1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

HÔN NHÂN CŨNG LÀ MỘT ĐẠO

Chủ đề trong 'Hạnh phúc gia đình' bởi chieu_quan, 04/12/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chieu_quan

    chieu_quan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/01/2006
    Bài viết:
    956
    Đã được thích:
    0
    HÔN NHÂN CŨNG LÀ MỘT ĐẠO

    Khi xem một số tài liệu mình đọc đuoc bài viết này về Hôn nhân khá hay. Post trích đoạn vào đây để các bạn cùng tham khảo. Bạn nào có nhũng bài viết hay về hôn nhân gia đình thì đua vào đây để mọi nguoi nhâm nhi nghiên cuu nhé (cái font tệ quá)!


    " I. " Hôn nhân cũng là một "Đạo":

    Từ xa xưa, truyền thống dân tộc Việt Nam ta rất coi trọng việc Hôn nhân, quan niệm Hôn nhân như một "Đạo" được học giả Phan Kế Bính nói đến từ những năm đầu Thế kỷ trước, trong tác phẩm nổi tiếng "Việt Nam Phong tục": "Cái Đạo vợ chồng cũng là một mối cương thường trong ngũ Luân" (ngũ Luân là năm điều Luân lý người xưa đặt ra để dậy bảo con cháu biết cách xử thế trong các mối quan hệ: Vợ - Chồng, Cha ?" Con, Vua ?" Tôi, Anh Chị ?" Em, Bạn ?" Bè; trong đó, "Vợ - Chồng là đầu ngũ Luân". Đạo vợ -chồng còn được coi là "gốc" của "gia đạo": "phu phụ hoà nhi hậu gia đạo hành ?" vợ chồng hoà thuận, tạo nên gia đạo".

    Hôn nhân được coi trọng vì Hôn nhân không chỉ đơn thuần là sự kết hợp hai con người thuộc hai giới tính thành đôi, mà còn mang một sứ mạng cao hơn rất nhiều, đó là trách nhiệm duy trì, phát triển dòng tộc, nòi giống. Cha ông ta quan niệm, trong những tội bất hiếu, tội không có con (trai) là tội bất hiếu lớn nhất, gọi là "tội vô hậu"!
    Được coi trọng, nên việc dựng vợ gả chồng cho con cháu đã được người xưa đặt ra những quy trình rất chặt chẽ. Chặt chẽ ngay từ khâu lựa chọn "bạn đời". Nào: trai thì "lấy vợ xem Tông"; gái thì "lấy chồng xem giống". Nào trai thì "lấy vợ hiền hoà (làm nhà hướng <st1:country-region>Nam</st1:country-region>)", rồi còn phải chọn được "những cô thắt đáy lưng ong, đã khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con"; gái thì "tìm nơi có Đức gửi thân", chư nhất quyết không thể qua loa đại khái được! Cơ sở của mọi sự lựa chọn kể trên là "cây nào, quả ấy"; là "nòi nào, giống ấy"; là "con nhà Công không giống lông cũng giống cánh"! Và sự lựa chọn nào cũng nhằm tạo cho các cặp vợ chồng sự "xứng đôi vừa lứa". Xứng đôi không chỉ về tuổi tác, sức khoẻ, mà còn cả về tính cách và trình độ hiểu biết ?" theo cách nói hiện đại là "cùng mặt bằng văn hoá"!

    Sự lựa chọn "bạn đời" cho đôi Trẻ còn nhằm có được "rể hiền, dâu thảo". Rể hiền thì rõ rồi, nhưng thế nào là dâu thảo? Cũng theo Phan Kế Bính "phải đủ tứ Đức mới gọi là Hiền". Tứ Đức gồm: Phụ Dung, Phụ Công, Phụ Ngôn và Phụ Hạnh - thường được gọi tắt là "Công, Dung, Ngô, Hạnh". "Phụ Dung" là dáng người đàn bà. Dáng phải chính đính hoà nhã... "Phụ Công" là nghề khéo (của người đàn bà) như thêu thùa may vá, buôn bán,... "Phụ Ngôn" là lời ăn tiếng nói phải khoan thai dịu dàng,... "Phụ Hạnh" là nết na. Nết na thì phải trên kính dưới nhường; ở trong nhà thì chiều chồng thương con và lấy nết hiền hậu mà ăn ở với anh em nhà chồng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh và cũng không cay nghiệt với ai.

    Đạo vợ chồng còn được ông cha ta ta đề cập bằng những Quy chế rất chặt chẽ sau đây:
    1/ "Lục Lễ bất bị, trinh nữ bất hành": Nghĩa là "không đủ sáu Lễ, người con gái trinh không đi (về nhà chồng)". Sáu Lễ gồm: "Nạp thái": còn gọi là "Lễ chạm ngõ". Đây là lần nhà trai chính thức đem Lễ đến nhà gái ngỏ ý muốn kén cô gái nhà ấy cho con trai nhà mình (sau khi đã nhờ "bà mối" thăm dò tìm hiểu từ trước đó hàng vài ba tháng). Khi đã được sự đồng ý của nhà gái, tiếp đến nhà trai tiến hành Lễ "Vấn danh": Gọi là vấn danh nhưng chủ yếu không phải là hỏi tên, mà mục đích chính là hỏi tuổi, cụ thể là năm, tháng, ngày và giờ sinh của đôi trẻ. Biết được "tuổi" của đôi trẻ rồi, hai bên liền đi nhờ thầy tướng số xem hai tuổi đó lấy nhau có hợp không; hợp thì năm nay có cưới ngay được chưa hay phải đợi năm khác? Đó chính là Lễ "Nạp cát". Sau Nạp cát, đến Lễ "Thỉnh kỳ": nhà trai chọn "ngày lành tháng tốt" có thể tiến hành các công việc quan trọng tiếp theo, đến xin ý kiến nhà gái. Hai bên thống nhất về thời giờ cụ thể rồi, nhà trai đem "sính Lễ" đến nhà gái, gọi là "Lễ ăn hỏi". Cuối cùng là "Lễ cưới", còn gọi là Lễ "Thân nghinh", Lễ đón dâu.

    2/ "Thất xuất" và "Tam bất khả xuất": Khi đã trở thành vợ chồng, đôi trẻ phải có trách nhiệm chăm sóc nhau, vun đắp xây dựng gia đình hạnh phúc lâu dài... Người chồng chỉ được phép ly hôn khi người vợ phạm phải một trong bẩy "tội" sau đây (gọi là "Thất xuất"): một là không đẻ con trai để "nối dõi tông đường" (đây chính là hệ quả của tệ "trọng <st1:country-region>Nam</st1:country-region> khinh Nữ"!). Hai là vợ có tính dâm dật, trăng hoa. Ba là người vợ vô trách nhiệm trong việc chăm sóc bố mẹ chồng. Bốn là tội "lắm điều". Năm là người vợ đó phạm tội trộm cắp. Sáu là khi người vợ có tính ghen tuông quá quắt, vô lối. Cuối cùng, bẩy là khi người vợ mắc chứng bệnh tâm thần (điên). Bẩy "tội" ấy thực ra cũng có nhiều điều vô lý, như việc không có con trai, thậm chí không có con, đâu chỉ do người phụ nữ? Tuy vậy, luật lệ xưa cũng có những ràng buộc, khiến người chồng không phải lúc nào muốn bỏ vợ là có thể bỏ được, cho dù người vợ có phạm phải "Thất xuất" nói trên. Đó là quy định "Tam bất khả xuất": ba điều không được ly hôn. Một là người vợ đã chịu tang nhà chồng được ba năm. Hai là người vợ đã chung sống với chồng từ thuở gia đình còn nghèo hèn (nghĩa "tao khang"). Ba là nếu xét thấy, sau khi ly hôn, người phụ nữ sẽ không có nơi nương tựa.
    3/ "Phu phụ tương kính như tân": vợ chồng kính trọng nhau như khách! Chỉ một quy định này đủ thấy người xưa coi nghĩa vợ chồng sâu nặng và quan trọng đến mức nào!

    Ngày nay, Hôn nhân tiến bộ rất nhiều, không còn những ràng buộc khắt khe; đồng thời trái gái đến tuổi "cập kê" đều được tự do tìm hiểu, tự do luyến ái. Nhắc lại một số quy định, quan niệm của người xưa, hoàn toàn không có ý "nệ cổ"; mà chỉ muốn cung cấp cho các bạn Trẻ những thông tin cần thiết để trước hết biết được thực sự cha ông chúng ta đã đối xử với vấn đề Hôn nhân như thế nào. Từ đó có thể rút ra cho mình những điều bổ ích, để việc lựa chọn bạn đời được như ý, tránh hấp tấp, vội vàng, dễ dẫn đến "bi kịch gia đình" một cách không đáng có!

    II. Hôn nhân "lý tính" là gì?

    Hôn nhân trước hết và nhất định phải xuất phát từ tình yêu. Chỉ có tình yêu thực sự, mới có Hôn nhân hạnh phúc. Nhưng cũng không nên tuyệt đối hoá, bởi vì khi yêu, người trong cuộc thường khi không khách quan, thậm chí bị cuốn hút đến mê muội, không thấy được những ngang trái mà người ngoài nhìn qua cũng thấy! Cho nên, ngoài tình cảm, các bạn Trẻ cũng nên quan tâm tới mặt "Lý tính" của Hôn nhân nữa. Có như thế, Hạnh phúc lứa đôi càng được bảo đảm vững chắc, bền chặt.

    Vậy Hôn nhân Lý tính là gì?
    Người xưa, trước khi đi đến quyết định Hôn nhân, việc phải làm ngay là trong Lễ vấn danh là xác định rõ "tứ Trụ" (năm, tháng, ngày, giờ sinh) của "đối tượng". Tiếp đó, đối chiếu với "tứ Trụ" của con cái mình, xem hai tuổi đó có quan hệ sinh - khắc như thế nào, có phù hợp không? Hôn nhân có thực sự dẫn đến hạnh phúc không? Đó chính là mặt "Lý tính" của Hôn nhân vậy!
    Ngày nay, bên cạnh vấn đề phát triển của Khoa học và Công nghệ, có người lầm tưởng, cho chuyện "xem tuổi" là lạc hậu, là mê tín. Chỉ xin dẫn ra đây lời của một nhà khoa học nổi tiếng, Albert Einstain: "Người mà không quen cảm thông với sự huyền bí, đã mất cả cái quan năng biết ngạc nhiên, biết say đắm trong niềm tôn kính trước những gì huyền bí ?" con người đó kể như đã chết rồi!". Đã qua rồi cái thời kỳ ngu muội, coi tất cả những gì thuộc "Tâm linh" đều là mê tín dị đoan. Coi tất cả những cái gì mà đôi mắt không trông thấy, bàn tay không chạm được,... đều là không tồn tại!
    ......"

Chia sẻ trang này