohammed chết vào năm 632, nhiều người bạn của nhà Tiên Tri đã nghĩ tới việc ghi chép lại Kinh Koran vì số người nhớ thuộc lòng đã bị giảm dần vì chết trận, vì sự tản mạn trong cách nhớ thuộc lòng. Người kế tiếp Mohammed để lãnh đạo Hồi Giáo lúc bấy giờ là Abu Bakr, đã ra lệnh thu gom các tài liệu ghi chép về kinh Koran, về sự khải huyền để soạn ra một văn bản duy nhất. Vào thời kỳ đó, chữ Ả Rập còn ở trong hình thức đơn giản, thiếu dấu phát âm và thiếu nguyên âm vì thế đã xẩy ra sự tranh luận về cách đọc một số từ, một số câu kinh. Tuy nhiên, cuốn kinh đã được hiệu đính nhờ sự cương quyết của Uthman, người kế tiếp thứ ba của Mohammed, một trong những người đầu tiên cải sang đạo Hồi và cũng là con rể, đã kết hôn với 2 người con gái của nhà Tiên Tri. Uthman đã lập ra một ủy ban cứu xét để viết ra một bản Thánh Kinh, các văn bản chép khác đều bị đốt bỏ. Chính vì cách làm này mà một số học giả ngày nay tin rằng còn có các phần khác ghi lại các lời nói của nhà Tiên Tri trong khi lại có các phần ghi chép bị nghi ngờ.

    Vì không ai dám quả quyết thứ tự các chương trong Kinh Koran, nên các chương này, hay suras, được xếp đặt theo độ dài. Các chương được gọi tên tùy theo sự kiện xẩy ra hay do một từ đặc biệt có bên trong. Sau chương mở đầu ca ngợi Thượng Đế là “Chúa Tể của Vũ Trụ”, tới chương dài nhất có tên là “con bò cái” (the cow) vì việc tế thần bằng loại bò này, nói tới luật lệ và các điều răn dạy, đề cập tới căn bản của tổ chức và các điều lệ của đời sống Hồi giáo, các nhiệm vụ tôn giáo của người theo đạo, việc ly dị và chiến tranh.

    Việc tin tưởng vào các thiên thần cũng được coi là quan trọng. Đây là các sứ đồ của Thượng Đế, có nhiệm vụ thi hành các công việc như giữ cửa Thiên Đường và Hỏa Ngục, làm trung gian giữa Thượng Đế và con người. Kinh Koran chỉ đề cập tới vài thiên thần như Gabriel và Michael. Gabriel đã truyền các mặc khải cho Mohammed và Michael thực hiện các lệnh của Thượng Đế như làm ra gió và mưa. Ngoài ra còn có thiên thần Israfil thổi tiếng kèn vào Ngày Phán Xét và thiên thần Isra’il hay Thần Chết, lấy đi hơi thở cuối cùng của người hấp hối.

    Một niềm tin tưởng khác liên quan tới ngày phán xét. Chỉ có Thượng Đế mới biết khi nào thế gian này bị chấm dứt và vào ngày đó, một tiếng kèn được thổi lên, các người chết từ các nấm mồ sẽ được xét xử về các hành động của họ lúc còn nơi trần thế. Những người tốt sẽ được trao cho “cuốn sách” ghi chép các hành động của họ, đặt vào tay phải, còn kẻ xấu có cuốn sách đặt vào tay trái. Kinh Koran cũng mô tả các cách hành hạ dành cho kẻ có tội, những người này biết rằng vào lúc này, quyền hành của họ đã hết, tài sản cũng không làm lợi được gì nữa và họ nghe thấy Thượng Đế ra lệnh cho thiên thần: “Bắt lấy hắn và trói hắn lại,/ rồi đốt hắn trong lửa,/ và sợi xích 70 thước buộc người hắn,/ vì hắn đã không tin vào Thượng Đế,/ và không cho kẻ đói khát đó đồ ăn gì cả”.

    Kinh Koran cũng mô tả cảnh cực lạc dành cho người ở trên Thiên Đường. Đây là mảnh vườn Hạnh Phúc nơi đó các kẻ giàu đức tin ngả mình trên ngai có cẩn ngọc, chung quanh lại có các kẻ hầu trẻ đẹp, họ uống thứ nước tinh khiết bằng ly pha lê và ăn thực phẩm được chọn lựa nhất để đền bù cho các hành động tốt của họ. Thiên Đường là nơi cây cối xanh tươi, đặc biệt hấp dẫn so với miền sa mạc khô cằn của xứ Ả Rập trơ trụi.

    2/ Niềm tin thứ hai và thứ ba.

    Niềm tin thứ hai của đạo Hồi là “cầu nguyện”. Đây là bổn phận quan trọng nhất của người theo đạo Hồi và không được miễn trừ cho bất cứ ai, dù thuộc về dòng giống hay đẳng cấp xã hội đặc biệt nào. Nhờ cầu nguyện, tín đồ đã cảm ơn Thượng Đế về lẽ sống của mình và về những gì mình có được. Có hai loại cầu nguyện: “du’a” là cách cầu nguyện riêng bên trong và “salat” là cách cầu nguyện theo nghi thức. “Du’a” là cách một người có thể liên lạc với Thượng Đế, để cầu xin một đặc ân gì, đây là cách cầu nguyện đáng khen ngợi, còn “salat” là hình thức tôn thờ được định rõ cho mọi tín đồ. Một người theo Hồi giáo phải cầu nguyện một ngày 5 lần. Lần cầu nguyện thứ nhất bắt đầu không lâu sau rạng đông, khi tín đồ được người gọi đi lễ (muezzin) đánh thức, thúc giục rằng “cầu nguyện còn hơn giấc ngủ”. Bốn lần cầu nguyện còn lại được thực hiện ngay sau giờ Ngọ, vào buổi sau trưa, ngay sau khi mặt trời lặn và vào ban đêm. Vào các thời điểm này, người gọi đi lễ leo lên một cái tháp cao (minaret) kêu gọi các tin đồ đi cầu nguyện: “Thượng Đế thì tối thượng,/ Tôi xác nhận rằng không có thần thánh nào ngoài Allah,/ Tôi xác nhận rằng Mohammed là Sứ Đồ của Allah,/Hãy đến để cầu nguyện,/ Hãy đến để được giải thoát,/ Thượng Đế thì vĩ đại nhất,/ không có thần thánh nào khác ngoài Allah”.

    Mỗi ngày, tín đồ Hồi giáo phải làm công việc rửa sạch nếu không, các công tác thờ phượng sẽ không có giá trị. Các công việc rửa sạch này làm sạch con người, cũng như các lời cầu nguyện làm sạch linh hồn nhờ đó, con người đi lễ trở nên trong sạch cả về thể xác lẫn tinh thần trước Thượng Đế. Việc rửa sạch phải làm trước lần cầu nguyện đầu tiên. Người đi lễ phải gội đầu, rửa mặt, rửa bàn tay và cánh tay cho tới cùi chỏ, rửa chân và cổ chân. Loại nước lã thường được dùng cho công việc này và khi không có sẵn nước, có thể dùng cát thay thế. Việc rửa sạch cũng phải làm khi tín đồ không theo được buổi lễ một cách đúng đắn, chẳng hạn như ngủ gật hay khi cơ thể và quần áo va chạm với những thứ không trong sạch, chẳng hạn như rượu, máu và nước tiểu, và trong trường hợp này, chỗ tiếp xúc cần được tẩy giặt cho sạch sẽ. Nếu sự dơ bẩn lớn hơn, chẳng hạn như giao hợp, người tín đồ phải rửa sạch tóc và toàn thân.

    Trước khi bắt đầu cầu nguyện, một tín đồ phải bỏ nón, cởi giầy và làm một số động tác ấn định được gọi là “rak’a” trong khi đó miệng đọc nhỏ hay đọc thầm các lời cầu nguyện. Vào các giờ cầu nguyện khác, lại có các “rak’a” khác nhau và một tín đồ có thể làm thêm một số “rak’a” để xin thêm ân sủng của Thượng Đế. Trước khi cầu nguyện, mọi tín đồ phải tĩnh tâm, xác nhận số “rak’a” sẽ làm, nếu không có sự tuyên bố ý định này, các lời cầu nguyện sẽ không có giá trị.

    Khi bắt đầu cầu nguyện, tín đồ phải đứng thẳng người, hai tay dơ quá đầu, lòng bàn tay hướng về phía trước và nói: “Allahu Akbar !” (Allah là Đấng Tối Thượng). Câu này được lặp lại nhiều lần nhưng lần đầu tiên được coi là quan trọng nhất vì câu nói đó đã tách biệt đời sống tầm thường của tín đồ để cho người đó hướng toàn diện về Thượng Đế. Rồi người tín đồ phải sụp lạy, miệng đọc Kinh Koran. Công việc cuối cùng là quay sang trái và phải, mỗi lần đều nói câu “Hòa Bình và Lòng Thương của Thượng Đế tới với bạn” và theo niềm tin thông thường, lúc này hai bên vai đã có hai thiên thần chứng giám cho lòng thành của người tín đồ.

    Việc cầu nguyện có thể thực hiện tại nhiều nơi: ở nhà, tại ngoài trời, nơi làm việc, và Kinh Koran còn khuyến khích cầu nguyện ngay cả trên bãi chiến trường: một toán quân canh gác trong khi toán quân kia cầu nguyện rồi đổi lại. Cầu nguyện có thể làm một mình hay cùng với nhiều người khác. Tín đồ Hồi giáo thường tập họp với nhau vào trưa ngày Thứ Sáu và buổi cầu nguyện tập thể này được hướng dẫn bởi người chủ lễ gọi là “imam”, sau đó là buổi thuyết giảng bởi người “imam” này và người này ca ngợi Thượng Đế, nhà Tiên Tri Mohammed cũng như đề cập tới một số vấn đề công ích.

    Việc cầu nguyện tập thể thường được các tín đồ Hồi giáo thực hiện nơi đền thờ (mosque) có lối xây cất lúc đầu theo cách xếp đặt giống như căn nhà của Nhà Tiên Tri Mohammed với các túp lều của các bà vợ xếp quanh một sân rộng là nơi Nhà Tiên Tri rao giảng. Về phía bắc của sân là các cây gồi, từ nơi này làm ra một mái che ngang, kết bằng lá cây và bùn để che nắng. Đền thờ Hồi giáo vì theo kiểu mẫu đó, nên cũng có một sân rộng ở giữa, có hồ nước để các tín đồ rửa mặt và chân tay, 3 phía là mái che còn phía thứ tư chính là gian thờ. Vì mọi tín đồ phải hưởng về Đền Kaaba ở Mecca nên gian thờ, được gọi là “mihrab”, được quay về hướng đó và được trang hoàng và có một bục giảng dùng cho buổi lễ trưa Thứ Sáu.

    Đền thờ Hồi giáo không chỉ là một nơi thờ phượng mà còn là một nơi giáo dục. Các học giả thường ngồi nơi bóng mát, dựa lưng vào cột và các học sinh vây chung quanh. Đền thờ Hồi giáo El Azhar tại thành phố Cairo, Ai Cập, vừa là một trung tâm tôn giáo, vừa là một trường Đại Học có tầm vóc quan trọng ngang với các đại học của châu Âu. Đền thờ cũng là tòa án, nơi các vị quan tòa nghe kiện cáo và xét xử. Đây còn là nơi dừng chân của các kẻ lữ hành, họ uống nước, rửa mặt và nằm ngủ nơi bóng mát trước khi lên đường trong chuyến viễn du. Ngày nay, mọi ngôi đền thờ Hồi giáo thì độc lập, thanh toán các phí tổn nhờ vào ngân quỹ để lại của người sáng lập nhưng cũng nhờ vào loại tiền cúng tặng của tín đồ. Ngôi đền được điều hành bởi một người quản đốc, phụ tá có các “imam” hay các người chủ lễ, ngoài ra còn có các người giữ cửa, người chuyên môn chở nước, các người phục dịch khác

    Bố thí là niềm tin thứ ba của giáo lý đạo Hồi. Một người Hồi giáo chỉ có thể tẩy sạch tài sản của mình bằng cách cho đi một phần những gì kiếm được. Việc bố thí có hai loại: “sadaga” là việc bố thí tự nguyện và “zakat” là cách bắt buộc. “Zakat” không phải là một loại thuế, mà là một thứ “cho Thượng Đế vay”, được chính quyền thu nhận để dùng vào các nhu cầu xã hội như giúp đỡ các người nghèo, các góa phụ, các trẻ em mồ côi, giúp các kẻ nô lệ mua lấy tự do hay trang bị cho các quân sĩ tình nguyện trong các cuộc thánh chiến. Một tín đồ có thể bố thí theo loại “zakat” bằng hiện vật như tiền bạc, kim khí quý, hoa màu thu hoạch được, súc vật chăn nuôi được tùy theo cách kinh doanh của người có của.

    3/ Niềm tin thứ tư và thứ năm.

    Niềm tin thứ tư là nhịn ăn (fasting). Kinh Koran đã xác nhận: “Hỡi các kẻ có niềm tin, việc nhịn ăn đã được dành cho các người”. Mùa nhịn ăn là tháng Ramadan, một tháng âm lịch xoay vòng qua các năm. Mỗi tín đồ Hồi giáo có bổn phận phải nhịn ăn, ngoại trừ các trẻ thơ, người bệnh và các kẻ đang trên đường đi xa. Họ phải nhịn ăn trong những giờ có ánh sáng mặt trời và duy trì công việc này trong suốt tháng Ramadan.

    Vào tháng Ramadan, trước khi trời sáng, tiếng trống đánh, tiếng gọi cửa, tiếng hô hào trên tháp cao kêu gọi mọi tín đồ dùng bữa ăn cuối cùng, rồi kể từ khi “phân biệt được sợi chỉ màu đen với sợi chỉ màu trắng”, người theo đạo Hồi không được ăn gì nữa, uống gì nữa, dù là một ly nước hay một điếu thuốc lá, và phải kiêng cữ liên hệ ********. Trong các giờ này, các công việc vẫn được tiếp tục làm nhưng với tinh thần từ tốn và giới hạn.

    Mặc dù các giới hạn, các quy luật phải theo, người Hồi giáo rất ưa thích tháng Ramadan vì việc nhịn ăn không phải là cách hành hạ thể xác và Nhà Tiên Tri Mohammed đã không chủ trương khắc kỷ thái quá. Sự nhịn ăn đã được người Hồi giáo coi là một cách giống như cầu nguyện để tới gần Thượng Đế hơn, cách nhắc nhở tín đồ rằng ngoài đồ ăn, thức uống, còn có một thứ gì cao cả hơn, đó là đời sống tinh thần. Do nhịn ăn, người Hồi giáo học được kỷ luật đối với cơ thể của mình, hiểu được nỗi thống khổ của kẻ nghèo khó và do đó mới biết mở rộng tấm lòng nhân đạo. Ngoài ra, Ramadan còn là tháng chuộc tội, chuộc lại tất cả tội lỗi trong suốt một năm.

    Việc nhịn ăn vào ban ngày cũng mang tới niềm vui lớn vào ban tối, khi người đi gọi lễ báo tin hết giờ cấm ẩm thực và sau này, tiếng người được thay bằng tiếng súng đại bác. Lúc này tinh thần hồ hởi tới với mọi người, đặc biệt là trẻ em. Mọi người trong gia đình vào giờ này cùng nhau thưởng thức vài trái trà là, nhấm nháp ly nước giải khát làm từ trái mận khô (dried apricots) với tên gọi là “gamar-al-deen” (mặt trăng của tôn giáo). Sau món khai vị đó, toàn gia quây quần vui hưởng bữa “iftar” (điểm tâm buổi chiều). Sau bữa ăn này, một số người đi ngủ còn các kẻ khác chạy ùa ra chợ, ra đường phố: sinh hoạt mua bán trở nên nhộn nhịp, các trẻ em chạy qua, chạy lại với các ***g đèn trên tay và đôi khi chúng xin tiền người lớn để mua nến (đèn cầy) thắp sáng. Vào lúc này, bên trong các đền thờ Hồi giáo, đèn được thắp sáng trưng, các tín đồ ngồi nghe thuyết giảng về ý nghĩa của tháng linh thiêng này, còn bên ngoài đền thờ là đủ loại giải trí : gánh xiếc với các trò vui, các màn ảo thuật, các nhà thi sĩ đọc thơ, các người kể chuyện cho các đám đông đứng bu chung quanh. Ba ngày cuối cùng của tháng Ramadan là lễ hội lớn. Mọi người mặc quần áo mới, chào nhau, ôm nhau khi gặp mặt. Trong gia đình, các món ăn đặc biệt được dọn ra tùy theo lợi tức của gia chủ và tất cả mọi người cùng nhau ăn mừng sự gần gũi với Thượng Đế.

    Niềm tin thứ năm và cũng là niềm tin cuối cùng, rất quan trọng là việc đi hành hương tới thành phố Mecca. Đây là một phong tục truyền thống của người Ả Rập khi xưa và đã được đạo Hồi sử dụng. Một người Hồi giáo trong suốt cuộc đời phải cố gắng làm sao có được một lần đi tới Thánh Địa là thành phố mà khi trước Nhà Tiên Tri đã được mặc khải. Mặc dù một tín đồ có thể tới Mecca bất cứ vào lúc nào trong năm nhưng nên đi vào tháng “Dhu’l Hijja”, hai tháng sau Ramadan.

    Việc hành hương “Hajj” vào tháng đặc biệt kể trên đã cho các người Hồi giáo một sức mạnh tinh thần. Đây là cơ hội tụ họp về nơi Đất Thánh của họ hàng trăm ngàn người từ những miền xa xôi nhất, họ mặc y phục giống hệt nhau, làm các lễ nghi tôn giáo như nhau, điều này nhắc nhở rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Đây cũng là cơ hội để các tín đồ xa gần trao đổi các ý tưởng khác nhau, giúp vào việc đoàn kết và làm vững mạnh đế quốc tôn giáo. Những người ra đi rồi trở về sau cuộc hành hương cũng làm rộn ràng các làng mạc, các thành phố mà họ sinh sống và do các cảm xúc sâu đậm của cuộc hành hương mà mỗi người đều cố gắng để dành tiền, cố gắng làm ăn vất vả để có tiền tham dự một chuyến hành hương sôi nổi.

    Khi các tín đồ Hồi giáo đã tới ngoại ô thành phố Mecca, họ rửa sạch từ đầu tới chân và kể từ nay là thời gian phải chăm sóc linh hồn hơn thể xác: họ không được cạo râu, cắt móng tay cũng như giao hợp. Các tín đồ thay quần áo thường mặc, người nam quấn bằng hai tấm vải trắng còn người nữ mặc y phục trắng dài, bình dị. Việc thay đổi y phục này có kèm theo các lời cầu nguyện và đọc kinh Talbiya, để nói rõ rằng họ sẵn sàng làm theo lệnh của Thượng Đế. Khi từ ngoài thành phố Mecca tiến vào bên trong, người hành hương tới hôn Tảng Đá Đen rồi đi vòng quanh ngôi đền linh thiêng 7 vòng, miệng đọc kinh ca ngợi Allah. Sau đó họ chạy 7 lần giữa 2 ngọn đồi nhỏ ở gần đó. Đây cũng là một phong tục cổ xưa.

    Lễ nghi quan trọng nhất của cuộc hành hương được cử hành tại Arafa là thung lũng cách Mecca 9 dặm, vào ngày thứ 9 của tháng Dhu’l Hijja. Vào ngày trọng đại này, các tín đồ kẻ đi chân, người cưỡi ngựa hay lạc đà, tụ tập trên một ngọn đồi nhỏ vào một buổi chiều rồi hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn tín đồ cùng nhau cầu nguyện trước Thượng Đế và lắng nghe lời thuyết giảng của các vị chức sắc. Đây là quãng thời gian đã gây được niềm tin sâu sắc, đã tác dụng đến nội tâm của mọi tín đồ Hồi giáo.

    Sau khi mặt trời lặn, đoàn hành hương trở về hướng thành phố Mecca, nghỉ đêm tại Muzdalifa, một ngôi làng nhỏ không xa Arafa và vào ngày hôm sau, họ đi tới Mina ở giữa đường Medina và Arafa, tại nơi này họ ném đá vào các cột trụ tượng trưng cho ma quỷ và các cám dỗ. Cao điểm của cuộc hành hương Hajj lại được đánh dấu bằng việc cắt tiết cừu, dê và lạc đà. Các người sợ máu nhờ các đồ tể khác làm giúp. Họ ăn thịt các con vật đã được tế thần, phần thịt dư được chia cho các kẻ nghèo. Lễ giết súc vật để cúng tế này được làm vào ngày thứ 10 của tháng Dhu’l Hijja và được coi là một “lễ hội lớn” trong thế giới Hồi giáo. Sau đó các tín đồ trao đổi quà tặng và mặc quần áo mới sau khi đã cắt tóc, cạo râu. Nghi lễ cuối cùng là việc các tín đồ trở lại thành phố Mecca, đi 7 vòng chung quanh ngôi đền Kaaba và chạy nhiều lần giữa hai ngọn đồi nhỏ ở gần đó để kết thúc cuộc hành hương. Các tín đồ đã thực hiện cuộc hành trình nghi lễ này được mang tước hiệu “Hadji”, một danh dự dành cho những người tin tưởng vào Allah và cũng là một ân phước dùng vào Ngày Phán Xét sau này.
    4/ Đạo Hồi và Xã Hội Ả Rập.

    Trong nền văn minh Tây Phương, luật lệ và tôn giáo được tách biệt thì nơi đạo Hồi, hai phạm vi kể trên đã lẫn vào nhau, chi phối hành động của con người không những đối với nhau mà còn đối với Thượng Đế.

    Đạo Hồi khởi đầu từ căn cứ vào xã hội của người du mục, của người Ả Rập, là một tôn giáo nhất thần (monotheistic) giống như đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, nhưng nhà Tiên Tri Mohammed lại cho rằng người Do Thái đã làm sai đi lời của Thượng Đế trong thánh kinh của họ, trong khi Thượng Đế hay Allah chỉ có một, duy nhất và để sửa chữa các khuyết điểm, Thượng Đế đã chỉ dẫn người Ả Rập qua Sứ Đồ là nhà Tiên Tri Mohammed.

    Đạo Hồi không chủ trương sự tách biệt giữa tôn giáo và chính quyền vì tại một xã hội cần phải chiến đấu để sống còn, chiến đấu chống các kẻ thù bên ngoài và sự phân hóa bên trong, vì thế các nghi thức cầu nguyện tập thể đã mang hình thái kỷ luật của quân đội và Kinh Koran đã bao gồm cả luật về tôn giáo lẫn luật dân sự, đã xác định về các cách quản trị xã hội, về các quyền lợi như quyền tư hữu, thừa kế, giá thú, ly dị, việc trừng phạt kẻ cắp và kẻ ngoại tình, việc đối xử với kẻ nô lệ và trẻ mồ côi, các điều lệ về thương mại, luật lệ về ăn uống, giải trí và hối lộ. Ngoài các luật thành văn (written law) còn có các luật tập tục (customary law) thay đổi tùy theo địa phương nên thường đi lệch khỏi các lời giảng dạy của nhà Tiên Tri.

    Đạo Hồi đã không có một giới tu sĩ nhưng lại làm phát triển những nhà luật học và học giả về các luật lệ xác định trong Kinh Koran để xét xử các vấn đề xã hội. Hai giới này cho tới ngày nay vẫn giữ vai trò chỉ đạo.

    Năm niềm tin của đạo Hồi gồm lòng tin tưởng, các bổn phận cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn và đi hành hương, là các phần của một hệ thống giáo luật phức tạp, với tên gọi là “Shiri ‘a” hay con đường rõ ràng phải đi theo. “Shiri ‘a” có 4 nguồn gốc: Kinh Koran, các tập tục đã có từ trước, các chấp thuận của nhiều học giả Hồi giáo và Sách Ha***h ghi lại những gì nhà Tiên Tri Mohammed đã làm và đã nói.

    Vì các hành sử của một tín đồ phần lớn được căn cứ vào “Sách Ha***h” nên đã có kẻ đặt ra các lời nói ngụy tạo của Mohammed và người ta còn kể lại rằng ba thế kỷ sau khi Mohammed qua đời, đã có 600 ngàn câu nói của nhà Tiên Tri được lưu truyền, khiến cho không biết câu nào là thật, là giả. Vì vậy một số học giả Hồi giáo đã phải thu thập, xem xét và ấn định độ chính xác, trong khi chính cuốn “Sách Ha***h” cũng được viết ra căn cứ vào lời kể lại của những người thân cận với nhà Tiên Tri.

    Các hành sử của tín đồ Hồi giáo còn được xếp vào một trong 5 loại: loại bắt buộc như đọc kinh và bố thí zakat, loại được ca ngợi (commended acts) như bố thí cho kẻ ăn xin, trả tự do cho kẻ nô lệ, loại vô thưởng vô phạt như làm một chuyến du lịch, loại không được chấp nhận (disapproved acts) như ăn hành, tỏi khiến cho hôi miệng và cuối cùng là loại bị cấm đoán, chẳng hạn như tội giết người. Ngoài ra luân lý căn bản của đạo Hồi, chẳng hạn như sự đòi hỏi các tín đồ phải trong sạch, kiên nhẫn và tử tế đối với các người cần cứu giúp, thì cũng giống như những điều răn dạy trong Thánh Kinh Thiên Chúa Giáo, và đặc biệt là Kinh Cựu Ước (Old Testament).

    Về một số phạm vi khác, đạo Hồi và đạo Thiên Chúa lại khác nhau, nhất là về phương diện chiến tranh. Trong khi đạo Thiên Chúa chủ trương tha thứ cho những kẻ trước kia đã đàn áp mình hay các kẻ chiến bại, thì nhà Tiên Tri Mohammed lại thúc giục các tín đồ phải chiến đấu cho Hồi giáo và “jihad” (cuộc thánh chiến = holy war) đã gần có cơ hội trở nên niềm tin thứ sáu.

    Về thực phẩm, đạo Hồi theo các chính sách giống như đạo Do Thái và Kinh Koran đã cấm ăn thịt heo, máu và thịt của các con vật bị tự nhiên mà chết, bị đánh tới chết, bị đâm bằng sừng, bị rớt xuống chết hay bị các thú vật khác đã ăn một phần, trong khi đó tín đồ Hồi giáo được phép ăn cá, ăn loại thịt do săn bằng chó săn hay thịt của một số con vật được chấp nhận như cừu, dê và lạc đà. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, tín đồ được ăn mọi thứ để duy trì đời sống.

    Đạo Hồi đối với rượu rất nghiêm ngặt, hơn tất cả các tôn giáo khác. Kinh Koran cấm hẳn kẻ đang say sưa mà đi cầu nguyện và việc uống rượu Khamr bị coi như vi phạm luật tôn giáo. Dù thế, giới quý tộc Hồi giáo và các thi sĩ vẫn phạm luật do uống nhiều rượu chát.

    Sự khác biệt của đạo Hồi so với các đạo giáo khác còn ở cách đối xử với phụ nữ. Kinh Koran đã dạy rằng “người nam phải bảo vệ người nữ” và trong nhiều trường hợp, đạo Hồi đã cải thiện tình trạng của phụ nữ hơn các thời đại trước. Tại xứ Ả Rập vào các thế kỷ trước kia, người đàn ông có thể lấy bao nhiêu vợ tùy ý, đối xử tốt xấu ra sao tùy ý và có thể ly dị vợ theo ý muốn mà không cần phải cho biết lý do, bằng cách nói hai lần câu “mày bị đuổi” (thou art dismissed) nhưng sau đó, người đàn ông sẽ không có quyền cưới lại người vợ này vì đã nóng giận, và người đàn bà tuy không có quyền đứng xin ly dị, nhưng trong một số điều kiện, có thể được tự do, do từ chối một số tài sản mà người chồng dành cho mình. Đạo Hồi khi ra đời, đã không cấm đoán hẳn được sự đa thê nhưng đã giới hạn người đàn ông không có quyền lấy hơn 4 vợ, lại phải đối xử tử tế và bình đẳng với người vợ của mình. Trong đám cưới, tiền của do nhà trai đưa lại sẽ thuộc quyền của cha mẹ cô gái hay người giám hộ và tài sản này sẽ không bị hoàn trả nếu có ly dị. Việc gian dâm cũng bị giáo luật lên án nặng nề và Kinh Koran đã xác định hình phạt như sau: “với kẻ gian dâm nam và nữ, hãy đánh chúng bằng một trăm roi”.

    Đạo Hồi đã cung cấp cho các tín đồ một lối sống bao gồm cả tinh thần lẫn xã hội, chính trị và kinh tế, khiến cho họ sống hòa hợp với nhau và cũng cung cấp cho họ một sức mạnh mà thế lực và ảnh hưởng đã làm biến đổi thế giới trong nhiều thế kỷ.

    Kể từ Kỷ Nguyên Hồi Giáo hay Hegira, đã có 72 giáo phái đạo Hồi, nhưng hai giáo phái lâu đời nhất và quan trọng nhất là Shi ‘ites và Sunnites. Tín đồ theo giáo phái Shi ‘ites tin tưởng rằng người kế tục Mohammed là Ali, con rể của nhà Tiên Tri, còn giáo phái Sunnites lại chủ trương chính thống (orthodox). Ngoài ra còn có một số giáo phái tuy chỉ xuất hiện cách nay gần một thế kỷ nhưng cũng rất quan trọng và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong thế giới Hồi giáo, là giáo phái Wahabites. Đây là một loại “tin lành” của đạo Hồi, muốn phục hưng đạo Hồi để trở về sự thuần chất nguyên thủy. Người Ba Tư thuộc giáo phái Shi ‘ites, người Thổ Nhĩ Kỳ và Ả Rập thuộc Sunnites còn thuộc về Wahabites là cư dân của miền Nejd, miền trung tâm Arabia. Tuy chia rẽ thành các giáo phái song các người Hồi rất dung thứ cho nhau và họ cũng đã không dùng tới “pháp đình tôn giáo” (Inquisition), đã không dùng “lưỡi kiếm và lửa hỏa thiêu” để ép buộc các người khác giáo phái phải theo chủ thuyết của mình.

    Các lời răn dạy trong Kinh Koran thì cũng tốt lành như của các Thánh Thư khác, gồm: lòng bác ái, tính hiếu khách, các hành động lương thiện, sự tiết chế dục vọng, việc giữ lời hứa, sự kính trọng cha mẹ, việc bảo vệ trẻ em và những người góa bụa, tình thương yêu người hàng xóm và lời khuyên răn kẻ gian tà quay về con đường ngay thẳng. Luân lý của Kinh Koran như vậy cũng giống như luân lý trong Sách Phúc Âm (The Gospel).

    Việc chuyển đổi những niềm tin căn bản thành một nền văn minh chính thức, đầy đủ của Hồi giáo là do công lao của nhiều thế hệ các học giả, các nhà thần học, các nhà luật học (jurists). Chính nhờ đạo Hồi mà các xứ Ả Rập đã đoàn kết lại và phát triển.

    Phạm Văn Tuấn
    ALPHA3 thích bài này.
  6. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    [​IMG]

    TỆ NẠN PHÂN HOÁ TRONG NỘI BỘ HỒI GIÁO

    Tình trạng phân hóa của đạo Hồi đã xảy ra rất sớm vì nó đã diễn ra chỉ vài chục năm sau khi giáo chủ Muhammad qua đời. Hậu quả của sự phân hóa này đã làm thiệt mạng nhiều chục triệu tín đồ Hồi Giáo trong 14 thế kỷ qua và hiện nay vẫn còn tiếp tục.

    Sự phân hóa của đạo Hồi là sự phân hóa đẫm máu nhất và lâu dài nhất trong lịch sử các tôn giáo trên thế giới.

    Có 3 nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa thảm khốc:

    1. Khi sắp qua đời, Muhammad đã không tiên liệu việc chỉ định người kế vị để cai trị cộng đồng Hồi Giáo của ông.

    2. Đối với các tín đồ cuồng tín thì kinh Koran là cuốn sách toàn hảo về mọi phương diện. Trong thực tế, Koran là cuốn sách rất mơ hồ về giáo lý và rất nhiều thiếu sót về luật pháp. Do đó người ta đã phải bổ túc bằng những cuộc điều tra để thu thập các bản báo cáo về hành vi và lời nói của Muhammad. Các báo cáo này được đúc kết lại thành sách Ha***hs (Collections of Reports). Các Ha***hs được tập trung lại đúc kết thành Sách Sunna để làm sách gối đầu giường cho mọi hành động của tín đồ Hồi Giáo (Ways of Acting). Tất cả các sách nói trên được các nhà làm luật Hồi Giáo tham khảo để soạn ra luật Hồi Giáo gọi là Sharia (Holy Islamic Law). Kinh Koran mơ hồ thiếu sót đã đưa đến những lý luận giải thích khác nhau, từ đó phát sinh những phe phái khác nhau trong đạo Hồi. Các sách Ha***hs, Sunna và Sharia cũng không được tất cả công nhận. Có những sách được phe này công nhận lại bị phe khác phủ nhận và kết án là tà đạo...

    Hồi Giáo không có Tòa Thánh tối cao có quyền cai trị toàn thế giới Hồi Giáo. Sự tự do giải thích kinh Koran và các sách Ha***hs, Sunna, Sharia... đã đưa đến tình trạng phân hóa thành rất nhiều giáo phái trong đạo Hồi.

    3. Nguyên nhân tiếp theo là sự bành trướng quá rộng của các đế quốc Hồi Giáo khiến cho giáo lý của đạo Hồi bị pha trộn với các nền văn hóa khác. Điển hình là các giáo phái Sufis và Bahai đã hình thành do chịu ảnh hưởng của các dòng khổ tu của Công Giáo La Mã, một phần khác do ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp và giáo lý của nhiều tôn giáo khác.

    I. Sự phân hóa nghiêm trọng nhất trong lịch sử Hồi Giáo do vấn đề thừa kế Muhammad.

    Ba mươi năm sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi Giáo non trẻ đã bị chia thành hai phe thù nghịch nhau chỉ vì bất đồng ý kiến trong vấn đề kế thừa quyền lãnh đạo của giáo chủ Muhammad về thế quyền và về tinh thần:

    Phe SUNNI, tiếng Ả Rập có nghĩa là phe Đa Số (Majority) chủ trương: những người kế vị Muhammad (Caliphs) không nhất thiết phải là người thuộc dòng dõi của ngài vì Muhammad không qui định điều này, ngài không có con trai và chỉ có một con gái duy nhất còn sống sót là Fatima, vợ của Ali mà thôi. Vào thời điểm đó, Hồi Giáo đã trở thành một đế quốc khá lớn nên không thể tìm người lãnh đạo thuộc dòng dõi của Muhammad để cai trị nhiều quốc gia trong đế quốc được.

    Phe SHI'A (hoặc Shiites) có nghĩa là những người theo Ali (con rễ của Muhammad) chủ trương: Người thừa kế Muhammad thẩm quyền cai trị về thế quyền, tiếng Ả Rập gọi là CALIPH (or Khaliph: a male leader of Islamic government) phải là con cháu của Ali và Fatima. Người thừa kế Muhammad thẩm quyền lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo về mặt tinh thần, tiếng Ả Rập gọi là IMAM (the religious leader of the Muslim community) phải là một vị thánh (a holy man) thuộc dòng dõi Ali-Fatima vì theo họ, Ali là vị Imam đầu tiên của Hồi Giáo do Muhammad chỉ định. Giáo phái Shiite tin rằng: Ali và những người thừa kế được Thiên Chúa ban ơn soi sáng đặc biệt để cai trị cộng đồng Hồi Giáo nên không thể sai lầm (infallible). Imam không chỉ cai trị thế giới Hồi Giáo mà sau này toàn nhân loại sẽ phải tùng phục ngài. Xin ghi thêm ở đây là trong ngôn ngữ Việt Nam không có danh từ tương đương với chữ Imam. Tuy nhiên, theo cách hiểu của giáo phái Shi'a về Imam thì chức vị này tương tự như chức vị "Giáo Hoàng" của Công Giáo La Mã vậy. Người Công Giáo coi giáo hoàng là một vị cha chung và cũng là một vị Thánh (Saint Pape) và về phương diện lãnh đạo tinh thần của toàn giáo hội thì giáo hoàng không thể sai lầm (Doctrine of Infallibility).

    Qua 14 thế kỷ phát triển, ngày nay đạo Hồi chiếm 1/5 tổng số nhân loại, tức khoảng 1 tỷ 200 triệu tín đồ. Phe Sunni chiếm 80%, tức 960 triệu tín đồ.

    Phe Sunni cũng không còn là một khối đa số thuần nhất vì nó đã bị chia thành 4 trường phái lớn (Schools):

    1. Malikite: Thành lập vào giữa thế kỷ 8 tại Bắc Phi.

    2. Shafi (Pháp ngữ gọi là Chafeite): Thịnh hành tại Ai Cập, Syria, Ấn Độ và Việt Nam (người Chàm).

    3. Hanbalite: Đạo Hồi của đế quốc Ottoman, thịnh hành tại Thổ Nhĩ Kỳ.

    4. Hanbali: Đạo Hồi của xứ Saudi Arabia.


    Phe thiểu số Shiah chiếm 15%, tức khoảng 180 triệu tín đồ, cũng bị chia thành 3 giáo phái hết sức bảo thủ, cực đoan và thường tranh chấp lẫn nhau:

    1. Giáo phái Twelvers nắm ưu thế chính trị tại Iran, chủ động trong cuộc Cách Mạng Hồi Giáo 1979 lật đổ hoàng đế Palavi. Giáo chủ của Twelvers là Aytollah Khomenei lên nắm chính quyền. Cuộc Cách Mạng này bị toàn thế giới Hồi Giáo tẩy chay vì nhóm lãnh đạo Twelvers rất cuồng tín độc tài và tàn bạo.

    2. Giáo phái Druge xuất hiện và thịnh hành tại Li Băng và Syria từ thế kỷ 11 đến 19. Ngày nay giáo phái này bị suy tàn chỉ còn trên 1 triệu tín đồ.

    3. Giáo phái Assassin được thành lập năm 1090 tại Ba Tư gồm toàn những người liều mạng để ám sát tiêu diệt những kẻ thù của Hồi Giáo. Giáo phái này chia thành hai nhóm: Nhóm thám báo truy tầm, điều tra, đánh dấu nhà của các kẻ thù. Sau đó nhóm khủng bố sẽ tìm đến để thanh toán. Giáo phái Assassin gieo kinh hoàng khắp nơi trong suốt hai thế kỷ 11 và 12, đến nỗi khắp Âu Châu, người ta loan truyền rất nhiều chuyện kinh dị về giáo phái này. Về sau, danh từ "ASSASSIN" trở thành một danh từ mới của Âu Châu có nghĩa là "KẺ MƯU SÁT". Năm 1256, quân Mông Cổ tàn phá bình địa đại bản doanh của Assassin tại Baghdad và sau đó tận diệt giáo phái này.

    Như trên đã trình bày, sự phân hóa đầu tiên và nghiêm trọng nhất là sự kiện đạo Hồi bị chia ra hai phe Sunni và Shiah do bất đồng ý kiến về quyền thừa kế Muhammad. Lúc ban đầu không ai có thể tiên đoán được hậu quả tàn khốc của nó vì không ai có thể ngờ cái nguyên nhân nhỏ nhặt đó lại có thể gây ra những vụ chém giết triền miên trong suốt 14 thế kỷ làm thiệt mạng nhiều chục triệu người!

    Sau đây chỉ là một số vụ tranh chấp điển hình giữa phe Sunni và Shiah trong bối cảnh các đế quốc Hồi Giáo mà thôi. (Trong lịch sử 14 thế kỷ của Hồi Giáo đã xảy ra rất nhiều cuộc xung đột đẫm máu giữa hai phe Sunni và Shiah khiến chúng ta khó có thể kể ra hết được):

    - Năm 1400, hoàng đế Timur của đế quốc Hồi Giáo Sunni đánh chiếm hai nước Iran và Iraq đã ra lệnh giết hại trên 1 triệu tín đồ Shiites tại hai nước này.

    - Năm 1467, đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman theo Sunni đánh chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và Arabia. Đế quốc Ottoman cai trị các nước này từ đó đến 1520 (53 năm). Vì bị những người Shiites thường nổi lên chống phá nên đế quốc Ottoman đã thẳng tay tiêu diệt nhiều triệu tín đồ Shiites tại các nước này.

    - Đế quốc Hồi Giáo Safavid theo phái Shiites tồn tại 270 năm (1501-1771), mỗi khi đế quốc Safavid đánh chiếm và cai trị nước nào thì toàn bộ các học sĩ Hồi Giáo Sunni (clerics) đều bị chặt đầu và hàng triệu tín đồ Sunni bị sát hại.

    Ngoài các vụ tranh chấp lớn giữa các đế quốc Hồi Giáo Sunni và đế quốc Hồi Giáo Shiah, còn có rất nhiều các vụ tranh chấp nhỏ giữa hai phe trong phạm vi biên giới của mỗi quốc gia Hồi Giáo. Các vụ tranh chấp này cũng không kém phần thảm khốc và làm tổn hại rất nhiều sinh mạng. Điển hình là trường hợp của Iraq.

    Theo báo Houston Chronicle ngày Chủ nhật 18-5-03 (trang 23 A) thì vào thế kỷ đầu Công Nguyên, hai nước Syria và Iraq sát nhập làm một dưới cái tên là Assyria. Ngôn ngữ chung là Aramaic tức tiếng mẹ đẻ của Jesus và của dân Do Thái thời đó. Từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7, Assyria là một nước Ki Tô Giáo (A Christian Nation), nhưng từ thế kỷ 7 trở đi, Assyria thành hai nước Hồi Giáo. Iraq hiện nay có 60% theo Shiites, 30% theo Sunni. Phe cầm quyền Saddam Hussein thuộc giáo phái Sunni nắm quyền sinh sát của một quốc gia có 25 triệu dân từ 1979 đến 2003. Ki Tô Giáo (gồm Công Giáo La Mã và Chính Thống Giáo Hy Lạp ) gồm có 1 triệu tín đồ, chiếm 4% dân số cả nước.

    Chế độ Saddam Hussein rất khoan dung đối với Ki Tô Giáo nhưng trong vòng 10 năm từ 1979-1989, chế độ Sunni của Saddam đã sát hại nhiều trăm ngàn tín đồ Shiites tại đất nước này!

    II . Sự phân hóa về giáo lý.-
    Do sự bành trướng của các đế quốc Hồi Giáo tới các vùng khác nhau đã tạo cơ hội cho người Hồi Giáo tiếp xúc với các nền văn hóa khác. Dần dần giáo lý Hồi Giáo bị biến chất và một số giáo phái mới của Hồi Giáo đã xuất hiện. Đáng kể nhất là hai giáo phái Sufism và Bahai.

    1. Giáo phái SUFISM. Vào đầu thế kỷ 8, đạo Hồi đã phát triển ra khắp Bắc Phi, Cận Đông và Trung Á. Nền kinh tế phát triển cho toàn vùng trở nên giàu có. Các vua Hồi thu thuế rất nhiều đã dồn tiền vào việc xây cất các cung điện nguy nga đồ sộ và các harems của họ đầy ắp các cô gái đẹp. Đời sống của các vua quan Hồi Giáo chìm ngập trong các cuộc vui chơi xa hoa trụy lạc. Nhiều tín đồ Hồi Giáo chân chính tự hỏi: "Những lời dạy trong kinh Koran có còn giá trị gì không?". Dần dần họ tạo thành một phong trào cổ võ đời sống đơn giản, mặc quần áo thô sơ, thái độ hòa nhã khiêm tốn và ẩn dật. Họ kêu gọi mọi người thực hiện lối sống khổ hạnh, đạo đức và dành nhiều thì giờ cho sự cầu nguyện. Người nổi tiếng nhất trong cuộc vận động này là triết gia Hồi Giáo Hasan. Ông đi thuyết giảng khắp nơi trong nhiều chục năm thuộc tiền bán thế kỷ 8 và đã tạo nên những ảnh hưởng lớn trong quần chúng.

    Trong lúc đó, tại khắp miền Trung Đông có nhiều tu viện của các dòng khổ tu Công Giáo. Người Hồi Giáo tiếp xúc với các thầy tu khổ hạnh này nhận thấy họ là những người có lòng đạo đức thật sự và họ luôn luôn mặc áo vải thô, tiếng Ả Rập gọi là "Sufi". Đến đầu thế kỷ 9, nhiều người Hồi Giáo Sunni và Shiite thích lối sống khổ hạnh đạo đức của các thầy dòng khổ tu Công Giáo đã lập ra giáo phái Sufism (do chữ sufi là chiếc áo vải thô của tu sĩ khổ tu mà ra).

    Giáo phái Sufism có sức lôi cuốn mạnh mẽ trong giới trí thức Hồi Giáo. Vào đầu thế kỷ 10, khắp miền Trung Đông có nhiều "Trung tâm Sufis" được thành lập, mỗi trung tâm được tổ chức như một nhà dòng của tu sĩ khổ tu Công Giáo, đứng đầu là một ông thầy (Master) thông thái hướng dẫn về đời sống tinh thần và đạo đức của mọi tín đồ.

    Từ thế kỷ 12, giáo phái Sufism mở rộng ra toàn Bắc Phi và Tiểu Á. Bên cạnh mỗi "Trung Tâm Sufis" còn có trường học, đền thờ và khách sạn để phục vụ khách thập phương đến học đạo. Một trung tâm Sufis tiêu biểu mang tên Abd-Al-Quadir được xây cất năm 1166 tại Baghdad đến nay vẫn còn tồn tại.

    Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, giáo phái Sufism lan tràn khắp nơi trên thế giới. Điều đáng chú ý là các giáo sĩ Sufis đã đóng vai trò chính yếu trong việc đem đạoHồi vào Indonesia và Malaysia. Họ không chinh phục tân tòng bằng bạo lực mà " mở rộng nước Chúa" bằng gương đạo đức thật sự với những chiếc áo vải thô, với cuộc sống đơn giản khổ hạnh và với tấm lòng cởi mở khoan dung. Chính nhờ đó mà các tín đồ Hồi Giáo Nam Dương - Mã Lai thường có thái độ sống khoan hòa chứ không cuồng tín hiếu chiến hiếu sát như những đồng đạo của họ ở Trung Đông hay Afganistan...

    2. Giáo phái BAHAI (Bahaism, Babism).- Giáo phái Bahai đã tách ra từ Shiah, được thành lập bởi giáo chủ Balla Ullah sinh năm 1817 tại Iran. Giáo phái này phủ nhận Jesus là Chúa Cứu Thế (Christ) và phủ nhận Muhammad là sứ giả cuối cùng của Thiên Chúa. Chính vì điều này mà giáo phái Bahai đã bị cả hai đạo Ki Tô Giáo và Hồi Giáo thù ghét. Tuy vậy, giáo lý Bahai đã được truyền bá ra khắp nơi trên thế giới. Trụ sở chính yếu của giáo phái này đặt tại Haifa (Do Thái).

    Vào năm 1954, một tín đồ Bahai gốc Ấn Độ đã sang Việt Nam truyền đạo và thiết lập trụ sở Bahai đầu tiên tại Saigon vào năm 1955. Đến 1962, giáo phái Bahai có tới 40 trụ sở trên khắp miền Nam Việt Nam (theo sách Nếp Cũ Tín Ngưỡng Việt Nam của Toan Ánh, trang 109).

    Giáo phái Bahai có chủ trương tương tự như đạo Cao Đài hoặc Thông Thiên Học, đó là tham vọng hòa đồng các tôn giáo. Họ cố gắng tổng hợp giáo lý của các tôn giáo đã có từ trước với hy vọng sẽ thống nhất niềm tin của nhân loại trong hòa bình. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của giáo phái Bahai là họ cổ động mọi người chuẩn đón mừng một Chúa Cứu Thế (đấng Ki Tô) sẽ xuất hiện để thiết lập "Nước Chúa Trên Trái Đất" (A Kingdom of God on earth). BAHAI là chữ tắt của chữ Ả Rập BAHA'U IL có nghĩa là "Vinh Danh Chúa". (Viết theo Islam, by Ceasar Farah, Sixth e***ion, Barrons Pub., page 252).

    Charlie Nguyễn
    ALPHA3 thích bài này.
  7. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    Hồi giáo tại Trung Đông

    Về phương diện địa lý, Trung Đông còn được gọi là Cận Đông (Near East/Middle East) bao gồm một giải đất chạy dài từ phần Á Châu của Thổ Nhĩ Kỳ đến các nước Bắc Phi và Ai Cập.

    Về chủng tộc, Trung Đông gồm có những giống dân Do Thái, Ả Rập, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Kurds, Armenians và Berbers.ers.

    Về tôn giáo, Hồi Giáo chiếm 90% dân số Trung Đông, tức khoảng 300 triệu tín đồ hoặc 1/4 tổng số tín đồ Hồi Giáo trên toàn thế giới. Số còn lại là tín đồ Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo.

    Từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, nhiều nước Trung Đông bị Anh và Pháp cai trị bóc lột. Hoa Kỳ không có một thuôc địa nào tại Trung Đông nhưng đã có mặt tại Saudi Arabia từ đầu thế kỷ 20 để khai thác dầu lửa. Thiên nhiên đã đem đến cho Saudi Arabia một món quà tặng khổng lồ, đó là trữ lượng dầu mỏ lớn bằng 1/4 trữ lượng dầu của toàn thế giới.

    Sự có mặt của Hoa Kỳ tại Saudi Arabia không phải là quân đội mà là các công ty khoan dầu trên căn bản hợp tác hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, người Hồi Giáo Ả Rập đã nhìn người Mỹ qua lăng kính khắt khe của Hồi Giáo. Lối sống tự do phóng túng của người Mỹ đã làm cho những người Hồi Giáo bảo thủ khó chịu vì nó đi ngược lại với lối sống khép kín của xã hội đạo Hồi. Không cần phải làm điều gì xâm hại đến xã hội Hồi Giáo, chỉ riêng sự có mặt của những tư nhân Mỹ tại Saudi Arabia cũng đủ là “Sự gieo rắc chất độc văn hóa Tây Phương” (Westoxification) có tác dụng phá hoại nền tảng luân lý xã hội và gia đình Hồi Giáo.

    Xét về phương diện địa thế, Trung Đông được chia ra làm 3 khu vực rõ rệt:

    1. Khu vực Bắc Phi: Các nước ở phía bắc của Châu Phi Da Đen (Black Africa) gồm có Maroc, Tunisia, Algeria, Lybia và Ai Cập. Đại đa số các dân tộc sống ở vùng này đều là những người da trắng gốc Địa Trung Hải.

    2. Khu vực Cao Nguyên: Các nước ở vùng này được gọi chung là “Các nước ở vùng cao” (Levantine Countries) gồm có Syria, Palestine, Israel, Jordan và Iraq.

    3. Các nước Vùng Vịnh (Gulf Countries) là các nước ở sát Vịnh Ba Tư, gồm có Ba Tư (Iran) Kuweit, Quatar, Saudi Arabia, Yemen, Oman, United Arab Emerald và Baharain.

    Về phương diện văn minh và văn hóa, toàn vùng Trung Đông đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 13. Lịch sử thế giới đã gọi những thế kỷ này là Thời Đại Hoàng Kim (The Golden Age) của những người Hồi Giáo Trung Đông. Vào thời đó, những người Ả Rập rất ham chuộng nền văn hóa Hy Lạp và chú trọng đến việc nghiên cứu toán học, thiên văn và khoa học thực nghiệm. Họ đã thực hành lời dạy của Muhammad trong kinh Koran:

    “Ai bỏ nhà đi tìm sự hiểu biết là đi đúng con đường của Chúa. Lạy Chúa! Xin ngài hãy ban thêm sự hiểu biết cho con”.

    (He Who leaves the home in search of Knowledge is walking in the Way of God. Oh my Lord! increase me knowledge – Koran 20: 114)

    Đầu thế kỷ 8, Baghdad thủ đô Iraq xây dựng trường Đại Học đầu tiên trên thế giới. Họ gọi là “Căn nhà của sự khôn ngoan” (House of Wisdom). Baghdad trở thành một trung tâm văn hóa lớn nhất thế giới.

    Năm 800, các tác phẩm của Aristote và Plato đều đã được dịch sang tiếng Arabic và được phổ biến trong toàn vùng Trung Đông.

    Đến giữa thế kỷ 9, các sách y khoa của Hy Lạp được dịch sang tiếng Arabic. Cuối thế kỷ 9, rất nhiều sách dịch về khoa thiên văn và địa lý được phổ biến tại Trung Đông.

    Do các kiến thức học hỏi được từ Hy Lạp, người Ả Rập Hồi Giáo đã phát minh ra máy Astrolable dùng để đo độ cao của các thiên thể. Họ biến chế máy Astrolable thành một thứ địa bàn để các tín đồ Hồi Giáo dù ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng tìm được hướng Mecca để quay mặt về thánh địa khi cầu nguyện. Tại thánh địa Mecca có đền thờ Káaba, tiếng Ả Rập có nghĩa là “Nhà Của Chúa” (House of God). Người Ả Rập tin rằng ngôi nhà của Chúa đã được xây dựng lần đầu tiên bởi tổ phụ Abraham.

    Năm 1166, nhà địa dư học Ả Rập Al-Idrisi là người đầu tiên trên thế giới vẽ bản đồ trái đất hình cầu rất chính xác. Cũng trong khoảng thời gian này, người Ả Rập chế ra đồng hồ quả lắc để coi giờ.

    Trường Đại Học lâu đời nhất và hoạt động liên tục trên 10 thế kỷ là Đại Học Al-Azhar ở thủ đô Cairo của Ai Cập (thành lập năm 970).

    Một ngôi sao sáng ngời trong thế giới toán học là nhà toán học Hồi Giáo Ba Tư Muhammad Ibu Musa. Ông đã phát minh ra một môn toán học nhằm mục đích “Phục Hồi Những Phần Đã Bị Tách Rời” (to restore the broken parts), tiếng Ả Rập gọi là Al-Jabr. Danh từ này được người Hy Lạp phiên âm thành Algebra tức là môn Đại-Số-Học. Môn toán học này được Musa phát minh năm 850.

    Đầu thế kỷ 11, một ngôi sao lớn về quang học xuất hiện tại Ai Cập. Đó là nhà khoa học Hồi Giáo Alhazen. Ông chuyên tâm nghiên cứu các sách Hy Lạp về khúc xạ và phản chiếu ánh sáng. Ông là người đầu tiên trên thế giới giải thích hiện tượng cầu vồng và quang phổ. Thế giới khoa học ngày nay tôn vinh ông là ông tổ sáng lập ngành quang học hiện đại.

    Nhờ có những sách y khoa dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Arabic trong hai thế kỷ 8 và 9, đến thế kỷ 10, người Hồi Giáo Ả Rập đã phát minh và đóng góp cho nhân loại rất nhiều tiến bộ về y khoa trên nhiều lãnh vực:

    1. Sử dụng Anesthasia trong giải phẩu.

    2. Sát trùng vết thương.

    3. Phát giác việc lây bệnh do sự tiếp cận với người có bệnh và qua đường hô hấp.

    4. Tách rời dược khoa và y khoa thành hai ngành riêng

    5. Do sa mạc thường có bão cát gây đau mắt nên người Ả Rập lập ra ngành nhãn khoa riêng.

    6. Năm 925, nhà khoa học Abu Razi cho in bộ sách “Bách Khoa Tự Điển Y Khoa” đầu tiên trên thế giới. Mãi tới hơn 5 thế kỷ sau tức vào năm 1486, bộ sách này mới được dịch sang tiếng La Tinh để phổ biến tại Âu Châu.

    Về văn chương, bộ chuyện vĩ đại được in thành nhiều chục tập (volumes) nổi tiếng khắp thế giới và đã được dịch ra đủ các thứ ngôn ngữ, đó là chuyện “Ngàn Lẻ Một Đêm”. Đây là một tổng hợp đủ các chuyện thần thoại thời Babylon cổ xưa, các chuyện dân gian Ả Rập (Arab Legends) và pha trộn với những chuyện thần tiên của Ấn Độ (Indian fairy tales).

    Về kiến trúc, người Ả Rập Hồi Giáo là những người phát minh ra cách xây những chiếc vòm nhọn đầu (pointed arch) từ thế kỷ 8 để kiến tạo những chiếc cầu bắc qua sông. Người Âu Châu sau này bắt chước để lập ra lối kiến trúc Gothic.

    Thái độ ham chuộng học hỏi và tôn trọng khoa học của người Hồi Giáo rất đáng được mọi người khâm phục. Thái độ đó hoàn toàn trái ngược với những tội ác tày trời của giáo hội Công Giáo nhằm mục đích tiêu diệt hoàn toàn nền văn minh Hy Lạp.

    Công Giáo La Mã do hoàng đế Constantine lập nên năm 325. Từ đó, giáo hội Công Giáo và đế quốc La Mã ra sức thâu góp các sách của nền văn minh Hy Lạp để thiêu hủy. Toàn bộ các sách của giáo phái Ki Tô lớn nhất thời đó là Gnostic bị đốt, 27.000 cuộn giấy (paprus rolls) có liên quan đến những sách Phúc Âm thật đều bị hủy diệt. Đến cuối thế kỷ 5 hầu như tất cả các sách khoa học, triết học của Hy Lạp đều không còn trên lãnh thổ của đế quốc La Mã và giáo hội Công Giáo. Tội ác của Công Giáo La Mã đã làm cho nền văn minh của nhân loại thụt lùi 15 thế kỷ.

    Người có công sưu tầm và duy trì những cuốn sách quí giá của nền văn minh Hy Lạp để lưu lại cho thế giới chúng ta ngày nay chính là một ông vua Hồi Giáo Ả Rập: Caliph Al-Mamun. Ông lên ngôi tại Baghdad năm 813. Việc đầu tiên là thành lập “Nhà của sự khôn ngoan” (House of Widom). Ông cho người đi khắp nơi tìm kiếm các sách cổ của Hy Lạp mang về Baghdad rồi thuê người Hy Lạp biết tiếng Ả Rập dịch tất cả các sách đó. Trong suốt 20 năm cai trị, vua Al. Mamun đã dồn hết tâm huyết vào công trình văn hóa độc đáo này. Các nhà trí thức Hồi Giáo ở Trung Đông thời đó nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến của nhà vua và họ đã tiếp tay để biến các thủ đô Hồi Giáo thành những trung tâm văn hóa nổi tiếng như: Alexandria (Ai Cập) Antioch Edessa (Thổ Nhĩ Kỳ) Condova (Tây Ban Nha, lúc này là thuộc địa của đế quốc Hồi Giáo).

    Phong trào ham chuộng kiến thức khoa học của toàn vùng Trung Đông Hồi Giáo kéo dài trong 5 thế kỷ, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, đã biến vùng Trung Đông thành một khu vực văn minh nhất thế giới. Trong khi đó, do chủ trương tiêu diệt mọi nguồn văn hóa đi ngược lại giáo lý Ki Tô Giáo, giáo hội Công Giáo La Mã đã đưa Âu Châu đi vào thời đại bóng tối (The Dark Age) từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 11. Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16, giới trí thức Âu Châu bừng tỉnh và tìm cách làm sống dậy những giá trị của nền văn minh Hy Lạp trong mọi ngành khoa học, triết học, kiến trúc và nghệ thuật… đã bị giáo hội Công Giáo tiêu diệt trước đây.

    Người ta gọi giai đoạn lịch sử này là Thời Phục Hưng (The Renaissance). Danh từ này bắt nguồn từ tiếng Pháp có nghĩa là “sự tái sinh” của một nền văn hóa đã bị bức tử.

    Trong thế kỷ 15, trí thức Âu Châu mới khám phá ra là kho tàng sách quí của văn hóa Hy Lạp đã được tồn trữ trong các trung tâm văn hóa Hồi Giáo tại Trung Đông. Lúc đó họ mới vỡ lẽ ra rằng: những người Hồi Giáo Ả Rập đã làm những công việc cần thiết để phục hồi nền văn hóa Hy Lạp trước họ tới 7 thế kỷ!

    Nhà danh họa Raphael của Ý thuộc thế kỷ 15 đã phải thốt lên những lời biết ơn đối với các học giả Hồi Giáo Ả Rập vì tiền nhân của ông là những người La Mã cuồng tín và thiển cận đã hủy diệt cả một nền văn minh của Cổ Hy Lạp để gây ra một tổn thất vô cùng lớn lao cho nhân loại. Nhưng may mắn thay, vẫn có nhiều tác phẩm quí giá của Hy Lạp còn sót lại được bảo tồn do công lao của các học giả Ả Rập. Ông nói: “Các học giả Ả Rập đã cứu những tác phẩm đó cho chúng ta” (Arab scholars saved those works for us) – (A Muslim Primer, by Ira G. Zepp. University of Kansaa Press 1992, Page 139-165).

    Như trên đã trình bày, Trung Đông Hồi Giáo sống trong thời Hoàng Kim của nền văn minh (The Golden Ages) từ cuối thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ 11. Rồi từ đầu thế kỷ 11, những đoàn Thập Tự Quân của Công Giáo La Mã tràn sang tàn phá Trung Đông, với 7 cuộc thánh chiến đẫm máu, khiến cho toàn vùng lâm vào tình trạng suy thoái mọi mặt.

    Cuộc Thập Tự Chinh thứ nhất (1096-1099) tiêu diệt 30.000 người Ả Rập Hồi Giáo và lập nên một vương quốc rộng lớn bao gồm các nước Palestine, Liban, Syria và phía nam Thổ Nhĩ Kỳ. Tất cả được đặt dưới quyền cai trị của một ông vua do Vatican bổ nhiệm. Vương quốc Hồi Giáo bị người Công Giáo cai trị trong 88 năm. Sáu cuộc Thập Tự Chinh kế tiếp diễn ra trong gần 2 thế kỷ tàn phá hầu hết các nước Trung Đông với 3 triệu sinh mạng bị sát hại (1096-1291).

    Tiếp theo đại họa Thập Tự Quân là đại họa Mông Cổ. Từ thế kỷ 14, vùng Trung Đông bị quân Mông Cổ tràn tới tàn phá các thành phố và hủy diệt con người. Baghdad, Damacus… chỉ còn là những đống gạch vụn với những xác chết la liệt trên các nẻo đường.

    Cuối thế kỷ 15, quân Mông Cổ lại tràn tới Trung Đông một lần nữa. Điều mỉa mai là ông vua Mông Cổ lại là một tín đồ Hồi Giáo thuôc giáo phái Sunni. Ông tới để tiêu diệt những người thuộc giáo phái Shiite tại Iran và Iraq. Vì lòng hận thù hẹp hòi giữa các chi phái Hồi Giáo với nhau, quân Mông Cổ Sunni đã giết những người Shiite vô số kể.

    Từ năm 1467 đến 1520, đế quốc Hồi Giáo Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh phá Syria, Ai Cập, bán đảo Ả Rập và các nước Bắc Phi để mở rộng thế lực của giáo phái Sunni, rất nhiều tín đồ Shiite bị giết. Đế quốc Ottoman khống chế Trung Đông từ đó đến đầu thế kỷ 19. Từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, nhiều nước Hồi Giáo Trung Đông lần lượt rơi vào vòng nô lệ của thực dân Anh và Pháp. Tuyệt đại đa số dân chúng Trung Đông mù chữ và toàn xã hội Ả Rập suy thoái về mọi mặt.

    Qua bao nhiêu thế kỷ, Ai Cập vẫn được coi là “linh hồn trí thức của thế giới Ả Rập” với dân số 60 triệu người mà mỗi năm chỉ xuất bản vỏn vẹn 375 cuốn sách, bởi vì đại đa số dân mù chữ nên không có ai tiêu thụ món hàng văn hóa này. Trong khi đó Israel chỉ có 6 triệu dân nhưng hầu như cả nước ham đọc sách nên mỗi năm Israel xuất bản ít nhất 4000 đầu sách đề cập đến đủ mọi vấn đề của kiến thức. (Theo Newsweek 15-10-2001, P.26)

    Phải chăng một xã hội thất bại đã phát sinh chủ nghĩa khủng bố?

    Dưới cái nhìn của Tây Phương, thế giới Hồi Giáo Ả Rập ở Trung Đông là một xã hội thất bại mà nguyên nhân chính là sự cuồng tín tôn giáo. Trong khi đó, những người Ả Rập Hồi Giáo lại qui hết mọi nguyên nhân thất bại của họ cho Tây Phương. Do đó họ nung nấu lòng thù hận và tổ chức khủng bố để rửa hận. Tất cả mọi hành vi sát nhân tàn bạo của họ, kể cả việc sát hại những người vô tội trong những cuộc khủng bố, đều được biện minh bằng những lời Chúa trong Thiên Kinh Koran. Họ càng căm thù bao nhiêu lại càng trở thành cuồng tín trong niềm tin tôn giáo bấy nhiêu.

    Cuối cùng, xã hội Ả Rập Hồi Giáo Trung Đông đi vào một cái vòng luẩn quẩn không có lối thoát. Sự cuồng tín của giới lãnh đạo và quần chúng làm cho xã hội Ả Rập càng ngày càng khép kín đối với thế giới bên ngoài, đời sống kinh tế suy sụp trở thành lạc hậu. Những người cuồng tín qui trách nhiệm cho Tây Phương là thủ phạm đã gây ra tất cả những thất bại và suy thoái của thế giới Hồi Giáo để họ có lý do gia tăng các hoạt động khủng bố. Nhưng càng gia tăng khủng bố bao nhiêu họ càng bị mất thiện cảm và sự giúp đỡ của thế giới bấy nhiêu. Các xã hội Hồi Giáo cực đoan đều trở thành những khu vực bị cô lập và là đối tượng của một cuộc chiến tranh hủy diệt.


    Ngày nay, trên khắp thế giới hầu như ở đâu cũng có những hoạt động khủng bố, nhưng chỉ tại Trung Đông người ta mới thấy rõ cái sắc thái cuồng tín hung bạo ghê gớm của người Hồi Giáo Ả Rập. Chỉ ở Trung Đông mới là nơi tập trung đông đảo nhất của những Mullahs (học sĩ Hồi Giáo) hung dữ. Trung Đông là nơi có nhiều nhất những vụ biểu tình bạo động, đốt cờ, đốt xe, đốt hình nộm và đặc biệt là những vụ ôm bom tự sát (suicide – bombings).

    Ngoài ra, từ 1980 đến nay, hầu như các vụ đặt bom khủng bố tại các nơi trên thế giới cũng đều có nguồn gốc tại Trung Đông. Tất cả đều do phe Hồi Giáo cực đoan tại Trung Đông (Islamic Fundamentalists) chủ mưu . Do đó, mục tiêu của cuộc chiến tranh tiêu diệt khủng bố mà phe Tây Phương đang theo đuổi không phải là Afganistan hay Philippines… mà chính là toàn vùng Trung Đông Hồi Giáo!

    Làm thế nào để giải thoát sự bế tắc của một xã hội thất bại tại Trung Đông?


    Nguyên nhân chính đưa đến sự bế tắc của các quốc gia Hồi Giáo Trung Đông là không có sự phân cách giữa tôn giáo với chính quyền. Thông thường trong những quốc gia sùng đạo, các Mullahs (học sĩ Hồi Giáo) là những nhà lãnh đạo chính trị. Họ nhân danh tôn giáo để hô hào thánh chiến, thực chất là đề cao những hành vi chém giết thô bạo.

    Trong các nước Hồi Giáo sùng tín, người ta không thể phân biệt được ranh giới giáo quyền với chính quyền, cũng không thể phân biệt được đâu là giáo luật và đâu là luật pháp quốc gia.gia.

    Trong thế kỷ 19, nhiều trí thức Hồi Giáo đã nhìn thấy điều đó và họ đã viết sách để lên tiếng đòi cải cách xã hội Hồi Giáo. Một trong những người đó là triết gia Ai Cập Fouad Zakariya. Theo ông, điều tiên quyết để cứu các nước Hồi Giáo Ả Rập là phải “tách rời đền thờ ra khỏi quốc gia” (Seperation of Mosque from State). Người ta gọi chủ thuyết này là Chủ Nghĩa Thế Tục Hóa Xã Hội (Secularism). Zakariya ca ngợi Phong Trào Khai Sáng (Enlightenment) ở Âu Châu thế kỷ 18 đã giải cứu xã hội thoát ra khỏi sự kìm kẹp của giáo hội La Mã bằng chủ thuyết thế tục hóa để đi tới sự phân lập rõ rệt giữa chính quyền và giáo hội. Chính nhờ đó Âu Châu đã trở nên hùng mạnh và đó là chìa khóa đưa đến một xã hội tiến bộ dân chủ. Mọi chủ trương bảo thủ đều có hậu quả biến Hồi Giáo thành công cụ tạo lập nên những chế độ của các bạo chúa.

    Zakariya dám đưa ra những nhận định táo bạo: Thế giới Ả Rập không thể nào xây d ựng được một xã hội văn minh tiến bộ nếu cứ khư khư giữ lấy những tư tưởng lạc hậu của thời kỳ bộ lạc ở sa mạc vào thế kỷ thứ 7 (thời của giáo chủ Muhammad lập đạo)!

    Ông cũng nêu rõ: dù bất cứ là tôn giáo nào thì luôn luôn tôn giáo cũng chỉ là một sự sùng bái có tính riêng tư của các cá nhân mà thôi. Không ai có quyền đem cái sự sùng bái riêng tư đó áp đặt lên cả quốc gia để buộc mọi người cũng phải sùng bái như họ.

    Cái điều vô lý đó hiện đang xảy ra phổ biến tại các nước Ả Rập. Ông kêu gọi mọi người đứng lên đập tan các chế độ Hồi Giáo bảo thủ để giải phóng xã hội Hồi Giáo lạc hậu.

    Những lời kêu gọi của Fouad Zakariya đã được nhiều chính trị gia hưởng ứng tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Iran:


    1. MUSTAPHA KEMAL- Ông sinh năm 1881 tại Thổ Nhĩ Kỳ, làm tổng thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ từ 1923 đến 1938. Ông là người đã thực hiện thành công cuộc cách mạng thế tục hóa xã hội Hồi Giáo, chấm dứt đế quốc Ottoman sau gần 5 thế kỷ thống trị. Hoàng đế và toàn bộ triều đình Ottoman đều bị bắt và bị đưa đi đày chung thân. Toàn bộ luật pháp của Hồi Giáo bị xé bỏ. Các trung tâm Hồi Giáo bị đóng cửa. Âm Lịch Hồi Giáo bị thay thế bằng Dương Lịch để hòa đồng cùng thế giới. Năm 1930, quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ chính thức chấm dứt chế độ đa thê, hủy bỏ mọi hình thức áp chế phụ nữ như tục lệ đeo mạng che mặt hoặc áo choàng phủ kín toàn thân. Nam giới bị cấm đội mũ Fez theo kiểu Ả Rập Hồi Giáo. Chữ viết theo kiểu Arabic bị thay thế bằng mẫu tự la tinh. Hiện nay không còn ai biết đọc kinh Hồi Giáo viết theo chữ Arabic nữa. Nữ tổng thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ là bà Tanser Ciller trong nhiệm kỳ 1993-1996. Trong thực tế, Thổ Nhĩ Kỳ không còn được coi là một quốc gia Hồi Giáo nữa. Cuộc cách mạng thành công của Mustapha đã giải thoát Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi thế giới đóng kín và thất bại của chủ nghĩa bảo thủ cực đoan Hồi Giáo. Thổ Nhĩ Kỳ hiện là một nước Cộng Hòa tự do dân chủ thật sự và đang phát triển mọi mặt.


    2. JASMAL NASSER- Ông sinh năm 1918, làm thủ tướng Ai Cập từ 1954 đến 1956. Sau đó, Ai Cập biến thành một nước Cộng Hòa với danh xưng là “Cộng Hòa Ả Rập Thống Nhất”. Nasser được bầu làm tổng thống từ 1958 đến 1970. Ông chủ trương thực hiện chủ nghĩa thế tục hóa (Secularism) bằng cách loại trừ mọi ảnh hưởng của Hồi Giáo ra khỏi chính trị.

    Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 20, tại Ai cập đã có một phong trào Hồi Giáo cực đoan mệnh danh là “Huynh Đệ Hồi Giáo” (Muslim Brotherhood). Phong trào này do Sayid Quitb (1906-1966) sáng lập, chủ trương dùng các thủ đoạn khủng bố để ngăn cản và vô hiệu hóa mọi nỗ lực cải cách xã hội Hồi Giáo. Phong trào xác định các lãnh tụ chính trị theo đuổi chủ trương thế tục hóa là những kẻ tuyên chiến với đức tin Hồi Giáo và vì vậy họ phải chết.hết.

    Năm 1956, Nasser ra lệnh bố ráp bắt hết các đảng viên Muslim Brotherhood. Nhiều đảng viên bị xử tử hình, số còn lại đều lãnh án tù. Tuy nhiên, Nasser đã bị dư đảng của đảng này ám sát chết năm 1990.


    3. HOÀNG ĐẾ BA TƯ REZA PAHLAVI - Ông là một nhân vật đặc biệt vì sinh ra và lớn lên trong gia đình sùng đạo nhưng đã trở thành một người rất căm ghét đạo Hồi và muốn hủy diệt đạo này. Ông sinh năm 1878, lên ngôi vua năm 1921, cai trị Ba Tư trong 20 năm. Ngay khi vừa lên ngôi, vua Pahlavi đã ra lệnh giải tán Ulama tức “Hội Đồng Các Học Sĩ Hồi Giáo”, một cơ quan cao nhất về tôn giáo tại Ba Tư. Luật Hồi Giáo Sharia bị thay thế bằng luật pháp quốc gia do quốc hội biểu quyết. Các ngày lễ tôn giáo đều bị hủy bỏ. Việc tổ chức đi hành hương thánh địa Mecca bị cấm chỉ. Các phụ nữ không được đeo mạng. Cảnh sát được lệnh phải tháo gỡ mạng của phụ nữ trên đường phố…ố…

    Năm 1935, những người Hồi Giáo cuồng tín đã xúi giục phụ nữ biểu tình chống chủ trương thế tục hóa của nhà vua. Cảnh sát được lệnh dùng vũ lực giải tán đám biểu tình. Sau nhiều lần cảnh cáo nhưng đám phụ nữ biểu tình vẫn không chịu giải tán, cảnh sát đã nổ súng bắn chết hàng trăm phụ nữ. Trong dịp này, vị giáo chủ cao cấp nhất của Hồi Giáo Ba Tư là Aytollah Muddaris cũng bị ám sát chết.

    Năm 1941, vua Pahlavi truyền ngôi cho con là Muhammad Reza Pahlavi. Ngay khi tân vương lên ngôi, các học viên thuộc các trường Hồi Giáo (tương tự như các học viên Taliban ở Afganistan) đã biểu tình chống nhà vua. Cảnh sát được lệnh xả súng bắn chết hàng trăm học viên Hồi Giáo trên đường phố. Sau đó, tất cả các trường đào tạo các học sĩ Hồi Giáo trên toàn quốc bị đóng cửa và tất cả các Ulama (the learned men in Islam) đều bị bắt, đa số bị giết, số còn lại đều bị tù. Tân vương Pahlavi cho thành lập một tổ chức mật vụ chuyên việc truy lùng những kẻ muốn khôi phục đạo Hồi tại Ba Tư. Lính mật vụ có quyền tiền trảm hậu tấu, không cần một án lệnh nào của tòa án. Các biện pháp trị an của vua Pahlavi quá mạnh tay nên đã gây quá nhiều bất mãn trong quần chúng.

    Năm 1979, học sĩ Khomeini lưu vong tại Pháp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ vua Pahlavi thành công. Nhà vua phải bỏ nước chạy trốn ra nước ngoài. Khomeini trở thành tổng thống của một nước Cộng Hòa Hồi Giáo (Islamic Republic). Khomeini là một học sĩ của giáo phái Shiite rất cực đoan và độc tài. Chẳng bao lâu sau, Khomeini mất hết mọi nhiệt tình ủng hộ của quần chúng lúc ban đầu. Dân Iran chợt nhận ra là sống dưới chế độ quân chủ của dòng Pahlavi còn được tự do hạnh phúc hơn nhiều.

    Dưới chế độ “Cộng Hòa Hồi Giáo”, toàn dân bị dồn vào thế bị kìm kẹp bởi các thứ luật lệ của tôn giáo vừa hủ lậu vừa dã man: Bị cáo về một tội trộm thường cũng bị chặt chân, chặt tay. Mọi sinh hoạt ca nhạc hay chiếu phim đều bị cấm. Phụ nữ bị buộc phải mặc áo choàng đen phủ kín từ đầu đến mắt cá chân… Điều nguy hiểm là Khomeini gây hận thù với giáo phái đa số Sunni và đưa cả nước vào một cuộc chiến tranh vô nghĩa. Khomeini chết năm 1989.


    Sự cuồng tín của người Hồi Giáo Ả Rập



    Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa Thế-Tục-Hóa Xã Hội (Secularism) là một phương thức chính trị đã đem lại sự thịnh vượng cho cả Âu Châu lẫn Hoa Kỳ. Đó cũng là cái chìa khóa bảo đảm nền tự do dân chủ cho toàn dân. Mustapha Kemal thực hiện thành công cuộc cách mạng thế tục hóa xã hội Thổ Nhĩ Kỳ đã biến nước này thành một nước tự do dân chủ và văn minh nhất trong thế giới Hồi Giáo. Trong khi đó, cuộc cách mạng của Nasser tại Ai Cập và những nỗ lực thế tục hóa của hai cha con vua Pahlavi tại Iran đều đã bị thất bại.p>

    Toàn khối Ả Rập Hồi Giáo với 300 triệu người tiếp tục sống trong vũng lầy lạc hậu và nghèo đói. Tình trạng bất ổn tại Trung Đông có thể gây tổn hại cho nền hòa bình thế giới. Vì thế, nhiều chuyên gia của Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi cộng đồng thế giới giúp cho toàn khối Ả Rập Hồi Giáo một số chương trình như sau để cải thiện đời sống quần chúng:

    1. Đô thị hóa xã hội Ả Rập để xóa bỏ hẳn lối sống lang thang trong sa mạc đã có từ nhiều ngàn năm qua.

    2. Đầu tư đại qui mô vào công cuộc giáo dục giới trẻ nhằm đào tạo những thế hệ Ả Rập mới có khả năng đưa toàn xã hội Ả Rập hòa nhập vào thời đại mới trong cộng đồng nhân loại.

    Chỉ có sự hiểu biết của những thế hệ trẻ mới có khả năng mở rộng tầm nhìn của quần chúng để cứu họ thoát khỏi sự mê hoặc của tôn giáo và sự lừa mị của giới lãnh đạo độc tài.

    Theo thống kê năm 2000, các nước Hồi Giáo Ả Rập ở Trung Đông có một tỷ lệ những người trẻ (dưới 15 tuổi) rất cao:

    - Saudi Arabia: 43%

    - Iraq: 42%

    - Palestine: 45%

    Nếu những lớp người trẻ đó hấp thụ được một nền giáo dục khai phóng, họ sẽ làm thay đổi nếp sống và nếp nghĩ của người Ả Rập.

    Chủ nghĩa tôn sùng bạo lực và chủ nghĩa khủng bố phát sinh chủ yếu do tinh thần cuồng tín tôn giáo. Giáo dục là phương tiện hữu hiệu nhất diệt trừ nạn cuồng tín tôn giáo và do đó sẽ diệt trừ tận gốc nạn khủng bố như hiện nay đang diễn ra khắp nơi trên thế giới. Chỉ có sự giáo dục mới giải thoát tập thể tín đồ thoát ra khỏi vùng bóng tối tâm linh.

    Các nước Hồi Giáo bảo thủ hiện nay đều là những xã hội khép kín, trong đó giới học sĩ ulamas hoàn toàn thao túng đời sống tinh thần của các tín đồ. Cái gọi là sự học vấn của các trường tôn giáo hoặc sự uyên bác của các học sĩ Ulamas thực chất chỉ là một môn học “tán hươu tán vượn” về những điều huyền hoặc của thần học (theology). Thần học của Hồi Giáo cũng tương tự như thần học của Do Thái Giáo hoặc Ki Tô Giáo. Thần học là một môn học đầy tính chất hoang tưởng viển vông nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con người càng lún sâu vào “ốc đảo tâm linh” xa rời thực tế và đầy đặc những định kiến sai lầm. Những mảnh bằng “Tiến Sĩ Thần Học” là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp những mảnh bằng về thần học mà thôi.

    Thế giới Hồi Giáo Ả Rập ngày nay vì tự ti mặc cảm đã co cụm lại thành những xã hội khép kín. Giới lãnh đạo không muốn dân chúng biết sự thật của thế giới bên ngoài cho nên họ rất căm ghét tất cả mọi phương tiện truyền thông quốc tế. Nhiều nước Hồi Giáo ban hành luật cấm TV, Video, phim ảnh và các sách báo ngoại văn. Trong cuộc họp của Tổ Chức Các Quốc Gia Hồi Giáo OIC (Organization of Islamic Countries) gồm các đại biểu của 56 quốc gia thành viên họp tại thủ đô Mã Lai Kualua Lumpur ngày 27.2.2000, nhiều đại biểu đã hô hào các nước Hồi Giáo đoàn kết để chống lại kỹ thuật tin học Internet vì nó có thể “tiêu diệt các giá trị Hồi Giáo”.

    Nền kinh tế của khối Ả Rập Trung Đông hiện nay không có gì để hãnh diện, ngoại trừ kho dầu mỏ thiên nhiên ở mấy nước vùng vịnh với trữ lượng bằng 1/4 khối lượng dầu của thế giới. Nhưng họ không có kỹ thuật thăm dò mỏ dầu, kỹ thuật khoan mỏ dầu, chuyên chở và lọc dầu v.v… Họ cũng không có độc quyền tăng giá dầu vì các việc tiêu thụ, phân phối và sản xuất không nằm trong tay họ. Năm 1982, giá dầu thô 40 đô la/1 barrel, đến năm 1998, giá dầu tụt xuống chỉ còn 10 đô la/1barrel! Những mỏ dầu thô đã tạo cho chính quyền các nước Trung Đông một ảo tưởng về quyền lực. Thật sự họ không thể dùng nó để tạo nên một áp lực nào đối với thế giới bên ngoài. Những khoản lợi tức khổng lồ của những mỏ dầu không đem lại lợi ích nào cho quần chúng vì nó đã chui hết vào túi của giới lãnh đạo bất tài và tham nhũng. Chẳng những thế, giới lãnh đạo còn nhân danh Allah và tiên tri Muhammad để tước đoạt những quyền tự do chính đáng của người dân. Tại các nước Bahrain, Jordan, Maroc… và thậm chí ở hai nước nổi tiếng giầu có vì dầu hỏa là Koweit và Saudi Arabia… phụ nữ không có quyền đi bầu. Đại đa số dân Ả Rập đều đang kéo lê cuộc sống du mục lạc hậu như thời Muhammad lập đạo tại sa mạc Syro-Arabia vào thế kỷ 7 hoặc như tổ phụ Abraham ở vùng đất hứa Canaan cách đây 4000 năm vậy!

    Thiên Chúa luôn luôn được các phe động viên trong cuộc thánh chiến hiện nay giữa Do Thái và các nước Ả Rập.

    Thánh kinh Cựu Ước được mọi tôn giáo như Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo công nhận. Một trong những chuyện nổi tiếng trong Cựu Ước là chuyện Đại Hồng Thủy. Kinh Thánh kể rằng: Sau cơn đại hồng thủy tiêu diệt hết mọi sinh vật trên trái đất, loài người vỏn vẹn chỉ còn lại gia đình của ông Nô-e mà thôi. Người con út của ông Nô-e tên Shem sau này trở thành tổ tiên của các dân tộc Do Thái-Ả Rập. Do đó, mọi người Do Thái và Ả Rập đều có một cái tên chung là chủng tộc Semites. Danh từ này có nghĩa là “con cháu của ông tổ Shem” (Semites = descendants of Shem).

    Mới đây, các nhà nhân chủng học đã làm nhiều cuộc thử nghiệm DNA tại các nước Trung Đông. Kết quả xác nhận các người Ả Rập, Do Thái, Ba Tư, Iraq, Syria, Liban v.v… đều cùng chung một chủng tộc. Như vậy, truyền thuyết về các dân tộc Ả Rập Do Thái cùng chung một ông tổ Shem như chuyện kể trong kinh Thánh đã tỏ ra là đúng với thực tế.

    Họ quả thật là “anh em” với nhau. Cũng như người Do Thái thường gọi nhau là “Ben-Adam” có nghĩa là “anh em” cùng một ông tổ Adam mà ra. Nhưng khi Adam và Eva mới sinh ra được hai thằng con trai là Cain và Abel, lúc đó toàn thể dân số nhân loại chỉ có 4 người, thì Cain đã ra tay giết chết thằng em vì một chuyện cãi nhau vớ vẩn. Chuyện Cain giết Abel đã trở thành câu chuyện mang tính chất biểu tượng cho sự chém giết nhau giữa những người anh em cùng chủng tộc hoặc những anh em cùng thờ Chúa.

    Những người Do Thái và Ả Rập đã chém giết nhau rất nhiều phen kể từ khi Israel trở thành vương quốc, với vị vua đầu tiên là Saul, vào năm 1025 trước công nguyên. Vương quốc Israel tồn tại đến năm 70 sau Công Nguyên thì bị quân La Mã kéo đến san bằng và tàn sát người Do Thái vô số kể. Do đó, người Do Thái phải bỏ nước ra đi lang thang khắp nơi trên thế giới. Từ thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 20, người Do Thái tại các nước Công Giáo ở Âu Châu đã bị kỳ thị và bị sát hại rất nhiều, nhất là trong thời Trung Cổ. Trong Thế Chiến thứ hai, Do Thái bị Đức Quốc Xã sát hại 6 triệu người. Do đó, sau Thế Chiến II, Liên Hiệp Quốc đã thực hiện kế hoạch cho những người Do Thái trên khắp thế giới trở về “cố hương” để tái lập quốc gia.

    Năm 1948, quốc gia Do Thái được thành lập trên phần đất của người Palestine đang sinh sống. Sự lập quốc Do Thái đã khiến cho hàng triệu người Palestine trở thành những người vô gia cư (homeless). Sự bất mãn của những người Ả Rập Hồi Giáo bắt đầu từ đó.

    Theo lệnh của Liên Hiệp Quốc thì Do Thái không được chiếm thành phố Jerusalem vì thành phố này là thánh địa chung của cả 3 tôn giáo: Do Thái, Ki Tô và Hồi. Nhưng vào năm 1967, Israel đã xua quân chiếm thành phố Jerusalem làm thủ đô của riêng mình. Vụ này đã làm cho toàn thế giới Hồi Giáo phẫn nộ. Từ năm 1970 trở đi, thế giới Hồi Giáo tổ chức Hội nghị hàng năm để kêu gọi toàn thể các tín đồ Hồi Giáo đoàn kết chống lại Israel để giải phóng thánh địa Jerusalem.

    Israel đã vin vào Thánh Kinh Cựu Ước, công khai tuyên bố không bao giờ chịu rút khỏi Jerusalem vì đó là “một sứ mạng tôn giáo” (a religious mission). Nước Israel là bất khả xâm phạm vì đó là “Israel của Thánh Kinh” (Biblical Israel). Lịch sử của Do Thái là lịch sử của Thánh Kinh Cựu Ước. Do đó, đối với người Do Thái, quốc gia và tôn giáo là một. Chết vì nước cũng là chết vì Chúa của đạo Do Thái. Người Do Thái sống trong hiện tại với những chứng tích của lịch sử. Tâm linh của người Do Thái trong hiện tại luôn luôn gắn bó với tâm linh dân tộc trong lịch sử. Đó là lý do khiến người Do Thái đoàn kết và kiên cường trong chiến đấu.

    Cuộc chiến tranh hiện nay giữa Do Thái và những người Ả Rập Hồi Giáo là một cuộc chiến tranh vì lịch sử và vì tôn giáo. Chúng ta hãy nghe lời lập luận của một thường dân Palestine ở ngoại ô thành phố Jerusalem. Anh Ibrahim Hussein, 48 tuổi, trả lời ký giả Mỹ trong một cuộc phỏng vấn tháng 3/2002 như sau: “Nếu ông đào xới bất cứ chỗ nào ở vùng này ông cũng tìm thấy những dấu tích của lịch sử. Và nếu ông là một người Do Thái thì bất cứ lúc nào ông cũng có thể vin vào những dấu tích đó để nói rằng đây là đất thuộc về lịch sử của Do Thái. Nhưng người Do Thái chỉ có thể vin vào lịch sử 3000 năm của họ. Còn chúng tôi, con cháu của những người Canaanites, đã định cư ở đây trước người Do Thái 4000 năm, nghĩa là tổ tiên của người Ả Rập đã có 7000 năm lịch sử tại nơi này!” (Houston Chronicle March 31.2002)

    Ý kiến chung của những người Ả Rập luôn luôn kết tội Israel là kẻ gây chiến vì Israel đã đến chiếm đất của người Palestine và dùng bạo lực đuổi họ ra khỏi nơi cư trú hợp pháp lâu đời của họ. Trong khi đó, người Do Thái luôn luôn đem Thánh Kinh và Thiên Chúa ra làm chứng cho quyền sở hữu của mình. Họ nói vùng Tây Ngạn sông Jordan(West Bank) hiện có 3 triệu dân Palestine cư trú, chính là hai tỉnh Judea và Samaria của Do Thái trong Thánh Kinh Cựu Ước.

    Người Do Thái chiếm thành phố Hebron ở phía nam Jerusalem, viện cớ Hebron là nơi có mộ của tổ phụ Abraham, mặc dầu không một ai có thể xác định mộ của ông ta nằm ở chỗ nào!

    Người Do Thái cũng chiếm luôn thung lũng Kindron ở ngoại ô Jerusalem (Kindron Valley) vì thung lũng này hết sức quan trọng. Cả ba đạo thờ Chúa là Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo đều tin rằng: đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng, tất cả mọi người sống và người chết (sống lại) đều tập trung tại thung lũng Kindron để được Thiên Chúa xét xử lần cuối cùng. Kẻ lành lên Thiên Đàng đời đời, còn kẻ dữ (là kẻ chẳng có đạo) sẽ bị đày xuống hỏa ngục muôn đời muôn kiếp.

    Đọc tin tức báo chí đến đây tôi liên tưởng đến sự ước tính của Giáo Sư Trần Chung Ngọc trong sách “Chúa Giê-xu là ai? Giảng dạy những gì?” Giao Điểm xuất bản, Xuân 2002, trang 167-169: Ngày Phán Xét Cuối Cùng là ngày Chúa xét xử cả người sống lẫn các người đã chết từ xưa tới nay. Những người sống hiện nay là 6 tỷ. Nếu Chúa cho tất cả mọi người chết sống lại thì ước tính độ 44 tỷ người. Tổng cộng tất cả mọi người được Chúa xét xử sẽ là 50 tỷ. Nếu Chúa xét xử theo phương pháp siêu tốc mỗi người một giây thì thời gian cần thiết phải có là 1500 năm mới xử xong 50 tỷ người! Đó là về thời gian xét xử, còn về nơi xét xử là thung lũng Kindron không biết rộng bằng nào. Nhưng cho dù thung lũng Kindon lớn rộng bằng cả nước Việt Nam chăng nữa cũng không thể nào chứa được 50 tỷ người trong phiên xử vĩ đại của Chúa!

    Kinh Thánh Do Thái nói rất nhiều đến ngày Phán Xét Cuối Cùng của Chúa tại thung lũng Kindron. Nhưng nếu đọc các sách Phúc Âm sẽ thấy Gioan Baotixita và Jesus còn nói về ngày Phán xét nhiều hơn nữa. Trong niềm tin của những người Ki Tô Giáo (Công Giáo, Chính Thống, Anh Giáo và Tin Lành) thì ngày Phán Xét Cuối Cùng chính là ngày Chúa Jesus Tái Lâm (Cơ Đốc Phục Lâm) và cũng là Ngày Tận Thế, Ngày Nước Chúa Trị Đến vĩnh viễn trên thế gian… Như vậy, vị chánh án của phiên xử cuối cùng vĩ đại này không ai khác hơn là chính Chúa Jesus.

    Hơn một tỷ tín đồ Hồi Giáo cũng có niềm tin xác tín về ngày Phán Xét Cuối Cùng tại thung lũng Kindron như niềm tin của những người Do Thái và Ki Tô. Nhưng vị chủ tọa phiên xử là Thiên Chúa Allah. Ngay chương mở đầu của kinh Koran đã xác định điều đó: “Nhân danh Thiên Chúa Allah, Đấng chủ tọa của ngày Phán Xét Cuối Cùng” (In the name of Allah, Master of The Day of Last Judgement – Koran 1:4)

    Người Do Thái càng vin vào Thánh Kinh là sách ghi Lời Chúa để biện giải cho các hành vi chiến tranh của mình bao nhiêu thì người Ả Rập Hồi Giáo cũng vin vào kinh Koran để cổ vũ người Palestine và toàn khối Ả Rập phải quyết tâm tận diệt Do Thái bấy nhiêu.

    Ngay từ khi Đạo Hồi được thành lập vào đầu thế kỷ 7, Muhammad đã kêu gọi tín đồ tẩy chay những người Do Thái và Ki Tô:

    “Hỡi các tín đồ! Đừng bao giờ làm bạn với bọn Do Thái và Ki Tô. Bất cứ ai làm bạn với chúng, sẽ trở thành một kẻ bất chính trong bọn chúng. Thiên Chúa không bao giờ dẫn đường chỉ lối cho những kẻ bất chính”

    (Oh you who believe! Do not take the Jews and the Christians for friends and who amongst you take them for a friend then he is one of them. Allah does not guide the unjust people – Koran 5: 51)

    Ngày 21-7-2001, chính quyền Palestine của Arafat phổ biến trên các phương tiện truyền thông một bản thông cáo chính trị nhưng được mệnh danh là “Giáo lệnh số 4″ (Religious teaching No.4): “Thiên Chúa cấm chỉ thừa nhận sự hiện hữu một quốc gia Israel và ngài ra lệnh phải tiêu diệt nó.”

    Để cụ thể hóa mệnh lệnh này, chính quyền Palestine đã đưa ra 8 điều sau đây:

    1. Xác nhận Do Thái là kẻ thù của Thiên Chúa.

    2. Toàn thể Hồi Giáo phát động thánh chiến để chống lại Do Thái.

    3. Tiêu diệt Do Thái là một nghĩa vụ tôn giáo.

    4. Palestine chiến đấu tại tiền tuyến, thế giới Hồi Giáo là hậu phương yểm trợ tiền tuyến.

    5. Toàn thể lãnh thổ Israel phải thuộc về Palestine. Bất cứ ai cắt đất của Palestine cho Do Thái đều phải sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp.

    6. Mọi thỏa ước ký kết với Do Thái đều chỉ có giá trị chiến thuật tạm thời.

    7. Bất cứ ai trốn tránh nghĩa vụ thánh chiến chống Do Thái sẽ bị Chúa trừng phạt.

    8. Sự tiêu diệt hoàn toàn Israel là một sự bảo đảm tuyệt đối nhân danh Thiên Chúa Allah”.

    Trong công báo chính thức của chính quyền Palestine (Al-Jadila) ngày 18-5-2001 có đăng một bản Huấn thị của chính phủ, trong đó có câu: “Ngày của mọi người chết sống lại để dự phiên xử cuối cùng sẽ không xảy ra cho đến khi nào người Hồi Giáo gây chiến tranh chống Do Thái và tiêu diệt chúng” (The Day of the Resurrection will not arrive until the Muslims make war against the Jews and kill them).

    Một viên chức cao cấp của Bộ Tư Pháp Palestine xuất hiện trên màn ảnh truyền hình ngày 13-10-2001 kêu gọi nhân dân Palestine: “Do Thái là kẻ nói láo và khủng bố. Cho nên điều cần thiết là phải giết chúng theo lời Chúa. Cấm không ai được thương xót chúng. Đừng thương xót, hãy giết chúng ở khắp mọi nơi” (The Jews are the liars and terrorists. Therefore it is necessary to slaughter them according to the Words of God. It is forbidden to have mercy in your hearts for the Jews. Have no mercy on them and murder them every where) – (Fast Facts on Islam, by John Weldon and John Ankerberg. Harvest House Pub. 2001, P. 135-137).


    Charlie Nguyễn
    ALPHA3 thích bài này.
  8. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    Sự bành trướng của đạo Hồi

    Cuộc chinh phục của người Hồi Giáobắt đầu sau cái chết của vị sứ giả Hồi giáo Muhammad. Ông thành lập một chính thể thống nhất Bán đảo Ả Rập và sau đó được mở rộng bởi Rashidun và Umayyad Caliphates.

    Họ đã mở rộng lãnh thổ ra khỏi bán đảo Ả Rập. Vào lúc đỉnh cao biên giới phía đông của họ đã giáp với nhà Đường ở Trung Quốc, khắp vùng Trung Đông, Bắc Phi và bán đảo Iberia. Những cuộc chinh phục này đem theo sự truyền bá đạo Hồi ra khỏi bán đảo Ả Rập.


    [​IMG]

    Trong lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một cách mạnh mẽ và nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo hút giữa sa mạc Syro-Arabia đã mau chóng biến thành những con người đầy quyền lực tung hoành từ Cận Đông đến Âu Châu và từ Bắc Phi đến tận các nước Châu Á:

    - Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua đời (632-642) quân Hồi Giáo Ả Rập đã chiếm trọn bán đảo Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq, Syria, Palestine, Ai Cập và phía Tây nước Iran.

    - Trong 2 năm (648-649), quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia.

    Một điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên người Ả Rập chiếm một nước Âu Châu, đó là Hy Lạp.

    - Thừa thắng xông lên, người Hồi Giáo Ả Rập mở cuộc chiến tranh đánh Tây Ban Nha. Sau 5 năm, người Hồi chiến thắng đã chiếm trọn nước Âu Châu rộng lớn và nổi tiếng sùng đạo Công Giáo nhất thời bấy giờ.

    - Năm 712, quân Hồi Giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng nước này làm bàn đạp tiến quân đánh chiếm các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay là Pakistan và Afganistan) và xâm nhập phía Tây Trung Quốc – Quân Hồi bị quân nhà Đường chận lại tại sông Talas nên phải rút về Trung Á.

    Sự xuất hiện và bành trướng của đạo Hồi trong thế kỷ 7 hung bạo dữ dội như cơn gió xoáy (tornado) khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng.

    Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành trướng với tốc độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3 nguyên nhân sau đây:

    Nguyên nhân 1: Qua nhiều ngàn năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc Syro-Arabia, kiếp sống lang thang của những người Ả Rập càng ngày càng trở nên khó khăn vì đất đai ngày càng trở nên khô cằn. Từ thế kỷ 6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của Muhammad) có sáng kiến bỏ nghề du mục để chuyển hẳn sang nghề thương mại. Họ tổ chức các cuộc đi buôn đường xa với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và rất nhiều ngựa, lạc đà để chở hàng hóa lương thực, lều vải, vũ khí… Dần dần, thị trường ngày càng được mở rộng, nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ hành có thể gia tăng lên tới nhiều ngàn người.

    Do nhu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải học cưỡi ngựa, cưỡi lạc đà, luyện tập sử dụng các thứ vũ khí như gươm giáo cung tên, kể cả võ thuật và chiến thuật quân sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học cả địa lý và phong tục tập quán của các nước lân cận để gia tăng khả năng giao dịch thương mại. Trải qua nhiều thập niên, những thương gia (traders) Ả Rập trở thành những người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những là những thương gia rành nghề mà còn là những quân nhân thiện chiến, kỹ luật và còn là những người lãnh đạo quần chúng.

    Vào đầu thế kỷ 7, Mecca là thủ phủ của những người Quraysh đã trở nên một trung tâm thương mại lớn nhất tại Trung Đông. Những người Quraysh không còn có dáng dấp quê mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa trái lại họ đã trở thành những người văn minh giàu có. Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả Rập khác phải thèm muốn và cố gắng noi theo. Một trong những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins bắt chước bộ lạc Quraysh đã bỏ nghề du mục và tham gia vào các đoàn caravans của Mecca.

    Vào giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ lạc Ả Rập, nhất là Quraysh và Bedouin, đã nô nức nhập cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh thổ để thay đổi môi trường sống tại bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi.

    Nguyên nhân 2: Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế quốc Byzantine và Sassanian thay phiên nhau thống trị. Đế quốc Byzantine là hậu thân của đế quốc La Mã, được Đại Đế Constantine thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng Byzantine của Hy Lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng đế cuối cùng của đế quốc Byzantine vào giữa thế kỷ 15, tất cả đều là những hoàng đế theo Ki Tô Giáo Đông Phương (Eastern Christian Church) sau này trở thành Chính Thống Giáo. Đế Quốc Sassanian là đế quốc Ba Tư, tồn tại 427 năm (từ năm 224 đến 651). Các hoàng đế của đế quốc Sassanian đều theo đạo Hỏa Giáo (Zoroastrianism). Cả hai đế quốc nói trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên một khoảng trống quyền lực (a power vacuum) tại Trung Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binh của Hồi Giáo Ả Rập đã tiến vào lãnh thổ của cả hai đế quốc này như tiến vào chỗ không người.

    Nguyên nhân 3: Giáo lý đạo Hồi là sản phẩm của người Ả Rập nên được người Ả Rập đón nhận một cách dễ dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả Rập đã chấp nhận niềm tin của Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi là Allah) tin có Thiên đàng, Hỏa ngục, tin có các thiên thần v.v… Cho nên người Ả Rập không coi Hồi Giáo như một đạo ngoại lai mà là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh Koran đối với người Ả Rập là những áng thơ văn tuyệt tác. Mỗi khi họ đọc kinh Koran là một dịp họ ngâm thơ, họ cảm thấy những vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất hợp với khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến (Jihad) và ý niệm tử đạo (martyrdom) hoàn toàn phù hợp với tâm lý vốn hung bạo của người Ả Rập vì họ rất quen thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại sa mạc. Kinh Koran mô tả thiên đàng rất hấp dẫn đối với các chiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được coi như tử đạo, sẽ được Chúa cho lên thiên đàng để hưởng đủ lạc thú cho đến muôn đời. Lạc thú độc đáo nhất mà chỉ đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận hoặc tử đạo đều được những cô gái trinh tuyệt đẹp đón tiếp và phục vụ lạc thú ******** cho đến muôn đời vì mọi người ở thiên đàng đều trẻ mãi không già! Niềm tin đặc biệt này đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho những người lính Hồi Giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm trong các cuộc thánh chiến. Chỉ vì cuồng tín, những đoàn quân Hồi Giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt như những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.

    Những cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi Giáo (Kingdom of Allah) từ ngày lập đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời kỳ:

    - Thời kỳ I - từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo thành một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng Hồi Giáo là một vị vua được gọi là Caliph, có nghĩa là “người kế vị giáo chủ Muhammad về phương diện thế quyền “. Xin ghi thêm ở đây là đạo Hồi tin giáo chủ Muhammad là thiên sứ cuối cùng của Allah cho nên không một ai có quyền tự xưng là kẻ thừa kế của Ngài về phương diện thần quyền.

    - Thời kỳ II - từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do những biến cố đặc biệt của thế giới đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi Giáo. Trước hết là sự xâm lăng của quân Mông Cổ chiếm các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Ấn và nhiều nước Á Châu khác tạo thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều hoàng đế Mông Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi Giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Trong thế kỷ 15, tại Âu Châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi Giáo xua quân đánh chiếm nhiều nước trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc Azerbaizan ở tây nam biển Caspian bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh chiếm nhiều nước Âu Châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids theo giáo phái Shiite.

    I. THỜI KỲ CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS

    (The Caliphate Rulers)

    *Bốn người kế vị đầu tiên của Muhammad (632-661):

    Danh từ Hồi Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ Muhammad là RASHIDUN

    - Họ được coi là 4 trụ cột của Hồi Giáo trong thời kỳ sơ khai. Họ đã lần lượt thay thế nhau trong 29 năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những việc làm của họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao cho sự tồn vong của đạo Hồi. Bốn vị đó là : Abu Bakr, Umar Khattab, Uthman Affan và Ali Talib.

    1. Abu Bakr (632-634). Sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi Giáo non trẻ lâm vào tình trạng hỗn loạn vì không có lãnh đạo. Không một ai được đa số tín đồ Hồi Giáo tín nhiệm bầu lên làm nguời kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó, Abu Bakr tự động đứng lên dành quyền lãnh đạo. Ông là một thương gia giàu có và có uy tín bậc nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ đạo Hồi và cộng đồng Hồi Giáo:

    - Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng Hồi Giáo (Islamic confederacy)

    - Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa trên thế gian này.

    Abu Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo và chỉ sau 2 năm, toàn bán đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi. Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, (gấp 8 lần diện tích Việt Nam) hiện được chia thành nhiều quốc gia độc lập: Saudi Arabia, Yemen, Quatar, Omar và Emerite.

    2. Umar Khattab (634-644). Sau khi Abu Bakr qua đời, Umar được bầu làm người kế vị (Caliph) cai quản cả một cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả Rập.

    Umar là một thiên tài quân sự kiệt xuất trong lịch sử Hồi Giáo. Ông đã ban hành trên toàn lãnh thổ Ả Rập những biện pháp sau đây:

    - Để bảo toàn lực lượng Hồi Giáo, các bộ lạc trong Cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối không được đánh nhau.

    - Mọi người nam giới trong các bộ lạc trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập đều là các binh sĩ, tất cả đều được huấn luyện quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân đội. Umar tự xưng là “Tư lệnh của các tín đồ” (The commander of the faithful). Sau hai năm huấn luyện các binh sĩ và trang bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:

    * Năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi Giáo chiếm Iraq và Syria.

    * Năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế quốc Sassanian (Ba Tư) và chiếm thành phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là Anatolia.

    * Năm 638, Umar xua quân chiếm Palestine và thánh địa Jerusalem.

    * Năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, Tunisa và Maroc.

    Một điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi Giáo đã tiến chiếm những vùng đất xa xôi thuộc nhiều hướng khác nhau nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh ở Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro – Arabia. Ông chỉ huy các đoàn quân Hồi Giáo trên những sa bàn và những bản đồ tại văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Umar trong 10 năm, Hồi Giáo từ một giáo phái nhỏ ở sa mạc đã biến thành một đế quốc rộng lớn. Các tín đồ Hồi Giáo cho đó là một phép lạ của Allah, trong khi Âu Châu bắt đầu cảm thấy e ngại trước sự lớn mạnh của một tôn giáo mới.

    Họ gọi đạo Hồi là “đức tin của bạo lực” (A violent faith) hoặc là một “tôn giáo quân phiệt” (a militaristic religion). Vào một ngày định mệnh trong tháng 11 năm 644, trong khi Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Ba Tư đâm chết.

    3. Uthman (644-656). Uthman là cánh tay mặt và phục vụ dưới trướng của Umar 10 năm. Uthman đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự của người tiền nhiệm. Vào lúc nầy, Hồi Giáo là một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì họ đã tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích lũy được rất nhiều tài nguyên kinh tế dự trữ tại các vùng chiếm đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Uthman trong 12 năm, quân Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích chưa từng thấy:

    - Trước hết, quân Hồi chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải.

    - Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía Tây chiếm Libya.

    - Một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu Châu Armenia, tiến vào miền Caucase của Nga. Trong khi đó một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ (tức Afganistan và Pakistan ngày nay).

    Tới lúc này, Hồi Giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo dài từ Âu sang Á tới Bắc Phi. Những quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần đông đều cảm thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá lâu nên cũng mất đi tình thân ban đầu.

    Năm 656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần trở về Medina vây bắt và giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali Talib lên làm vị Caliph thứ tư của Hồi Giáo.

    4. Ali Talib (656-662). Vụ sát hại Uthman để đưa Ali lên thay là một biến cố vô cùng tai hại cho Hồi Giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và có thể còn kéo dài mãi mãi về sau. Ali là em họ và đồng thời là con rễ của Muhammad. Khi vừa được bầu lên làm Caliph, Ali đã gặp phải sự chống đối của Muawiyah là người nhà của Uthman. Muawiyah lúc đó là quan toàn quyền Hồi Giáo cai trị Syria lên tiếng chỉ trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali mang quân đến đánh Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên phải ngưng chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết. Muawiyah tự cho mình là người đang nắm quyền lực quân sự mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo. Y tự ý dời thủ đô Hồi Giáo từ Medina về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria. Muawiyah mở đầu cho một triều đại Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều đại Umayyad (Umayyad Dynasty) gồm những vị vua cai trị các nước Hồi Giáo, tất cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó, tất cả các vua Hồi Giáo thuộc triều đại Umayyad đều được gọi chung là “Caliphate Rulers”, có nghĩa là các nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là người kế vị Muhammad.

    Riêng cá nhân Muawiyah cai trị toàn bộ cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trong 19 năm. Ông biến những người theo ông thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một giai cấp thống trị (a ruling class). Chủ thuyết của Muawiyah là cai trị dân bằng sức mạnh quân sự (military aristocracy). Muawiyah chết vì bệnh năm 680.

    Trong thời gian đó, những người Hồi Giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo còn lại được gọi chung là Sunni, có nghĩa là Đa số. Năm 680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến Medina chặn bắt con trai của Ali là Husayn và giết nhiều người thuộc giáo phái Shiite. Năm sau (681), Yazid mang quân trở lại Medina (nơi ở cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố thánh địa này trong biển máu. Để trả thù, giáo phái Shiite mang quân chiếm thánh địa Mecca và tàn phá nặng nề thành phố này. Từ đó đến nay, trải qua trên 13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường xuyên xung đột nhau nhiều trận đẫm máu. Số người tử trận cả hai bên có thể lên tới nhiều chục triệu người. Đây là một thảm họa lớn nhất trong lịch sử thế giới Hồi Giáo.

    II. THỜI KỲ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO – TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20.

    1. Đế Quốc Mughul – Mughul là tiếng phiên âm Ả Rập để gọi người Mông Cổ (Mongol). Người sáng lập đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ chức họ thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng. Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi Châu. Luật tác chiến rất nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn là : Hễ tới nơi nào ngoan ngoãn đầu hàng thì tha, bất cứ một thành phố hay làng mạc nào chống cự đều bị phá bình địa và tất cả mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!

    - Năm 1219, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì bị bắt. Quân Mông Cổ tới đâu đều để lại phía sau sự đổ nát hoang tàn.

    - Năm 1231, hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi Giáo như Baghdad, Bukhara, Damacus… đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la liệt trên đường phố. Dân chúng sợ hãi lũ lượt kéo nhau chạy qua các nước lân cận.

    - Năm 1255, Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la bao gồm Trung Quốc, Cao Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ.

    Nhưng một biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ trong đế quốc đều thành những tín đồ Hồi Giáo thành tín. Các học sĩ Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được trọng dụng, nhất là trong việc soạn thảo các bộ luật hình sự và dân sự phỏng theo luật Hồi Giáo Sharia.

    Hoàng đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm Iran năm 1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ đô New Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400,Timur chiếm hai nước Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.

    Những hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở Châu Á:

    - Năm 1478, đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi Giáo. Ngày nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200 triệu dân.

    - Từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughul cai trị toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul Empire of India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại New Delhi. Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây ngôi mộ của hoàng hậu ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là ngôi mộ Taj Mahal..

    - Năm 1747, đế quốc Mughul chiếm Afganistan và cai trị nước này 100 năm.

    Năm 1831, người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên lục địa Châu Á.

    2. Đế quốc Ottoman (1289-1924)

    Danh từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi đế quốc của họ là OTTOMAN. Những người lãnh đạo đế quốc này đều theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.

    - Năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước theo Hồi Giáo.

    - Năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập Tự Quân của giáo hoàng La Mã tại Bulgaria.

    - Tháng 4.1453, quân Hồi Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine, tức đế quốc Ki Tô Giáo Đông Phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople. Điểm son của Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh thổ của Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại với các nước Âu Châu Ki Tô Giáo và trong lãnh thổ đế quốc không có một cuộc nổi loạn nào. Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có một chính sách quyết liệt không khoan nhượng.

    - Năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite trong đế quốc bị lùng giết.

    - Từ 1467 đến 1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo Arabia.

    - Từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô Vienne của Áo.

    - Năm 1606, Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế quốc Ottoman trở thành siêu cường quốc tế (World Power).

    Từ đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu Châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.

    3. Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)

    Thoạt đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở tây nam biển Caspian.

    Năm 1501, lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm luôn cả nước Azerbaizan. Esmail tự xưng là “Vua Hồi Giáo” (Sha/Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải theo đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm các nước lân cận theo Chính Thống Giáo là Armenia, Georgia và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính Thống Giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính Thống Giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân Safavids chuyển qua phía đông tấn công thành phố Anatolia để dằn mặt đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni. Trong khi đó, một nhóm khác thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên cướp chính quyền của giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite, ai bất tuân lệnh đều bị giết. Tất cả các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran) trở thành một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite. Các vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông đều cực đoan và hung dữ.

    Phần đông các học sĩ Hồi Giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí (mystical philosophy) tóm tắt như sau: “Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách rời. Mọi cải cách xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo”.

    Với bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết thần bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm. Họ luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái Hồi Giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.

    * *

    Như đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, trong thế giới Hồi Giáo đã xuất hiện ba đế quốc riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi Giáo đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:

    - Đế quốc Mughul thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.

    - Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.

    - Đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.

    Như vậy, hai đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughul đã cùng tồn tại song hành và chia nhau thống trị thế giới Hồi Giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughul, Ottoman và Safavids cùng tồn tại trong thế giới đạo Hồi (The Islamic World).

    Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu Châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế quốc Hồi Giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman.

    Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế quốc Mughul.

    (Sau Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi Giáo Trung Á đều biến thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết).

    - Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan, Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ).

    - Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và Maroc.

    - Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và Liban.

    Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới Hồi Giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu Châu.

    Lịch sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là “tôn giáo của lưỡi gươm” (Religion of Sword) hoặc “tôn giáo quân phiệt” (Militaristic Religion). Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là “Cuốn sách của tử thần” (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là: “đức tin hung bạo” (a violent faith). Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hồi Giáo đã bị Tây Phuơng dồn vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ không còn con đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.

    Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi Giáo đã tạo nên nhiều thành tích quan trọng:

    - Trong thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc Sassanian đã từng làm mưa làm gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.

    - Trong thế kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine (hậu thân của đế quốc La Mã) chặn đứng sự bành trướng của Ki Tô Giáo xuống bán đảo Ả Rập và Trung Đông.

    - Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo nên một đối trọng ngang ngửa với Ki Tô Giáo và tựu trung Hồi Giáo đã phá tan tham vọng bá chủ toàn cầu của đế quốc Vatican.

    Charlie Nguyễn
    ALPHA3 thích bài này.
  9. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    Lược sử về sự hình thành và phát triển của Thế giới Hồi giáo cho đến cuộc thập tự chinh lần I

    biên dịch: hongsonvh


    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.( cờ của người Hồi)

    Năm 570 -> 632 Cuộc đời của nhà tiên tri Mohamed.
    Năm 632 -> 661 Các vua Hồi giáo giòng Rashidun như Abur Bakr, Uthman, Umar, Ali.
    Năm 633 Các cuộc nổi loạn bị đè bẹp ở Iraq, 642 Xâm chiếm Ai cập
    Năm 643 ->707 Xâm chiếm Bắc Phi

    Iran

    Năm 643 ->650 Xâm chiếm toàn bộ Iran, trừ vùng duyên hải phía Nam biển Caspian
    Năm 652 Hoàng Đế cuối cùng của nhà Sassania của Iran ( Đế quốc Batư) chết.

    Byzantium
    Năm 670-> 677 Cuộc vây hãm đầu tiên của người Hồi giáo vào thành phố Constantinople

    Trung á
    Năm 650 Cuộc đột kích đầu tiên của người Hồi giáo vượt qua sông Amu Darya.
    Năm 675 ->715 Cuộc xâm chiếm Transoxania, lập chiến tuyến đầu tiên.

    Thế kỷ thứ 8
    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.
    Năm 744 ->748 Cuộc nổi loạn của người Kharaji theo Hồi giáo chính thống loang rộng
    Năm 749 ->750 Giòng Abbasid xâm lược Iraq, Syria và lật đổ vương triều Umayyad rồi lập nên vương triều Hồi giáo Abbasid.
    Năm 763 Thành lập thành phố Baghdad

    Ai cập và Bắc phi
    Năm 788 Vương triều Idrisid dành được độc lập ở Morocco

    Iran
    Năm 747 Bắt đầu cuộc nổi loạn của người giòng Abbasid ở Khurasan

    Byzantium

    Năm 712 ->717 Người Hồi giáo bao vây thành phố Constantinople lần thứ 2

    Trung á và Ấn độ

    Năm 710 -> 713 Người Hồi giáo xâm chiếm vùng hạ thung lũng Indus
    Năm 737 người Turk xâm lược vùng Transoxania của người Hồi giáo, nổ ra trận Juzian.

    Tây âu:

    Năm 711-> 713 Người Hồi giáo xâm chiếm bán đảo Iberia, thành lập ra vùng Andalus của Hồi giáo ở Tây Âu
    Năm 732 Nổ ra trận Poitiers

    Năm 755 ->756 Abd al Rahman-Hoàng tử sống sót của vương triều Umayyad, năm quyền kiểm soát vùng al Andalus, tỉnh đầu tiên tách ra khỏi sự kiểm soát của vua Hồi giáo.

    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.

    Năm 812 ->813 Cuộc bao vây Baghdad trong thời gian nổ ra cuộc nội chiến của triều Abbasid
    Năm 819 Vương triều Ziyadid dành được độc lập ở Yemen.
    Năn 836 Thủ đô của vương triều Abbasid được chuyển tới thành phố Samara
    Năm 877 Thống đốc Tulunid ở Ai cập xâm chiếm Syria

    Ai cập và Bắc phi
    Năm 800 Vương triều Aghlabid ở vùng lãnh thổ Tunisia dành được quyền tự trị
    Năm 809 Vương triều Aghlabid xâm chiếm Sardinia

    Năm 827 ->901 Vương triều Aghlabid xâm chiếm Sicily, đột kích vào Corsica, Ytalia, Pháp.
    Năm 846 Vương triều Aghlabid công phá thành phố Rome.

    Iran

    Năm 820 Vương triều Tahirid ở vùng lãnh thổ Khurasan dành được quyền tự trị
    Năm 825 Vương triều Dulayfid ở vùng lãnh thổ Khurdistan dành được quyền tự trị
    Năm 864 Vương triều Alid giành được độc lập ở phía Tây Iran.
    Năm 867 ->872 Vương triều độc lập Saffarid xâm chiếm phía đông Iran, Afghanistan, rồi đánh bại Vương triều Tahirid và chiếm toàn bộ vùng

    Iran.
    Năm 898 -> 930 Vương triều Abbasid phục hồi vùng lãnh thổ ở phía Tây Iran

    Byzantium
    Thế kỷ thứ 9 Người Hồi giáo và Byzantine thiết lập một chiếm tuyến rộng rãi.

    Trung á và Ấn độ

    Thế kỷ thứ 9->10 Thống đốc địa phương ở vùng thung lũng Indus tiếp tục trung thành với vương triều Hồi giáo Abbasid.
    Năm 874 Vương triều Samanid giành được quyền tự trị tại vùng Transoxania

    Phía Tây Âu

    Thế kỷ thứ 9 Người Hồi giáo và Thiên chúa giáo thành lập một chiến tuyến rộng lớn ở Andalus.

    Vùng Arab và sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.

    Thế kỷ thứ 10 Vùng trung tâm Arab nằm dưới sự kiểm soát của người Hồi giáo chính thống Qarmati, vùng Hijaz nằm dưới sự kiểm soát của Ai Cập, Yemem và Oman năm dưới sự kiểm soát của chính quyền địa phương.
    Năm 905 Triều đình Abbasid chiếm lại quyền kiểm soát của sự phát triển của Trăng lưỡi liềm.
    Năm 929 Vương triều Hamdanid ở vùng lãnh thổ Syria và Lưỡng hà dành được quyền tự trị

    Năm 941 Thống đốc Ikhshidid của Ai cập giành được quyền kiểm soát Palesione
    Năm 945 Triều Buyid ở Iran xâm chiếm Iraq, vua Hồi giáo triều Abbasid bị giam lỏng trong cung điện.
    Năm 969 Người Byzantine chiếm lại Antioch
    Năm 971 Triều Buyid của Iran xâm lược Oman và tự đó vùng này nằm trong sự kiểm soát của người Iran.

    Năm 929 Vương triều Marwanid ở phía bắc Lưỡng hà ( Diyarbakr ) dành được quyền tự trị.
    Năm 991 Triều Buyid của Iran xâm lược phía bắc Lưỡng hà
    Năm 996 Vương triều Uqaylid ở phía bắc Lưỡng hà ( Mosul ) dành được quyền tự trị.

    Ai cập và Bắc phi

    Năm 909 Giòng Fatimid thiết lập một vương triều Hồi giáo đối thủ ở Tunisia và xâm chiếm Sicily cùng với Sardinia
    Năm 935 Vương triều Ikhshidid thiết lập nền tự trị tại Ai Cập
    Năm 969 Vua Hồi giáo giòng Fatimid chiếm Ai cập
    Năm 972 Vương triều Zirid kế thừa các tỉnh Bắc phi, Sicily và Sardinia của vương triều Fatimid.
    Năm 975 Trân Sidon
    Năm 985 Vương triều Idrisid bị lật đổ tại Morocco bởi những người Berber ở địa phương.

    Năm 1017 -> 1173 Yemen bị chia rẽ thành rất nhiều vương quốc độc lập
    Năm 1023 Vương triều Mirdasid ở vùng phía Bắc Syria giành quyền tự trị.
    Năm 1094 -> 1096 Người Turk Saljuq xâm chiếm tất cả các thành bang ở địa phương ngoại trừ Mazyadid, một thành bang vùng duyên hải của Syria vẫn nắm trong sự kiểm soát của nhà Fatimid.
    Năm 1097 Quân lính của cuộc thập tự chinh lần thứ nhất tiến vào Syria
    Năm 1098 Triều đình Fatimid tái chính phục Palestine từ tay người Turk Saljuq
    Năm 1099 Thập tự quân chiếm Palestine và Jerusalem.

    Ai cập và Bắc phi

    Năm 1007 Năm 1023 Vương triều Hamadid ở Algeria giành quyền tự trị.
    Năm 1050 Bùng nổ phong trào Almoravid ở Mauretania, đột kích vào Gana ( năm 1054), xâm chiếm Morocco ( năm 1056-> 1069), Algeria ( năm 1082).
    Năm 1050 -> 1057 Các bộ tộc du mục Banu Hilal di cư về phía Tây và chiếm Libya, Tunisia.

    Iran

    Năm 1037 -> 1051 Người Turk Saljuq xâm chiếm toàn bộ Iran

    Byzantine

    Năm 1071 Người Turk Saljuq đánh bại người Byzantine trong trận Manzikirt.
    Năm 1072 Người Turk Saljuq được mời vào vùng Anatolia với tư cách đồng minh bởi một phe trong nội chiến Byzantine.
    Năm 1077 Tiểu quốc Rum của người Turk Saljuq được thành lập ở trung tâm của vùng Anatolia.
    Năm 1079 Vương triều Danishmandid giành được độc lập ở phía Đông vùng Anatolia.

    Trung á và Ấn độ

    Thế kỷ 11 Khara Khans cai trị vùng Transaxonia như là một chư hầu của người Turk Saljuq.
    Năm 1001-> 1024 Vương triều Ghaznawid của Aghanistan đột kích vào Ấn độ và chiếm thung lũng Indus ( nay là Pakistan) và phía Tây của đồng bằng Ganges..

    Tây Âu

    Năm 1031 Sự sụp đổ của vương quốc Hồi giáo Umayyad và sự thành lập của 15 tiểu quốc Hồi giáo độc lập trên khắp vùng Andalus.
    Năm 1085 Tiểu vương Hồi giáo Dhu al Nun sụp đổ và Toleo thất thủ vào tay Alfonso VI xứ Leon ( quốc vương người Thiên chúa giáo)
    Năm 1086 Vương triều Almoravid của Morocco gửi tiếp viện tới tất cả các tiểu vương của xứ Andalus, nổ ra trận Zallaca.
    Năm 1090 -> 1091 Vương triều Almoravid đã chiếm đóng toàn bộ vùng Andalus ngoại trừ vùng Saragossa và đảo Baleric vẫn còn nằm trong tay vương triều Hudid.

    ( các thông tin sưu tầm từ Osprey – The Armies of Islam 7th-11th Centuries)

    Một số triều đại Hồi giáo huy hoàng từ thế kỷ thứ 7 -> thế kỷ 13

    Triều đại nhà Umayyad


    Umayyad Caliphate là Triều đại thứ hai trong bốn Triều đại chính của người Arab được thành lập sau cái chết của Muhammad. Nó đã được cai trị bởi các thành viên của nhà Umayyad xuất phát từ Umayya ibn Abd Shams-ông nội của khalip ( Vua Hồi) Umayyad đầu tiên. Mặc dù thủa ban đầu gia đình Umayyad đến từ thành phố Mecca, nhưng Damascus mới là thủ đô của Vương quốc Hồi giáo này. Vào lúc đỉnh cao nhất của nó, nó có diện tích hơn năm triệu dặm vuông và là một trong 5 đế quốc lớn nhất thế giới. Sau khi Vương triều Umayyad bị lật đổ bởi Abbasid Caliphate, những người còn sống sót chạy trốn qua Bắc Phi để đến Al-Andalus, nơi họ thành lập Vương quốc Hồi giáo Córdoba, vương quốc này kéo dài cho đến năm 1031.

    Nguồn gốc

    Theo truyền thống, gia đình Umayyad (còn được gọi là Abd Banu-Shams) và nhà tiên tri Muhammad có nguồn gốc từ một tổ tiên chung, ban đầu Abd Manaf ibn Qusai và Muhammad đều đến từ thành phố Mecca. Muhammad truyền qua Abd Manāf tới Hashim-con trai của ông ta, trong khi Umayyads lại được Abd Manaf truyền qua một người con trai khác, Abd-Shams, có con trai là Umayya. Do đó hai gia đình được coi là hai thị tộc khác nhau (tương ứng là nhà Hashim và nhà Umayya) trong cùng một bộ tộc (Quraish). Tuy nhiên các sử gia người Shia đã chỉ ra rằng Umayya là một con trai nuôi của Abd Shams vì vậy ông không phải là dòng máu của Abd Manaf ibn Qusai. Sau đó Umayya bị loại bỏ ra khỏi các gia đình quý tộc.

    Trong khi đó thì giữa người Umayyads và người Hashimites có thể có hận thù giữa hai gia tộc trước khi Muhammad thành danh, Sự cạnh tranh trở thành một sự thù địch giữa các bộ tộc nghiêm trọng sau trận chiến Battle of Badr. Trong cuộc chiến ba nhà lãnh đạo hàng đầu của gia tộc Ummayyad (Utba ibn Rabi’ah, Walid ibn Utba và Shaybah) bị giết bởi người nhà Hashmites (Ali, Hamza ibn ‘Abd al-Muttalib và Ubaydah) trong một trận cận chiến ba đấu ba. Sự kiện này đã kích thích sự chống đối của Abu Sufyan ibn Harb-cháu trai của Umayya với Muhammad và đạo Hồi. Abu Sufyan tìm cách tiêu diệt các tín đồ của các tôn giáo mới bằng cách tiến hành một cuộc chiến với người Hồi giáo lúc này có trụ sở tại Medina chỉ một năm sau trận Battle of Badr. Ông ta tiến hành chiến dịch này để trả thù cho thất bại tại Badr. Theo các học giả thì trận Uhud là thất bại đầu tiên của người Hồi giáo, và họ đã phải chịu thiệt hại lớn hơn so với người Mecca. Tuy nhiên trong vòng năm năm sau thất bại của ông trong Trận Uhud, Muhammad đã nắm quyền kiểm soát Mecca và công bố một lệnh ân xá chung cho tất cả. Lo sợ cho cuộc sống của họ và lòng thù hận từ người Hồi giáo, Abu Sufyan và vợ của ông ta đã gia nhập Hồi giáo vào đêm trước khi Mecca bị chinh phục và con trai của họ (Muawiyah I-vị vua Hồi giáo trong tương lai) cũng làm vậy. Những người chinh phục Mecca đã trấn áp nhà Ummayyads vào thời gian sau đó và càng làm dấy lên lòng căm thù của họ ( nhà Ummayyad ) đối với nhà Hashmites và rồi đây lại là kết quả của trận đánh giữa Muawiyah I và Ali dẫn đến việc Husayn ibn Ali cùng với gia đình và vài người bạn đã bị sát hại theo mệnh lệnh của Yazid ibn Muawiyah sau trận Karbala.

    Hầu hết các sử gia đều xem Caliph Muawiyah (661-80) là vị vua thứ hai của triều đại Umayyad, mặc dù ông này là người đầu tiên khẳng định quyền cai trị của Umayyads trên một nguyên tắc triều đại. Thực sự thì vị vua Hồi giáo thứ nhất là Uthman Ibn Affan (644-656), một thành viên của gia tộc Ummayyad, người đã chứng kiến sự hồi sinh và sau đó là uy thế của gia tộc Ummayyad trước những hành lang quyền lực. Uthman, trong suốt triều đại của mình, đặt một số thành viên đáng tin cậy của các gia tộc của mình tại các vị trí nổi bật và mạnh mẽ trên toàn thành bang. Đáng chú ý nhất là việc bổ nhiệm Marwan ibn al-Hakam, người anh em họ đầu tiên của Uthman, là cố vấn hàng đầu của ông, việc này đã tạo ra một khuấy động trong gia tộc Hashmite của Muhammad, như việc Marwan cùng với cha ông ta là Al-Hakam ibn Abi al-’As đã vĩnh viễn bị trục xuất khỏi Medina. Uthman cũng đã bổ nhiệm Walid ibn Uqba, người anh em cùng cha với Uthman là thống đốc Kufah, người bị buộc tội bởi gia tộc Hashmites là dẫn đầu cuộc cầu nguyện trong khi bị ảnh hưởng bởi rượu. Uthman cũng tăng quyền của Thống đốc Muawiyah của Syria bằng cách cấp cho ông này quyền kiểm soát một khu vực lớn hơn và bổ nhiệm anh trai nuôi của mình Abdullah ibn Saad là Thống đốc của Ai Cập. Tuy nhiên, vì Uthman không bao giờ có người thừa kế nên ông không được coi là người sáng lập ra triều đại Ummayyad.

    Sau vụ ám sát Uthman vào năm 656, Ali-một thành viên của gia tộc Hashimite và một người em họ của Muhammad được bầu làm khalip. Ông đã sớm gặp sự kháng cự từ một số phe phái, do thiếu kinh nghiệm chính trị của ông. Lo ngại nguy hiểm cho cuộc sống của mình, Ali dời đô từ Medina tới Kufa. Kết quả là một cuộc xung đột, kéo dài từ năm 656 đến 661, được gọi là First Fitna (“Nội chiến đầu tiên”).

    Đầu tiên Ali bị phản đối bởi một liên minh do Aisha-vợ của Muhammad và Talhah cùng với Al-Zubayr, Hai trong số những người đi cùng Muhammad. Hai bên đụng độ tại Trận Battle of the Camel tại 656, nơi mà Ali giành được một chiến thắng quyết định.

    Ali bị ám sát năm 661, dường như bởi một thành viên của băng đả.ng Kharijite. Muawiyah hành quân đến Kufa, nơi ông đã thuyết phục một số người ủng hộ Ali công nhận ông ta là khalip thay vì Hasan-con trai của Ali. Sau khi nắm quyền lực, Muawiyah chuyển thủ đô của vương quốc Hồi giáo ở Damascus. Syria sẽ vẫn là căn cứ của sức mạnh của nhà Umayyad cho đến khi triều đại này kết thúc vào năm 750 AD. Tuy nhiên, nhà Ummayyad lại hồi sinnh ở Cordoba (Al Andalus, ngày hôm nay của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) dưới hình dạng một Tiểu vương Hồi giáo và sau đó là một vương quốc Hồi giáo, vương quốc này kéo dài cho đến năm 1031 AD. Nhưng chưa hết nhà Ummayyad tiếp tục sự cai trị của người Hồi giáo ở Iberia trong vòng một 500 năm sau đó trong hình thái của một số các tiểu quốc Hồi giáo như: vương quốc Taifas, Berber và Vương quốc Granada cho tới thế kỷ 16.

    Trong năm 712, Muhammad bin Qasim, Một vị tướng nhà Umayyad khởi hành bằng đường thủy từ khaleej tiến tới Sindh và chinh phục cả vùng Sindh và vùng Punjab dọc theo sông Indus. Cuộc chinh phục các vùng Sindh và Punjab là tiền đề cho nhà nước Pakistan ngày nay. Mặc dù cuộc viễn chinh là rất tốn kém, nhưng nó đã thu được thành công lớn cho Quốc vương Hồi giáo Umayyad về mặt lãnh thổ. Tuy nhiên, một lợi ích lớn hơn nữa là nó đã chặn lại bước tiến của Vương quốc Hindu Rajput ở phía bắc Ấn Độ.

    Trong giai đoạn sau của sự tồn tại của nó ( nhà Ummayyad ) và đặc biệt là từ năm 1031 AD trong hệ thống của tiểu vương Hồi giáo Ta’ifa (Princedoms ?) ở nửa phía nam của bán đảo Iberia, Tiểu vương hay còn gọi là Vương quốc Hồi giáo Granada đã duy trì được nền độc lập của nó phần lớn là do chấp nhận Triều cống cho vương quốc Kitô giáo ở phía Bắc và vương quốc Kitô giáo này bắt đầu mở rộng dần về phía nam từ năm 1031.

    Sự cai trị của người Hồi giáo cai trị ở Iberia chỉ kết thúc vào ngày 02 tháng 1 năm 1492 với vương quốc Nasrid của Granada bị chinh phục. Vua Hồi giáo cuối cùng của Granada-Muhammad XII hay thường được gọi là Boabdil, đã chấp nhận đầu hàng trước nhà vua Ferdinand II của xứ Aragon và nữ hoàng Isabella I của xứ Castile-Vua Công Giáo – los Reyes Católicos.

    ALPHA3 thích bài này.
  10. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    Lịch sử ( những triều vua thuộc nhà Umayyad)

    Triều đại Sufyanid

    Triều đại của cá nhân Muawiyah được gọi là “Sufyanid” (con cháu của Abu Sufyan), trị vì từ năm 661-684, cho đến khi Muawiya II-cháu của ông lên ngôi. Triều đại của Muawiyah I được đánh dấu bằng việc ổn định nội bộ và mở rộng ra bên ngoài. Về mặt nội bộ, chỉ có một cuộc nổi loạn lớn được ghi nhận, đó là của Adi ibn Hujr tại Kufa. Hujr ibn Adi hỗ trợ cho đòi hỏi của con cháu của Ali về ngôi vị quốc vương Hồi giáo, nhưng cuộc nổi loạn của ông đã dễ dàng bị đàn áp bởi viên thống đốc của Iraq, Ziyad ibn Abi Sufyan.

    Muawiyah cũng khuyến khích sống chung hòa bình với các cộng đồng Kitô hữu của Syria và một trong những cố vấn thân cận nhất của ông là Sarjun, cha của John của Damascus. Đồng thời, ông không ngừng tiến hành các cuộc chiến tranh chống đế quốc Byzantine. Trong suốt triều đại của ông, các đảo Rhodes và Crete đã bị chiếm đóng và một số cuộc tấn công đã được tiến hành nhằm vào Constantinople. Muawiyah cũng giám sát việc mở rộng quân sự ở Bắc Phi (nền tảng của vùng Kairouan) và ở Trung Á (các cuộc chinh phục nhằm vào Kabul, Bukhara và Samarkand).

    Sau cái chết của Muawiyah tại 680, ông được kế vị bởi Yazid I-con trai ông. Việc thừa kế ngôi vị của Yazid đã bị phản đối bởi một số người Hồi giáo nổi bật, đặc biệt là Abd-Allah ibn al-Zubayr, con trai của một trong những đồng minh của Muhammad và Husayn ibn Ali, cháu trai của Muhammad và con trai của Ali. Cuộc xung đột kết quả được biết đến như là Fitna ( nội chiến) thứ hai.

    Trong 680 Ibn al-Zubayr và Husayn bỏ chạy khỏi Medina và đến Mecca. Trong khi Ibn al-Zubayr vẫn ở lại Mecca cho đến khi ông chết, Husayn quyết định đi đến Kufa để tập hợp sự ủng hộ. Tuy nhiên, theo mệnh lệnh của Yazid, một quân đội Umayyad lớn (truyền thuyết đề cập lên đến 70.000 người) đã chặn đánh và tàn sát không thương tiếc Husayn, các thành viên gia đình và đồng minh của ông trong trận Karbala. Khoảng 72 người trong nhóm của Husayn bao gồm chính bản thân ông ta cùng với phụ nữ, trẻ em và người già cùng với đứa con nhỏ sáu tháng tuổi của ông đã bị giết chết.

    Sau cái chết của Husayn, Ibn al-Zubayr, lúc này còn lại ở Mecca, đã liên kết với hai lực lượng đối lập, một có căn cứ ở Medina và một nữa là những người Kharijites tại Basra và Arabia. Năm 683, Yazid phái một đội quân đi để chinh phục cả hai địa điểm trên. Quân đội của Yazid đã đánh bại phe đối lập ơt Medina trong trận al-Harra và tiếp tục vào bao vây thánh địa Mecca. Trong cuộc bao vây, Kaaba đã bị phá hủy bởi lửa cháy. Việc tiêu hủy Kaaba trở thành một nguyên nhân chính cho sự chỉ trích nhằm vào Triều đại Umayyads bởi những nhà chép sử sau này.

    Yazid đã chết trong khi cuộc bao vây vẫn còn dở dang và quân đội Umayyad trở về Damascus, mặc cho Ibn al-Zubayr chiếm lại quyền kiểm soát Mecca. Yazid được thừa kế bởi Muawiya II (683-84)-người con trai đầu tiên của ông, nhưng có vẻ như ông này không bao giờ được công nhận là một vị vua Hồi giáo ở những vùng bên ngoài Syria. Hai phe ra sức tập hợp lực lượng tại Syria: Liên minh của Qays ( the Confederation of Qays), những người ủng hộ Ibn al-Zubayr, và Quda’a, những người ủng hộ Marwan, một hậu duệ của giòng Umayya qua Umayyah ibn Wa’il. Những người ủng hộ Marwan đã chiến thắng trong một trận chiến tại Marj Rahit gần Damascus vào năm 684 và ngay sau đó Marwan trở thành vua Hồi giáo.

    Triều đại Marwanid

    Nhiệm vụ đầu tiên của Marwan là để khẳng định sức mạnh của mình để chống lại những tuyên bố của Ibn al-Zubayr, đối thủ của mình, người tại thời điểm này được công nhận là vua Hồi giáo trong suốt hầu hết thế giới Hồi giáo. Marwan tái chiếm Ai Cập cho Triều đình Umayyads nhưng sau đó ông đã chết vào năm 685 trong khi mới trị vì chỉ có chín tháng.

    Marwan được kế vị bởi con trai ông, Abd al-Malik (685-705), người kiểm soát Triều Umayyad và ra sức củng cố lại vương triều hồi giáo của mình. Thời gian đầu của triều đại Abd al-Malik được đánh dấu bởi cuộc nổi dậy của Al-Mukhtar nổ ra tại Kufa. Al-Mukhtar hy vọng sẽ đưa Muhammad ibn al-Hanafiyyah-một con trai của Ali lên làm quốc vương Hồi giáo, mặc dù bản thân Ibn al-Hanafiyyah có thể đã không có liên quan đến cuộc nổi dậy này. Quân của al-Mukhtar đã tham chiến với quân của nhà Umayyads vào năm 686 tại sông Khazir ở gần Mosul trận này là một thất bại cho nhà Umayyad nhưng Ibn al-Zubayr cũng bị thua trận vào năm 687, và sau đó cuộc nổi dậy của al-Mukhtar đã bị dẹp tan. Năm 691, quân đội của nhà Umayyad đã chinh phục Iraq và trong năm 692 đã chiếm Mecca. Ibn al-Zubayr bị giết trong cuộc tấn công này.

    Sự kiện lớn thứ hai ở đầu triều đại đầu của Abd al-Malik là việc xây dựng Nhà thờ Hồi giáo bằng đá (Dome of the Rock ) ở Jerusalem. Mặc dù niên đại của việc xây dựng này vẫn còn là điều chưa chắc chắn, nó dường như đã được hoàn thành vào năm 692 có nghĩa là nó đã được xây dựng trong thời gian nổ ra cuộc xung đột với Ibn al-Zubayr. Điều này đã khiến một số nhà sử học cả ở thời trung cổ và hiện đại đều cho rằng Dome of the Rock được xây dựng để cạnh tranh với nhà thờ Kaaba lúc này nằm dưới sự kiểm soát của Ibn al-Zubayr như là một điểm đến cho các chuyến hành hương.

    Abd al-Malik được cho là đã có công tập trung hóa việc quản lý vương quốc của mình và với thiết lập tiếng Ả Rập như là ngôn ngữ chính thức của nó. Ông cũng cho ban hành một tiền Hồi giáo được đúc duy nhất thay thế các đồng tiền của Byzantine và Sasanian được sử dụng trước đó.

    Sau cái chết của Abd al-Malik, con trai của ông, Al-Walid I (705-15) trở thành vua Hồi. Al-Walid cũng tài trợ cho công cuộc xây dựng nhà thờ Hồi giáo Al-Masjid al-Nabawi ở Medina và nhà thờ Hồi giáo lớn nhất của Damascus.

    Một nhân vật quan trọng trong cả hai triều đại của Walid-al và Abd al-Malik là thống đốc Umayyad của Iraq, Al-Hajjaj bin Yousef. Nhiều người Iraq vẫn chống lại sự cai trị của nhà Umayyad và al-Hajjaj phải đưa quân đội từ Syria đến để duy trì trật tự, ông cho quân đội đồn trú trong Wasit-một thị trấn mới. Lực lượng quân đội này có vai trò quan trọng trong việc đàn áp một cuộc nổi dậy được dẫn dắt bởi một vị tướng Iraq, Ibn al-Ash’ath, vào đầu thế kỷ thứ tám.

    Al-Walid được kế tục bởi anh trai của ông, Sulayman (715-17), người trong thời gian trị vì đã tiến hành một cuộc bao vây kéo dài vào thành phố Constantinople. Thất bại của cuộc bao vây đánh dấu sự kết thúc những tham vọng lớn của người Ả Rập nhằm vào thủ đô của người Byzantine. Tuy nhiên, hai thập niên đầu của thế kỷ thứ tám chứng kiến sự mở rộng liên tục của vương quốc Hồi giáo này ở bán đảo Iberia ở phía tây và vào Trung Á và miền bắc Ấn Độ ở phía đông.

    Sulayman được kế vị bởi người anh em họ của ông, Umar ibn Abd al-Aziz (717-20), người có vị thế độc đáo trong số các khalip của nhà Umayyad. Ông là chỉ cai trị Umayyad đã được công nhận bởi các truyền thống Hồi giáo sau này như là một khalip (Khalifa)chính thống-tức là thiên về làm thủ lĩnh tôn giáo chứ không chỉ đơn thuần là một vị vua thế tục (Malik).

    Umar được cho là đã được vinh danh bởi nỗ lực của ông để giải quyết vấn đề tài chính trong việc khuyến khích dân chúng chuyển sang đạo Hồi. Trong thời gian nhà Umayyad trị vì, đa số người dân sống trong vương quốc Hồi giáo này không phải là người Hồi giáo mà là Thiên chúa giáo, Zoroastrian, Do Thái giáo hoặc một tôn giáo nào đó. Những cộng đồng tôn giáo này đã không bị ép buộc phải chuyển đổi sang đạo Hồi, mà chuyển đổi theo một lý do kinh tế-thuế (jizyah) đã không bị áp đặt vào người Hồi giáo. Tình hình này thực sự có thể đã làm cho việc chuyển đổi sang đạo Hồi gây ra những thâm thủng về mặt ngân sách của vương quốc và có nhiều báo cáo rằng thống đốc các tỉnh tích cực khuyến khích cách chuyển đổi này. Người ta không biết rõ ràng rằng Umar cố gắng giải quyết tình trạng này như thế nào, nhưng có nhiều nguồn miêu tả rằng ông kiên định cách đối xử một cách bình đẳng giữa người Hồi giáo Ả-rập và phi Ả-rập (mawali), và loại bỏ các trở ngại đối với việc chuyển đổi những người phi Ả Rập sang theo Hồi giáo.

    Sau cái chết của Umar Yazid II (720-24)-một con trai của Abd al-Malik, trở thành khalip. Yazid được biết đến với “chỉ dụ iconoclastic” của mình, đây là chỉ dụ ra lệnh phá hủy hình ảnh của Thiên chúa giáo trong lãnh thổ của Vương quốc Hồi giáo này. Năm 720, một cuộc nổi dậy lớn đã nổ ra ở Iraq, lần này do ibn al-Yazid Muhallab lãnh đạo.

    Hisham và việc cắt giảm mở rộng các hoạt động quân sự

    Hisham (724-43)-người con út của Abd al-Malik đã nối ngôi trở thành khalip ( vua Hồi ), thời cai trị của ông được đánh dấu bởi thời gian trị vì lâu dài và nhiều sự kiện đặc biệt là việc cắt giảm mở rộng các hoạt động quân sự.

    Hisham thành lập triều đình của mình tại Resafa ở miền bắc Syria, đây là nơi gần biên giới với Byzantine hơn so với ở Damascus và ông này lại tiếp tục các cuộc chiến tranh chống lại người Byzantine, mà các cuộc chiến này vốn đã bị mất đi hiệu quả sau thất bại của cuộc bao vây cuối cùng vào thành phố Constantinople. Các chiến dịch mới dẫn đến không chỉ một số cuộc tấn công thành công vào Tiểu Á, mà còn có một thất bại lớn (trong trận Akroinon) và đã không tạo ra bất kỳ sự mở rộng đáng kể nào về mặt lãnh thổ.

    Hơn nữa triều đại của Hisham còn phải chứng kiến sự kết thúc của việc mở rộng ở phía tây, sau thất bại của quân đội Ả Rập trước người Frank ( Charles Matel ) trong trận Tours năm 732. Năm 739 một cuộc nổi loạn lớn của người Berber nổ ra tại Bắc Phi, và nó bị trấn áp một cách rất khó khăn.

    Hisham còn bị đánh bại một cách tồi tệ hơn nữa ở phía đông, nơi mà quân đội của ông đã cố gắng để chinh phục cả Tokharistan với thủ phủ của nó ở Balkh và Transoxia, với thủ phủ ở Samarkand. Cuối cùng thì cả hai vùng này đã bị chinh phục một phần, nhưng vẫn khó để cai trị ở đó.

    Một lần nữa, một câu hỏi khó khăn được đặc biệt quan tâm đến là việc chuyển đổi những người phi Ả Rập, đặc biệt là người Sogdian của xứ Transoxia. Ashras ibn ‘Abd al-Sulami Allah, thống đốc Khorasan, hứa giảm thuế cho những người Sogdian nếu họ chuyển đổi sang đạo Hồi, nhưng đã nuốt lời hứa của mình khi việc chuyển đổi là quá phổ biến và đe dọa sẽ làm giảm nguồn thu thuế. Năm 734, al-Harith ibn Surayj lãnh đạo một cuộc nổi dậy của người Sogdian, quân nổi dậy chiếm được Balkh nhưng không chiếm được Merv. Sau thất bại này, dường như cuộc nổi dậy của al-Harith đã bị giải tán, nhưng vấn đề về quyền lợi của người Hồi giáo phi Ả Rập không còn được quan tâm bởi nhà Umayyads.

    Cuộc nội chiến Fitna thứ ba

    Hisham được kế tục bởi Al-Walid II (743-44), con trai của Yazid II. Al-Walid được cho là quan tâm hơn đến những thú vui trần thế hơn so với niềm tin tôn giáo, một tiếng xấu của ông được xác nhận bởi các nhà sử học là cho dựng lên cái gọi là các “cung điện sa mạc” (bao gồm cả Qusayr Amra và Khirbat al-Mafjar). Ông này nhanh chóng thu hút sự hận thù của rất nhiều người, gồm cả những người phản đối sự lên ngôi của ông và những người thuộc phong trào thần học Qadariyya.

    Năm 744, Yazid III, con trai của Walid al-I, đã tuyên bố làm khalip tại Damascus và dẫn quân đội của mình tiến lên và giết chết al-Walid II. Yazid III đã có một danh tiếng nhất định về đạo đức và có thể chiếm được cảm tình của các thành viên của Qadariyya. Nhưng rất đáng tiếc là ông này đã qua đời chỉ sau một sáu tháng trị vì.

    Yazid đã bổ nhiệm Ibrahim-anh trai của mình làm người kế nhiệm của mình, nhưng Marwan II (744-50)-cháu trai của Marwan I dẫn một đội quân từ biên giới phía bắc và tiến vào Damascus vào tháng 12 năm 744, sau đó ông này cũng lại tuyên bố làm khalip. Marwan ngay lập tức chuyển thủ đô đến Harran-một vùng ở phía Bắc. ngày nay nay thuộc Thổ nhĩ kỳ. Một cuộc nổi loạn đã ngay lập tức nổ ra ở Syria, có lẽ do sự bất mãn về việc di dời thủ đô và trong năm 746 Marwan đã cho san bằng các bức tường của các thành phố Homs và Damascus để trả đũa.

    Marwan cũng phải đối mặt với sự chống đối đáng kể từ băng đả.ng Kharijites ở Iraq và Iran, họ đã đưa ra đầu tiên là Dahhak ibn Qays và sau đó là Abu Dulaf như là những khalip đối thủ. Năm 747, Marwan cố gắng để thiết lập lại sự kiểm soát tới Iraq, nhưng trong thời gian này một mối đe dọa nghiêm trọng hơn đã phát sinh từ Khorasan ( vùng ngã tư phía bắc của Iran, bắc của Afghanistan, và phần phía nam của Turkmenistan và Uzbekistan.

    Phong trào Hashimiyya (một chi nhánh nhỏ của người Shia Kaysanites), được lãnh đạo bởi nhà Abbasid, đã lật đổ quốc vương Hồi giáo nhà Umayyad. Nhà Abbasids là thành viên của gia tộc Hashim đối thủ của nhà Umayyads, nhưng từ “Hashimiyya” dường như là để nói đến Abu Hashim, một cháu nội của Ali và con trai của Muhammad ibn al-Hanafiyya. Theo truyền thống, Abu Hashim đã chết trong năm 717 tại Humeima trong ngôi nhà của Ali ibn Muhammad, người đứng đầu gia đình Abbasid và trước khi chết đã đặt Ali ibn Muhammad làm người kế nhiệm của ông. Truyền thống này cho phép nhà Abbasids tập hợp những người ủng hộ cuộc nổi dậy thất bại của Mukhtar-người đã đại diện cho những người ủng hộ Muhammad ibn al-Hanafiyya.

    Bắt đầu từ khoảng năm 719, Hashimiyya đã bắt đầu sứ mệnh tìm kiếm tín đồ trong vùng Khurasan. Chiến dịch của họ được gói gọn trong công tác truyền đạo (dawah). Họ tìm cách tập hợp sự ủng hộ cho một “thành viên của gia đình” của Muhammad, mà không nói rõ ràng rằng đó là nhà Abbasids. Các tín sứ đã thu được thành công cả trong người Ả Rập và người phi Ả Rập (mawali) và sau này có thể người phi Ả Rập đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của phong trào.

    Khoảng năm 746, Abu Muslim-lãnh đạo của phong trào Hashimiyya ở Khurasan. Năm 747, ông bắt đầu thành công một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của Triều Umayyad, cuộc nổi dậy được tiến hành với dấu hiệu là những lá cờ đen. Ông đã ngay lập tức chiếm quyền kiểm soát Khurasan và trục xuất Nasr ibn Sayyar-viên thống đốc của triều Umayyad và phái một đội quân hướng về phía tây. Kufa rơi vào tay Hashimiyya năm 749 và vào tháng 11 cùng năm Abu al-Abbas được công nhận là khalip mới tại nhà thờ Kufa.

    Tại thời điểm này quân đội của Marwan được huy động từ Harran và tiến về phía Iraq. Trong tháng Giêng năm 750 lực lượng hai bên đã gặp trong trận Battle of the Zab và nhà Umayyad đã bị đánh bại. Damascus rơi vào tay nhà Abbasids vào tháng Tư và vào tháng Tám Marwan đã bị giết chết tại Ai Cập.

    Những người chiến thắng đã cho quật mồ các ngôi mộ của nhà Umayyads tại Syria, chỉ chừa lại ngôi mộ của Umar II và hầu hết các thành viên còn lại của gia đình Umayyad đều bị giết. Một cháu trai của Hisham, Abd ar-Rahman I, sống sót và thành lập một vương quốc ở Al-Andalus ( người Moor xứ Iberia) và tuyên bố rằng giòng họ Umayyad-vua Hồi giáo đã hồi sinh.
    ALPHA3 thích bài này.

Chia sẻ trang này