1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hỏi về tướng Ngô Quang Trưởng QLVNCH.

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi sole_husband, 15/10/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Đính chính bác tí: Cả 2 phe trong VNwar chưa bao giờ tổ chức lực lượng tăng hay thiết giáp đến cấp sư đoàn. Sư dù và TQLC VNCH ko bị đánh bật khỏi Quảng Trị mà là đơn vị khác, chỉ sau khi đơn vị đó bị đánh bật, QGP chiếm Quảng Trị thì 2 sư nói trên mới xuất hiện để tái chiếm.
    Chào thân ái và quyết thắng!
  2. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    So với mấy viên tướng khác của chế độ SG có thể nói Trưởng có vẻ oách nhưng tài cán thì chưa hẳn.
    Trưởng chỉ lấy được thành cổ Quảng Trị sau khi bom đạn Mẽo nghiền nát thành cổ này và quân VNCH đông gấp bội quân ta. Đối với ta cuộc chiến đấu mấy mưoi ngày đêm bảo vệ thành cổ rất đáng tự hào.
    Tuy là lấy được Thành cổ nhưng hầu hết Quảng Trị bao gồm cả Đông Hà rơi vào tay quân ta hồi đầu 1972 thì vĩnh viễn SG không lấy lại được nữa. Đầu 1973 Thiệu tấn công Cửa Việt chộp thêm tí ti. Vậy mà SG vẫn cho là ta vi phạm HĐ Paris kể cũng lạ. Viện trợ đổ vào ồ ạt vậy mà vẫn cho là thua vì không có viện trợ để chữa thẹn.
    Quân VNCH đông nhưng ô hợp,một phần chiến đấu cho lý tưởng nhưng phần đông khác bắt buộc phải đi ( cưõng chế tòng quân), hay đi để kiếm tiền xài.
    Điểm này thì khác quân ta, không kể quân từ bắc vào thì quân giải phóng miền nam người nam hoàn toàn chiến đấu cho lý tưởng giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ít quân ( do khả năng vận chuyển và trang bị) nhưng tính cơ động rất cao. Đầu 1974 toàn chiến trường miền nam ta chỉ có khoảng 40 vạn quân miền bắc và xấp xỉ 10 vạn quân miền nam, trong khi đối phương có 1,3 triệu đủ loại.
    nhiều người bây giờ vẫn loay hoay gọi tên cuộc chiến, mà chẳng giải quyết đưọc việc gì.
    có người cho là cuộc chiến ý thức hệ giữa hai phe "thế giới tự do" và "CS" mà VN là nạn nhân. Như vậy cuộc chiến mang tầm khu vực, không thể gọi là nội chiến được.
    Có người bảo "nội chiến" giữa CS và quốc gia. tôi chẳng hiểu người quốc gia là gì. Nhưng chắc chắn họ không phải là một phần của "thế giới tự do". Bản chất của chế độ SG là bám vào nước ngoài rất nặng, thời gian đầu là độc tài gia đình trị, về sau chuyển sang chế độ quân phiệt, tồn tại đến 75. sự có mặt trực tiếp của hơn nửa triệu quân Mỹ, cùng quân chư hầu và khả năng họ chi phối chính sách của SG cho thấy đây không thể là cuộc nội chiến được. Chưa kể cả đống máy bay, tàu chiến trực tiếp tấn công miền bắc. Có người lại cho sự can thiệp của LX, TQ để quy là chiến tranh ý thức hệ. Nhưng LX, TQ chỉ tiếp tế hậu cần cho MB ( cuộc chiến tranh hiện đại nào cũng có chuyện như vậy ). LX, TQ không gửi quân vào nam, không trực tiếp bắn giết người việt "quốc gia".
    Thiệt hại nhân mạng của người việt không có con số chính xác nhưng theo tin chính thức từ nhà nước ta cỡ hơn 2 triệu chi đó. Phần lớn là nạn nhân của bom, đạn Mẽo. Như vậy số người chết do Mẽo nhiều hơn nhiều so với chết do hai phe quốc-cộng gây ra. Số người chết trong giai đoạn Mẽo can thiệp trực tiếp nhiều nhất. Nội chiến mà phần lớn người chết là do bom đạn người nước ngoài. Hết sức vô lý !
    Cho nên nói đó là cuộc chiến của những người việt yêu nước của hai miền chống Mỹ và chế độ bù nhìn là chuẩn xác nhất. Còn yêu nước không có nghĩa chỉ là CS, và không thể nói những người CS là không yêu nước.
    Tôi không muốn dùng những chữ như "XHCN" hay"TBCN" vì các khái niệm này luôn gây tranh cãi. Nhất là khái niệm thế nào là chế độ XHCN hay chế độ TBCN !
    Nhật, Đức ngày xưa thua trận xong là thôi, làm lại từ đầu và người Nhật , Đức cũng không hề thù hận gì với những kẻ chiến thắng, thậm trí họ coi thua trận là đương nhiên và phê phán chế độ PX trước đó của họ.
    Xứ sở VN này lạ hơn. Chiến tranh qua rất lâu mà sự thù hận vẫn còn, và những người thua trận không thấy được nguyên nhân chính hay không dám nhìn thẳng vào sự thật về nguyên nhân chính vì sao họ thua trận. Bùn.
    Được do_re_mi sửa chữa / chuyển vào 19:01 ngày 18/10/2007
  3. sole_husband

    sole_husband Moderator

    Tham gia ngày:
    02/04/2003
    Bài viết:
    6.326
    Đã được thích:
    2.295
    @doremi : rất tâm đắc với ý kiến của bác, bản thân em cũng đã cố gắng tìm hiểu về bản chất của cuộc chiến và luôn sợ mình rơi vào một thái cực nào đó quá thiên lệch, thật may là chiến tranh đã kết thúc, và rất mong anh em mình chỉ bàn luận để hiểu rõ hơn, trân trọng hơn nền hoà bình mà mình đang được hưởng. Mọi sự chỉ trích, phê phán lẫn nhau giờ cũng đâu còn ý nghĩa gì nhiều nữa.
  4. rongxanhpmu

    rongxanhpmu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/03/2006
    Bài viết:
    2.079
    Đã được thích:
    1
    Copy and paste lại
    ==========
    Tiếp về lời tuớng Ngô Quang Truởng:
    ------------------
    Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I
    Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân Đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư Đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di dịch là: Phải rút khỏi Quân Đoàn 1 càng sớm càng hay.
    Trở ra Quân Đoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rút cục tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ nói với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy, cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.
    Cái lầm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn, v.v. đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân Đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, đại tướng Cao Văn Viên, tôi (tư lệnh Quân Đoàn 1), và tư lệnh Quân Đoàn 2 (tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng.
    Tôi ra lệnh cho tướng Trần Văn Nhựt rút Sư Đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với lòng sắt đá và giọng nói cứng rắn hàng ngày buộc anh em phải giữ không để mất một cục sỏi ở Vùng 1.
    Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin tổng thống cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng 1 được? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân.
    Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó Quân Đoàn 1) đang chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do đại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi "bỏ Huế." Thật làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ.
    Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay: "?" Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao?" Tôi buồn bã trả lời: "Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để được tàu Hải Quân rút về Đà Nẵng.
    Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 4, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển từ công việc hành chánh đến quân sự. Tình hình khó khăn, địch tấn công, mà lại thêm cái lệnh "phải rút càng sớm càng tối" lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ thướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3, 1975, thủ tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu, và các trưởng phòng sở của hành chánh để thủ tướng nói chuyện.
    Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ "trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong, đến phần thắc mắc thì cũng chẳng ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình đại tá Kỳ, tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu: "Thưa thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở không đến làm việc, thưa thủ tướng, phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó?" Câu hỏi thật hay, nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1 càng sớm càng tốt.
    Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Đà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Đà Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu, mặc dù lúc đó tàu đã cặp bến Cam Ranh rồi.
    Tôi nhờ hạm trưởng gọi về Bộ tổng Tham Mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. Còn nếu không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn.
    Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây, tôi gặp phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (tư lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải) và chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân) đang ngồi viết bản tự khai, và trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội gì. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật bất công. Tướng Thi thực sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là tổng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng: "Xã ấp tốt quá mà bỏ là sao?" Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng này bị phạt quá oan uổng vì họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn tại Sài Gòn.
    Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi có nói rằng: "Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh là không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi, họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua trung tướng Trần Văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn làm đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế mà rút lui. Mà tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê Nguyên Khang với giọng giận dữ đã buột miệng nói: "Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả!"
    Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra đi của tướng Thoại và tướng Khánh. Là vị tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, thấy đề đốc Thoại ở đó, họ ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh, tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Chà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn.
  5. Khikho007

    Khikho007 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    1.810
    Đã được thích:
    3
    Tướng Schwarzkopf viết về trướng Ngô Quang Trưởng. Ai rảnh dịch giùm.
    Colonel Ngo Quang Truong was General Dong''s chief of staff. He did not look like my idea of a military genius: only five feet seven, in his mid-forties, very skinny, with hunched shoulders and a head that seemed too big for his body. His face was pinched and intense, not at all handsome, and there was always a cigarette hanging from his lips. Yet he was revered by his officers and troops-and feared by those North Vietnamese commanders who knew of his ability. Any time a particularly tricky combat operation came up, Dong put him in command.
    The airborne was alerted to prevent the North Vietnamese regiments defeated in the Ia Drang Valley from escaping back into Cambodia . I was half asleep in my room at the Manor BOQ after a big meal of curried chicken and beer when the call came to get out to the airport. Truong had assembled an unusually large task force of some two thousand troops to go to the Ia Drang the following morning, and had chosen me as his advisor.
    We flew in transports to the red clay strip at Duc Co, my old stomping ground, then by chopper south to the river valley. From the minute we stepped off our helicopters we were involved in skirmishes and firefights. The valley was about twelve miles wide at the point where the Ia Drang flowed westward into Cambodia -and somewhere in those miles of dense jungle the main body of the enemy was on the move. We had landed to the north, and Truong ordered the battalions to cross the Ia Drang and take up positions along the Chu Prong Mountains , which formed a series of steep ridges to the south. It was fascinating to watch him operate. As we marched, he would stop to study the map, and every once in a while he''d indicate a position on the map and say, "I want you to fire artillery here." I was skeptical at first, but called in the barrages; when we reached the areas we found bodies. Simply by visualizing the terrain and drawing on his experience fighting the enemy for fifteen years, Truong showed an uncanny ability to predict what they were going to do.
    When we set up our command post that night, he opened his map, lit a cigarette, and outlined his battle plan. The strip of jungle between our position on the ridges and the river, he explained, made a natural corridor-the route the NVA would most likely take. He said, "At dawn we will send out one battalion and put it here, on our left, as a blocking force between the ridge and the river. Around eight o''clock tomorrow morning they will make a big enemy contact. Then I will send another battalion here, to our right. They will make contact at about eleven o''clock. I want you to have your artillery ready to fire into this area in front of us," he said, "and then we will attack with our third and fourth battalions down toward the river. The enemy will then be trapped with the river to his back."
    I''d never heard anything like this at West Point . I was thinking, "What''s all this about eight o''clock and eleven o''clock? How can he schedule a battle that way?" But I also recognized the outline of his plan: Truong had reinvented the tactics Hannibal had used in 217 B.C. when he enveloped and annihilated the Roman legions on the banks of Lake Trasimene .
    But, Truong added, we had a problem: the Vietnamese airborne had been called into this campaign because of high-level concern that American forces in pursuit of the enemy might otherwise venture too close to the Cambodian border. He said, "On your map, the Cambodian border is located here, ten kilometers east of where it appears on mine. In order to execute my plan, we must use my map rather than yours, because otherwise we cannot go around deeply enough to set up our first blocking force. So, Thieu ta Schwarzkopf" -thieu ta (pronounced "tia-tah") is Vietnamese for "major"-"what do you advise?"
    The prospect of letting an enemy escape into a sanctuary until he was strong enough to attack again galled me as much as it would any soldier. Some of these fellows were the same ones I''d run into four months earlier at Duc Co; I didn''t want to fight them again four months from now. So why should I assume that my map was more accurate than Truong''s?
    "I advise that we use the boundary on your map."
    Long after he''d issued his attack orders, Truong sat smoking his cigarettes and studying the map. We went over the plan again and again late into the night, visualizing every step of the battle. At dawn we sent out the 3rd Battalion. They got into position and, sure enough, at eight o''clock they called and reported heavy contact. Truong sent the 5th Battalion to the right. At eleven o''clock they reported heavy contact. As Truong had predicted, in the jungle below us the enemy had run into the 3rd Battalion at the border and decided, "We can''t get out that way. We''ll double back." That decision violated a basic principle of escape and evasion, which is to take the worst possible route in order to minimize the risk of encountering a waiting enemy. Had they climbed out of the valley up the Chu Pong Mountains , they might have gotten away. Instead they followed the low ground, as Truong had anticipated, and now we''d boxed them in. He looked at me and said, "Fire your artillery." We shelled the area below us for a half hour. Then he ordered his two remaining battalions to attack down the hill; there was a hell of a lot of shooting as we followed them in.
    Around one o''clock, Truong announce, "Okay. We''ll stop." He picked a lovely little clearing, and we sat down with his staff and had lunch! Halfway through the meal, he put down his rice bowl and issued some commands on the radio. "What are you doing?" I asked. He''d ordered his men to search the battlefield for weapons: "We killed many enemy, and the ones we didn''t kill threw down their weapons and ran away."
    Now, he hadn''t seen a damn thing! All the action had been hidden by jungle. But we stayed in that clearing for the remainder of the day, and his troops brought in armful after armful of weapons and piled them in front of us. I was excited-we''d scored a decisive victory! But Truong just sat, smoking his cigarettes.
    General H. Norman Schwarzkopf
    It Doesn''t Take A Hero (1992)
  6. Khikho007

    Khikho007 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    1.810
    Đã được thích:
    3
    Dzị à? Hổm rày hổng biết!
    Mời ông bạn quá bước qua box Giáo Dục Quốc Phòng tìm đọc mấy bài về trận Quảng Trị tham khảo.
  7. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    Trưởng chiếc cái gì. Quân VNCH vừa đông, trang bị hiện đại, bám quân Mỹ mà chỉ thua tuốt luốt. Khi đánh Huế, bọn này tháo chạy ra biển, ta lấy Huế đâu mất viên đạn nào. Đánh vào Đà Nẵng quân ta ít hơn đối phương nhiều ( vì địch co cụm dồn hết về đây) mà vẫn dễ dàng lấy được thành phố này. một phần nhờ sự hỗ trợ rất lớn của dân thành phố.
    Trưởng có vẻ là tướng giỏi của VNCH nhưng nghe nói ông ta bị Mỹ giam ngoài chiến hạm Mỹ. Có vẻ Mỹ thực sự muốn bỏ rơi VNCH hoàn toàn thật.
    Lâu nay vẫn có dư luận cho rằng VC chuyên đánh kiểu biển người, thật xuyên tạc hết sức. Lối đánh sở trường của VC là du kích, lấy ít địch nhiều, không dựa nhiều vào hoả lực mà dựa nhiều vào chiến thuật. Cái mặt chiến thuật thì VC trên cơ đối phương rất nhiều.
    Tổng tiến công Mậu Thân 1968 quân VC chỉ khoảng 1/3 quân đối phương cả Mỹ-VNCH,...vậy mà vẫn nổi dậy tấn công gần hết thành thị miền nam.
    Hay trận Ấp Bắc quân đối phương đông gấp nhiều lần mà ta vẫn chiến thắng.
    Trưởng so với bác Giáp hay bác Dũng nhà ta thì chẳng là gì. Tuy bác Dũng chỉ huy trực tiếp chiến dịch xuân 75 nhưng không thể bằng được bác Giáp hồi 1954 vì cả chiến dịch xuân 75 chỉ có trận Buôn Ma Thuột là có tính nghệ thuật cao, còn sau thì lùa đối phương như lùa vịt. Ta lấy được SG nhanh chóng có lẽ công của các chiến sỹ VNCH nhiều hơn.
    Được do_re_mi sửa chữa / chuyển vào 19:00 ngày 21/10/2007
  8. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Bác lại bỏ qua trận đánh lớn nhất trong lịch sử 4.000 năm chiến tranh Việt Nam rồi, đó là Chiến dịch HCM (Battle of Sai Gon!). Trong vòng 4 ngày công kích từ 26/4 đến 30/4/75, hơn 15 sư đoàn và 500 xe tăng của ta đã tấn công đè bẹp các lực lượng còn lại của VNCH, bắt sống hàng trăm nghìn sĩ quan và lính. Trận Buôn Ma Thuột làm sao sánh được về quy mô. Từ nay về sau chắc chẳng bao giờ có vị tướng nào của VN có cơ hội đánh 1 trận lớn như thế nữa.
  9. rosea7

    rosea7 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/09/2005
    Bài viết:
    1.623
    Đã được thích:
    0
    500 xe tăng? con số này phải xem lại, riêng trận đánh Xuân Lộc cũng đi đời không ít xe tăng rồi bác ạ, đánh vào SG thì chắc không con nổi 100 xe đâu.
  10. thanhlong0988

    thanhlong0988 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/10/2006
    Bài viết:
    420
    Đã được thích:
    0
    Riêng Xuân Lộc tháng 4/1975, với mấy trái bom đã có 10000 lính QGP + xe tăng T54 + đại pháo; đến bây giờ vẫn làm nhiều anh ở bển cứ nghĩ đến là sứong không tả xiết.
    Tài thật

Chia sẻ trang này