1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hội những người họ Vũ

Chủ đề trong 'Public - Gặp gỡ giao lưu' bởi nguoixaytoam, 25/01/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thien_giao_chu

    thien_giao_chu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/12/2006
    Bài viết:
    1.033
    Đã được thích:
    0
    đưa cái lịch sử đó lên trang đầu được đấy
    wellcome http://vutoc.com/
    cố lên các bác spam sắp 100tr ròi
    Được thien_giao_chu sửa chữa / chuyển vào 23:08 ngày 28/02/2007
  2. fantasyIX

    fantasyIX Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/12/2003
    Bài viết:
    844
    Đã được thích:
    0
    Tiếp theo ...
    THÀNH TỰU NHO HỌC VÀ TRUYỀN THỐNG ĐẬU ĐẠT
    CỦA HỌ VŨ - LÊ Ở MỘ TRẠCH
    TS. Vũ Duy Mền- Viện Sử học
    Làng Mộ Trạch ngày nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Nếu du khách đến thăm quan làng thoáng qua chắc đều có chung cảm nhận Mộ Trạch cũng giống như muôn ngàn làng quê khác ở Việt Nam. Song nếu ai có ý muốn tìm hiểu nghiên cứu thì Mộ Trạch là một làng có nhiều nét văn hoá cổ truyền đặc sắc, không những thể hiện ở những di tích kiến trúc mà điều đáng ngạc nhiên là thành tựu khoa cử xưa của làng. Nơi đây từng được mệnh danh là ?oTiến sĩ sào?- ổ Tiến sĩ- lò Tiến sĩ; làng Tiến sĩ nổi tiếng nhất ở xứ Đông (Hải Dương) và ở trong nước trước kia.
    Có nhiều tài liệu gồm sách khoa bảng, bia ký và tài liệu hiện còn lưu giữ ở làng ghi chép về thành tựu khoa cử của Mộ Trạch. Dẫu rằng những con số về những người đậu đạt của làng qua các kỳ thi Nho học còn có sự khác nhau, chưa thống nhất. Việc tìm ra một con số chung, chính xác về thành tựu đó là công việc của các nhà nghiên cứu. Nhằm cung cấp thêm tài liệu để bạn đọc tham khảo và biết thêm thông tin về thành tựu khoa cử chúng tôi giới thiệu cuốn Đinh từ tự điển (quyển văn tế của làng Mộ Trạch).
    Đinh từ tự điển viết bằng chữ Hán, do Nho sinh Vũ Tông Hải, tự là Bao Như trước thuật xong vào ngày tốt tháng 2 mùa Xuân năm Cảnh Hưng thứ 31 (1780). Lang Trung Vũ Lan Am (Vũ Phương Lan) đề tựa. Tiến sĩ, cống bộ Phó sứ, Đông các đại học sĩ, Hồng Trạch Bá Vũ Di Hiên (Vũ Huy Đĩnh) xem lại. Nhóm tác giả này đều là anh em con cháu họ Vũ ở làng Mộ Trạch.
    Đinh từ tự điển hiện nay lưu ở Ban quản lý di tích Mộ Trạch có lẽ là bản sao, không rõ thuộc thế hệ thứ mấy? Sách gồm 47 trang, giấy cũ, khổ 14x27cm. Chữ Hán chân phương, mỗi trang 8 dòng, dòng nhiều nhất 23 chữ, dòng ít nhất 3 chữ; tổng cộng khoảng gần 6000 chữ.Nội dung sách như sau:- Lời tựa- Duệ hiệu Thần tổ đại vương (Vũ Hồn- Thuỷ tổ họ Vũ, thành hoàng làng Mộ Trạch).- Điều lệ (tế Xuân, Thu hàng năm).- Mẫu bài văn tế.- Văn cáo miếu. Đinh từ tự điển (ghi các bậc Tiên thánh, Tiên sư, Tiên hiền, Tiên Nho, Tiên triết đậu Hoàng bảng- đại khoa và các bậc truyền giáo, truyền đạo- Nho của x? Mộ Trạch).Các bậc Tiên triết, đậu Hoàng bảng gồm:
    1. Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển Thượng thư, Tả thị lang, Trung thư môn hạ, tặng Tả bộc xạ Vũ tướng công, huý là Hán Bi (Vũ Hán Bi).
    2. Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển, Thị lang, Đồng trung thư môn hạ, tam phẩm, trí sĩ Tạ tướng công (không rõ tên huý).
    3. Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển, Tả ty, Thị lang Đồng trung thư môn hạ Vũ tướng công, huý là Nghiêu Tá (Vũ Nghiêu Tá).
    4. Đại học sĩ, Nhập nội hành khiển Vũ tướng công (không rõ tên huý).
    5. Hoàng giáp khoa Quý Mùi (1463), Thượng thư bộ Hộ, tặng Thái bảo, Ước Trai Vũ tướng công, huý là Hữu (Vũ Hữu).
    6. Hoàng giáp khoa Mậu Tuất (1478), Thượng thư bộ Binh, kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp, Sử quán Đô tổng tài, Nhập thị kinh diên, Đốc Trai Vũ tướng công, huý là Quỳnh (Vũ Quỳnh).
    7. Hoàng giáp khoa Đinh Mùi (1487), Chiêu văn quán, Tư huấn, Lan Trai Vũ Thai công, huý là Đôn (Vũ Đôn).
    8. Hoàng giáp khoa Nhâm Tuất (1502), Thượng thư bộ Lễ, Chưởng Hàn lâm viện sự, Nhập thị kinh diên, Lễ Độ Bá, thuỵ là Cung Lượng Tùng Hiên Vũ tướng công, huý là Cán (Vũ Cán).
    9. Trạng Nguyên khoa ất Sửu (1505), bộ Hộ Hữu thị lang, tặng Đạo Trạch Bá, Nam Hiên Lê tướng công, huý là Nại (Lê Nại).
    10. Hoàng giáp khoa Tân Mùi (1511), Lại khoa Cấp sự trung, Thông Trai Lê Thai công, huý là Đỉnh (Lê Đỉnh).
    11. Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520), Công khoa Đô cấp sự trung, Kính Trai Vũ Thai công, huý là Lân chỉ (Vũ Lân Chỉ).
    12. Hoàng giáp khoa Mậu Tuất (1538), cống bộ Chánh sứ, Thượng thư bộ Lại, tặng Thiếu bảo Tô Xuyên Hầu Quận công, thuỵ là Trung Thận Mẫn Trai Lê tướng công, huý là Quang Bí (Lê Quang Bí).
    13. Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1526), Lễ bộ Tả thị lang, Thuần Hiên Nhữ Thai công, huý là Mậu Tô (Nhữ Mậu Tô).
    14. Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1562), cống bộ Phó sứ, Lại bộ Tả thị lang, Tây Khê Hầu tặng Binh bộ Thượng thư, thuỵ là Nhã Đạt Hưu Trai Vũ tướng công, huý là Tĩnh (Vũ Tĩnh).
    15. Tiến sĩ khoa ất Sửu (1565), Hộ bộ Hữu thị lang, Tiết Trai Vũ Thai công, huý là Đường (Vũ Đường).
    16. Hoàng giáp khoa Giáp Tuất (1634), Bồi tụng, Lại bộ Cấp sự trung, tặng Thượng bảo Tự Khanh, Huân Trạch Bá, Thuần Đạt Vũ Thai công, huý là Bạt Tuỵ (Vũ Bạt Tụy).
    17. Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1643), Bồi tụng, Hình bộ Hữu thị lang, trí sĩ (nghỉ hưu) tặng Binh bộ Tả thị lang, Đông Hà Bá, Trực Khanh Vũ Thai công, huý là Lương (Vũ Lương).
    18. Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659), Thanh Hoa xứ Thừa ty, Tham chính, Anh Triết Vũ Thai công, huý là Cầu Hối (Vũ Cầu Hối).
    19. Hội nguyên khoa Giáp Thìn (1664), nguyên Thượng thư bộ Công, tặng Công bộ Tả thị lang, Đường Xuyên Tử Tĩnh An Vũ tướng công, huý là Duy Đoán (Vũ Duy Đoán).
    20. Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659) Thanh Hoa xứ Thừa ty, Tham chính, Triết Trai Lê Thai công, huý là Công Triều (Lê Công Triều).
    21. Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659), cống bộ Phó sứ, Bồi tụng, Lại bộ Tả thị lang, tặng Lễ bộ Thượng thư, Thư Trạch Bá, thuỵ là Đoan Thận, Hồ Ninh Vũ tướng công, huý là Duy Hài (Vũ Duy Hài).
    22. Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659), cống bộ Phó sứ, Bồi tụng, Thượng thư bộ Công, Nhập thị kinh diên, trí sĩ tặng Lễ bộ Thượng thư, Thọ Lĩnh Bá, thuỵ là Giản Trực Thời Tẩu Vũ tướng công, huý là Công Đạo (Vũ Công Đạo).
    23. Tiến sĩ khoa Bính Thân (1656), Hình khoa Cấp sự trung, Xuân Lan Nam, Tông Văn Vũ Thai công, huý là Công Lượng (Vũ Công Lượng).
    24. Tiến sĩ khoa Bính Thân (1656), Giám sát Ngự sử đạo Thanh Hoa, tặng Công khoa Cấp sự trung, Dương Nham Tử, Đạt Trai Vũ Thai công, huý là Đăng Long (Vũ Đăng Long).
    25. Tiến sĩ khoa Bính Thân (1656), Thừa ty, Tham chính xứ Nghệ An, Nho Lâm Nam Hoà Tuý Vũ Thai công, huý là Trác Lạc (Vũ Trác Lạc).26. Tiến sĩ khoa ất Sửu (1685), Giám sát Ngự sử đạo Tuyên Quang, Lượng Hiên Vũ Thai công, huý là Trọng Trình (Vũ Trọng Trình).
    27. Hoàng giáp khoa Canh tuất (1670), Lễ khoa Cấp sự trung, Nh? Hiên Vũ Thai công, huý là Đình Lâm (Vũ Đình Lâm).
    28. Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1664), Hiến sát sứ xứ Sơn Tây, Thuần Khảo Vũ Thai công, huý là Công Bình (Vũ Công Bình).
    29. Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670), Bồi tụng, Lễ khoa Đô cấp sự trung, tặng Tham chính Yến Khê Nam, Du Phương Vũ Thai công, huý là Duy Khuông (Vũ Duy Khuông).
    30. Tiến sĩ khoa Canh Thân (1680), Công khoa Cấp sự trung, tặng Công khoa Cấp sự trung, Hoà Khanh Vũ Thai công, huý là Đình Thiều (Vũ Đình Thiều).31. Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1712), Đông các học sĩ, tặng Hàn lâm viện Thị độc, Thuần Khanh Vũ Thai công, huý là Đình Ân (Vũ Đình Ân).
    32. Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1736), Đông các học sĩ, tặng Hàn lâm viện Thị độc, lại tặng thêm Đông các đại học sĩ, Xuân Trạch Bá, Trạch Hiên Vũ Thai công, huý là Phương Đề (Vũ Phương Đề).
    33. Tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754), cống bộ Phó sứ, kiêm Gián quan đặc ban, Nhập thị Bồi tụng, Phụng thị nội giảng, Chưởng Hàn lâm viện, Tri Đông các kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, Lễ bộ Hữu thị lang, Hồng Trạch Bá, thuỵ Văn Trung Hiền Hiên Vũ Thai công, huý là Đĩnh (Vũ Huy Đĩnh) .
    Ngoài danh sách 33 người đỗ đại khoa làm quan nêu trên, Đinh từ tự điển còn ghi chức danh quan tước, học vị của 183 người, trong đó 74 người làm quan ở triều đình, kinh đô và từng đảm đương, hoặc được tặng chức, tước từ chức Tả bộc xạ (Tể tướng), Thượng thư, Thị lang, Thiếu doãn, Cấp sự trung.. 83 người làm quan đến các chức An phủ phó sứ, Giám sát ngự sử, Hiến sát sứ, Tuyên phủ phó sứ, Tri phủ, Đồng tri phủ, Tri huyện, Tri châu, Huấn đạo.. ở các lộ-đạo- thừa tuyên xứ- trấn, phủ, huyện- châu, tổng. Từ Vũ Quý công (Vũ Nạp) được tặng chức Tăng thống đời Trần đến...Hàn lâm viện Biên tu, Lượng Phủ Vũ tiên sinh, huý là Thành (Vũ Thành). Họ là những người có công học hành, thi đỗ, hoặc không ứng thi, làm quan thành đạt ở mức độ khác nhau; và có công sinh thành, nuôi dạy con cái. Làng x? gọi họ là những bậc truyền đạo- đạo Nho và truyền giáo- tham gia vào việc giáo dục con cháu nên người. Đinh từ tự điển ghi danh 40 vị Hương tiến. Đó là những Nho sinh trúng thức (những người đ? vượt qua được các kỳ thi Hương) như Cuồng Hiên Vũ công, Dị Trai Vũ công.. và các Giám sinh ở Quốc Tử Giám: Hiển Năng Lê công, huý là Công Vọng (Lê Công Vọng), Thận Hành Vũ công, huý là Hưởng (Vũ Hưởng)... 20 Nho sinh, Sinh đồ, Tú tài, Hiệu sinh: Phác Đạm, Hoà Hiên Vũ công, Cung Nhi Vũ công.. Dưỡng Chính Vũ công..
    Như vậy Đinh từ tự điển ghi chức danh, học vị, quan tước của 276 người x? Mộ Trạch trong suốt thời kỳ Nho học. Đây quả thực là thành tựu khoa cử vẻ vang, hiếm có ở bất kỳ làng quê nào thời Nho học.
    Để làm nên thành tựu khoa cử vẻ vang có rất nhiều yếu tố, song dân làng x? Mộ Trạch chắc chắn phải nỗ lực bền bỉ với việc học của mình. Những truyền thuyết dân gian dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu được thêm phần nào sự khổ học, tự học, thực học của người Mộ Trạch.
    Nhà bác học Lê Quý Đôn từng viết trong Kiến văn tiểu lục, và nhà văn Vũ Phương Đề viết trong Công dư tiệp ký về sức ăn và sức học của Lê Nại ở Mộ Trạch. Năm 27 tuổi Lê Nại đậu Giải nguyên (thủ khoa kỳ thi Hương). Ông được Thượng thư Vũ Quỳnh gả con gái và cho gửi rể. Ban đầu khi ở nhà bố vợ, Lê Nại cũng chỉ được ăn uống bình thường nên ông biếng học, không chịu mở sách. Sau biết được sức ăn và sức học của Lê Nại nên Vũ Quỳnh bảo người nhà tăng suất ăn cho Lê Nại, định mức hai đấu gạo (gần 3kg) một bữa; lúc đó ông học thâu đêm suốt sáng. Quả nhiên nhờ sự chuyên cần khổ học nên Lê Nại đi thi Đình đỗ Trạng nguyên khoa ất Sửu (1505). Tương truyền Lê Nại tự làm bài tán rằng:
    ?oMộ Trạch tiên sinh
    Dĩ thực vi danh
    Thập bát bát phạn
    Thập nhị bát canh
    Khôi nguyên cập đệ
    Danh quán quần anh
    Súc chi dã cự
    Phát chi dã hoành
    Nghĩa là:
    Thầy đồ Mộ Trạch
    Có tiếng ăn nhiều
    Mười tám bát cơm
    Mười hai bát canh
    Đỗ đầu khoa bảng
    Danh tiếng nêu cao
    Súc tích đầy đủ
    Phát triển dồi dào? .
    Theo Vũ Phương Đề: Em Lê Nại là Tài (Lê Đỉnh hoặc Lê Tư) cũng nổi tiếng thần đồng về việc học; cùng thi kỳ đệ nhất khoa ất Sửu với anh, Tài quên vài chỗ đến hỏi anh Lê Nại bảo rằng: ?oKhoa này tôi thi với chú, nếu tôi bảo chú thì còn thi với ai?
    Tài tức giận ra về, sau dốc chí dùi mài đèn sách, đến khoa Tân Mùi (1511) đỗ Hoàng giáp. Ông làm quan Cấp sự trung ở bộ Lại.
    Trong Công dư tiệp ký và Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích của nhóm Vũ Phương Lan, Vũ Tông Hải, Vũ Thế Nho biên soạn đều chép chuyện Tham nghị Vũ Đăng Hiển chi II đời thứ 12 họ Vũ ở Mộ Trạch: Những khoa thi từ giữa thế kỷ XVII trở đi ở Mộ Trạch nhiều người đỗ đạt cao. Danh tiếng lan truyền trong kinh ngoài trấn. Có khoa thi Hương lấy đỗ 10 người thì Mộ Trạch chiếm tới 7~8, có người nghi ngờ hẳn có mánh khoé riêng tư gì đây? Khoa thi Hương năm Bính Ngọ (1666) Thị lang bộ Lại là Nguyễn Văn Lễ xin triều đình về làm Đề điệu trường thi Hải Dương để xem xét thực hư ra sao. Đến kỳ thi thứ tư ông bắt đào hố cho sĩ tử ngồi xuống đó, đậy ***g bàn lên trên; lại chọn câu hiểm hóc ra đề; việc coi thi được canh gác nghiêm ngặt. Cuối kỳ thi lấy 30 quyển trúng cách. ở thí viện Nguyễn Văn Lễ chỉ chọn lấy 6 quyển, còn lại đều bỏ (đánh trượt). Trong số 6 người lấy đỗ, làng Mộ Trạch có 3 người: Vũ Đăng Hiển đỗ Giải nguyên (đỗ thủ khoa thi Hương), Vũ Bật Lãi, Vũ Chấn đứng thứ hai thứ ba. Còn lại 3 người thuộc các x? Ngọc Cục, Hàm Thượng và Cổ Am.
    ?oĐồng viện đem bài thi ra xem thì thấy văn lý khác nhau không có bài nào giống nhau. Nguyễn Văn Lễ rất lấy làm thán phục và từ đó ông mới tin rằng Mộ Trạch là đất đời đời sản sinh danh Nho, mà văn chương có mực thước chung, trước kia không có tư vị gì? .
    Như vậy thực học và thành tựu khoa bảng Mộ Trạch là điều hiển nhiên có cơ sở tin cậy, mối nghi ngờ của người đương thời đã được hoá giải.Gia phả họ Vũ và Công dư tiệp ký đều chép truyện pha chút thần kỳ về việc học của Vũ Duy Đoán: Ông là con Tiến sĩ Vũ Bạt Tụy:
    ?oThủa bé rất tối dạ, học cả ngày không thuộc một chữ. Năm 17 tuổi vẫn chưa biết chữ, muốn đổi nghề khác. Sau ông nằm mơ thấy thần nhân từ trên trời bay xuống mổ bụng ông ra rửa sạch những nhơ bẩn, khi ông tỉnh dậy còn thấy đau... Sau cha mẹ khai tâm dạy học. Từ đó càng ngày càng thông minh, học hành tấn tới, liên tiếp đỗ đầu hai trường, nổi tiếng hay chữ khắp trong nước? .
    Ông thi đỗ Hội nguyên khoa Giáp Thìn (1664).
    Trên hoạn lộ, có lúc vì không tán thành với việc làm của chúa Trịnh Tạc (1657-1682), nên chúa cả giận sai người đến thu lại sắc phong và bằng Tiến sĩ của Vũ Duy Đoán. Ông không cho lấy và bảo:
    ?oCác đạo sắc mệnh do bề trên ra ơn ban cấp, muốn lấy thì phải rước về, còn như bằng Tiến sĩ là do tài học của ta mà có không thể trả được?. Rốt cuộc sai quan phải ra về tay không ...
    Những giai thoại về việc học và xung quanh việc học của người làng Mộ Trạch khá phong phú, sinh động. Tự chúng nói lên nhiều ý nghĩa nhân văn. Gạt bỏ những chi tiết thần kỳ, hoặc siêu phàm ta thấy lộ ra tố chất cốt lõi của những con người thành danh đậu đạt ở Mộ Trạch là sự ham học. Sự học- bể học rộng lớn, đầy khó khăn; trong khi cuộc đời mỗi người giữa nhiều mê lộ, nếu không ham học thì khó mà vượt qua được. Còn muốn vượt lên, tiến xa trên con đường học nghiệp, khởi đầu từ ở sự phấn đấu của mỗi gia đình, dòng tộc, làng xã; quốc gia, song quyết định chính là ở bản thân mỗi người. Những con người đó trước khi đoạt được bảng vàng khoa cử đều không thể thiếu nghị lực để vượt qua những khó khăn cám dỗ của cuộc sống thường nhật. Họ?odùi mài kinh sách?, tháng ngày tích luỹ kiến thức để vượt qua các kỳ thi Nho học không mấy dễ dàng. ở Mộ Trạch xưa, làng Mộ Trạch nay từng có nhiều những cá nhân như thế. Chính họ làm nên kỳ tích khoa bảng và truyền thống học hành nổi tiếng trong lịch sử, mà ngày nay các thế hệ con cháu vẫn nối tiếp, tự hào.
    Hội nghị thông báonhững phát hiện mới về Văn hoá dân gian
  3. fantasyIX

    fantasyIX Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/12/2003
    Bài viết:
    844
    Đã được thích:
    0
    Làng Mộ Trạch thì nặng bằng một nửa thiên hạ" (Vua Tự Đức)
    Đó là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Một làng nhỏ có tới 36 tiến sĩ, nếu kể cả ba vị do các cơ sở khoa học Trung ương và tỉnh phát hiện nhưng các cụ của làng còn đang đối chiếu với ngọc phả hương thôn và tộc phả các dòng họ thì là 39. Dường như hỏi bất cừ người dân trưởng thành nào trong huyện về làng tiến sĩ là được chỉ tới nơi đây. Vào làng hỏi bất cứ công dân trưởng thành nào cũng được kể cho nghe về xuất xứ tên gọi cũng như người khai sinh ra bờ tre ngõ lối của làng!
    Kể rằng:
    Vũ Công Huy là quan chức đời Đường đã sáu mươi tuổi vẫn không con cái. Quá buồn chán, Vũ Công Huy cáo từ quan và xin phép vua Đường cho du hành về phương Nam. Thấy đất Thanh Lâm nay là vùng Nam Sách, Hải Dương có nhiều gò đống rất đẹp và linh thiêng ngài bèn đem hài cốt cha sang mai táng. Rồi Vũ Công Huy gặp một người con gái nết na, thuỳ mị, xinh xắn nhất vùng tên là Nguyễn Thị Đức bèn lấy làm vợ. Họ đưa nhau trở về Trung Quốc. Năm 804 vợ chồng sinh hạ một người con trai tuấn tú đặt tên là Vũ Hồn. Năm bảy tuổi Vũ Hồn đã đọc thông viết thạo. Năm mười hai tuổi học đâu nhớ đấy. Năm mười tám tuổi thi đình đỗ cao, được bổ làm quan, rồi được vua Đường phong chức Đô Ngự xứ ở quận Giao Châu tức Việt Nam ta lúc đó còn đang trong thời kỳ Bắc thuộc.Đô Ngự xứ Vũ Hồn đi kinh lý thấy vùng đất Bách nhạn hồi sào ở vùng Bình Giang ngày nay, cho rằng nơi đây mến mộ lòng người, dân chúng có thể phát về đường khoa cử bèn lập ấp đem mẹ từ phương Bắc sang nuôi dưỡng và gọi vùng đất này là Khả Mộ. Tên có từ ngày ấy. Dần dần lưu truyền đời con đời cháu đọc chệch đi nên làng mang tên Mộ Trạch như ngày nay.
    Mẹ mất. Vũ Hồn đưa về mai táng ở thôn Kiêt Đặc thuộc vùng núi Phượng Hoàng, Chí Linh bây giờ. Ngày 23 tháng Chạp năm Quý Dậu (853) Vũ Hồn 49 tuổi không bệnh mà hoá. Dân chúng khiêng đi mai táng gặp buổi chiều mưa giông sấm sét dữ dội mãi lâu không ngớt đành bỏ về. Sáng hôm sau trời quang mây tạnh họ ra để tiếp tục công việc thì không thấy thi xác đâu cả. Như là đã biến thành thần và bay vút lên trời. Dân chúng bèn bẩm tâu lên các quan cai trị. Vua Đường cho người về xem xét thấy đúng bèn ra sắc phong Dương Cảnh thành hoàng - Lâu đài cý sĩ. Nhân dân nhớ ơn rước bài vị của vua Đường ban chiếu cùng hương hồn ông vào đình ngự lẫm ngôi vị thành hoàng của làng.
    Con đường đèn sách
    Xứ Đông ngàỵ xưa bao cả vùng đất rộng lớn gồm Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng... sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh vào thời Lê và truyền thống học tập đỗ đạt của con em xứ Đông ngày càng được phát huy, số người đỗ đạt từ thi hương đến thi hội ngàỵ càng nhiều. Hiện nay 82 bia tiến sĩ còn lại ở Văn Miếu, Hà Nội, ta dễ dàng tìm thấy phần khá lớn khoa bảng thành đạt thời xưa xuất thân từ xứ Đông và đặc biệt người làng Mộ Trạch có trên 18 văn bia.
    Xét trên phạm vi đơn vị huyện của xứ Đông, mật độ tiến sĩ tập trung khá cao ở Văn Giang, Ân Thi, Chí Linh, Thanh Lâm, Đường An, nhưng trong phạm vi một làng xóm thì Mộ Trạch là điếm sáng rực rỡ mãi mãi toá ánh hào quang từ ngàn xưa cho tới hôm nay. Làng Mộ Trạch nhỏ bé tới tận năm 1945 mới có xấp xỉ1000 nhân khẩu và hôm nay có hơn 700 hộ với 2800 nhân khẩu. Ấy vậy mà dưới những năm tháng u tịch của mười thế kỷ trước đã lần lượt xuất hiện tới 36 vị tiến sĩ, chưa kể đến cử nhân, tú tài, đứng vào bậc nhất cả nước về trình độ học vấn. Đặc biệt có những khoa thi, những kỳ thi, sĩ tử ra đi từ làng Mộ Trạch đã giành thành tựu vẻ vang xứng danh tổ tiên dòng tộc. Ngọc phả của làng cũng như trên bia số 18 tại Văn Miếu - Hà Nội còn ghi rõ khoa thi năm Bính Thân, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ tư (1656) dưới thời Lê Thần Tôn và Trịnh Tráng có tới 3000 người dự mà chỉ được chọn đỗ sáu thì đệ tam giáp làng Mộ Trạch là Vũ Trác Lạc, Vũ Đãng Long, và Vũ Công Lượng, nghĩa là chiếm tới một nửa những con người thành đạt của cả thiên hạ. Tiếp đến là khoa thi Kỷ Hợi năm 1659 Mộ Trạch lại có tới bốn người đỗ tiến sĩ là Vũ Cầu Hối, Vũ Công Đạo, Vũ Duy Hải và Lê Công Triều.
    Hầu hết danh sĩ làng Mộ Trạch đều để lại những tác phẩm văn học có giá trị cho đời sau: Lê Cánh Tuân có Vạn ngôn thư và 12 bài trong Toàn Việt thi lục. Lê Thiếu Đình có Tiệt trại thi tập. Vũ Hữu có Đại thành toàn pháp. Vũ Quỳnh có Đại Việt thông giám và Lĩnh nam trích quái. Vũ Cán có Tùng niên thi tập và Tứ lục bi lâm. Lê Nại có Việt sử thông giám. Vũ Phương Đề có Công dư tiếp ký 43 tập. Vũ Huy Tấn có Văn tế quân Thanh... và nhiều người có công với nước hoặc tài trí đặc biệt hơn người được dân gian lưu danh muôn thuở như: Vũ Nạp, phó tướng của Trần Quốc Bảo đã thay mặt chủ tướng khi Trần Quốc Bảo tử trận, xông pha giữa mũi tên hòn đạn, chỉ huy quân sĩ phá tan thế trận của giặc Nguyên trên sông Bạch Đằng bắt sống tướng giặt là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp. Sau này ông được vua nhà Trần ban cho bài vị Đồng Giang hầu Vũ tướng công. Hai con trai ông là Vũ Nghiên Tá và Vũ Hán Bi cùng đỗ Thái học sinh khoa Giáp Thìn (1304) triều vua Trần Anh Tôn. Rồi Lê Thiêu Dĩnh, Lê Thúc Hiển và con trai là Lê Cảnh Tuân đã vào tận xứ Thanh phò tá Lê Lợi góp phần diệt tan giặc Minh được liệt vào hàng danh sĩ công thần nhà Lê. Rồi trạng ăn Lê Đỉnh, trạng chạy Vũ Cương Trực, trạng vật Vũ Phong, trạng cờ Vũ Huyên và trạng toán Vũ Hữu. Mỗi ông trạng đều có danh tính thật trong sử sách của làng cùng với công trạng kiệt xuất và sự thêu dệt do lòng ngưỡng mộ tôn kính đời đời.
    Làng Mộ Trạch nghèo. Dân từ ngàn xưa thuần nông cầy cấy, dệt vải, nhưng vẫn hết sức chăm lo đèn sách. Các bậc già nhất của làng kể lại là làng có quán khảo văn. Hàng năm, trước khi sĩ tử trảy hội thi hương hay thi đình do Nhà nước tổ chức đều phải qua kỳ thi làng ở quán khảo văn. Tại đây các môn sinh chẳng những nâng mình lên trong tầm hiểu biết mà còn làm quen tới cách thức, thể lệ. Những quán văn ấy của thời xa xưa chắc chắn bằng tranh tre nứa lá không thể tồn tại đến ngày nay những nó được ghi mãi trong lòng người truyền tụng từ đời này qua đời khác. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Đức Dực Tôn Anh Hoàng Đế Tự Đức vốn thông minh hay chữ đã phải thốt lên Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ tức là riêng làng Mộ Trạch tài năng bằng một nửa thiên hạ.
    Gia phả họ Vũ của làng còn ghi một giai thoại: Lại bộ tả thị lang Nguyễn Văn Phong lục vấn rằng người làng Mộ Trạch có tý xảo thần thế gì đó mới nhiều người đỗ đến thế. Kỳ thi hương năm Canh Trị thứ tý (1666) ông xin về xứ Đông làm đề điệu (chủ khảo). Ông cho đào mỗi thí sinh một hố, trên đắp liếp, người thì ngồi trong đó làm bài. Ông chọn những câu văn hóc hiểm làm đề thi, lại truyền cho hai ban sơ khảo và phúc khảo chỉ được chọn những quyển nào viết chữ rõ ràng, không dập xoá, sửa chữa. Quan trường chấm bài xong, tuyển được ba mươi quyển hợp cách trình quan đê điệu chấm lại. Nguyễn Văn Phong chỉ lựa được sáu quyển, còn đánh trượt. Sau khi xếp thứ bậc rồi khớp phách để yết bảng, thì người đỗ đầu là Vũ Văn Hiên, 18 tuổi, đậu ngay giải nguyên. Người thứ hai lã Vũ Bật Lại. Người thứ ba là Vũ Chấn, đều ra đi từ làng Mộ Trạch. Ba người kia là của khắp thiên hạ.
    Mộ Trạch xưa nhiều người làm quan là vậy nhưng không giàu. Người dân mang hết nghị lực cho sự nghiệp học hành của con em mình. Chữ thánh hiền được nâng niu quý trọng. Đàn ông tiêu biểu của làng là làm quan hoặc làm nghề dạy học. Thầy đồ Chằm (tên nôm làng Mộ Trạch) nổi tiếng về tài nãng và trọng nhân cách, là thầy dạy dỗ từ bước đi đầu tiên của bao cử nhân, tiến sĩ. Dân gian quanh vùng có câu: Tiền làng Đọc. Thóc làng Nhữ. Chữ làng Chằm. Làng Đọc có nghề nhuộm cổ truyền mỗi năm thu hàng bồ tiền của thiên hạ. Làng Nhữ ruộng nhiều và tốt lắm thóc nhất vùng. Còn làng Chằm, như ta đã biết, nổi tiếng hay chữ, nhiều người đỗ đạt cao và thầy đồ học sâu hiểu rộng. Tại các cuộc thi thử hay quán khảo văn của làng, các bậc đại nho nghiêm khắc với bài vở và phong độ của những người ôm chữ thánh hiền là các môn sinh. Khuyến khích nhau hoc hành chuyên cần, nghiêm túc, có hệ thống đã trở thành nếp sống văn hoá mang truyền thống đặc sắc và là nguyên nhân quan trọng bậc nhất tạo sự thành đạt cho các môn sinh làng Mộ Trạch.
    Nơi an toạ của các vị thần
    Đó là đình! Giữa vùng địch hậu Liên khu Ba suốt thời kháng chiến chống Pháp thật hiếm thấy còn có ngôi đình đồ sộ với đây đủ tiền cung, hậu cung, các hoành phi câu đối, vững vàng hàng cột lim vòng tay người ôm mới xuể trên từng trụ đá. Đình thờ thần hoàng Vũ Hồn có công lập ra làng Khả Mộ và đem chữ thánh hiền từ phương Bắc về tận nơi đây. Tới triều Lê Mạt các cuộc khởi nghĩa nổi lên khắp nơi trong đó có cuộc khởi nghĩa vang dội của quận He Nguyễn Hữu Cầu. Đình bị tàn phá. Bà Nhữ Thị Nhuận là người rất có tâm huyết với dân, với nước, thấy vậy liền bỏ tiền ra tu chỉnh ngôi đình. Bà là người tài ba lỗi lạc thương nước thương dân nên khi có giặc cướp nổi lên ở trấn Nghệ An vua liền cử bà vào dẹp giặc. Đội quân của bà toàn nữ. Giặc cướp trông thấy cờ hiệu nữ tướng Nhữ Thị Nhuận thì lần lượt tan rã hoặc bỏ vũ khí đầu hàng. Bà còn đùng cây quế chữa bệnh cho dân nghèo nên được vua phong Quận quế phu nhân và được dân phong là hậu thần có bia ở cạnh đình.
    Đình làng Mô Trạch có tới 12 sắc phong của các triều vua và hiện nay vẫn còn giữ được tám. Đình được Nhà nước ta công nhận di tích văn hoá ngày 2 tháng 4 năm 1991.
    Thăm đình làng Mộ Trạch sau khi ghi nhận những bản sắc văn hoá của kiến trúc ta dễ chú ý tới những tên tuổi đã vĩnh hằng tồn tại qua năm tháng. Danh sách 36 tiến sĩ được treo trang trọng. Tiếp đến là danh sách năm vị tiến sĩ có công bảo vệ Tổ quốc. Đó là cụ Vũ Nạp như đã đề cập tới. Tiếp đến là Lê Thiêu Dĩnh tham gia khởi nghĩa Lam Sơn dưới cờ nghĩa của Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Ông trở thành công thần nhà Lê và từng được cử cầm đầu đoàn sứ bộ sang Trung Quốc. Người thứ ba là cụ Vũ Dự dưới thời Lê Trịnh đã cùng Cường quốc công Nguyễn Xí năm 1459 trừ bọn gian thần Phạm Bàn, Phạm Đôn đưa vua Lê Thánh Tôn lên ngôi mở đầu thời kỳ Hồng Đức phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Thời Lê trung hưng có cụ Vũ Trác Oánh lãnh đạo nông dân Hải Dương nổi lên chống tham quan ô lại. Người thứ năm là cụ Vũ Tấn, đỗ phó bảng năm Ất Mùi 1778 từng phụng mệnh vua Quang Trung đi sứ nhà Thanh.
    Dân Mộ Trạch say sưa kể lịch sử ngôi đình - một di tích lịch sử văn hoá đồng thời ai ai cũng có thể kể về năm tiến sĩ biệt tài được phong trạng. Trạng ăn: Lê Nại, Trạng cờ: Vũ Huyên, Trạng Vật: Vũ Phong, Trạng Toán: Vũ Hữu, Trạng chạy: Vũ Cương Trực.
    Con đường hôm nay
    Chúng tôi về thăm làng Mộ Trạch vào buổi chiều một ngày cuối năm. Ai cũng bận rộn. Bí thư Đảng uỷ xã Vũ Xuân Đoàn, trưởng thôn Vũ Huy Tuệ, phó Chủ tịch hội Cựu chiến binh Vũ Quốc Ái, cùng nhiều cán bộ và bà con thôn xóm vừa kế chuyện vừa đưa chúng tôi đi thăm đình, thăm miếu.
    Làng hôm nay có 13 dòng họ nhưng dòng họ Vũ đông hơn cả và thành đạt hơn cả. Một ngàn năm trôi qua chi nhánh của họVũ toả đi khắp nơi, đỗ cao thành đạt khắp nơi, nhưng đâu đâu cũng nhớ về tổ tiên Vũ Hồn một thời khẩn hoang lập làng, lập xóm. Sử sách còn ghi lại thuỷ tổ họ Đặng Vũ ở làng Hành Thiện, Nam Định là Đặng Vũ Thiên Thế do làm con nuôi họ Đặng mà được mang họ như vậy. Và khi Vũ Hồn được vua Đường cử sang làm Đô hộ xứ Giao Châu ông cũng để lại một chi ở vùng Phúc Kiến, Trung Quốc. Khi ông Đặng Quốc Kiều con cháu họ Đặng Vũ, Nam Định tham gia Việt Nam Quang phục hội theo tìm cụ Phan Bội Châu ở Nhật Bản đúng lúc Chính phủ Nhật trục xuất sinh viên Việt Nam. Ông Kiều chạy sang Trung Quốc và đến Phúc Kiến tìm lai lịch con cháu Vũ Hồn tại nơi đâỵ. Bà con họ Vũ đã tiếp đón ông vô cùng niềm nở, vui mừng vì đã trên ngàn năm, con cháu dòng tộc họ Vũ ở hai chi, một chi Trung Quốc, một chi Việt Nam, mới gặp lại nhau. Biết ông còn tiếp tục sang Xiêm La (Thái Lan) hoạt động Cách mạng họ đã giúp ông khoản tiền lớn để đi đường và bố trí giúp ông vào làm bồi cho một gia đình người Âu tại Vọng Các (Băng Cốc).
    Đời sống dân làng đổi thay nhanh chóng. Người đói không có và tỷ lệ gia đình nghèo chỉ còn năm phần trăm. Con cháu làng Mộ Trạch nay toả khắp nơi trong nước và ngoài nước làm ăn và khá nhiều người thành đạt. Dân Mộ Trạch có truyền thống lấy ngày 8 tháng Giêng Âm lịch hàng năm làm hội làng. Ngày hội làng vừa qua có chương trình độc đáo gọi là tôn vinh tiến sĩ. Những tiến sĩ thời nay! Những người có học hàm học vị và cả những người có thành tựu lớn lao trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội và kinh tế. Người ta nhắc đến những tên tuổi như tiến sĩ Vật lý nguyên tử ở Nhật Bản Vũ Khắc Thịnh, Giáo sý tiến sĩ Vũ Tuyên Hoàng, nhà giáo Vũ Đình Liên, cụ Vũ Đình Hoè từng làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp dưới thời *****, tiến sĩ Vũ Phương Nghi ở Pháp gửi thư về có đoạn viết: Có thể nói, nhờ lòng tự hào về làng Mộ Trạch mà tôi đã phấn đấu vươn lên mọi khó khăn để đạt bằng tiến sĩ văn học ở Paris.
    Chúng tôi tới làng Mộ Trạch đúng vào dịp đài truyền hình vừa làm đoạn phim phóng sự về anh thương binh Vũ Hồng Quang. Anh bị cụt tay trái, cụt bốn ngón của bàn tay phải và nhiều vết khác trên mình với loại thương tật một trên bốn. Hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng anh Quang đã gắng hết sức nuôi nấng con cái trưởng thành. Ba con đều tốt nghiệp đại học, hai con tốt nghiệp cao đẳng và gần đây con gái Vũ Thị Đào của anh đã bay sang Pháp làm luận án tiến sĩ. Ngày nay ở làng Mộ Trạch chẳng ai ngây thơ làm việc xây lại Quán khảo văn hay Kỳ Anh Hội lão nhưng nhà nào cũng có chỗ học cho con cái, cũng động viên thế hệ trẻ noi theo truyền thống cha ông mà nắm lấy tri thức phục vụ cho đất nước, làm vẻ vang cho gia đình, họ tộc và thôn xóm. Đặc biệt họ Vũ ở Mộ Trạch xưa và nay đều chiếm đầu bảng về học hành đỗ đạt. Họ Vũ có nhiều nhà thờ. Nhưng chỉ có một nhà thờ được lấy tên là Thế Khoa Đường do vua Lê phong tặng vì có ba người nối dõi liên tiếp đều là con trưởng thi đỗ tiến sĩ. Con cháu họ Vũ nói riêng và con em làng Mộ Trạch nói chung đang say sưa lao động xây dựng thôn xóm, xây dựng cuộc sống, và gắng hết mình học hành để vươn lên tầm cao mới của trí tuệ.
    Tô Đức Chiêu (Báo Văn nghệ)
  4. hitle1234

    hitle1234 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2007
    Bài viết:
    4.519
    Đã được thích:
    0
    Chài ui các pác quảng cáo hàng ác thía . Có khi phải đổi họ mất thui
  5. nhoccon_1980

    nhoccon_1980 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2004
    Bài viết:
    131
    Đã được thích:
    0
    Wellcome anh Lân đến từ Đinh tỵ, trai gái, dâu rể họ Vũ đâu ra chào kìa.
  6. trainghe

    trainghe Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/08/2005
    Bài viết:
    205
    Đã được thích:
    0
    Khóc và cáu mạnh vào đi em iu, lock ròy, ai bỉu nói xấu hhọ Trần, he he.
  7. hitle1234

    hitle1234 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2007
    Bài viết:
    4.519
    Đã được thích:
    0
    Chài ui ! chị chồng mới sáng sớm đã đi bô kích òy cho iem tám với
  8. Nguoi_xua

    Nguoi_xua Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/12/2006
    Bài viết:
    111
    Đã được thích:
    0
    Chắc bác FF họ Trần chăng.
  9. Tiamo_JFC

    Tiamo_JFC Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/02/2007
    Bài viết:
    298
    Đã được thích:
    0

    Đề nghị part 2 sẽ do Cố Vấn hoặc Thư Kí lập nha
  10. dauthaitukieptruoc

    dauthaitukieptruoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2007
    Bài viết:
    485
    Đã được thích:
    0
    Câu này sếp hội trưởng đã đoán mò đoán mẫn rùi. hông bít có phải hong nữa. hịhị. Họ trần mà có người dã man thế này à??
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này