1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hỏi về Phở

Chủ đề trong 'Ẩm thực' bởi kieuphong, 06/08/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kieuphong

    kieuphong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2002
    Bài viết:
    5.781
    Đã được thích:
    0
    Hỏi về Phở

    Chào các bác ở Box Ẩm thực!

    Phở là món ăn truyền thống của người Việt Nam ta, và hiện nay rất nổi tiếng ở nước ngoài. Nhắc tới món ăn Việt Nam thì người nước ngoài hầu hết đều nhớ đến món ăn này.

    Vậy không hiểu lịch sử của món ăn này bắt đầu từ đâu? Thời điểm, địa phương xuất hiện? Phở ngày xưa có khác gì so với phở ngày nay? Cách nấu, chất liệu làm bánh phở?

    Xin cám ơn!



    Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn
    Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn
  2. foreverlove83

    foreverlove83 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2003
    Bài viết:
    1.829
    Đã được thích:
    0
    Có thể xem ở đây
    http://www.ttvnol.com/forum/t_239519/?0.5152816
    http://www.ttvnol.com/forum/t_217614/?0.951887
    Toc em dai nen tung bay theo gio
    Lam tim anh giong bao da bao lan
  3. gungcayvn

    gungcayvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    3.222
    Đã được thích:
    1
    CHán đồng chí lovefoever này quá, gửi thì gửi bài luôn cho rồi, mất công người ta phải mở hết link này tới link kia mới xem đựơc. Tớ copy lại nhá.

    PHỞ: Phở có từ bao giờ, ở đâu?
    Bài của home_ nguoikechuyen
    Phở có từ bao giờ, ở đâu?
    Dựa vào tập phả kỳ của dòng họ để lại, nhà văn Siêu Hải - một người "gốc" 14 đời ở Hà Nội - muốn góp tiếng nói trong việc đi tìm nguồn gốc của phở..., một món ăn mà theo ông là thuần túy Việt Nam và mới chỉ xuất hiện ở Hà Nội từ đầu thế kỷ 20.
    Phở có từ bao giờ, ở đâu?
    "Trong những món ăn quân tử vị
    Phở là đáng quý nhất trên đời.
    Một vài xu nào đắt đỏ mấy mươi
    Mà đủ vị ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.
    Bánh cuốn, thịt bò, nước dùng sao nhánh mỡ
    Ngọn rau thơm, hành củ thái trên.
    Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm ớt điểm thêm
    Khói nghi ngút đưa lên thơm điếc mũi..."
    (Trích thơ trào phúng của Tú Mỡ trên một số báo Phong Hóa năm 1937)
    * Biến tấu từ món "xáo trâu" thuần Việt
    Phở, người Pháp gọi là soupe chinoise (cháo Tầu). Có thể từ đó, nhân dân ta ngộ nhận là của Trung Quốc. Sự thật phở là thuần túy Việt Nam và chỉ mới xuất hiện ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Từ lâu dân ta rất ít dùng thịt bò, cho là nóng và gây. Món ăn rẻ tiền, no bụng lúc đói là món thịt trâu xáo hành răm ăn với bún, gọi là xáo trâu, rất phổ biến ở các chợ nông thôn và xóm bình dân...
    Người Pháp không ăn thịt trâu, chỉ dùng thịt bò. Từ ngày thực dân Pháp sang ta khai thác thuộc địa đầu thế kỷ 20, ở Hà Nội bắt đầu có các cửa hiệu bán thịt bò, thường bán không hết, nhất là xương bò. Pháp sang, tàu thủy máy hơi nước chạy trên các dòng sông từ Hà Nội đi Hải Phòng, Nam Định... Bến phà Hà Nội thu hút nhiều công nhân bốc vác đến, kéo theo nhiều hàng quà bánh, món xáo trâu vẫn là phổ biến. Các gánh hàng này thường giống nhau, một bên là chiếc thúng lớn để chiếc nồi đất to đựng canh xáo nóng được ủ kỹ. Chiếc thúng bên kia đựng bún và bát, đũa, mắm, ớt...
    Có một bà hàng nào đó, chiều chiều nhẹ gánh về nhà, qua các hiệu thịt bò, thấy còn treo lủng lẳng từng súc thịt và đống xương. Thịt bò ế, tất phải bán rẻ. Bà ta liền nảy ra sáng kiến làm xáo bò thay xáo trâu. Qua ít ngày, người ăn xáo bò với bún không hợp khẩu vị. Vậy phải thay bún bằng thứ gì, cũng bằng bột gạo? Đó là bánh cuốn mỏng, chay rất sẵn ở Hà Nội. Không ngờ xáo bò ăn với bánh cuốn chay thái thay bún lại rất ngon miệng và luôn được cải tiến cách hầm xương, thêm bớt gia vị, khi ăn lại có cả những lát thịt chín phủ lên trên.
    Từ ngoài bãi, phở lan vào trong phố, khách ăn quanh một chõng tre hay bàn nhỏ, hoặc mua đem về nhà. Một số người ta, và vài chú Khách quẩy thành gánh hàng rong tới các ngõ, phố. Các gánh phở rong này đều giống nhau, một bên đặt nồi nước dùng, dưới có chỗ đun củi lom dom bảo đảm nước dùng lúc nào cũng nóng để chan vào bánh phở cho mềm sợi hơn. Còn bên kia để bát, đũa, dao, thớt và gia vị, dưới có một ngăn kéo đựng thịt chín.
    * Từ lời rao "Ngầu nhục phấn" mà thành tên
    Người mình bán hàng thì rao là "xáo bò ơ". Còn mấy chú Khách thì rao "Ngầu nhục phấn a...". Ngầu, tiếng Hán là ngưu, nhục là thịt, phấn là gạo, tức bánh bột gạo. Tiếng Trung Quốc gọi trâu hay bò đều là ngưu, hắc ngưu là trâu, hoàng ngưu là bò. Tiếng rao "xáo bò ơ" nghe cụt lủn. Còn tiếng rao "Ngầu nhục phấn a..." nghe trầm bổng, tha hồ ê a kéo dài, mặt khác do tư tưởng sùng ngoại nên được khách ăn ơi ới gọi đến. Thấy thế, các gánh hàng của người mình cũng phải rao theo họ để tranh khách. Phở ngày càng được ưa chuộng nên số lượng gánh phở rong cũng ngày một nhiều. Lời rao gọn dần, chỉ còn "ngầu phớn ơ...", rồi "phở ơ", cuối cùng thành "phở".
    * Những hàng phở đầu tiên
    Do là món quà bình dân, nên các cửa hàng bán phở đều xuềnh xoàng, được khách ăn gán cho những cái tên theo đặc điểm của chủ hiệu như: "phở Lùn", "phở Gù", "phở Sứt"... Cũng do tính bình dân của phở nên có một thời phở bị những người giàu tiền lắm bạc ở Hà Nội xem thường. Họ quen đến các hiệu cao lâu Hàng Buồm dùng các món ăn đắt tiền. Phải đến năm 1918 - 1919, phở mới được nhiều giới tìm đến. Cửa hiệu phở đầu tiên của Hà Nội mở ở phố Hàng Quạt (nay là Lương Văn Can) gần rạp tuồng Thông Sáng và tuồng Năm Trăn để đón khách. Một cửa hiệu khác ở phố Hàng Đồng, chủ hiệu đổi mới bằng cách thay các phản gỗ dài trên trải chiếu bằng những bộ bàn ghế. Sau đó có thêm nhiều hàng phở tại các phố Cầu Gỗ, Hàng Giấy... đều không cần biển hiệu. Năm 1937 duy nhất có một hiệu phở của Hoa kiều mở ở phố Mã Vũ (nay là phố Hàng Quạt kéo dài) lấy tên là Nghi Xuân. Các cửa hàng này đua nhau cải tiến chất lượng. Lúc đầu chỉ có phở chín, sau có phở tái. Thêm thịt mỡ gầu, nạm, sách bò nên thành tên tái gầu, tái nạm, tái sách... Sau nữa có hiệu dùng thịt bò nấu sốt vang, thịt áp chảo nên lại thêm tên gọi phở sốt vang, phở áp chảo nước, áp chảo khô, phở xào, v.v...
    Từ những năm 1930 lại đây, phở đã tới đỉnh cao của văn hóa ẩm thực Việt Nam, với nghệ thuật lóc thịt, hầm xương và gia giảm gia vị: thảo quả, quế chi... thành món ăn độc đáo: "phở Hà Nội".
    Ai bảo chiều qua em cúi xuống
    Để tóc tương tư tím mấy mùa
  4. gungcayvn

    gungcayvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    3.222
    Đã được thích:
    1
    PHỞ: CácTrường Phái Về Phở
    bài của Home_nguoikechuyen
    Sơ sơ chuyện ăn Phở mà nói hoài không hết. Phở phản ảnh tính không tolerant của người VN trong ẩm thực. Từ ẩm thực mà suy ra không tolerant trong mọi sự.
    Người Hà Nội mà mời họ ăn thên húng quế, giá hoặc tương ngọt xem như là mạo phạm tới Phở. Tui có lần bị xem như phản bội Hà Nội, khi có hai nhóm Hà Nội và Sài Gòn ăn phở với nhau, tui đã mạo muội xin húng cây và tương ngọt.
    Dân Sài Gòn cũng nghe về Phở Bắc như một cái gì rất cao cả nhưng đều thất vọng về rau trong Phở Hà Nội: "PHở gì mà không có rau ăn lạt lẽo phát ngán". Trong khi ở Sài Gòn người ta có giá, húng cây, ngò gai, hành hoa, Hà Nội chỉ có độc vị mùi tàu ( ngò gai) và hành hoạ Nói cho đúng ra thì Phở Hà Nội cũng có rau, nhưng đã bị một thời khó khăn làm mất thói quen.
    Ngày xưa có những tiệm phở, thường có hành tây thái khoanh ngâm dấm, ăn thay giá và có lẽ ngon hơn. Dân Bắc không khoái cái vị tanh rỉ sắt của giá sống. Một loại rau nữa mà gần đây cũng biến mất trong bát phở Hà Nội là rau thơm (tương tự, nhưng không phải là húng bạc hà như trong Nam).
    Quãng năm 60 thì tiệm phở nào cũng cho rau thơm, rau mùi và rau mùi Tàụ Đi chợ bao giờ mua mùi người ta cũng mua thơm:"Cho 5 xu thơm mùi nào" Thơm 2 xu rưỡi, mùi cũng 2 xu rưỡị Trong tất cả các loại rau thơm củA VN có lẽ thơm là có vị đặc biệt nhất.
    Quãng cuối những năm 70 thì chỉ còn một tiệm phở ở Phố hàng Mành là còn cho rau thơm. Phở ở đó không phải ngon đặc sắc, nhưng tôi có tiền là đến đó chỉ vì vị thơm, và bao gờ cũng có hành tây ngâm dấm. Bát Phở như vậy về rau không thua gì bát Phở Nam, mà mới đúng với Phở truyền thống.
    Sau này không hiểu sao rau thơm ngày càng kém ngon và gần như biến khỏi gánh rau ngoài chợ. Thỉnh thoảng còn mua được thì thơm cũng kém ngon và sặc mùi bạc hà chứ không được thuần khiết thanh lịch nữa.Vì vậy bát Phở Hà nội cũng kém đi một vị.
    Ai bảo chiều qua em cúi xuống
    Để tóc tương tư tím mấy mùa
  5. gungcayvn

    gungcayvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    3.222
    Đã được thích:
    1

    Bài của kurtcoban_vn sưu tầm
    Có nguời nói Phở là từ chữ Ngưu nhục phần của Trung Quốc, nghĩa là món ăn gồm gạo và thịt trâu mà thành. Có người lại nói người Pháp dịch nó là Soupe Chinoise nghĩa là canh Tàu. Chỉ biết Phở là một món quà hiện nay phổ biến khắp nước, nơi nào cũng có phở và nó hoàn toàn Việt Nam, khác hẳn mằn thá9n Trung Quốc, hủ tiếu của Campuchia, thậm chí ngay trong nước, nó còn là món nước nhung cũng khác xa mì nấu, mì ăn liền, mì Quảng, bún bung, bún thang, miến lươn... Phở chỉ là phở và chỉ là phở Việt Nam.
    Hà Nội đang có phong trào có biển đề là phở gia truyền tỉnh nào đó để mời khách. Nhiều người cười thầm mà không tin. Nếu tính từ những bài viết của các nhà văn thì chắc rằng phở là món xuất hiện đầu tiên từ Hà Nội còn ai gia truyền, tại sao lại gia truyền từ tỉnh này hay tỉnh khác?
    Trong Tự Lực Văn Ðoàn, nhà thơ châm biếm lừng danh Tú Mỡ có bài phú "Phở đức tụng" ca ngợi món phở vào những năm ba mươi bốn mươi. thời đó chỉ có món phở bò, có khi là phở trâu nhưng được làm rất kỹ. Phở lúc đó còn cho cả hương cà cuống, mà Thạch Lam đã viết "Thoảng hương thơm cà cuống như một nghi ngờ... ". Ông đã nặng lời chê phở gà cho rằng nó nhạt nhẽo, nước không ngọt, thịt gà không bùi béo như thịt bò...
    Nguyễn Tuân viết về phở còn chi li kỹ lưỡng hơn nữa. Tô Hoài, Vũ Bằng và nhiều nhà văn sau này đã viết về món ăn đặc biệt Hà Nội này nhiều bài qua nhiều khía cạnh và hầu như đều thống nhất với nhau một điều là cả nước có phở, nhưng không địa phương nào có phở ngon bằng Hà Nội mà không sợ địa phương nào tự ái. Phở chua miền núi, chảo thắng cố, phở bò Nam Ðịnh, phở thịt lợn Lào Cai, phở bánh khô Thái Nguyên cho đến phở lẫn với giá sống của miền Nam, cho bánh đa nướng lẫn vào ở phở Thanh Hoá, hoặc phở Móng Cái, Hải Phòng, Huế v.v.. vẫn không thể là phở Hà Nội.
    Thời nay đã xa thời Thạch Lam. Phở gà đã phố biến ở nhiều nơi. Hà Nôl có nhiều hàng chỉ chuyên một món phở gà như phố Lê Văn Hưu, ngõ Nam Ngư. Bên cạnh những hàng phở bò lừng danh như phở Trưởng Ca Hàng Bạc, phở Tàu Bay Bà Triệu, phở giảng Cầu Gỗ Phở Ðông Mỹ .. là đến các hàng phở thúng (để dễ chạy khi công an đuổi).
    Có người hỏi: Muốn có phở ngon phải làm thế nào? câu này đúng ra là nên để các nhà chuyên môn trả lời, bởi nghề nào cũng cần tinh, cần thạo, mới có thể đạt đến hạng nhất. Nói là nghệ thuật làm phở ngon dành cho các nhà chuyên môn, thực ra nó cũng có tiêu chí, ai cũng biết. Phở không chỉ ngon ở một loại nguyên liệu. Nó phải đồng bộ. Bánh phở phải mềm, đủ độ dai, không bở, không nát, không chua, không làm đục nước dùng. Thịt phải thơm, mềm, không dai, có màu tươi, không đen thăm, và phải thái thật mỏng Gia vị cho phở phải có dủ. Có chanh tươi cùng lọ dấm. Hạt tiêu bắc không thể thiếu... Nhưng quan trọng nhất văn là nước dùng trong bát phở. Cũng đang có những người ăn phở chỉ vớt bánh phở và thịt, còn nước dùng bỏ lại hết. Không dám kết luận nhưng xem ra, thứ ngon nhất là nước dùng mà bỏ lại thì uổng quá. Giống như người Pháp gọi cái phao câu gà là miếng "thằng điên bỏ lại" bởi có điên thì mới để lại, mới không ăn cái phao câu đó.
    Có một nồi nước dùng cho món phở phải công phu lắm. Phải có xương bò rửa sạch, thêm cái đuôi bò càng quý. Ninh kỹ, có khi phải hàng chục tiếng đồng hồ. Nhỏ lửa, bọt váng nổi đến đâu, hớt ngay đi đến đó nước dùng mới trong. Nồi nước dùng bao giờ cũng phải sôi lăn tăn, mỡ giạt về một góc để tùy ý khách ăn.
    Ðây là khái niệm chung, còn để chế biến một món ăn, nhất là một món ngon đã nối tiếng, thì mỗi nhà đều có "ngón nghề" của riêng mình.
    Ai bảo chiều qua em cúi xuống
    Để tóc tương tư tím mấy mùa
  6. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Nore xin gửi bài này để mọi người cùng đọc và biết thêm về nguồn gốc phở Hà nội,
    Làng phở Vân Cù - (gốc phở Hà nội ?)

    Nghề làm phở ở Vân Cù (xã Đông Sơn, Nam Trực, Nam Định) có thể bắt nguồn từ món canh bánh đa. Tương truyền, người Vân Cù đã khai sinh ra phở Hà Nội. Từ những năm 1920, người Vân Cù đã lên Hà Nội bán phở rong.
    Cụ tổ nghề: nhờ phở mà làm lý trưởng
    Ông Cồ Kiểm hơn 70 tuổi, râu ria lởm chởm, cùng anh trai và con cháu có khoảng chục cơ sở vừa làm hàng vừa sản xuất bánh phở tại Hà Nội. Ông kể: "Bấy giờ làng tôi, ngoài nghề làm ruộng còn có nghề làm bánh đa, khi thì quạt than, khi thì nấu thành canh bánh đa với bún để bán. Trước thì cho cua ốc, rau mùng, rau hẹ; tết nhất thì cho thêm thịt, thêm xương vào ninh, thấy ngon hơn, bán ở chợ người ta thích lắm, nhất là ở các chợ Viềng đầu năm. Ngày mồng 7 bán ở chợ Viềng dưới (thuộc Nghĩa Hưng), mồng 8 bán ở Viềng Chùa (thuộc Nam Trực), đó là những ngày kiếm ăn rôm rả nhất. Từ món canh bánh đa đã trở thành phở như thế nào thì thật khó nói, nhưng hai món này gần nhau lắm. Thật thế, vì làm bánh đa với làm bánh phở không khác nhau mấy. Người làng tôi chỉ biết người đầu tiên mở lò bánh phở là cụ Lý Vặng, nên có nhẽ, cụ là ông tổ của phở chăng? Vào quãng năm 1920, cụ Lý Vặng thuê nhà ở phố Hàng Chỉ, Hàng Hòm mở lò rất to làm bánh phở. Lò bánh phở của cụ Lý Vặng cũng gần giống như lò tráng bánh đa, nhưng tráng trên 4 cái thùng như thùng gánh nước. Nếu như bánh đa phải tráng 2 lượt cho dày, thì bánh phở chỉ tráng 1 lượt, mỏng hơn, tay bánh cũng ngắn hơn. Khi bán, không bán cân mà bán từng trăm chiếc một, nên còn gọi là bánh trăm. Cụ Lý Vặng còn kéo dân Vân Cù lên Hà Nội làm, trong đó có bố tôi, và từ lò bánh của cụ, sáng sáng những gánh phở rong tỏa ra khắp các ngõ ngách của phố phường Hà Nội".
    Người ta kể rằng cụ Lý Vặng mang cả gia đình lên theo, cụ sinh được 5 bà con gái, bà đầu tiên được sinh ra khi cụ vừa lập nghiệp ở Hà Nội, nên đặt tên là Nội. Bà thứ hai đẻ ra khi cụ thuê nhà ở phố Bảo Khánh, liền đặt tên là Khánh. Bà thứ ba đặt tên là Hành để kỷ niệm những ngày ở phố Hàng Hành... Nghề phở phát đạt, nên cụ mua được chức lý trưởng ở quê, giữ chức này tính ra có đến 10 năm... Điều đặc biệt là sau khi mua, cụ vẫn tiếp tục vừa làm phở, vừa làm lý trưởng. Các cháu ngoại của cụ bây giờ toàn theo nghề phở cả.
    Ông đồ, ông lang, ông thầy số đều theo phở
    Phở ra đời như cái phao cứu sinh cho làng Vân Cù, gần một thế kỷ trước cũng như bây giờ. Hồi đó làng Vân Cù rất nghèo, thanh niên đến 18 tuổi được ăn ruộng công, nhưng chỉ được có 10 thước Bắc Bộ, trong khi đó làng quê khác được cả sào, cả mẫu. Làng nghèo, nên chức dịch trong làng cũng không phải là miếng mồi để tranh chấp lẫn nhau. Chứng cớ là ông Bá Hoài được họ mạc sang tên cho một ít ruộng (dành để cúng giỗ) thế là đủ tài sản để được chức lý trưởng... Lý trưởng lẽ ra như ông vua con của làng, thừa tiền, thừa thóc, vậy mà 2 đời lý trưởng của làng đều phải cho gia đình đi bán hàng phở. Người thì bán rong ở cạnh bờ sông Lấp dưới Hải Phòng, người thì bán ở cạnh cột đồng hồ ở Hà Nội, người khác bán ở phố Hàng Mã. Đời con ông Bá Hoài, cũng thế, bây giờ vẫn còn anh Cồ Như Thắng, bán phở, Chủ tịch hội đồng hương làng phở Vân Cù ở Hải Phòng...
    Từ khi có phở đến nay, không gia đình nào ở làng là không dính dáng đến phở. Dăm sáu cụ giáo chữ nghĩa nhất làng hồi đó cũng đi bán phở, hoặc cho người nhà theo nghề này. Thí dụ như ông Diễm trước bán phở ở Sặt, giờ chuyển về Yên Mô (Ninh Bình) chính là con cụ đồ Du. Ông chú họ tôi là thầy lang được cấp giấy chứng nhận hành nghề y dược hẳn hoi ở Cẩm Thủy (Thanh Hóa), giờ 80 tuổi vẫn làm nghề phở. Làng xưa có 3 điện thờ, vì có 3 ông thầy cúng mà rồi các ông này cũng tự mình hoặc cho con cái khoác túi vải lên vai, ra Hà Nội bán phở rong... bởi không có phở thì không sống được.
    Từ khi có phở, người Vân Cù đi Hà Nội như đi chợ, thời gian đầu chưa mở được tiệm, toàn đi gánh rong. Tối về ngủ chỗ cụ Lý Vặng thuê nhà, sáng lấy bánh phở ngay tại lò, chia ra mỗi người một phố mà bán. Nhà Cồ Kiểm chuyên bán ở phố Hàng Điếu. Cạnh đó, bố con ông Long bán ở phố Hàng Trống. Mỗi sáng, nhà chức trách đều dán giấy vào đầu đòn gánh để thu thuế. Ông Long nộp tiền rồi mà vẫn bị cảnh binh đuổi, tức mình ông cầm đòn gánh phang tay cảnh binh ấy một trận, rồi trốn về quê 3 năm, sau lại lên Hà Nội làm đóng gói chè Tàu thuê. Chỉ có con ông ấy là anh Thịnh vẫn bán phở...
    80% - 90% người làm phở Hà Nội có gốc Vân Cù?
    Đấy là người Vân Cù nói thế trong cuộc họp đồng hương nói trên. Và để tăng sức cạnh tranh, thời gian qua họ đã bảo nhau trương biển "Phở gia truyền Nam Định" lên, nhiều tiệm còn chen 2 chữ "chuyên bò" vào giữa vừa để khẳng định truyền thống của thương hiệu này (chỉ bán phở bò chín, và bò tái) vừa để cho vần. Thực ra số tiệm phở trương biển này cũng không phải là nhiều, vì nhiều người Vân Cù đã có thương hiệu riêng cho phở nhà mình, nhưng chủ yếu là do họ còn phải đi nấu thuê.
    Về Vân Cù bây giờ hiếm lắm mới gặp được một thanh niên. Mười mấy tuổi là đã kéo nhau về Hà Nội, xuống Hải Phòng, vào Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh theo người làng đi phụ việc, học nghề, tiếp đó đi nấu thuê cho các hàng phở. Có người đang làm kỹ sư như anh Tuyển cũng bỏ nghề lên Hà Nội đi bán phở ở phố Nguyễn Lương Bằng.
    Phở đang được coi là món "quốc hồn, quốc túy", nghề phở đang phát đạt trở lại... Người Vân Cù giàu lên. Cách đây ba năm, cũng người làng này đã cải tiến chiếc máy Trung Quốc thành máy tráng bánh phở, mà bây giờ đang dần phổ biến ở khắp các tỉnh thành. Ông Kiểm nở nụ cười tươi: "Cả đời tôi chỉ nghĩ bần cùng mới phải bán phở, mới phải hầu hạ người khác, ai ngờ lại có ngày được trân trọng đến thế".
    (Báo Thể thao và Văn hóa)
    Nore
  7. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
  8. kieuphong

    kieuphong Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2002
    Bài viết:
    5.781
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn mọi người nhiều lắm!
    Xem ra cách ăn phở của người HN khác quá. Trong SG ăn phở mà kô có rau, giá trụng hoặc sống, hành giấm, hành trần, nước béo là ăn hết ngon. Một tô phở tớ ăn mà thiếu các thứ đó là coi như chán!
    Ngay cả tương cũng khác nhỉ! Cái tương ớt ngoài HN ăn cay ơi là cay. Còn trong SG chủ yếu dùng tương đỏ, cho đỏ cả cái tô mà cũng chưa cay tí nào. Thế kô biết phở HN có ăn tương đen kô?
    Các bạn có bài viết nào viết về ẩm thực VN ở những thời đại xa xưa kô? Thế kỷ 19 chẳng hạn.

    Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn
    Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn
  9. zhaowei85

    zhaowei85 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    444
    Đã được thích:
    0
    Lang thang vào box ẩm thực thấy nói về phở, hay quá, cho mình góp vui bằng một bài. Thực sự thì mình rất thích ăn phở nhưng chưa bao giờ biết về lịch sử, nguồn gốc hay cách làm phở, hôm nay mới được mở mang tầm mắt.
    Mình đã từng ăn phở trong Sài Gòn, đúng là khác rất nhiều so với phở Hà Nội, có thêm nhiều phụ gia khác và nước phở có vị ngọt hơn. Phở Hà Nội ko có tương đen đâu bạn ạ, chỉ có tương đỏ thôi, và đó cũng là một gia vị không thể thiếu của phở. Nếu bạn ra Hà Nội có lẽ bạn sẽ hợp với món phở trên Bát Đàn, phở áp chảo có thêm rau cải. Nhưng mình thì không thích ăn như thế vì nó sẽ làm mất đi cái hương vị đặc trưng của phở Hà Nội. Đúng là điều quan trọng nhất làm cho phở ngon hay không là nước dùng, mình đã đi nhiều nơi, miền Bắc có mà miền Nam cũng có nhưng thực sự thì vẫn chưa có nơi nào ngon bằng phở Hà Nội, có lẽ là do mỗi miền có một khẩu vị khác nhau, có nơi nước phở quá ngọt, có nơi nước phở lại quá nhạt nhẽo, có lẽ đây cũng là do thói quen ăn uống.
    Biết đâu được đấy, nếu mình thưởng thứ phở Sài Gòn trước phở Hà Nội thì có khi mình lại thích phở Sài Gòn hơn thì sao?. Nhưng mà hiện tại đối với mình phở Hà Nội vẫn là ngon nhất, món ăn dân giã nhưng lạo tao nhã và đầy hấp dẫn
    Failure is the mother of success !
  10. gungcayvn

    gungcayvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/02/2002
    Bài viết:
    3.222
    Đã được thích:
    1
    Đúng là cách ăn phở trong Nam khác ngoài Bắc nhìêu. Không chỉ là Phở thôi, mà các món ăn khác của Miền Nam cũng khác ngoài Bắc nhiều, người Nam khi ăn thường có rất nhiều gia vị đi kèm, ngoài Bắc ít hơn. Các món ăn trong Nam thường nặng về gia vị, ngọt ngọt, béo béo...
    Ở Bắc không có tương đen, chỉ trong Nam mới có. Hôm đi DN cũng chưa thấy ĐN có tương đen. Thích nhất ở SG khi mua mấy thứ đồ ăn vặt, bao giờ chén tương nhỏ xíu kèm theo cũng có hai nửa, nửa màu đen, nửa màu đỏ mà nửa nào cũng ngon hết
    Ai bảo chiều qua em cúi xuống
    Để tóc tương tư tím mấy mùa

Chia sẻ trang này