1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Honda 67 - Một thời vang bóng - Hội ngộ Honda 67 toàn quốc tại TP Nha Trang 30/4 - 1/5/2008

Chủ đề trong 'Ô tô - Xe máy' bởi b_e, 23/12/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. cuncon67

    cuncon67 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/12/2007
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Hôm đó ko được ngoài HN cầy tơ cùng các pác.....nhưng nghe a CQV bảo wa THD, mình thấy nghi lắm àh!Có trò vui hả anh!hêhhhe...
  2. b_e

    b_e Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2006
    Bài viết:
    3.394
    Đã được thích:
    0
    Gớm, không phải khoe, ai chả biết chú CQV có cô bạn ở trong SG. Ngày xưa chắc tí toáy được 1,2 tí, sau bị sổng mất, giờ vẫn đeo cục nợ bên lòng, canh cánh đêm thâu....
    Anh em SG sắp tất niên rồi nhỉ, thèm quá mà không vào được. Chúc anh em ăn Tết vui vẻ nhé
  3. b_e

    b_e Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2006
    Bài viết:
    3.394
    Đã được thích:
    0
    Bài viết hay quá, tình cờ tìm được, anh em thưởng thức nhé.
    Đẳng cấp nhất là chiếc Honda 67 của chúng ta
    Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237ntn2nvnqn31n343tq83a3q3m3237nvn
    Thời của xe Máy
    Thằng cháu con ông anh tôi bị bọn quái xế chôm mất chiếc Dream. Cả một con xe đi tong, thế mà tôi thấy nó chỉ buồn chút xíu. Ngay cả con vợ, tuy rằng xót của, cũng chỉ này nọ cự nự chồng dăm câu ba điều rồi thôi. Thái độ cam chịu bình thản của hai vợ chồng khiến tôi phục lăn. Hai mươi năm trước, đang tuổi trẻ như chúng bây giờ, khi bị người ta bẻ khóa chõm mất chiếc xe đạp độc nhất của cả nhà, tôi đã gần hóa dại. Nhất là cái cơn choáng lúc thoạt đầu khi chợt nhận ra "con Phượng Hoàng xích hộp" quý báu ngàn vàng vừa dựng ở đó đã bốc hơi, thì tôi nhớ đời. Đấy là một cảm giác mà phải ai đã trải qua rồi mới thấu. Một trạng thái rất gần sự chết. Đứng tim, ngừng thở, cóng buốt, run bắn, tối sầm, muốn khuỵu. Và cái sự "không tin vào mắt mình, không tin nổi đó là sự thật" hay đọc thấy trong văn chương có nghĩa là thế nào thì chính là như tôi khi ấy.
    Vợ chồng thằng cháu vô tư với tổn thất chẳng phải vì chúng giàu có gì hơn ai mà bởi lối sống, lối nghĩ thời nay thông thoáng nhẹ nhõm gấp nhiều lần thời trước. Đối với những người lứa tuổi hai đứa, chiếc xe máy hay bất kỳ tài sản nào dù to tát tới đâu cũng chỉ là tiền, cũng chỉ là đồ vật, khác hẳn thời tôi, cha chú của nó, thứ vật dụng gì cũng có giá trị xương máu. Đến như chiếc xe đạp thì phải nói là nó có tính vận mệnh, có ý nghĩa đời người, nó nặng hơn sinh mạng, nó vô giá.
    Những năm 50, sau giải phóng Thủ đô, khi tôi còn nhãi ranh, lượng xe đạp ở Hà Nội còn ít hơn số đầu xe hơi thời nay. Ngoại trừ vài tuyến xe điện, và thưa thớt, chậm rề những chiếc xích lô, dân tình thời ấy "tham gia giao thông" chủ yếu bằng cặp giò. Dọc một phố lớn như phố Hàng Đẫy chúng tôi mà nhà ai xe đạp mác gì mọi người đều tỏ. Giàu nhất phố là gia đình ông Ích Lợi, thành phần tư sản, chục người chung một chiếc Pegeout với một chiếc Sterling. Oai nhất phố là ông giáo Bình, công chức lưu dung, đương quyền hiệu phó Trường Albert Saraut (thời ấy còn chưa đóng cửa), có chiếc Solex đen xì với cái bầu máy ngộ nghĩnh hình trụ rất hiếm khi được ăn xăng và cất tiếng. Thường xuyên để cỗ xe ở chế độ vận hành bằng mồ hôi, ông giáo già gò lưng ngoáy người è cổ đạp. Dân phố kêu thầy bằng thầy Bình xô-lếch, hay đơn giản, thầy Bình bịch.
    Dần dần Nhà nước cho nhập xe đạp của phe ta về: Tiệp Khắc, Đông Đức, Liên Xô, Trung Quốc và bản thân Việt Nam cũng đã lần hồi tự lực sản xuất được. Không nhiều lắm, chỉ đủ để phân phối cho cán bộ xếp hàng tà tà lần lượt theo chức vụ, theo thâm niên. Hồi bấy giờ, ở nông thôn thì nhà nhà đi bình dân học vụ, còn ở Hà Nội thì nhà nhà đi tập xe. Từ chập tối tới canh khuya, tại những khúc phố rộng rãi, sáng đèn bên Bờ Hồ, ở vườn hoa Canh Nông, ở quảng trường Ba Đình, dọc đường Cổ Ngư, trẻ con, người lớn, đàn ông, đàn bà ríu rít thay nhau lên yên xuống yên, người thì ghì cứng ghi đông và loạng choạng đạp, người thì rình rịch chạy sau đỡ, luýnh quýnh ngượng ngập, ngã bổ nhào, ngã chỏng gọng, rất vui mắt. Tới khoảng năm 1960 thì Hà Nội đã chính thức là một thành phố với nền văn minh xe đạp. Không phải chỉ vì nườm nượp xe đạp mà còn vì xe đạp đã thành sở hữu tối cao của mỗi nhà, một chiếc xe đạp nói lên vị thế xã hội của một gia đình.
    Cùng với xe đạp, ô-tô cũng không còn quá hiếm. Chốc chốc lại thấy chạy dọc phố một chiếc xe "hộp" của các quan chức cao cấp, rồi xe hơi cơ quan, xe buýt Skoda và nhiều nhất là xe tải. Tuy nhiên, mô-tô vẫn là của lạ. Bọn nhãi chúng tôi chỉ được thấy loại xe này trong các cuộc diễu binh. Bình bịch ba bánh của bộ đội biên phòng và bộ đội cơ giới. Họa hoằn mới thấy một chiếc bình bịch của công an lao vụt qua phố lúc nửa đêm, hẳn là với nhiệm vụ cực kỳ khẩn cấp thì mới dùng tới.
    Xe máy hiếm tới nỗi cha tôi từ khi có xe đã luôn luôn phải dừng ở các ngã tư để trình giấy. Đỗ xe ở đâu cũng kín nghịt người vây xung quanh. Hiếm tới nỗi, phiếu xăng phải có chữ ký của ông chủ tịch thành phố, và phải sang tận kho Đức Giang bên tả ngạn sông Đuống để mua theo tiêu chuẩn. Hiếm tới nỗi, sau khi cha phải bán xe đi rồi, hàng năm sau tôi vẫn nhận ra nó trên phố, nó quá nổi bật, quá sang trọng, quá lạ lùng gần như là một niềm kinh dị.
    Tôi còn nhớ rất rõ cái ngày gia đình tôi vinh dự có xe máy. Bấy giờ là mùa đông năm 1963. Cha tôi mở cổng vào nhà dắt theo một chiếc bình bịch! Xe nhãn hiệu Riga, mầu hồng nhạt, mới cứng. Xin nói là cả Hà Nội chỉ có hai chiếc Riga đó. Một chiếc của cha tôi, một chiếc nữa mầu da trời của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Hai ông cùng mua của một cán bộ ngoại giao hạng nhất mới từ Liên Xô về được đặc quyền khuân theo. Cho nên tôi dám cả quyết rằng nền văn minh xe máy của Hà Nội hôm nay đã manh nha từ bốn chục năm về trước, do hai nhà ngôn ngữ học mở màn.
    Xe hẳn là đắt cực. Hai ông giáo sư đều phải mua chịu trả dần. Và giấy tờ đăng ký thì vô cùng cam go. Tới nỗi, khi chiến tranh bùng nổ dữ dội năm 1965, không được phân phối xăng nữa, phải bán xe đi, cha tôi mới vừa trả xong tiền và vẫn chưa hoàn tất giấy tờ. Chiếc xe phải đi ở nhà người khiến tôi buồn hết sức. Cha tôi đã hứa sẽ cho chúng tôi tập xe, nhưng mới chỉ anh trai tôi kịp võ vẽ. Chiến tranh, sơ tán, gia đình mỗi người mỗi nơi. Chiếc xe cũng ra đi. Thỉnh thoảng tôi vẫn nom thấy nó, Riga, phành phành phi qua. Loại xe ga, nhiên liệu pha dầu, xả khói đen ngòm.
    *
    * *
    Xe máy của ?onền văn minh Mỹ-ngụy", tôi được thấy lần đầu tiên năm 1970 tại khu gia binh căn cứ biệt kích Đắc Xiêng. Một tay thiếu úy qua đêm ở nhà vợ, nghe pháo kích liền hộc tốc lên xe máy lao về đồn. Nhưng vừa phóng ra khỏi khoảnh sân trước nhà thì y dính đạn AK, văng khỏi yên. Chiếc xe quật mạnh xuống đường. Khi chúng tôi xộc tới tay thiếu úy đã hết giãy, nhưng động cơ chiếc xe vẫn chạy, bánh sau xoay tít. Tôi không nhớ chiếc xe ấy mác gì, chỉ nhớ máy của nó tiếng rất giòn lại rất khẽ. Tiểu đội trưởng Thoại của tôi vực chiếc xe dậy, nói đùa: "Máy thế này mới là máy chứ, nghe cứ như là mợ nó rên lên trong lòng cậu nó!". Chiếc xe đột ngột rống to, vùng khỏi tay Thoại, chồm ngược, đâm bổ vào tôi.
    Từ mùa khô năm 1972, quân giải phóng Tây Nguyên đánh chiếm được nhiều vùng dân cư dọc lộ 14 và lộ 19 kéo dài thì xe máy Nhật (được gọi chung là Honda) không còn lạ mắt với chúng tôi nữa. Nông dân tại các vùng trồng cà-phê có đời sống tương đối khá. Nhiều nhà có máy phát điện và máy cày. Và hầu như nhà nào cũng có Honda. Nhưng vì không có xăng và phụ tùng thay thế nên xe máy ở các vùng giải phóng Đắc Tô, Tân Cảnh, Diên Bình, Đức Cơ... phần lớn bị xếp xó, hư hỏng và han gỉ dần. Hãn hữu mới thấy vài chiếc của anh em trạm giao liên và giao bưu lướt chạy trên lộ.
    Mùa khô năm 1975, quân ta tấn công Buôn Ma Thuột. Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh di tản Quân đoàn 2 khỏi Tây Nguyên. Binh lính, sĩ quan, công chức và gia đình của họ chồng chất lèn nhau trên hàng ngàn xe GMC, xe zeep, xe be, xe đò, xe lam. Nhưng đông hơn thế bội lần, kín nghìn nghịt mặt tỉnh lộ 7 và quốc lộ 14, Quốc lộ 21 là xe Honda. Hầu hết là xe 50 phân khối. Chở hai, chở ba, thậm chí chở bốn người với ních thêm cả đống đồ đạc, những chiếc Honda "ba gác" cuồng lên lao thục mạng, liều chết lạng lách giữa dòng cuồn cuộn và hung dữ những xe nhà binh để mong thoát được lên phía trên cùng của biển người. Nhưng chẳng ai thoát nổi, chẳng mấy xe chạy được xa. Bình xăng kiệt khô, các trạm xăng dọc lộ thì hoặc bị cướp nhẵn hoặc bốc cháy và phát nổ, người ta đành vứt xe lại, chạy bộ. Ngay những người biết lo xa, biết chở theo một hai can xăng cũng không thể chạy được xuống đồng bằng. Dưới chân đèo Ma Đơ Rắc ở Khánh Dương, tôi thấy một bãi xe máy vô chủ cả ngàn chiếc nằm ngổn ngang chồng chất. Người ta bảo là dọc đường số Một, đoạn từ Đà Nẵng vào Tam Kỳ có những bãi xe hoang còn bạt ngàn hơn. Và ở Cheo Reo nữa, rồi dọc tỉnh lộ 8, dọc đường 20...
    Tôi biết đi xe máy vào chính thời gian đó. Tôi nhớ là ngày 31 tháng 3, bộ đội sư đoàn 10 đánh tan lữ dù 3 chốt ở đèo Phượng Hoàng, thừa thắng tiến thẳng ra bờ biển Đông, gặp lộ Một tại ngã ba Ninh Hòa. Tiểu đội tôi dừng chân tạm nghỉ lấy lại hơi sức trước khi tiến về Nha Trang. Trong cái đồn cảnh sát gần chỗ chúng tôi ngồi ăn trưa, không hiểu sao vẫn thấy quăng lại đó một chiếc Honda mầu đen, chìa khóa còn, và kỳ lạ nhất là bình xăng của nó vẫn còn óc ách. Một tay trong tiểu đội lôi chiếc xe ra vệ đường, ngồi lên, vặn chìa và nghiến răng đạp, đạp thật lực. Máy nổ giòn tan, và anh chàng nọ xoáy tay ga, dận dận cái gì đó dưới bàn chân. Ngay lập tức, như một lần tôi đã bị, chiếc xe chồm lên, vật anh chàng xuống mặt đường. Hú hồn, đau điếng nhưng ngoan cố, chàng kỵ mã dựng chiếc xe lên, lại xiết ga và lại bị quật xuống. Lính tráng vừa sợ vừa thích chí xúm cả lại, nhưng không ai biết phải xoay xở với cỗ máy điên khùng ấy ra làm sao.
    Rốt cuộc chúng tôi lựa ra một tay thanh niên rõ ràng là lính Sài Gòn đang len lẫn trong dòng người di tản đông đặc. "Biết sử dụng xe máy không, anh kia?" "Dạ, trình quý ông, em rành ạ. Thứ 67 này em xài thường". Tay lính chiến trung đoàn 44 ấy, đồ trận đã quăng ráo, mình mẩy còn độc cái quần xà lỏn, hăng hái tỏ nhiệt tình cách mạng. Anh chàng vanh vách chỉ dẫn cách nổ máy, cách lên ga, sang số, đạp phanh, nhả phanh, nháy xi-nhan v.v... Chúng tôi chăm chú nghe lý thuyết và xem thao tác. Rồi lần lượt chúng tôi thay nhau lên yên. Mở khóa điện, vào số, chạy, chầm chậm rồi nhanh, thật nhanh. Mỗi người chạy thử một vòng nửa cây số con đường ngang vắng người dẫn xuống mép biển. Tay tù binh ngồi ôm eo từng người để tiếp tục hướng dẫn và xem chừng. Khi đại đội ra lệnh hành quân, trong tiểu đội tôi đã vài người có thể xem như là biết chạy xe máy, tay lái không chệnh choạng, sang số lẹ và êm. Tay tù binh được thưởng luôn chiếc Honda 67 với bình xăng còn kha khá. Quân ta tiếp tục tiến vào Nam, còn anh ta thì quay ra mạn Bắc, về quê ở Tuy Hòa. Chúng tôi chúc nhau thượng lộ bình an.
    *
    * *
    Tôi biết đi xe máy như vậy là khá sớm, nhưng cái sự biết đó chẳng để làm gì. Trở về sau chiến tranh, trở về với Hà Nội, lại trở về với chiếc xe đạp cà khổ. Hà Nội thời sau chiến tranh, mười mấy năm trời dai dẳng thời bao cấp nghèo ơi là nghèo, mức sống còn thua kém cả trong chiến tranh.
    Tất nhiên Honda cũng đã lần đường ra Bắc cùng với ti-vi, tủ lạnh, đồng hồ Seiko, búp bê, quần loe, đồ nhựa Thái, chưởng Kim Dung... Nhưng mười năm hậu chiến, Hà Nội vẫn xe đạp là chính. Phần vì giá xe vượt xa túi tiền và mức sống hồi ấy, nhưng chủ yếu do phụ tùng thay thế không có, nhất là xăng quá khan. Có tiền cũng chưa chắc kiếm nổi một chai nửa lít nói gì đổ đầy bình để chạy ngày ngày. Đã vậy lại luôn luôn bị chặn hỏi giấy tờ. Dắt xe máy ra đường phải mang trong người cả núi hồ sơ về cái xe máy đó. Chưa kể là dạo ấy còn có cái vạ ?okiểm tra hành chính?, biết tường trình với nhà chức trách thế nào đây về sự hiện diện của một gia tài to tát đến nhường ấy trong ngôi nhà xơ xác mình. Sở hữu một chiếc xe máy rõ ràng là sở hữu một tội nợ. Tuy nhiên người ta vẫn ham hố, vẫn ao ước. Được làm chủ nhân ông một chiếc Honda vẫn thật sự là một niềm hãnh diện hơn người. Ở đoạn phố nhà tôi có hai anh Trung, hai anh Nam, tên các anh được gắn thêm mác chiếc xe mà các anh sở hữu: Trung ?oSuzuki?, Trung ?oVespa?, Nam ?oYamaha?, Nam ?o67?... Ngay trong những thời kỳ cấm xe gắt gao nhất, sự mua đi bán lại vẫn rộn ràng. Cái chợ xe Phùng Hưng đã ra đời từ tận những năm nghèo kiệt ấy. Ngoài Honda tải từ Nam ra, ở Hà Nội còn có dòng bình bịch Liên Xô và Đông Âu do đám con em đông đảo đi ?ohợp tác lao động? bèo dạt mây trôi tuồn về. Môkích, Minkhơ, Babétnhè, Cá vàng, Cá ươn... xấu xí và ô nhiễm nặng nề nồng nặc nhưng lại khá là nồi đồng cối đá.
    Đổi mới được vài năm, lượng xe máy ở Hà Nội đã nhiều gần bằng lượng xe đạp. Rồi vì phe XHCN không còn, Hà Nội trở về với bình bịch Nhật, tuy nhiên là loại đời mới. Nền văn minh xe máy đã thực sự bắt đầu và nhanh chóng tăng tốc, chiếm lĩnh dần dần mặt phố. Nhiều phương tiện giao thông thân thuộc của Hà Thành như tàu điện, xe buýt, xích-lô và xe đạp lần lượt ra rìa để rộng chỗ cho thế lực của xe máy. Ngày qua tháng lại đời sống dần vượng lên, nhưng dù có không vượng được, dù vẫn đủ bề túng thiếu cũng không mấy ai còn có thể đủng đỉnh đạp xe dạo mé ngoài nền văn minh ấy nữa. Tậu được con xe đầu tiên, nhập cuộc thời đại rồi, thì lại phải gắng gỏi theo cho kịp dòng đời, phải liên tục đổi mới. Thành thử ngày nay xe máy ở Hà Nội toàn những xe sang, cho dù thực chất là đồ Tàu hoặc liên doanh Hàn, liên doanh Đài Loan nhưng mã ngoài vẫn phải nhái y chang Dream II, Wave, Viva, Spacy, A còng ... Cho dù là gọi xe ôm người ta cũng không đời nào gọi mấy anh 81 với cả cúp tôm chứ đừng nói gì Min hay Mu-kích.
    Mãi tới năm 1995, gia đình tôi mới có xe máy. Một chiếc Honda 82 chạy chưa tới vạn cây, bạn tôi để lại với giá hữu nghị, chỉ sáu vé. Chỉ sáu vé, nói oai vậy, chứ kỳ tình hồi ấy hai vợ chồng tôi cộng lương lại chưa được triệu bạc một tháng. Thú thực là không bao giờ tôi tự biết được là vì sao mình lại có thể có gan tậu và có thể tậu nổi chiếc Honda 82 đó. Nhưng dù gì thì từ ngày có xe, tôi thấy mình mạnh bạo hơn trong đời sống. Tự tin hơn, cứng vía hơn. Và quả thật là từ ngày đó, có thể nói là nhờ chiếc xe ấy, tôi sống khấm khá hơn, có đồng ra đồng vào hơn. Tôi nghĩ là không chỉ riêng tôi. Chiếc xe máy thực sự là một phương tiện hữu ích, một đồ vật có công đối với bước tiến trong đời sống của đa phần người bình dân Hà Nội những năm qua. Tất nhiên, chiếc xe máy cũng là nguồn cơn của đủ thứ tai ách trên đường phố, nhưng dù vậy nó là vẫn một biểu tượng cho sức sống năng động của người dân từ khi nhịp bước vào đời sống kinh tế thị trường.
    Có thể nói ngày nay hình ảnh chiếc xe máy đang lách chạy và lấn chen trên phố là hình ảnh của một đại nghịch lý, tuy nhiên là một nghịch lý thú vị, thậm chí dễ thương và đáng yêu nữa trong cái đời sống mưu sinh dày đặc nghịch lý và vô vàn sắc mầu, vô cùng tươi vui chộn rộn của chúng ta hôm nay. Dù sao thì cảnh tượng Hà Nội, Sài Gòn cuồn cuộn xe máy vẫn là hết sức độc đáo đối với cả thế giới, vẫn là khung cảnh một đời sống tràn trề sinh lực và rất ưa nhìn. Dù sao thì chật ních xe máy vẫn hơn là sự trống huyếch trống hoác của thời buổi nghèo nàn bấn bách những năm xưa. Chỉ tiếc rằng thời của xe máy tiếng vậy nhưng mà cũng sắp kết thúc, sắp qua đi mất rồi.

  4. b_e

    b_e Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2006
    Bài viết:
    3.394
    Đã được thích:
    0
    Một kiểu hàng rong rất độc đáo, đã được chứng kiến ở Buôn Mê Thuột
    Tỉ Gánh Hàng Rong Giữa Phố PhườngTác Giả: Thanh Thảo
    Chiếc xe Honda 67 bạc thếch chở ba người, phía sau còn đèo thêm một chiếc thùng gỗ lao vút đến. Sau một cú quẹo điệu nghệ, xe tấp vào lề đường thả xuống một thanh niên khoảng 20 tuổi cùng hai nhóc tì mặt mũi trông khá sáng sủa. Nắp thùng gỗ lật lên để lộ một cái cassette chắc đã qua cả chục đời tân trang, lằng nhằng theo đó là dây loa, dây micro... và rồi cuộc trình diễn ca nhạc, khiêu vũ rap, disco sôi động, ầm ĩ để lôi kéo mọi người chú ý đến... món kẹo kéo. Những âm thanh này kéo dài cho đến khi ai đó chịu hết nổi tiếng nhạc inh tai, gọi phone cho cảnh sát khu vực đến đuổi đi mới thôi...
    Ðấy là một trong những hình ảnh ?ogánh? hàng rong, len lỏi khắp phố phường Sài Gòn hôm nay...
    NGÀY XỬA NGÀY XƯA
    Trong ký ức mỗi người Việt, chắc hẵn ai cũng lưu giữ một hình ảnh thơ mộng nào đó về những gánh hàng rong. Ðó là một chị bán xôi quẩy trên vai chiếc đòn gánh bằng tre cong cong với đôi thúng phủ lá chuối xanh mướt, ấp bên dưới là những nắm xôi nếp thơm phức, miệng thánh thót rao: ?oAi xôi giò, xôi mặn hôn...? Hay một anh chàng dáng vẻ ốm nhom ốm nhách ngồi ngật ngưỡng trên chiếc xe cà tàng, chậm rãi đều đặn đạp từng vòng xe, mắt đá lông nheo với đám trẻ con mũi dãi thò lõ, đãi giọng rao ?oMài dao mài kéo, kéo con đường mà đi chơi?...
    Có lần, nhà nghiên cứu Sử Ðịa Sài Gòn, ông N.Ð.Ð. cho tôi xem một cuốn sách của một giáo sư người Pháp viết về hàng rong Sài Gòn, xuất bản trước năm 1945. Trong sách có cả những khuôn nhạc, ký xướng âm lời rao của người bán hàng rong. Hình ảnh minh họa thì có anh bán móc tai lông nhím, hai mẹ con ngồi bên một gánh mì, người mẹ vận váy gụ tươm tất, đầu chít khăn mỏ quạ, cậu bé con đầu để chỏm, mắt liếc gánh mì như muốn đòi ăn nhưng sợ mẹ la...
    Theo ông Ð. thì hàng rong thời ấy chủ yếu vẫn là hàng ăn như bún riêu, ốc dừa, bánh hỏi thịt quay, xá xíu... Hồi đó, người bán hàng rong rất sạch sẽ, từ trang phục, hàng gánh, cách ngồi cho đến cách dọn dẹp rác rến sau khi bán buôn xong. Những lá chuối xanh tròn lót đĩa, sau khi dùng xong được chị bán hàng cho vào đáy thúng để đem đi bỏ vào thùng rác. Thời xưa ấy, hàng rong là đặc sản của chính người bán hàng bởi mọi thứ đều do chính tay người bán làm lấy, vì thế người bán hàng phải luôn giữ uy tín của mình bằng thông qua việc bảo đảm phẩm chất an toàn vệ sinh... cho khách hàng.
    Do đó, người bán hàng rong thửa ấy không phải là người xa lạ, vô danh mà là chỗ thân quen của gia đình khách hàng. Người ta mua hàng rong không chỉ để ăn, mà còn vì cá tính, nhân cách, tiếng rao của người bán. Giữa người mua và người bán có sự giao thiệp, ngày lễ Tết đến thăm nhau như người thân... Hàng rong thủa xưa, ngoài việc trao đổi, thực hiện nhu cầu mua bán còn bao hàm cả tính cộng đồng rất cao.
    Bên cạnh đó, hàng rong còn là một hình ảnh thi vị của phố phường Sài Gòn. Nhà văn C.T.B. năm nay đã gần 70 tuổi, hồi tưởng ?oCũng gần đây thôi, Sài Gòn vào cuối những năm 60 các con đường đều thênh thang lối đi bộ, ban ngày cây xòe bóng mát, buổi tối tĩnh lặng đến mức có thể nghe được tiếng dương cầm từ từ một ngôi biệt thự nào đó vẳng ra, đâu đó thoảng mùi dạ lý hương... Trong khung cảnh êm đềm ấy là hình ảnh chị bán hàng rong đội nón lá, ngồi dưới bóng một cây xanh um lá làm cho Sài Gòn có thêm cái dân dã, cái quê mùa, giữa lòng phố thị.?
    Còn bây giờ đường phố chật chội, vỉa hè bề bộn, không ngăn nắp thì sự góp mặt của những gánh hàng rong với cung cách buôn bán không giữ chữ ?oTín? như lấy thịt mèo, thịt chó nấu mì gõ, bất cần quan tâm sức khỏe bà con khách hành như bánh phở ngâm chất phoọc môn để giữ độ dai hay bán xong thì cứ trút đồ ăn thừa đại khái xuống lỗ cống gần đó, hay bỏ mặc xương bò, xương heo nằm chổng trơ trên hè phố... làm cho thành phố kém mỹ quan, mọi người bực bội, mất đi vẻ thiện cảm, báo chí than trời như bộng...
    BÁT NHÁO HÀNG RONG THỜI ?oHIỆN ÐẠI?
    Có người ví nền kinh tế Sài Gòn là ?onền kinh tế vỉa hè,? bởi vỉa hè là nơi người ta mua bán kinh doanh, kiếm sống bằng đủ các loại hàng hóa từ đồ ăn thức uống tới mỹ phẩm; bằng đủ thứ nghề từ buôn bán xe hơi, xe đạp cho đến nghề tẩm quất, ăn xin... Trong đó, hàng rong là một mảng mưu sinh rất lớn.
    Khái niệm ?oGánh? không còn để chỉ phương tiện duy nhất để vận chuyển hàng rong nữa mà được mở rộng ra. Bây giờ, người ta bưng bê mâm (bánh ngọt, trứng cút..), đẩy xe ba gác (chuối, rau củ, quạt máy, đồ gia dụng rẻ tiền...), thồ bằng xe đạp, xe gắn máy (bánh giò, bánh mì, sách báo...)
    Thậm chí, có người còn chở lểnh nghểnh cả một... vườn cây kiểng đi bán rong trên một chiếc ba gác - chiếm diện tích cũng tương đương một xe tải nhỏ, lưu chuyển vô tư trên những con đường chật hẹp, đông đúc. Mà ai cũng biết nạn kẹt xe ở Sài Gòn bây giờ kinh khủng đến mức nào rồi. Riêng về hàng rong ăn uống, có đến 47% người bán hàng rong không che đậy thức ăn, 30% người ăn hàng rong bị ngộ độc thực phẩm (thống kê của Trung Tâm Dinh Dưỡng Thành Phố)... Một thông tin đáng làm những ai ưa ?olê la? ăn hàng rong... cảnh giác.
    Trong lúc chạy quanh từ khu vực trung tâm thành phố trên các con đường Nguyễn Huệ, Ðồng Khởi, Lê Lợi sang trọng, văn minh nhất nước vậy mà tôi vẫn thấy nhan nhản những em bé bán bưu thiếp đang níu áo, kì kèo với khách nước ngoài, những anh chàng ăn vận xộc xệch tay ôm chồng báo từ Le Figaro cho đến Straight Times... trên vai khoác một bản gỗ treo lung lẳng đủ thứ, từ cái móc khóa có hình những cô gái hở hang cho đến ống chứa xăng thơm chỉ xài cho hộp quẹt Zippo... Mỗi khi anh ta xoay người, chiếc bản gỗ vung theo, khiến mấy ?oông tay bà đầm? vội nhảy tránh sang một bên... Ngay trước một ngôi nhà cao tầng sang trọng, một chị tất bật hạ nguyên một ?oquán? cà phê cóc trên vai xuống, vội vã xúc đường bỏ vào chiếc ly giấy cho một anh công chức trẻ thắt cà vạt ?ođóng thùng? bảnh bao đang vội vàng tranh thủ làm một ly cho tỉnh táo...
    Chỉ riêng con đường Tô Hiến Thành nằm ở quận 10, dài chỉ khoảng 1 km, vốn đã chật hẹp do có nhà thờ Tin Lành, chợ Hòa Hưng, siêu thị Miền Ðông, cổng hông Ðại Học Bách Khoa, Bệnh Viện Trưng Vương... đến buổi chiều lại còn ?okhủng khiếp? hơn với cả trăm ?ogánh? hàng rong: xe bán sách báo cũ, xe bánh bao, xe chở than bán dạo, xe bán quần áo con nít... chạy tới chạy lui khiến ngã 3 Hồ Bá Kiện - Tô Hiến Thành đèn đỏ giao thông chẳng còn ?oép phê? nữa, tất cả bát nháo chẳng còn ra thể thống gì cả...
    Riêng mỗi ngày, con hẻm xóm tôi không khác gì cái chợ, có không dưới 20 loại hàng rong diễn qua, chào hàng. Năm giờ sáng đã bắt đầu với ?oBánh mì nóng không?? đến ?oBáo đây! Báo Tuổi Trẻ, Báo Thanh Niên, Phụ Nữ, Công An Thành Phố đây!?... rồi ?oQuạt cũ, quạt hư bán hông?, ?oCá hấp, cá hấp!?... cho đến tận 11 giờ 30 khuya mới chịu chấm dứt với ?oBánh giò, bánh tét hơ!? hòa trong tiếng gõ ?olốc cốc? của xe mì gõ.
    MƯU SINH BẰNG ?oGÁNH? HÀNG RONG
    Cứ vào độ 4 giờ chiều, con hẻm có tên Ðường Ðất, nay được mọi người gọi là hẻm Lê Công kể từ cái ngày chàng diễn viên tài năng Lê Công Tuấn Anh, xuất thân từ trẻ bụi đời tự tử trong căn nhà trọ nơi đây, bắt đầu ồn ào hẳn lên. Bắt đầu là mấy chàng trai gốc Quảng đang tuổi ăn tuổi lớn, đánh vật làm vệ sinh với chiếc thùng thiếc nấu nước súp mì gõ chuẩn bị ?ora trận; cạnh đó ?ođoàn quân bán giò? siết chặt những nút dây cao su cuối cùng để giữ cho tấm phủ trên giỏ giữ bánh nóng cho tới khuya, vài cô làm nghề phụ bán cà phê đầu tóc vừa gội xong còn ướt rượt, ngồi chồm hổm trước phòng trọ ngó cảnh xóm chiều sinh động...
    Nhưng vui mắt, nhộn nhịp nhất vẫn là những chị, những cô bán vé số nói bằng giọng của khắp miền đất nước: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Quảng Ngãi... Gần 20 phụ nữ này chen chúc nhau trong một căn nhà trọ chật hẹp, tối ngủ vắt chân lên cả người nhau, cốt để giảm tối đa tiền thuê nhà... Lúc này, mấy chị mấy cô đang nối nhau lả lướt đi dọc xóm, đi bán đêm. Ai nấy áo quần lượt là, má đỏ môi hồng như nghệ sĩ cải lương khiến mấy chàng sinh viên trọ gần đó cười ngất, buông lời chòng ghẹo...
    Có lần, tôi trò chuyện với một chị bán chè, tên Xoan. Chị người gốc Thanh Hóa, để người chồng bị tai nạn lao động cùng hai con ở quê vào Sài Gòn bán chè gần 15 năm nay. Chị dựng chiếc chòi lá bên kênh Nhiêu Lộc, Thị Nghè nay thuộc hẻm 27, khu phố 2, phường 15, Quận Bình Thạnh tập tành nấu chè 7 món (chuối, đậu ván, đậu xanh...) kiếm sống, đồng thời dành dụm gửi tiền về quê nuôi chồng con.
    Nay chị đã có một căn nhà xây khang trang ở đường Lê Văn Thọ (Gò Vấp), chồng cùng hai con đã vào Sài Gòn, con gái đầu đã có công ăn việc làm ổn định, đứa con trai út hiện là sinh viên của trường đại học công lập. Nay chị không còn gánh chè đi bán rong nữa, mà mở tiệm ngay tại nhà. Trong khu phố, mỗi khi có đám giỗ, thôi nôi, sinh nhật... vẫn thường đến đặt hàng chị, nên cuộc sống của chị có thể xếp vào hàng thu nhập ổn định. Bản thân chị cũng thừa nhận, bây giờ hàng rong sao mà phức tạp, báo chí thường xuyên đăng tin học sinh, công nhân ăn hàng rong bị ngộ độc hàng loạt rất đáng ngại...
    Theo thống kê của Sở Lao Ðộng Thương Binh Xã Hội, hiện nay, thành phố Sài Gòn có 1,200,000 người nhập cư và gần nữa số đó sống bằng nghề tự do, cá thể trong đó rất nhiều người đang sống bằng nghề buôn bán hàng rong. Chỉ cần bỏ ra 50,000 đồng đã có một mẹt bánh cam hay thúng đậu phộng luộc rồi, cứ thế mà rong ruổi khắp phố phường bán buôn với người ta...
    Hay như anh chàng bán kẹo kéo kể trên, chỉ bỏ ra dăm ba triệu mua chiếc xe Honda 67 cà tàng cùng dàn máy cũng cà tàng nốt, gom hai nhóc em trai đã ?okinh? qua lớp học khiêu vũ Rock, Rap gì đó độ hai tháng (chưa tới trăm ngàn học phí) là đĩnh đặt có hàng kẹo kéo di động, mà khách thương tình, thấy vui vui mua ủng hộ rất nhiều. Vậy là cũng khấm khá, nhưng nhớ vọt cho lẹ khi thấy thấp thoáng bóng cảnh sát khu vực...
    Quỳnh Thoa

  5. chip67

    chip67 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/06/2007
    Bài viết:
    255
    Đã được thích:
    0
    hôm cuối tuần về Bắc Giang gặp mặt 1 bác 67 ở bắc giang, có 2 anh em ngồi cà cê mãi, gọi bác nào cũng ko liên lạc được.
    Những anh em nào ở Bắc Giang thì lên tiếng đi nào, anh em tổ chức hồi hương phát
    xôm tụ năm mới phát cho hoành tráng 67 Bắc Giang nào anh em ơi!!!!
  6. CE

    CE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2001
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Em chào cả nhà!
    Nhớ nhà mình ghê, lâu lắm k gặp...hihi.....

  7. b_e

    b_e Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2006
    Bài viết:
    3.394
    Đã được thích:
    0
    Công tử Bạc Liêu - Một thời vang bóng
    Nguồn: http://asianlabrys.com/forum/index.php?showtopic=1257
    Còn nhớ trong một buổi bàn luận chuyện xưa tích cũ xứ Bạc Liêu, ông Trần Phước Thuận, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật tỉnh Bạc Liêu nói với tôi rằng: ?oTrước đây nói đến công tử Bạc Liêu là nói đến khái niệm ăn chơi vô độ, nhưng dần theo thời gian khái niệm ?ocông tử Bạc Liêu? đã trở thành khái niệm mỹ học, tượng trưng cho tính cách phóng khoáng, mến khách Nam bộ?. Chợt nhớ, đã từ lâu, người đời thường gán cho những tay ăn chơi xả láng, bốc trời biệt danh ?oCông tử Bạc Liêu?. Và bất luận ai khi về thăm Bạc Liêu đều bảo về xứ Công tử. Rồi bất cứ một hành động hào phóng, thậm chí ngông nghênh nào đó của dân xứ này đều được người xứ khác buông một câu - Đúng là dân công tử (!). Rõ ràng, những giai thoại ngày xưa về một ?oCông tử Bạc Liêu? có thật đã phủ lên mảnh đất này một sức hấp dẫn hiếm thấy.
    Ngót một thế kỷ đã trôi qua, thế nhưng, gia tộc của Công tử Bạc Liêu vẫn làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của báo chí trong nước lẫn nước ngoài. Qua những tư liệu trước đây, người xứ khác biết về Công tử Bạc Liêu với những giai thoại như đốt tiền nấu chè đậu xanh, đi một lúc 6 chiếc xe lôi hoặc là người mua máy bay đầu tiên ở Đông dương. Vậy đâu là sự thật của những giai thoại đó. Có thật là gia tộc Công tử Bạc Liêu giàu đến mức ấy hay không? Bây giờ, gia tộc của Công tử Bạc Liêu ai còn ai mất? Xin chép lại đây những điều tôi biết qua mối duyên may được hầu chuyện, được tới lui với người nhà ?oCông tử Bạc Liêu?.
    Hội đồng Trạch ?" nhà kinh doanh tầm cỡ của Nam bộ
    Theo trí nhớ của một số cụ già sống kỳ cựu ở Bạc Liêu thì hồi đó - cách ngót thế kỷ - ở Bạc Liêu có rất nhiều đại điền chủ. Họ được chia thành 3 bực. Song, ở bực thứ nhất - các đại gia, xuất thân từ con bá hộ chỉ đếm ngót trên đầu ngón tay. Đó là: Trần Trinh Trạch, Châu Văn Quai (Tô Quai - chủ tô muối), Ngô Phong Điều (Hội đồng Điều), Chung Bá Vạn (chủ nhân rạp hát danh tiếng một thời ?oChung Bá?, bây giờ là rạp hát Cao Văn Lầu). Bực thứ hai mới đến: Tô Lai Thêm (cha ?ocậu? Hai Lũy), Đốc tổng Hậu, Hội đồng Sổn (Huyện Sổn), Cao Minh Thạnh (thân sinh cụ chí sĩ Cao Triều Phát). Bực thứ 3 mới đến các ?ođiền manh? - số này thì không thể nhớ hết tên. Trong ba bực vừa nêu thì vừa giàu, vừa có thế lực chỉ có gia tộc ông Hội đồng Trạch - cha của ?oCông tử Bạc Liêu? Trần Trinh Huy. Và theo trí nhớ của người già, chỉ có con cái của Hội đồng Trạch mới ăn chơi và đủ sức chơi ngông theo kiểu Công tử.
    Ông Hội đồng Trạch quê ở Cái Dầy, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, sinh năm 1872. Ông vốn là một người kín đáo nhưng khôn lanh. Ông có cả ngàn mẫu ruộng hương hỏa ở Cái Dầy, rồi hàng ngàn khoảnh khác ở miệt biển Vĩnh Châu. Năm 42 tuổi, Toàn quyền Pháp cất nhắc ông làm Thư ký hậu bổ, giúp việc cho tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng lúc bấy giờ. Những năm đầu 30, khi Pháp vơ vét của cải dân xứ thuộc địa, giới đại địa chủ cũng không thoát khỏi cảnh bị móc hầu bao. Song, nước ?oĐại Pháp? đã gán cho một cái tên mỹ miều - ?oMiền Nam phụng bạc?. Không hiểu ông ?ophụng? bao nhiêu, chỉ biết không bao lâu sau, ông ?ohội đồng? đã là quan 5 - nghiễm nhiên trở thành ông lớn. Ngay cả những năm sau, các viên chức Pháp đến Bạc Liêu nhậm chức - cỡ Chánh án Tòa án - đều phải đến chào Hội đồng Trạch. Và cũng vì vậy, thư ký ghi chép sổ sách, coi sóc giấy tờ cho ông là một lục sự Tây hẳn hoi. Chính điều này càng là một thuận lợi cho việc mua bán đất điền của gia tộc Trần Trinh.
    Chuyện làm giàu của Hội đồng Trạch cũng lắm giai thoại. Hồi đó, ở xứ Bạc Liêu ai được ông Hội đồng mời đến chơi cũng vừa mừng, vừa lo. Mừng vì không phải dễ gì được kết thân với một gia tộc quyền thế bậc nhất này. Còn nỗi lo lại là... sợ đánh bạc. Hội đồng Trạch vốn là một tay cờ bạc khá, đêm nào nhà ông Hội đồng cũng sáng đèn đến tận khuya. Khách không có tiền ông bảo gia nhân mở tủ lấy tiền cho khách mượn với một câu nhẹ hều: ?oLấy tiền của ông mà chơi, tính toán gì, miễn khách vui thì gia chủ mừng?. Tiếng là ?olấy chơi? không tính, thế nhưng, đã có không biết bao nhiêu đất đai, ruộng vườn của các địa chủ nhỏ rơi vào tay Hội đồng Trạch một cách hợp pháp vì... thua bài.
    Thiệt tình là những năm 30, khi lúa từ 2,5 cắc xuống 1,8 cắc, vàng một lượng 25 đồng còn 18 đồng, gia tộc này càng vớ bẫm. Biết bao người phải sang bán, cầm cố đất đai cho Hội đồng Trạch. Ông Hội đồng có đến 90 tuần khạo chuyên đi thu lúa mướn, ông sắm máy bay cũng chỉ để đi kiểm tra tuần khạo. Ban công, sân thượng nhà ông không chỉ để hóng mát mà còn để phơi tiền. Phải chăng, chính cái gia sản kếch sù ấy là điều kiện tốt nhất cho con cháu ông ta mặc sức ăn chơi.
    Tuy vậy, cội nguồn gia sản của Hội đồng Trạch không phải do bóc lột tá điền như người ta vẫn nghĩ. Hóa ra, gia sản ông Hội đồng vẫn không bằng một lai nào khi so với cha vợ của mình là Bá hộ Bì. Ông Bá hộ Bì có đến 7 vợ và trên 10 chiếc ghe chài ?" một gia sản lớn lao vào lúc bấy giờ. Hồi môn của các cô con gái đủ để người ta khỏi phải bươn chải kiếm sống thêm. Thế nhưng, các ông con rể của Bá hộ Bì thấy đồng tiền sao kiếm dễ quá nên cứ lao vào hút sách, bài bạc đến độ cầm cố lần hồi. Riêng ông con rể Trần Trinh Trạch không chỉ biết hưởng mà còn làm cho của hồi môn bên vợ sinh sôi, nảy nở. Các anh em cột chèo thua bài, thua bạc đều phải cầm cố ruộng vườn, ghe chài cho vợ chồng Hội đồng Trạch. Theo trí nhớ của con cháu trong dòng tộc thì ông Hội có đến 69 ngàn mẫu ruộng, trên 10 sở muối, toàn bộ hai dãy phố lầu ở Bạc Liêu, một dãy phố lầu ở đường Gia Long, Sài Gòn cũ. Riêng dãy bunggalo mà trước là nhà cầm đồ kế chợ Nhà ***g cộng với hãng rượu ven sông Bạc Liêu là gia sản của các con rể Bá hộ Bì cầm cố. Và cũng chính Hội đồng Trạch là một trong 4 đại gia thời bấy giờ cùng sáng lập ra Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín. Và cũng chính ông Hội đồng đã luôn có mặt trong những thương vụ bàn bạc chuyện xuất cảng lúa gạo cỡ bự của miền Nam thời bấy giờ.
    Nhưng quả là Ông Trời có luật bù trừ, gia sản nứt đố, đổ vách chớ nào mấy người được hưởng. Giàu cỡ đó, mua gan Rồng còn được vậy mà hễ bà Hội đồng Trạch đụng tới một miếng thịt, một cái đùi gà là ói ra mật xanh, mật vàng. Tư niên, mãn mùa bà chỉ ăn cơm với cá kho quẹt thật mặn hoặc ba khía. Cánh tuần khạo, người ăn, kẻ ở cho gia tộc này lén lút truyền miệng rằng bà Hội đồng là thần tài giữ của cho gia tộc Trần Trinh.

    "Còn tiếp"
  8. CE

    CE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/12/2001
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    Bác Hưng be spam ác nhờ!
  9. b_e

    b_e Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2006
    Bài viết:
    3.394
    Đã được thích:
    0
    Nghe đoạn "Tuyệt tình ca" cho đỡ ghiền đã nhé
    http://mp3.baamboo.com/Mp3/detail/449742/1/Trich-doan-Tuyet-tinh-ca-Thanh-duoc-Phuong-hien.html
    "Tiếp" Công tử Bạc Liêu
    Ông Hội đồng Trạch mất năm 1942 tại Sài Gòn vì bệnh suyễn. Lúc đó, Cậu Tám bò ?" Trần Trinh Khương sống bên Pháp đã về Việt Nam. Không có tiếng chơi ngông bằng ông anh Ba Huy, nhưng để ?oxứng mặt? gia tộc, Cậu Tám cũng đã nghĩ đến một chiêu khoe mẽ độc đáo. Một chiếc Chevollet được điều đến và xác ông Hội đồng được đeo kiếng đen đặt ngồi ngay ngắn trong xe. Khi về đến địa phận Bạc Liêu, tá điền hai bên đường cứ cúi đầu cung kính vì ngỡ... ông Hội đồng đi thăm ruộng. Đến khi gia tộc phát tang mọi người mới bật ngửa. Đến nay, thời gian qua đi khá lâu nên dân cố cựu Bạc Liêu không còn nhớ rõ chi tiết. Người thì bảo linh cữu ông Hội đồng quàn 1 tháng, kẻ thì bảo 7 ngày. Nhưng ai cũng nhớ, người đi đưa đám đông vô số kể. Khúc đầu đoàn người đưa tiễn về đến Cái Dầy, Vĩnh Lợi khúc đuôi vẫn còn loanh quanh trong khu phố cổ. Tá điền các nơi về la liệt ăn nhậu thỏa thích bảy ngày, bảy đêm.
    Nhưng đám ma ông Hội đồng thấy vậy vẫn không danh tiếng bằng đám ma bà Hội đồng 5 năm sau đó. Chuyện thì hơi dài dòng, nhưng là vầy. Sau khi ông Hội đồng mất, thấy cảnh nhà trống vắng, đơn chiếc, bà Hội đồng qua Pháp ở với cô cháu gái tên là Hai Lưỡng. Cô Hai Lưỡng chính là con gái lớn của Trần Trinh Huy. Cô Hai này trước là vợ một viên quan cận thần của vua Bảo Đại nhưng sau ly dị rồi qua Pháp làm vợ một ông thị trưởng. Chẳng may, thưởng ngoạn cảnh hoa lệ phố phường Ba Lê không bao lâu bà Hội đồng qua đời. Và theo những người còn lại trong gia tộc, viên thị trưởng nọ đã đặt một quan tài có nắp bằng kính để tỏ lòng hiếu thảo với bà ngoại vợ và còm măng hẳn một chiếc phi cơ chở quan tài về Việt Nam (!). Tiềng đồn còn nhanh hơn tốc độ phi cơ. Khi đưa được quan tài về khu mộ gia ở Cái Dầy thì dân Lục tỉnh đã đổ xô về vô kể. Họ muốn lần đầu tiên nhìn thấy một quan tài bằng kiếng. Và khuôn mặt bà Hội đồng đã được dồi phấn rực rỡ hiển hiện sau khung kính quan tài càng làm cho dòng người đổ về thêm đông.
    Chợt ông Khánh trầm giọng bảo: ?oPhải hồi đó, các cậu tui nghe lời ông thầy phong thủy giờ đâu đến nỗi?. Hoá ra, lúc chọn đất để chôn cất, gia tộc có rước về một ông thầy phong thủy nghe đâu danh tiếng nhất xứ Sài Gòn Chợ Lớn. Nhìn trước, nhìn sau, bấm quẻ thế nào ông thầy phán một câu: ?oTiếng ông Hội đồng đất đai lớn vậy nhưng không có chỗ chôn. Không cải số được. Phải chịch qua vài tầm ngay miếng đất hàm rồng, ráng nói khó với người ta để xin cho mình một công đất làm mộ gia. Còn hổng tin tui, tui kỳ hẹn nội trong vòng 10 năm đổ lại không tán gia bại sản tui không làm người?. Dĩ nhiên, nghe thì nghe vậy nhưng trong gia tộc lại bàn tán xôn xao rằng chẳng lẽ điền đất cỡ đó lại phải xin thiên hạ một thẻo đất để chôn, tiếng tăm đồn đãi đến bao giờ mới hết. Vả lại, gia sản cỡ đó có nằm mơ cũng xài không hết, rồi lãi mẹ đẻ lãi con nói chi đến chuyện tán gia bại sản. Ngay cả chuyện ông Ngô Đình Cẩn từ Miền Trung đánh tiếng vào mua lại một chiếc sập gụ với giá... một triệu bạc các công tử còn không buồn trả lời, huống chi. Vậy là, các cậu công tử cho một chiếc xe đưa lão thầy phong thuỷ về Chợ Lớn sớm cho... khuất mắt. Ngay sau đó, một khu mộ gia sừng sững mọc lên. Cả hai phần mộ của ông bà Hội đồng lót bằng đá hoa cương, bệ thờ và hai sư tử có cánh chầu hai bên đều bằng cẩm thạch. Mọi vật liệu đều được chở từ bên Pháp qua. Lúc đó, có lẽ con cháu ông Hội đồng đều không biết rằng khu lăng mộ uy nghi đó như là một dấu chấm hết cho một gia tộc lẫy lừng. Hiện nay, khu lăng mộ vẫn còn nguyên vẹn tại ngoại ô Bạc Liêu dọc theo quốc lộ 1A, người dân xứ Cái Dầy gọi chết tên khu vực này là Xứ Mộ Ông lớn.
    Có lẽ, tất cả những chuyện bi hài lẫn giai thoại xung quanh gia tộc Trần Trinh Trạch - người biết hết, mà biết rất tinh tường chỉ có ông cháu ngoại Phan Kim Khánh. Nhân vật đã được ăn theo ?ocậu ba Huy? rất nhiều năm tại đất Sài Gòn. Giờ đây, ông đang sống hết sức bình lặng, kín đáo với chức phận một cán sự y tế bên con kênh Cầu Sập. Nhưng những ký ức ngày ấy vẫn cứ dày vò tâm trí ông. Có lần, khi biết tôi đang đi ?oxác minh? những giai thoại về công tử Bạc Liêu và cả về ông ta, ?ocông tử? Khánh đã đến nhà và hóm hỉnh nói nhỏ: ?oNói thiệt với cô chứ tui mà bằng cái lai nào so với ổng. Nói tới Công tử Bạc Liêu là già trẻ lớn bé xứ này đều biết nói đến Cậu Ba Huy. Tui ăn chơi cỡ nào rốt cục muôn đời cũng chỉ là cái bóng của ổng thôi?.
    Theo lời ông Khánh thì Hội đồng Trạch có 7 người con - 3 trai, 4 gái. Tên của những người con cũng được đặt hết sức bình dân: Hai Đinh, Ba Quy (Quy là rùa, sau này Cậu ba đi Tây chê cái tên quê mùa đã cải ra thành Huy), Tư Huệ, Năm Thu, Sáu Đông, Bảy Dầy, Tám Bò. Tiếc thay, không một ai chí thú làm ăn như cha của mình, hay chí ít như cái tên dân dã của mình. Cũng có thể, của cải gia sản đã nhiều đến mức họ không cần đụng đến một đầu ngón tay. Ba ?ocông tử? phá tiền một người mỗi cách. ?oCậu hai? Trần Trinh Đinh có rất nhiều vợ, miễn cậu thích cô nào, lập tức sắm nhà cho. ?oCậu hai? chỉ có một lần làm ăn duy nhất là lập nhà máy xay lúa Hậu Giang, lớn nhất lục tỉnh bấy giờ - cũng lại là nhất. ?oCậu tám? Trần Trinh Khương qua Pháp học rồi lấy vợ đầm ở luôn bên đó. Hàng năm, ?ocậu tám? chẳng làm gì chỉ đợi lãnh ?omăng đa? bên này gởi qua.
    Nhưng cái nết chơi bời mà sau này được mệnh danh là Công tử Bạc Liêu chỉ có ?oCậu ba? Trần Trinh Huy mới đáng kể. Danh thiếp ?ocậu ba? chỉ để vắn tắt - ?oTrần Trinh Huy - propiétaire foncier Bac Lieu?. Với gia sản kếch sù của cha để lại ?ocậu Ba? đã ?ođầu tư? vào những gì ngông nghênh nhất. Chính ?ocậu Ba? đã thuyết phục cha mua máy bay đi thăm ruộng. Trong một lúc ngà ngà ?oCậu? nói: ?oToa sắm máy bay đi thăm ruộng còn có ích hơn Bảo Đại sắm máy bay lên Ban mê thuột chơi bời (!)?. Cũng cần nói thêm, sau này, chỉ có thêm chủ đồn điền cao su lớn nhất nước là SIPH và Terres Rouges sắm máy bay để đi phát lương cho công nhân. Nhà ?ocậu ba? có sân bay hẳn hoi ở Trà Nho, Vĩnh Châu. Một chi tiết ít ai đề cập đến lại là việc ?ocậu ba? sắm chiếc ca-nô có thể lướt trên cỏ, trên mặt sình. ?oCậu ba? đi thăm ruộng phải đi trên chiếc xe hơi Chevollet kéo chiếc ca-nô phía sau. Mà thật ra, không phải những đại điền chủ khác không đủ sức mua. Chỉ có một điều, đất đai mênh mông, không bị chia khoảnh cỡ Hội đồng Trạch mới có đường cho ca-nô chạy mà thôi.
    Thật ra, ?ocậu ba? chỉ biết nói và nghe tiếng Pháp chứ không rành viết. ?oCậu? có hẳn một thư ký Tây trong nhà, chỉ để đọc và phúc đáp thư bạn bè. ?oCậu ba? sống hẳn theo kiểu Tây, mở phòng nhạc kiểu Tây để tập trung các cô đào hát danh tiếng - giai thoại đốt tiền khoe mẽ với người đẹp phải chăng bắt đầu từ đây. Riêng đầu bếp Tây thì ?ocậu Ba? thay như thay áo. ?oCậu Ba? không hút thuốc phiện như cha nhưng về khoản cờ bạc thì không kém. Chỉ có điều, ông Trần Trinh Trạch nhờ đánh bài mà thu gom đất điền. Riêng ?ocậu Ba? lại là một miếng mồi ngon cho các tay cờ bạc bịp ở Chợ Lớn. Không hẳn ?ocậu Ba? không biết, phải chăng cậu chấp nhận và cho rằng, phải tiêu tốn một phần gia sản mới xứng mặt là dân sành điệu. Thuở đó, ?ocậu Ba? chỉ vào chơi bời ở Continental, Majestic, vào cercle đánh một cây bài đôi ba chục ngàn là chuyện thường - lúa lúc ấy 7 cắc một giạ. Rồi có lúc đang đi dạo chơi bằng máy bay, ?ocậu Ba? giành lái với viên phi công Pháp và lạc qua tận không phận Thái Lan. Đợt đó, ông Hội đồng Trạch phải điều mấy đoàn xà lan, chở 200 ngàn giạ lúa qua Thái chuộc ?oquý tử? về.
    Khi cha mất, ?ocậu Ba? còn thả sức ăn chơi hơn nữa. Nguyên dãy phố Gia Long cũ, có đến 94% nhà của ông Hội đồng nhưng đã ?ođược? ?ocậu Ba? nướng sạch vào các món ăn chơi. Trong giới nghệ sĩ hồi đó, ?ocậu ba? khoái nhất ?otiếng hát á phiện? Thanh Thúy. Tuần nào, ?ocậu ba? cũng đi nhảy đầm với người đẹp, mỗi lúc ?ocậu? đến, các cô **** tha hồ mừng, bởi lẽ cậu ?obo? mỗi **** không dưới 20 tickê.
    Nhưng cũng giống như cha mình, ăn chơi thế nào cũng không thể quên được cái gốc gác miệt vườn. Ngay cả thời gian đã sông ở Sài thành hoa lệ, tháng nào cũng mướn dàn nhạc sống về nhà, mở tiệc Tây liên miên để lấy le với mấy người đẹp, ?ocông tử Bạc Liêu? cũng chỉ khoái về quê để được... ăn ba khía. Ông Khánh cười tủm tỉm bảo với tôi: ?oCậu ba tui mướn Tây nấu ăn để giựt le, để có cảm giác sai khiến dân Tây cho sướng đời chớ ổng ham hố gì ba cái bánh lạt, bơ lẽo đó cô. Mà tui nói thiệt cô nghe chơi nghen, ổng lấy vợ Tây cho vui vậy chớ có thấy ổng bả ở chung được mấy ngày... (!)?. Người vợ nhỏ mà Trần Trinh Huy quý nhất lại là một cô gái con nhà bình dân ở Sài Gòn. Ông Khánh kể: ?oHồi đó, Cậu Ba tôi ở Sài Gòn còn bả đang bán bánh mì ở đường Gia Long mới 17 tuổi. Mợ Ba tui hồi con gái đẹp lắm. Mà hổng đẹp Cậu Ba đâu có bỏ ra 50 ngàn đồng bạc Đông dương để mua?. Riêng vợ lớn của công tử Bạc Liêu là bà Ngô Thị Đen, con ông Hội Đồng Điều - cũng là một đại địa chủ thời bấy giờ. Bà này hay coi sóc chuyện làm ăn ở Bạc Liêu.
    Đa số con cháu của gia tộc Trần Trinh còn sống đều ở nước ngoài. Một số làm kỹ sư, thông phán nhưng cuộc sống chỉ ở mức bình thường. Hiện chỉ có cháu ngoại của ?ocậu hai? Trần Trinh Đinh đang sống tại 121, Nguyễn Du. Riêng người vợ sau cùng của ?ocậu ba? - Công tử Bạc Liêu, hiện đang làm chủ một nhà hàng nổi tiếng ở Vũng Tàu. Trong hàng con cháu gần nhất của Công tử Bạc Liêu còn sống tại Bạc Liêu, có lẽ chỉ còn ông Phan Kim Khánh - cháu kêu Công tử Bạc Liêu bằng cậu ruột. Mẹ ông Khánh là bà Trần Thị Đông, con gái thứ sáu của Hội đồng Trạch. Thật lạ, ông Khánh hầu như thừa hưởng toàn bộ cái gen ăn chơi của người cậu ruột. ?oCông tử? Khánh bảo với tôi rằng, trong gia tộc có quy định, tất cả các nhà nghỉ mát của ông Hội đồng ở Sài Gòn, Đà Lạt, Vũng Tàu con cháu đều được đến ăn ở thoải mái. Kẹt tiền xài đã có quản gia tại đó đưa, chỉ cần ký sổ để cuối năm trừ vào hoa lợi hoặc gia sản hưởng riêng. Thế nên vị ?ocông tử? cuối cùng này mặc sức ăn chơi thỏa thích. Những năm đầu 70, vị ?ocông tử? dân Tabert hẳn hoi nghe cha đi học cán sự y tế. Học đâu chẳng thấy, có điều mỗi tháng ông xài bứt 1 triệu bạc cho những cuộc vui thú ở Vũng Tàu, Đà Lạt. Ăn cơm tháng thường trực ở Arcancel. Cái nết phá tiền của ?ocông tử? Khánh cũng không kém gì ?ocậu ba?. ?oCông tử? Khánh cho hay, ông Hội đồng Trạch có rất nhiều cổ vật quý. Ngoài chén bát xưa, đáng kể nhất là 5 cặp độc bình có chạm rồng năm móng bên ngoài. Quý đến nỗi, chính mấy ông Ba Tàu Chợ Lớn biết và điểm chỉ cho ?ocông tử? Khánh ?ochôm? bán lấy tiền xài. ?oCông tử? Khánh đã bán hết 2 cặp, mỗi cặp đút túi 250 ngàn chơi (lúc đó, xe honda 67 cáu cạnh chỉ 33 ngàn một chiếc). Song, quý nhất có lẽ là bộ trường kỷ của ông Hội đồng. Sau khi ông Trần Trinh Trạch mất, ông Ngô Đình Cẩn đã đánh tiếng mua lại bộ ghế này với giá... 1 triệu đồng. Nhưng bà Bảy Dầy, con gái Hội đồng Trạch không chịu bán vì: ?oBán thì mất tiếng tăm nhà mình?. (Mới đây, khi đến viếng chùa Chén Kiểu tại tỉnh Sóc Trăng - tôi lại nghe các sư cả chỉ vào hai cái trường kỷ mà quả quyết, đây là của công tử Bạc Liêu).
    Mới hôm qua đây thôi, khi về lại Bạc Liêu tôi đã cùng "Công tử Khánh" đi thăm những ông Tuần khạo cho ông Hội đồng Trạch năm xưa. Ông thì lãng tai, ông thì lẫn lộn. Tôi đã cố chắp nối, xâu chuỗi những sự kiện, những ký ức vỡ vụn ấy. Để rồi lại phải giật mình trước những sự thực cứ tưởng chừng như là giai thoại...
    Năm tháng dần trôi qua. Gia tộc Trần Trinh với những chuyện thật đã dần đi vào quên lãng. Người ta chỉ còn nhắc đến chung chung một Hắc công tử, một Bạch công tử của xứ Lục tỉnh Nam kỳ. Ngôi nhà của Công tử Bạc Liêu năm xưa nay phủ đầy rong rêu hiện đang trầm mặc bên dòng sông nước lớn, nước ròng đỏ ngầu phù sa. Khu mộ gia nằm hoang vu giữa đồng khô nắng cháy, giữa cỏ và cỏ, ít ai ngó ngàng chăm sóc. Dân chúng thì bảo ?okhông ai giàu ba họ, không ai khó ba đời? khi nhắc đến gia tộc này. Tất cả đã trở thành quá khứ. Phiếm bàn một chút cũng chỉ để nhớ về chuyện xưa.
    (Trích từ tác phẩm Dấu xưa Nam bộ - NVX Văn Nghệ 2006)

  10. b_e

    b_e Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2006
    Bài viết:
    3.394
    Đã được thích:
    0
    Không hề spam Tất cả các bài viết đều có dòng đề cập tới xe Honda 67. Không có cứ treo nick Xem kỹ đã nhé.
    Cô cánh cam nhiều chuyện quá
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này