1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hỏi về tôn giáo/tín ngưỡng ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Amor, 22/04/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
  2. CMMC0508

    CMMC0508 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    791
    Đã được thích:
    3
    @ bạn aliosha,
    mình hiểu nhầm cái ý: lợn là thức ăn của Lucife; vì là thức ăn của quỷ dữ nên người ta cấm; vừa đọc lại thấy mình sai rồi.
    Thành thật xin lỗi
  3. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Đạo DoThái cho Lợn là giống nhơ bẩn. Các đạo tiếp theo là đạo Chúa và
    đạo Hồi cũng theo lối suy nghĩ ấy. Tuy vậy, trong Kinh Thánh có nhiều
    lần kể người Do Thái nuôi lợn hàng đàn, không biết để làm gì? Sau khi
    Chúa GiêSu chết, các đệ tử sợ hãi tứ tán, rồi hoàn hồn lại mà tổ chức
    truyền đạo của Thày mình, và kết nạp môn đồ mới, trong đó có một người
    xuất sắc tên là PhaoLô, vốn có quyền Công Dân LaMã, và sinh sống mở
    rộng với người các dân tộc khác trong đế quốc LaMã rộng lớn. Sứ đồ
    PhaoLô được Chúa khải thị (soi sáng tâm trí mà có sáng kiến) truyền
    đạo ra các dân tộc khác, chứ không chỉ trong dân DoThái mà thôi. Trong
    khải thị (như một giấc mơ) PhaoLô thấy trên trời rơi xuống Lợn, Cóc
    Nhái, RắnRết, SâuBọ là những thứ "nhơ bẩn" và có Lời Chúa phán hãy
    nấu tất cả những thứ đó mà ăn vì chúng chẳng có gì nhơ bẩn cả. Giấc mơ
    này chỉ cho tín đồ không câu nệ những thứ nhỏ nhặt khác biệt giữa các
    văn hoá các dân tộc, mà coi mọi người là bình đẳng trước Chúa, và đều
    được tôn trọng và thương yêu.
    Sứ đồ PhaoLô không những chủ trương hăng hái truyền đạo rộng khắp thế
    giới, mà còn noi gương Thày (GiêSu) lên án mạnh mẽ những kẻ đạo đức
    giả, thờ Chúa ngoài mặt để lấy tiếng, mà bên trong thì không nghe Lời
    Chúa mà thương yêu người khác. Từ "nhơ bẩn" có nghĩa bóng về tinh
    thần nữa, chứ không chỉ nghĩa đen về vật chất là Lợn vân vân mà thôi.
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
     Tôn giáo hay tín ngưỡng?
    Trong những văn bản buổi đầu mang tính pháp lí của Hồ Chủ tịch, Hồ Chủ tịch không dùng chữ "Tôn giáo". Trong Chương trình ********* do Hồ Chủ tịch biên soạn chính đã thể hiện rõ: ?o? 2. Ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức; tự do tín ngưỡng?. Trong bài thơ Mười chính sách của *********, Hồ Chủ tịch viết:
    ?o? Hội hè, tín ngưỡng, báo chương.Họp hành đi lại có quyền tự do?.
    Thiên Chúa giáo là tôn giáo độc thần, tôn thờ một Đấng Tối cao, một Đấng Siêu việt, mà con người không bao giờ sánh bằng và chỉ còn một nhiệm vụ là suy tôn vị thần đó, vị thần độc nhất để thờ. Ngay như Đức Mẹ Maria, là người trần nhờ mang thai sinh ra ?oChúa Con? cũng chỉ được tôn kính (vénérer) không được thờ. Đấng Siêu việt không có thực là Đấng Sáng thế. Các Đấng Sáng thế là không có thực. Đó là các vị như Đức Chúa Cha, như Thánh Allah và Iahvé hay Jehovah của đạo Do Thái, đều không có tiểu sử, thậm chí các vị sứ giả hay hoá thân của các vị trên thì tiểu sử cũng mang nửa huyền thoại, nửa thực tế, rõ ràng nhất là Đức Jesus như quyển: Những hồ sơ bí mật viết về hậu duệ của Christ, Tấm vải liệm ở TurinChiếc áo lễ ở Argenteuil đều chưa được khoa học xác minh (I. Bourdial và P. Deschampes. Hồ sơ Jesus. Tia Sáng số 18 ngày 20/8/2006 theo bản dịch của CC dựa theo nguyên tác đăng trong Science et avenir, tháng 5-2006, tr. 32-35.). Đã là người trần dù là tín đồ trung thành hay các chức sắc chỉ biết vâng lời người đại diện của Chúa giống như bầy chiên ngoan ngoãn theo con chiên đầu đàn hay chỉ biết phục tùng và phục tùng như trong Kinh Koran đã nhắc nhở các tín đồ nhiều lần câu: ?oNhân danh Allah, Đấng rất mực độ lượng, rất mực khoan dung?, ?oAllah! Không có Thượng Đế nào khác, chỉ mình Ngài là Thượng Đế, Đấng Hằng sống, Đấng Tự hữu và Đấng Nuôi dưỡng vạn vật? (Kinh Koran. Theo bản dịch của Hassan Abdul Karim, 1997.).
    Vì đức tin và chỉ tin vào một Đấng Tối cao duy nhất, cho dù cách tin có khác nhau, với các nghi lễ khác nhau, ta thấy trong lịch sử Cổ Trung đại ở Châu Âu luôn xảy ra các cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo với danh nghĩa là bảo vệ quyền ?oích kỉ? của vị độc thần, luôn được tiếng là khoan dung, độ lượng, thương yêu, vị tha. Tất cả những kẻ khác đều bị coi là dị giáo, là tà giáo, là mê tín cần xoá bỏ. Những mê tín, dị giáo đều có tên cụ thể, rõ ràng, đâu được gọi bằng tên chung là tín ngưỡng (croyances hay croyances religieuses). Từ cuối thời kì Cận đại cho đến hiện nay, chiến tranh tôn giáo vẫn tiếp diễn khi ẩn khi hiện. Trong đạo Kitô, xem ra có vẻ yên ả, không thấy có những xung đột giữa ba phái lớn: Công giáo, Chính Thống giáo và đạo Tin Lành, có chăng nay còn âm ỉ ở Bắc Ai Len. Trong đạo Islam, sau khi sứ giả của Thánh Allah viên tịch, xảy ra những xung đột giữa hai phái, một là theo con ruột của Mohammed, hai là theo con rể của Người. Đó là sự xung đột giữa giáo phái Sunnit và Shiit trong lịch sử, một khi được kích động lại đâm chém nhau như trường hợp cuộc chiến tranh giữa hai nước Iran và Irắc?
    Sự xung đột giữa một bên là đạo Kitô, một bên là đạo Islam vẫn là nỗi lo sợ ám ảnh vì tình trạng êm dịu hay căng thẳng lại phụ thuộc vào phái cầm đầu chính quyền vì quyền lợi vật chất (dầu lửa, đá quý,?) hơn là vì Chúa hay vì Thánh. Bên này chê bên kia là khủng bố dân thường, bên kia chê bên này là viện cớ để chiếm Apganistan và Irắc của những kẻ buôn súng. Mâu thuẫn khó rũ bỏ giữa người Do Thái với các nước ảrập cũng còn sâu nặng. Nên có người lo thế kỉ XXI là thế kỉ của tôn giáo.
    Tôn giáo phản ánh thực tiễn lịch sử nên cần nhận thức rõ ràng là nó bị người đời lợi dụng. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã muốn Giáo hội lấy việc tự kiểm làm công tác hàng đầu trong việc chuẩn bị năm Thánh 2000 vì trong quá khứ Giáo hội đã gây ra nhiều sai phạm. Có những lầm lỗi của cá nhân các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, các giám mục, có những lầm lỗi của tập thể cả Giáo hội, của từng giáo phận, của mỗi giáo xứ. Có những lỗi lầm chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa. Có những lỗi lầm vô tình biến ta thành vật cản ơn Thánh để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân ta và cho mọi người. Công việc đó chứng tỏ rằng về phía Công giáo đã muốn ?ovới con người mới, ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới với ơn Thánh, với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ? (Hương Khê. Tự kiểm và sám hối. Công giáo và Dân tộc, số 59, tháng 11-1989, tr. 16-17).
    Gần đây Vatican đã có thiện chí muốn liên kết với các tôn giáo trước hết là với Chính Thống giáo và đạo Tin Lành. Cũng trong một cuốn sách, Đức Giáo hoàng đã phát biểu có thiện chí với đạo Khổng, đạo Tổ tiên, tất nhiên do quan niệm Phật giáo không phải là một tôn giáo nên đã có lời nói không đúng với một tôn giáo đã có đến 300 triệu tín đồ (Phaolô II. Bước qua ngưỡng cửa hi vọng. Paris 1994, tr. 109. Bản dịch Trần Thái Định).
    Khối cạnh tranh với Kitô giáo là đạo Islam trên mình mẩy đương vấy máu, đương chia rẽ, chưa thống nhất. Có phái cực đoan, có phái ôn hoà. Nói chung, thế lực còn chưa mạnh so với đối thủ luôn ở thế trên. Do vậy, xét cho cùng, việc nổi dậy của phái cực đoan cũng gây ra sự lo sợ cho các nước phương Tây và gây căng thẳng với các nước có Islam giáo sống chung với các tôn giáo khác. Trong tương lai gần, chiến tranh toàn diện giữa hai thế lực tôn giáo trên sẽ không xảy ra. Nhưng nếu nhân danh ?ochống khủng bố? để nhằm mục đích khác, hay đúng ra lại nhằm mục đích ?okhủng bố" cả một nước như Apganistan, như Irắc hay đặt nước này, nước nọ vào diện phải cấm vận, phải trừng phạt nếu không tuân thủ cái gậy chỉ huy của các nước siêu cường hiện nay. Đó là như đối với các nước Iran, CHDCND Triều Tiên (thậm chí cả Việt Nam, Trung Quốc,?), thời nạn khủng bố hay chiến tranh cục bộ lại càng gia tăng và thế giới đang phải gánh chịu (Đặng Nghiêm Vạn. Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005 - bản in lần thứ 3). Điều đó biết đâu là vật cản ơn Thánh để xây dựng một Dân Chúa trên Thiên Đường, biết đâu lại làm giảm sự độ lượng, sự khoan dung của Đấng Sáng thế, cũng như làm chậm việc xây dựng cõi Niết Bàn của Phật giáo, hay thế giới đại đồng như Khổng Tử mong muốn ngay trên trái đất này.
    Những người sáng lập ra các tôn giáo độc thần cũng như đa thần, đã được A. Einsten coi là những người vĩ đại đã vượt qua các thời đại. Nếu như những vị sáng lập ra các tôn giáo độc thần, theo tinh thần duy lí, muốn loại trừ các tôn giáo khác mình, coi tất cả là dị giáo, là không đi theo con đường của Chúa, thì ở miền Viễn Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng, không có các tôn giáo theo định nghĩa của Châu Âu nhằm chỉ các tôn giáo nguồn gốc phát sinh từ Trung Cận Đông. ở đây, các ?otôn giáo? chỉ được gọi là đạo, là nguyên lí làm người, được chỉ dẫn bởi một con người trần tục vĩ đại mà mình noi theo (Đặng Nghiêm Vạn. Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội 2001 (tái bản 2003, 2005 - có bổ sung), vì biết ơn mà ta đã tôn thờ như một vị thánh hiền. Nên khác với các tôn giáo ở phương Tây, tuy ở Việt Nam các tôn giáo vẫn lí giải những mỗi quan hệ giữa cái vô hình và cái hữu hình, hay giữa cái thiêng và cái tục để tôn những người sáng lập ra đạo và những đệ tử của họ, những người bằng xương, bằng thịt, thành những vị thánh, như các vị thánh thần trong các đạo Nho, đạo Phật, Đạo giáo, cũng như các vị có công với đất nước, với làng, với dòng họ, đạo tổ tiên và các thần khác để tôn thờ. ở các tôn giáo này, ta chỉ thấy tồn tại chủ yếu các nhiên thần, được nhân cách hoá, các nhân thần có công với nước, với làng, với nhà, những người chết vào giờ thiêng hay những người bất hạnh không được xã hội cổ truyền công nhận, thường được gọi là những người chết bất đắc kì tử: bà cô, ông mãnh, người chết đường chết chợ, chết đuối, chết có thương tích, v.v? Vì đối tượng thờ, mỗi vị giữ một chức năng, vì có bệnh thì vái tứ phương, vì có kiêng, có lành, nên dễ sinh ra mê tín, dễ bám vào các hủ tục. Mặt khác, mỗi cá nhân có thể thờ một hay nhiều vị thần, nên phải nói ở đây có sự tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhau. Có giáo dục, có phê phán, có cạnh tranh nhưng không hề có sự cấm đoán.
    Có người phân biệt tín ngưỡng là một tôn giáo không có tổ chức, lại gán cho đó là ý của C. Mác, Ph. Ăngghen là không đúng. Có chăng là ý kiến của G. V. Plêkhanov, người đầu tiên đã truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga. Ông chỉ coi tổ chức là một phương tiện truyền bá tôn giáo chứ không hiểu tổ chức nằm trong bản chất của tôn giáo. ý kiến đó xuất phát từ khái niệm đồng nhất nhân loại với thế giới do Chúa tạo ra. Chúa, Đấng sáng tạo ra loài người, hoá thân vào Đức Kitô còn là sứ giả truyền bá đạo cho người trần gian và nêu gương hi sinh cho nhân loại theo, chết trên Thánh giá. Còn người đại diện coi sóc trần gian là Chúa thánh thần, là Đức Giáo hoàng ?" Người nắm ý Chúa khuyên bảo loài người. Nên đạo do J. Christ sáng lập đã tổ chức ra một nhà nước, một Thiên Chúa hay một Dân Chúa. Đức Giáo hoàng là người ?ovô ngộ?, nói không sai. Tổ chức Giáo hội có một hệ thống từ trên đến tận các đơn vị cơ sở, các làng xã, một hệ thống ?oquan chức?, một tài sản kếch xù?, buộc mọi tín đồ phải theo. Đó là nguyên nhân một bộ phận không chấp nhận và tách ra thành đạo Tin Lành, một hình thức tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa tư bản.
    Bất kì tôn giáo nào cũng có tổ chức rất đa dạng. Nếu Công giáo có tổ chức chặt chẽ, con trẻ sinh ra đã là con của Chúa, thì đạo Tin Lành lại có tổ chức chặt chẽ ở cơ sở, chia ra nhiều giáo phái, năng động ứng đáp được với các tình thế xã hội khác nhau. Đạo Tin Lành cũng lại cho phép hiểu giáo lí của Chúa theo những cách khác nhau. Đạo Phật vì không có tổ chức giáo hội trên toàn thế giới nên Đức Giáo hoàng không coi là một tôn giáo, thực chất chỉ là các cơ sở sơn môn, các tăng. Hội Phật giáo toàn thế giới nhiều năm mới họp một lần không bao quát được các tổ chức Phật giáo khác nhau, có tính chất như một mặt trận. Đạo Khổng có tổ chức đan lẫn vào hệ thống chính trị xã hội, nên khi tổ chức đó không còn thì đạo vẫn còn tồn tại chỉ với những lí luận rất cụ thể thích hợp với tâm lí con người phương Đông. Đạo Tổ tiên nếu không có tổ chức thì làm sao trong một nước lại tuân thủ các nghi lễ khá chặt chẽ, mang tính quần chúng và J. Delumeau đã phải ca ngợi là một tôn giáo không sức mạnh gì xoá bỏ nổi (J. Delumeau. Le fait religieux. Fayard, Paris 1993).
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1

    Tất cả những tôn giáo trên đều tuân thủ chặt chẽ một định nghĩa tối thiểu của tôn giáo theo quan niệm của E. Tylor: ?oTốt hơn là có lẽ nên đặt niềm tin vào các thực thể tinh thần (spiritucls) như một định nghĩa tối thiểu (minimum) về tôn giáo? (E. Tylor. Văn hoá nguyên thuỷ.  Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội 2001, tr. 505.  Bản dịch tiếng Việt). Còn các tác giả khác cuối thế kỉ XIX, đầu XX đều chấp nhận, mô phỏng thành khái niệm cặp đôi, vô hình và hữu hình, tự nhiên hay siêu nhiên. Đến năm 1912, định nghĩa đó lại được co hẹp thêm vì đâu phải có cái hữu hình thì có cái vô hình, có cái tự nhiên thì phải đi theo là cái siêu nhiên. E. Durkheim đã nói rất đúng cặp đôi đó: ?oCái thiêng và cái tục là đối tượng của tôn giáo? (E. Durkheim. Les formes elémentaines de la vie religieuse. PUP, Paris 1968). ý kiến đó được thống nhất cho đến hiện nay với những bổ sung cái thiêng là gì, khi nào xuất hiện cái thiêng và v.v? ý nghĩa cơ bản về định nghĩa tôn giáo không thay đổi.
    Vậy lẽ nào những tôn giáo như đạo Phật mà Giáo hoàng Phaolô II đã một lần phủ nhận, như đạo Tổ tiên với những nghi lễ, những quan niệm thống nhất từ người bình dân đến các trí thức lại bị hạ xuống là tín ngưỡng - một thứ tôn giáo hạng hai (!) như một số người quan niệm.
    Cần chú ý đạo Tổ tiên hay đúng hơn là đạo tôn thờ những người đã khuất (cultes des ancétres) với những nhiên thần, nhân thần, những vong linh người đã khuất không phải và càng không thể là tôn giáo nguyên thuỷ mà là tôn giáo dân tộc với các vị thần, các nghi lễ dân tộc. Xin lưu ý ý kiến của Ph. Ăngghen khi nói đến tôn giáo dân tộc: ?oNhững vị thần được tạo ra? ở mỗi dân tộc là vị thần dân tộc; lĩnh vực chi phối của các vị thần đó không vượt quá biên giới của lãnh thổ dân tộc mà vị thần ấy phải bảo vệ, và ngoài biên giới ấy thì do các vị thần khác tiến hành một sự thống trị không ai giành được. Tất cả các vị thần ấy chỉ có thể tiếp tục tồn tại trong trí tưởng tượng chừng nào dân tộc tạo ra các vị thần đó còn tồn tại; khi dân tộc đó tiêu vong thì các vị thần ấy cũng sẽ tiêu vong theo? ( C. Mác - Ph. Ăngghen. Toàn tập. Tập 21, tr. 445-446 - bản tiếng Việt).
    Vậy đạo Tổ tiên chỉ mất đi khi Tổ quốc Việt Nam không còn tồn tại. Bởi vậy, ta mới hiểu hiện nay làm sao trên thế giới ở Châu Âu có một xu hướng muốn tìm lại những vị thần dân tộc hay đúng hơn là muốn phục hồi các tôn giáo dân tộc sau hơn 1.500 năm bị Kitô hoá. Bởi vậy ta mới hiểu các tôn giáo nội sinh hay ngoại lai, muốn tồn tại phải lần lượt công nhận thờ cúng hay tôn kính tổ tiên. Công giáo đã chính thức công nhận không coi tôn kính tổ tiên là mê tín là nhảm nhí; đạo Tin Lành nếu không đổi thái độ chắc cũng không giữ được lòng tin của tín đồ theo đạo này.
    Với người Việt Nam, thờ cúng Tổ tiên là một tôn giáo cơ bản. Cũng chính L. Cadière đã thấy điều đó theo nghĩa hẹp của nó. Ông viết: ?oGia đình theo nghĩa rộng không chỉ bao gồm những người đương sống mà còn bao hàm cả những người đã khuất. Đó là điều quan trọng nhất mà họ tin tưởng. Người Việt Nam cho dù là người nông dân nghèo khổ nhất cho đến người culi hèn kém nhất đều nghĩ như vậy. Họ đều coi những bậc tổ tiên của họ như những người sống ở trên thế gian tức thế giới bên kia. Và cũng như vậy, họ có ý thức đến một ngày nào đó, họ cũng được con cháu cho họ cái quyền siêu nhiên đó. Gia đình như một đền thờ lớn. Những thành viên còn sống đương ở ngoài ngưỡng cửa ngôi nhà. Rồi người nọ tiếp người kia lần lượt bước qua ngưỡng cửa đáng sợ đó, qua cánh cửa của cái chết, để trèo lên ngồi trên chính điện. Nhưng người nọ cũng như người kia vẫn ở chung dưới một nóc nhà. Mọi ràng buộc đã cố kết với nhau trong suốt cuộc đời, không bị tách ra bằng cái chết, ngược lại mối ràng buộc đó nhờ tôn giáo của họ mà trở nên chặt chẽ hơn. Nó trở nên bất diệt nhờ đạo Tổ tiên. Phải công nhận rằng gia đình đã mang tính cách đầy cao thượng, một uy thế đầy ấn tượng? (Quyển I, tr. 35-36).
    Gia đình được mở rộng ra dòng họ, từ đấy ra xã hội. Người Việt Nam có khả năng nối liền nhà qua làng tới nước. Những thuật ngữ xưng hô cũng được mở rộng từ gia đình ra toàn xã hội. Các thuật ngữ xưng hô trong xã hội tuỳ theo tuổi tác, địa vị xã hội mà trùng lặp với thuật ngữ xưng hô trong gia đình. Đó là điều khó bỏ tuy rằng ai cũng biết tai hại của nó, biến quan hệ thủ trưởng - nhân viên thành chú - cháu, bác - cháu, thậm chí cha - con rất khó tạo nên sự bình đẳng, rất dễ đi đến chỗ biến cơ quan thành một gia đình nhỏ phụ quyền (cơ quan là gia đình ta cả). Nên trong tôn giáo theo quy luật của nó, một người bình thường như tôi với anh, chí ít được con cháu thờ. Nếu có công với làng thì được làng thờ, những tiền hiền, những hậu hiền, những thành hoàng (nhất là từ khi Nhà nước có sắc phong tức khẳng định thì nước đã chi phối được làng). Nếu là những danh nhân, những ***** các nghề được nhiều làng thờ, những anh hùng có công với nước được nước thờ. Truyền thống đó tồn tại cho đến ngày nay với việc phong thần cho các vị anh hùng có công với nước, không phân biệt người đó là ai, Nguyễn Trung Trực (anh hùng yêu nước chống Pháp), Nguyễn An Ninh (người c ộng sản), Võ Thị Sáu (anh hùng chống Pháp), Nguyễn Thị Định (nữ tướng c ộng sản), 10 chị em thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc (anh hùng chống Mỹ), đặc biệt ông Phan Thế Phượng, Giám đốc Thuỷ sản Thừa Thiên Huế, là một đảng viên c ộng sản đã được 120 làng chài thờ làm phúc thần, v.v? Các vị theo đạo Phật đắc đạo cũng được thờ. Theo Đạo giáo tuy có thờ thiên thần, nhưng việc thờ Bà Liễu Hạnh muốn thêm thiêng cũng phải nhân thần hoá bằng việc cho rằng Bà có công với nước vì là tác giả của câu sấm truyền: ?oNgược đời 2 bẩy 13, một cơn gió thoảng tám gà chết toi?. Đó là năm nhuận 13 tháng vào tháng bảy Âm lịch, tám gà là bát kê (P. Pasquier toàn quyền Pháp chết tai nạn máy bay), ý là bà đoán đúng ngày P. Pasquier bị tai nạn.
    Hồ Chủ tịch, Người rất am hiểu tôn giáo Việt Nam và lại có điều kiện bôn ba giữa những tầng lớp ?odưới đáy? của xã hội Mỹ, Anh nhất là ở Pháp, trong một cuộc trao đổi với nhà thơ Ôxíp Mandenxtam viết trên báo Ogonhiok (Ngọn lửa nhỏ) số 39 ngày 23-12-1923, cụ đưa ra một nhận xét: ?oNgười An Nam (tức Việt Nam) không có linh mục, không có tôn giáo theo cách nghĩ của người Châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội. Chúng tôi không có người tư tế nào. Những người già trong gia đình hay các già làng là người thực hiện những nghi lễ tưởng niệm (ở Việt Nam không thấy có sự tách biệt giữa thờ cúng và tưởng niệm vì tưởng niệm vẫn có đồ cúng đi kèm). Chúng tôi không biết đến uy tín của người thầy cúng, người linh mục là gì? (Toàn tập, tập I, tr. 478-479).
    Nếu hỏi người Việt Nam theo tôn giáo nào, đối tượng hỏi khó trả lời, Viện Nghiên cứu Tôn giáo đã đưa ra 3 câu hỏi theo những thuật ngữ quen thuộc mà GS. Đặng Nghiêm Vạn giao cho ThS. Nguyễn Kim Hiền thực hiện: Ông (bà) theo tôn giáo nào? ở Vĩnh Phúc: 76,9% người được hỏi trả lời không, 3,7% không trả lời, 14,9% trả lời là Lương (chú ý Lương ?" Giáo), 2,4% là Phật giáo; trong khi ở Bến Tre: 61% trả lời là không, 2,3% trả lời là Lương, 25,5% trả lời là Phật giáo - chú ý người hỏi không giải thích.Nếu ở bộ phận Công giáo trong 3 câu hỏi: 1. Ông (bà) theo đạo nào? (tránh thuật ngữ tôn giáo); 2. Ông (bà) thờ vị nào?; 3. Ông (bà) tin ở vị nào nhất? Thì ta thấy được câu trả lời xấp xỉ ngang nhau: theo đạo Kitô: 99,1%; thờ Chúa: 99%; tin vào Chúa: 97,4%, còn 1,3% nghi ngờ. Thuật ngữ tôn giáo còn xa lạ với đồng bào, chỉ đến năm 1930 mới thấy ở tự điển.
    Các tôn giáo ngoại sinh khi vào Việt Nam đã bổ sung thêm cho hệ thống tôn giáo dân tộc, dựa vào hệ thống tôn giáo dân tộc mà tồn tại theo hướng hoà nhi bất đồng với mục đích là yêu nước, yêu dân tộc. Do vậy, ta có thể nói, nếu vào thời Trung đại ở Châu Âu, lịch sử của Châu Âu là lịch sử của những cuộc chiến tranh tôn giáo, thì ở Việt Nam, trước khi có mặt của người Châu Âu, không có chiến tranh tôn giáo. Đó là một truyền thống quý báu của người Việt Nam. Chỉ đến khi đạo Kitô sang, vấn đề mới đổi khác. Ban đầu với sự khoan dung, với lòng tôn trọng những tín ngưỡng khác, không chỉ người dân mà cả các thành viên trong hoàng gia cũng theo đạo Kitô. Đến thế kỉ XIX, khi người ta thấy xuất hiện cây Thánh giá bên cạnh lưỡi gươm, thì sự xung đột tôn giáo mới xảy ra. Ý niệm độc thần đi đôi với đạo quân xâm lược làm cho người ta phải bài xích tôn giáo ngoại lai:
    Thà đui mà giữ đạo nhà
    Còn hơn sáng mắt lại theo đạo người.
    (Nguyễn Đình Chiểu)
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Chính phủ Việt Nam hiện đã có chủ trương cho nhiều hệ phái như Tịnh độ Cư Sĩ Phật hội, Tứ Ân Hiếu nghĩa, Biểu Sơn Kỳ Hương, Đạo Bahá?Ti (đã trao đăng ký hoạt động) và một số hệ phái Tin Lành như Cơ đốc truyền giáo, Cơ đốc Phục lâm, Baptist, v.v... được đăng kí hoạt động tôn giáo; từng bước xem xét công nhận về mặt tổ chức theo quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, và Nghị định hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh trên... tham khảo bài của ông Ngô Yên Thi, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ: Chính sách tôn giáo trong văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Công tác tôn giáo số tháng 7/2006.
    Được DinhPhDc sửa chữa / chuyển vào 02:22 ngày 02/03/2009
  7. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
     
    Sự ưu ái Công giáo của thực dân Pháp và sự ưu ái của Hoa Kỳ với đạo Tin Lành đã dẫn đến kết quả ngược lại. Để ngăn chặn âm mưu kể trên đã bùng nổ sự chấn hưng Phật giáo (thập kỉ 30 của thế kỉ XX), ra đời hai tôn giáo bản địa: Đạo Cao Đài và đạo Hoà Hảo, và cuộc biểu tình dẫn đến sự lật đổ chế độ Diệm ?" Nhu vào năm 1963 của tín đồ Phật giáo và đạo Ông Bà. Ở miền Nam, khó có sự tách biệt giữa hai đạo này. Trong nhà người dân thờ các bậc tổ tiên và thờ cả Đức Phật hoặc Quan Âm.
    Trong thời kháng chiến 9 năm, mỗi tôn giáo chia làm ba bộ phận. Một số theo Chính phủ *****, một số ngả nghiêng, đa số những người lãnh đạo các tổ chức tôn giáo trong vùng tạm chiếm lập đảng, tổ chức quân sự chống lại kháng chiến. Người Mỹ nâng đỡ phát triển đạo Tin Lành, dùng đạo kích động người Thượng lập đội quân Fulro đánh phá cách mạng. Đạo Vàng Chứ, đạo Thìn Hùng ở người Hmông, Dao, ở Tây Nguyên phát triển đạo Tin Lành Dega với mong muốn lập các nước riêng như nước Dega, nước Hmông nhằm thực hiện chủ trương li khai dân tộc, nhân quyền hơn chủ quyền (Báo Tia Sáng có đăng bài Độc lập ?" một khái niệm hẹp, số 18, ngày 20-9-2006 của Nguyễn Quang A. Các nước từ xưa vẫn phải nương tựa vào nhau chứ đâu phải bây giờ mới là quan trọng, là phổ quát. Trong thời kì đầu của toàn cầu hoá, không nên ngây thơ coi nhẹ Độc lập trong lúc các siêu cường quốc còn làm mưa, làm gió. Có cái nhìn ai mạnh kẻ đó thắng như trong cuốn Thế giới phẳng của T. L. Friedman là chỉ khi thế giới phẳng thật chứ như bây giờ làm gì có công bằng, chỉ nên như H. Gierch coi: ?oToàn cầu hoá hiện nay? chỉ là một sự mở rộng không gian của kinh tế tư bản đến tận cùng thế giới?), Chúa là duy nhất, là hơn hết.
    Trước xu thế phát triển của đời sống tôn giáo hiện nay, nhất là sự xuất hiện như một phong trào hiện tượng tôn giáo mới, bắt đầu từ thập kỉ 70 của thế kỉ XX, ta thấy xuất hiện những tôn giáo do người trần mắt thịt sáng lập, vấn đề độc thần được đặt ra. A. Malraux trong cuốn Sortie des religion, retour du religieux đã đưa ra một nhận xét đáng suy nghĩ: ?oVấn đề then chốt ở cuối thế kỉ này XX sẽ là vấn đề tôn giáo được diễn ra dưới một dạng thức khác với sự hiểu biết của chúng ta, cũng như đạo Kitô đã làm với những tôn giáo cổ đại. Nhưng nó sẽ không còn là vấn đề Đấng Tối cao?. Diễn biến của các hiện tượng tôn giáo mới còn phức tạp, như ở Việt Nam từ năm 1990 mới có 10 hiện tượng, đến nay con số đã lên trên 50, đa số là những chi nhánh của đạo Tin Lành mà ngay đến những tổ chức Tin Lành chân chính cũng không chấp nhận được. Những hiện tượng tôn giáo mới phản ánh tính thời đại, rõ ràng là xấu hơn tốt, bị các thế lực chính trị lợi dụng, phản ứng với trật tự xã hội bất công hiện hành, nhưng chưa có lối thoát.
    Vấn đề hiện tượng tôn giáo mới chỉ nêu ra một điều là xu thế tôn giáo trong xã hội hiện đại ngày nay càng đa dạng. Không còn là vấn đề Đấng Tối cao, vấn đề tổ chức trong tôn giáo, mà là vấn đề tự do cá nhân, thậm chí cực đoan, vấn đề dân chủ. Nên nó dường như là mối lo ngại của loài người nói chung như giáo phái Aum (Nhật Bản) muốn tiêu diệt nhân loại, giáo phái Pháp Luân công (Trung Quốc), một hình thức tôn giáo bắt nguồn từ những hành vi thế tục, tôn giáo bóng đá nhằm chỉ sự hăng say, cuồng tín không suy nghĩ với đội bóng đá bản thân ngưỡng mộ, hoặc sự ngưỡng mộ không tưởng đối với một minh tinh màn bạc, v.v? giới khoa học đều gọi những sự kiện tôn giáo mới nảy sinh là phong trào hay hiện tượng tôn giáo mới, chứ không gọi là tín ngưỡng hay niềm tin tôn giáo.
    Vấn đề tín ngưỡng hay tôn giáo còn cần được thảo luận dài dài. Điều đáng lưu ý là làm sao cho đời sống tôn giáo được lành mạnh, không bị các thế lực chính trị lợi dụng với ý đồ xấu. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xã hội. Vậy cần đoàn kết trên cơ sở tôn trọng Đức Chúa của nhau, đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo. Lên án những kẻ lợi dụng tôn giáo vào những mưu đồ bậy bạ./.
  8. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Nguyên nhân là nhà nước và nhân dân ViệtNam chưa có giáo dục đầy đủ
    về Hiến Pháp và Pháp Luật. Cán bộ và nhân dân quen cách sống không
    có luật pháp, và xử việc bằng cách đấu tố chứ không kiện ở Toà Án.
    Bây giờ không nên và không thể lên án ai mà không có Toà Án. Những
    kẻ phạm pháp - lợi dụng tôn giáo, hay đả kích tôn giáo - phải bị trừng
    trị theo pháp luật. Những hoạt động tín ngưỡng hay tôn giáo mà không
    phạm pháp phải được bảo vệ.
    Một khi ViệtNam có pháp luật được thi hành, thì vấn đề tôn giáo chẳng
    còn là chuyện rắc rối nữa.
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    VN bây giờ chưa không phải thời bác chưa theo người Hoa về Tàu nữa bác CoDep ạ!
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    HUYỀN THOẠI PHỤC SINH
    Hơn 150 năm trước, David Strauss đã nêu lên vấn đề "Jesus thật" trong tác phẩm "The life of Jesus critically examined" với lập luận cho rằng: Các tín đồ đầu tiên của đạo Ki Tô đã cố tìm mọi cách để gán cho Jesus đủ thứ huyền thoại về một Đấng Cứu Thế mà mọi người mong đợi. Ngày nay chúng ta phải tìm cho ra một "Jesus thật" ẩn núp đàng sau "Jesus của những huyền thoại" đó.Tới thế kỷ 20, người ta mới ra sức đi tìm "Jesus thật" mà cựu linh mục tiến sĩ John Dominic Crossan gọi là "Jesus của lịch sử". Jesus thật hoặc Jesus của lịch sử hoàn toàn khác với Jesus của huyền thoại hiện đang được các tín đồ tôn thờ. Năm 1947, các nhà khảo cổ đã phát hiện một kho sách cổ gồm trên một trăm cuốn viết trên da lừa, trên các thanh gỗ hoặc thanh đồng, được viết vào thế kỷ IV trước Công Nguyên đến thế kỷ I đầu Công Nguyên. Kho sách quí này được tìm thấy tại Qumran thuộc vùng sa mạc gần Biển Chết nên được mệnh danh là "The Dead Sea Scrolls". Sự khám phá này của ngành khảo cổ đã đem lại cho các học giả nghiên cứu tôn giáo cơ hội tìm hiểu nhiều bí mật của đạo Do Thái và đạo Kitô. Tháng 4.1996, trường Đại Học Los Angeles long trọng tổ chức kỷ niệm Lễ Phục Sinh bằng một Hội Nghị Khoa Học với chủ đề "CHÚA JESUS TRÒN 2.000 TUỔI". Theo sách World Facts and Dates thì Chúa Jesus sinh vào năm thứ tư trước Công Nguyên, vì vậy năm 1996 Chúa vừa tròn hai ngàn tuổi. Nhân loại không cần phải đợi tới năm 2000 mới làm lễ kỷ niệm ngày sinh nhật số một này.Tòa Thánh cũng tổ chức một Hội Nghị Thượng Đỉnh bàn về Phục Sinh (The Surrection Summit) tại một chủng viện ở New York, qui tụ các giáo sư thần học, các học giả về ngành triết học , sử học, và khảo cổ để tất cả hãy cùng nhau "Suy nghĩ lại về sự phục sinh của Chúa Kitô".Cuộc họp kéo dài 4 ngày, từ 8 đến 11.4.1996, dưới sự chủ tọa của LM Gerald O '' Coollins, giáo sư thần học tại Đại Học Jesuits '' Gregorian ở Rome. Tất cả các tham dự viên đều là những giới chức trí thức cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo, chỉ có một người duy nhất là Alan Ségal, theo đạo Do Thái, giáo sư đại học Bernard ở New York. Hội nghị xác định: Niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa Jesus-Kitô là căn bản của giáo lý Kitô. Đúng như sự khẳng định của Thánh Phaolô trong thư Ngài viết cho giáo dân ở Corinth: "Nếu Chúa Jesus không sống lại từ cõi chết thì đức tin của chúng ta đều trở thành vô ích". Quả vậy, niềm tin Kitô là niềm tin được sống lại sau khi chết. Nếu Chúa đã không sống lại thì Chúa không còn là đấng linh thiêng vượt trên tất cả mọi người. Nói cách khác, Chúa không còn là Chúa nữa. Thánh Phao lô còn nhấn mạnh thêm là sự Phục Sinh của Chúa là trung tâm tín lý vì nếu không có chuyện Phục Sinh thì đã không có Giáo Hội Ki Tô !Câu chuyện kể việc Chúa chết 3 ngày sống lại đã là một chuyện đàm tiếu số một trong nhiều giới xã hội ngay từ buổi sơ khai của đạo Kitô. Người Do Thái ở Jerusalem cho đó là chuyện bịa đặt để tôn vinh một tên tội phạm chính trị lên thành một "Ông Con Trời". Giới trí thức Hy Lạp thời đó cũng tin xác loài người sau này sẽ sống lại, nhưng đó là sự sống lại tập thể của toàn nhân loại chứ không solo độc diễn như trường hợp của Chúa. Họ gọi sự sống lại của Chúa là chuyện nhảm nhí của bọn cố chấp.Trải qua 2000 năm lịch sử, mọi người đều phải công nhận là câu chuyện Phục Sinh của Chúa Jesus quả có sức thu hút thật mãnh liệt. Triết gia Đức Ernt Block nhận định: "Chính cái Huyền Thoại Phục Sinh của Chúa, chứ không phải Bài Giảng Trên Núi (Sermons on the Mount) của Ngài, đã chinh phục đế quốc La Mã".Ngày nay, cứ đến dịp lễ Phục Sinh, hơn một tỷ tín đồ Kitô Giáo khắp thế giới qui tụ thật đông đảo tại các thánh đường để tưởng niệm cái chết đau thương của Ngài vào Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday). Hôm sau, thứ bảy là cả một ngày các thánh đường đượm mùi tử khí của nhà mồ với lễ Hôn Chân Chúa (Holy Saturday). Sáng hôm sau, chủ nhật, bỗng nhiên cả đất trời bừng sáng hẳn lên với Tin Mừng Chúa đã chiến thắng sự chết để Sống Lại Hiển Vinh (Easter Sunday).Tất cả chỉ là những màn hoạt cảnh được diễn đi diễn lại tại các nước có đạo Kitô trong 2000 năm qua. Nhưng sau khi Cộng S ản và Đông Âu sụp đổ vào các năm 1989 - 91, đạo Kitô đã bị lâm vào một tình trạng bất ổn. Dường như đạo Kitô đã trở nên không còn cần thiết cho mục tiêu chiến lược Chống C ộng của quyền lực quốc tế nữa. Một phong trào xét lại toàn bộ giá trị của đạo Kitô đã được "bật đèn xanh" và đột nhiên bùng lên dữ dội trong các giới trí thức học giả trên toàn thế giới.Chỉ trong 5 năm, từ 1990 đến 1995, có tới dăm chục cuốn sách và mấy trăm bài báo mổ xẻ đủ khía cạnh chung quanh đề tài Phục Sinh của Chúa. Các học giả khơi lại không khí bài bác Kitô của Phong Trào Enlightenment thế kỷ 18 ở Âu Châu. Họ bươi móc đủ thứ chứng cớ lấy ra từ những kho sách cổ, khoa học thực nghiệm hay khoa khảo cổ học để tấn công Chúa Jesus của sự thờ phượng (the Cultic Jesus).Barbara Thiering đã căn cứ vào các tài liệu trên để hoàn thành tác phẩm rất nổi tiếng "Jesus and the riddle of the Dead Sea Scrolls" (Harper Collins). Báo Newsweek ra ngày 8.4.96 cho biết cuốn sách này là cuốn sách bán chạy nhất thế giới trong năm. Theo sự nghiên cứu của tác giả thì Chúa Jesus không chết trên thập giá, Ngài chỉ "có vẻ như chết" mà thôi. Lúc đang bị treo trên thập giá, Jesus kêu khát nước. Một sĩ quan La Mã đã dùng cây giáo đưa miếng bọt bể (sponge) có thấm một thứ thuốc độc phản ứng chậm (a slow-acting poison) cho Jesus nhắp. Liều thuốc độc có phản ứng chậm này do một tín đồ của Jesus tên Simon Magus đã chế ra. Kinh Thánh gọi đó là "chén đắng" hoặc "dấm". Sau khi uống chất "dấm" hóa học này, Jesus có vẻ như chết nhưng thực sự chưa chết mà chỉ ở trong tình trạng hôn mê (coma). Viên sĩ quan trưởng toán hành hình là Longinus lấy chiếc giáo quệt nhẹ (không đâm) vào cạnh sườn Jesus tạo thành một vết trầy cốt để thử xem Jesus phản ứng ra sao. Sau khi thấy Jesus không giật mình cựa quậy gì cả, mọi người tưởng Jesus đã chết rồi. Longinus có lý do chính đáng để tha không đập gẫy hai xương ống chân của Jesus. Trong khi đó, hai người cùng bị đóng đinh một lượt với Jesus lúc đó còn sống đều bị lính La Mã đập gẫy ống xương chân. (Xin chú ý một điều đây là một biệt lệ chưa từng có và là một đặc ân khác thường mà trưởng toán hành hình Longinus cố ý dành riêng cho Jesus vì viên sĩ quan này là đệ tử bí mật của Ngài). Hai tử tội kia, sau khi bị đập gãy ống xương chân, sức nặng thân xác làm toàn thân họ bị chùng xuống vì không còn chân đỡ và sự quá đau đớn làm họ ngất xỉu, đầu họ rũ xuống ngực khiến cho cổ bị nghẹt không thở được, nạn nhân chết ngộp trong khoảnh khắc. Nếu lính La Mã đập gẫy hai ống xương chân của Jesus thì lịch sử nhân loại đã thay đổi và có thể thế giới đã trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn ngày nay bội phần vì ít nhất đã không bị Công Giáo La Mã làm cho nền văn minh nhân loại bị lùi lại 15 thế kỷ!.Chỉ vài giờ sau khi uống thuốc đắng độc chất hóa học, Jesus đã được đồ đệ tháo xác và đem đi cấp cứu. Vài ngày sau Ngài phục hồi sức khỏe và gặp người vợ yêu quí của Ngài là bà Magdelene. Bà Magdelene nguyên là một cô gái điếm nhưng rất mực yêu thương Jesus. Bà không được Kinh Thánh nhắc nhở nhiều vì sợ làm mất đi sự tôn nghiêm của "Thiên Chúa Hóa Thân" và vì thế bà không được Vatican phong thánh! Bà đã có 3 đứa con với Jesus nhưng sau đó Jesus đã bỏ bà để lấy cô gái Lydia trẻ đẹp. Nhiều học giả nghiên cứu Thánh Kinh không tin những chuyện nói trên nhưng họ cho rằng những chuyện trong Thánh Kinh kể về sự phục sinh của Chúa cũng chẳng có giá trị gì hơn.Tuần báo U.S News and World Report số ra ngày 8.4.96 đã viết: "Áp dụng phương sách phân tích văn bản và các qui luật xác định chứng cứ, 50 giáo sư chuyên khoa tôn giáo của hội nghị đã kết luận cho rằng chưa tới 20% những lời nói và hành động của Jesus trong Thánh Kinh là đúng sự thật. Nhất là những lời cầu nguyện hoặc lời nói của Jesus trên thập giá và những điều ám chỉ Jesus là Thiên Chúa, là được sinh ra bởi bà mẹ đồng trinh, là đấng làm phép lạ, là đấng đã sống lại từ cái chết".

Chia sẻ trang này