1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hồng lâu mộng - Tào Tuyết Cần

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Julian, 01/08/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Giả Liễn nói:
    - Hoàng thượng bây giờ thể tất lòng mọi người, nghĩ rằng việc lớn trên đời không gì bằng chữ hiếu. Xưa nay lòng cha mẹ và con cái, không cứ sang hèn, ai cũng thế cả. Hoàng thượng cho rằng chính người ngày đêm hầu hạ thái hoàng thượng, hoàng thái hậu, còn sợ chưa làm tròn được đạo hiếu. Người thấy các phi tần, tài nhân vào cung lâu năm, xa cách cha mẹ, có lẽ nào lại không thương nhớ . Con thương nhớ cha mẹ đã đành, cha mẹ ở nhà cũng thương nhớ con, nếu không được gặp mặt, sinh ra đau ốm, đến chết, thế là tại ta giam hãm, khiến bao người không được trọn đạo luân thường, thương tổn đến hòa khí của trời đất. Vì thế người tâu lên thái thượng hoàng, hoàng thái hậu, mỗi tháng đến ngày hai, ngày sáu . Cung phi được phép vào thăm Thái thượng hoàng và hoàng thái hậu rất vui, khen người là bậc nhân hiếu, biết thể tất lòng trời, nghĩ đến muôn vật. Vì thế hai vị lão thánh nhân ban chỉ dụ xuống: "Các thân thuộc vào cung thăm nom, bị nghi lễ của nhà vua ràng buộc, chắc chưa được thỏa lòng. Nay ban đại ân rộng rãi hơn, trừ những ngày được vào thăm, còn đặc cách cho phép những người thân thuộc, nếu ai có nhà cửa riêng làm nơi nghỉ chân và tiện canh phòng, thì được phép xin với nội đình rước xe cung phi về thăm nhà, như thế là vẹn tình riêng cốt nhục, và cũng được trọn đạo luân thường". Chỉ dụ vừa đưa xuống, ai nấy nhảy nhót mừng rỡ đội ơn. Hiện nay phụ thân Chu quí phi đã khởi công sửa nhà riêng, phụ thân Ngô quí phi là Ngô Thiên Hựu cũng đã ra ngoài thành tìm nơi làm nhà riêng rồi. Như thế có phải việc này đã chắc được tám chín phần không?
    Vú Triệu nói:
    - A di đà phật. Nếu quả như thế thì phủ ta đây cũng phải sửa soạn đón tiếp cô lớn nhà ta.
    Giả Liễn nói:
    - Chẳng phải nói, nếu không thì bây giờ còn phải bận việc gì ?
    Phượng Thư cười nói:
    - Nếu quả như thế, thì phen này tôi được thấy một việc lớn nhất đời. Tiếc rằng tôi sinh sau đẻ muộn, nếu sớm độ hai ba mươi năm, thì còn ai dám khinh tôi là không biết việc đời. Thấy nói ngày trước đức Thái tổ hoàng đế ta bắt chước việc vua Thuấn đi tuần, quang cảnh nhộn nhịp hơn cả những chuyện trong sách, nhưng tôi không được trông thấy.
    Vú Triệu nói: .
    - Ối chà! Thực là một việc nghìn năm hiếm có! Tôi nhớ họ Giả nhà ta hồi còn ở miền Cô Tô, Dương Châu, trông nom việc đóng thuyền bể, và sửa sang đường bể, chỉ có sửa soạn đón tiếp vua một lần, mà tiền bạc tiêu như bể nước. Nhắc đến thì...
    Phượng Thư vội nói tiếp:
    - Họ Vương nhà tôi cũng đã sửa soạn đón tiếp vua một lần rồi. Bấy giờ ông tôi còn giữ riêng việc đón tiếp người các nước đến triều cống. Người nước ngoài đến, đều do nhà tôi tiếp đãi cả . Những thuyền bè hàng hóa ở ngoài đến các tỉnh Việt, Mân, Điền, Triết đều là của nhà tôi.
    ------
    (*) Việt: Quảng Đông, Mân: Phúc Kiên, Điền: Vân Nam, Triết: Triết Giang.
    ----------
    Vú Triệu nói:
    - Ai chẳng biết việc ấy? Hiện giờ còn có câu tục ngữ "Vua Đông Hải thiếu ngọc trắng làm giường, phải đến vay Kim Lăng nửa lạng". Câu ấy chỉ vào nhà mợ đấy. Lại còn nhà họ Chân ở Giang Nam. Ôi chà! Thần thế như trời! một mình nhà ấy đón vua bốn lần. Nếu không phải chính mắt chúng tôi trông thấy, thì nói không ai tin. Không những coi tiền bạc như bùn, mà các thứ ở đời, hết thảy đều có, cứ chồng chất như rừng như núi ấy. Nhưng tránh sao khỏi bốn chữ "Tội lỗi đáng tiếc".
    Phượng Thư nói:
    - Ông tôi cũng nói thế, lẽ nào lại không tin. Nhưng lạ thật sao nhà ấy lại giàu sang được như thế.
    Vú Triệu nói:
    - Tôi bảo mợ câu này nhé : chẳng qua lấy tiền bạc của nhà vua đem đập vào bản thân nhà đấy thôi! Chứ ai thừa tiền mua lấy cái náo nhiệt hão ấy!
    Đương nói chuyện, Vương phu nhân sai người đến xem Phượng Thư ăn cơm xong chưa. Phượng Thư biết có việc, vội ăn cơm, súc miệng toan đi, lại có người hầu vào báo:
    - Cậu Dung và cậu Tường ở phủ Đông sang chơi.
    Giả Liễn vừa súc miệng xong, Bình Nhi bưng nước rửa tay đến, Giả Liễn thấy hai người vào, liền hỏi:
    - Sang có việc gì?
    Phượng Thư cũng đứng lại. Giả Dung nói:
    - Cha cháu sai sang trình chú biết, các ông đã bàn định xong rồi. Khoảng đất từ phía đông nối liền với vườn hoa phủ Đông, đến phía tây bắc dài độ ba dặm rưỡi, chỗ ấy có thể lập nhà "tỉnh nhân" được. Cha cháu đã sai người vẽ bản đồ, ngày mai thì xong. Chú mới về, chắc hãy còn mệt, không cần phải sang bên cháu vội. Có việc gì, ngày mai sẽ mời chú sang bàn.
    Giả Liên cười nói:
    - Cảm ơn ông anh có lòng thể tất, tôi xin vâng lời, không sang nữa, ý định như thế là phải, vừa bớt được công việc, xây dựng cũng dễ hơn, nếu chọn nơi khác, tốn kém nhiều mà chưa chắc đã ra trò. Cháu về trình với cha cháu: ?olàm thế rất tốt? ; nếu các ông muốn thay đổi chỗ khác thì cha cháu nên can ngăn đi. Sáng mai chú sẽ sang thăm và bàn kỹ.
    Giả Dung liền đáp "vâng".
    Giả Tường lại đến gần nói:
    - Ông sai cháu đem hai người con bác quản gia họ Lại cùng đi với hai vị khách là Đan Sính Nhân và Bốc Cố Tu xuốngCô Tô đón phường hát, chọn mua con gái bé, sắm sữa nhưng đồ âm nhạc và đồ hát tuồng. Cháu đến trình để chú biết.
    Giả Liễn nghe nói, ngắm nghía Giả Tường rồi cười nói:
    - Cháu có thạo việc này không? Nói tuy không quan hệ lắm, nhưng trong đó cũng có thể có chuyện tệ lậu đấy.
    Giả Tường cười nói:
    - Cháu hỏi han người ta rồi cũng làm được.
    Giả Dung đứng sau bóng đèn, khẽ kéo áo Phượng Thư.
    Phượng Thư hiểu ý, cũng khẽ xua tay làm như không biết.
    Rồi cười nói:
    - Cậu hay lo xa quá, có lẽ nào ông anh không biết dùng người bằng chúng ta. Cậu lại sợ cháu không thạo việc à! Chưa chắc ai thạo hơn ai. Vả chăng các cháu đã lớn cả rồi, tuy chưa ăn thịt lợn, nhưng cũng đã trông thấy lợn (*) . Chuyện ông anh sai cháu đi, chẳng qua để đóng vai ông tướng ngồi cầm cờ lệnh đó thôi, chứ có phải bảo đi tính toán giá cả và xếp đặt công việc đâu . Theo ý tôi, cháu đi được đấy.
    ----------
    (*) ý nói việc tuy chưa làm bao giờ, nhưng đã trông thấy người ta làm.
    ------------
    Giả Liễn nói:
    - Việc ấy cố nhiên rồi; không phải tôi muốn ngăn giữ đâu, nhưng cũng nên bàn tính trước hộ cháu một tí. Nhân hỏi: ?omón tiền ấy thì lấy ở đâu?"
    Giả Tường nói:
    - Việc này vừa rồi đã bàn đến. Bác lại nói: "Không cần phải mang tiền ở nhà đi . Hiện giờ nhà họ Chân ở Giang Nam có giữ của nhà ta năm vạn bạc. Ngày mai viết một lá thư và phiếu nhận tiền giao chúng cháu mang đi, lấy ba vạn, còn hai vạn hãy gửi lại để chi việc sắm sữa đèn nến, cờ và màn.
    Giả Liễn gật đầu nói:
    - Nghĩ thế phải đấy.
    Phượng Thư vội bảo Giả Tường:
    - Đã thế thì ta có hai người thạo việc, cháu nên mang đi theo, càng dễ dàng cho công việc của cháu.
    Giả Tường vội cười nói:
    - May quá, cháu đang định xin thêm hai người.
    Rồi hỏi tên hai người ấy, Phượng Thư hỏi lại vú Triệu.
    Bấy giờ vú Triệu đương ngồi ngẩn ra nghe chuyện, Bình Nhi cười, đẩy một cái, vú Triệu mới tỉnh lại, vội nói: .
    - Một đứa là Triệu Thiên Lương, một đứa là Triệu Thiên Đống.
    Phượng Thư nói:
    - Đừng có quên nhé. Thôi ta đi làm việc của ta đây.
    Nói xong đi ngay. Giả Dung vội theo sau khẽ cười nói:
    - Thím cần thứ gì, thì xin kê đơn, cháu sẽ mau đủ mang về.
    Phượng Thư cười nói:
    - Thèm vào! Mi định lễ lạt để lấy lòng ta à? Ta không ưa những trò thầm thầm thụt thụt ấy!
    Nói xong cười rồi đi. . .
    Bấy giờ Giả Tường cũng hỏi Giả Liễn, có cần gì sẽ mua về biếu, Giả Liễn cười nói:
    - Cháu đừng hí hởn vội, mới bắt đầu học việc, đã học ngay những trò ấy. Thiếu thứ gì ta sẽ viết giấy báo sau.
    Nói xong, bảo Giả Dung và Giả Tường về.
    Sau đó ba bốn lần có người vào trình việc, Giả Liễn mệt, bảo người canh cửa, hết thảy không được một ai vào trình. Có việc gì chờ đến ngày mai. Phượng Thư thì mãi đến canh ba mới đi ngủ.
    Sáng hôm sau, Giả Liễn trở lên thăm Giả Xá, Giả Chính, rồi sang phủ Ninh họp tất cả những người nhà thạo việc, cùng bọn gia khách đi xem xét khu đất hai phủ, vẽ bản đồ nhà "tỉnh nhân", rồi cắt đặt người nào vào việc nấy. Từ đó, các loại thợ thuyền đến đủ mặt.
    Những đồ vàng, bạc, đồng, thiếc, gỗ lạt, gạch ngói, chuyên chở không ngớt. Trước hết, sai thợ phá hết những nhà cửa, tường vách trong vườn Hội Phương ở phủ Ninh thông thẳng đến nhà lớn phía đông phủ Vinh. Một dãy những phòng của người nhà ở bên đông phủ Vinh cũng phá hết. Nguyên là hai phủ Ninh, Vinh có một cái ngõ nhỏ ngăn đôi. Ngõ này là đất tư, không phải đường công, nhưng vẫn để đi lại . Trong vườn Hội Phương, có một dòng suối từ góc tường phía bắc chảy qua, cũng không phải khơi thêm nữa. Cây cối núi non tuy chưa có mấy, nhưng vì chỗ ở của Giả Xá là vườn cũ của phủ Vinh, nên những núi non, cây cối, đình, tạ, hành lang đều có thể dời đến đấy được cả . Hai nơi gần nhau họp thành một chỗ, có thể đỡ được nhiều sức người và tiền của. Dù có thiếu cũng không tốn kém mấy. Lại nhờ được một nhà nổi tiếng về cách bài trí vườn hoa cây cảnh, núi non bộ là Sơn Tử Giã vẽ đồ bản, trù tính việc khởi công.
    Giả Chính không quen công việc, nhất nhất đều nhờ bọn Giả Xá, Giả Trân, Giả Liễn, Lại Đại, Lại Thăng, Lâm Hiếu,Ngô Tân Đăng, Thiềm Quang, Trình Nhật Hưng trông nom xếp đặt . Nào là đắp núi, đào ao, xây lầu, dựng gác, trồng trúc, vun hoa, còn cách sắp xếp đã có Sơn Tử Giã. Khi tan chầu nhàn rỗi, Giả Chính chỉ đi ngắm nghía các nơi, có việc gì cần thì bàn với Giả Xá. Giả Xá cũng nằm khểnh ở nhà, có việc vặt, thì bọn Giả Trân hoặc đến hỏi, hoặc viết giấy trình, khi muốn bảo ban việc gì thì gọi bọn Giả Liễn, Lại Đại đến truyền lệnh. Giả Dung chuyên coi việc làm đồ vàng bạc, Giả Tường thì đi Cô Tô. Bọn Giả Trân, Lại Đại thì điểm số người, làm danh sách, trông coi thợ thuyền. Công việc nhộn nhịp, tấp nập không thể kể xiết.
    Gần đây Bảo Ngọc vì trong nhà bận việc, Giả Chính không hay hỏi đến việc học, trong bụng rất là thư thái. Không ngờ bệnh Tần Chung càng ngày càng nặng, nên trong lòng áy náy không vui. Một hôm, Bảo Ngọc dậy sớm, rửa mặt xong, định sang xin phép Giả mẫu đi thăm Tần Chung. Chợt thấy Dính Yên ở ngoài cửa thứ hai thập thò dòm vào, Bảo Ngọc vội ra hỏi việc gì Đinh Yên nói:
    - Cậu Tần nguy lắm rồi!
    Bảo Ngọc nghe nói giật mình vội hỏi:
    - Hôm trước ta đến thăm, nó còn tỉnh táo kia mà, sao đã nguy kịch ngay thế ?
    Đinh Yên nói:
    - Con cũng không biết, vừa rồi người nhà cậu ấy đến nói thế !
    Bảo Ngọc nghe xong, quay lại xin phép Giả mẫu. Giả mẫu sai người cẩn thận đi theo và bảo:
    - Đến đấy thăm nom để tỏ tình bạn học, xong phải về ngay, không được ở lâu. Bảo Ngọc vội về thay quần áo. Ra đến ngoài, xe chưa sửa soạn kịp, cứ phải chạy loanh quanh khắp thềm. Giục mãi, xe mới kéo đến, Bảo Ngọc nhảy lên đi ngay. Lý Quí, Đinh Yên đi theo hầu. Khi đến cửa nhà họ Tần, thấy vắng tanh vắng ngắt, chẳng có một ai. Bọn Bảo Ngọc chạy ùa vào nhà trong, làm mấy người thím, chị dâu và các chị em của Tần Chung lẩn tránh không kịp.
    Bấy giờ Tần Chung đã hai ba lần ngất đi. Thay chiếu (*) đã lâu rồi.
    ----------
    (*) Theo tục lệ cũ, người chết rồi thì thay chiếu nằm. Về sau dùng làm danh từ chỉ chung cho người đã chết.
    ------------
    Bảo Ngọc trông thấy, không cầm nổi lòng thương, khóc òa lên. Lý Quí vội khuyên:
    - Cậu đừng khóc. Cậu Tần yếu lắm, sợ nằm trên giường cứng quá, khó chịu, nên vực xuống nằm đó cho thoải mái đấy thôi . Cậu khóc chỉ làm cho cậu ấy ốm thêm.
    Bảo Ngọc nghe nói mới nín, đến gần, thấy Tần Chung mặt trắng bệch như nến, mắt nhắm, thở thoi thóp trên gối.
    Bảo Ngọc vội gọi:
    - Kình Kha ơi ! Bảo Ngọc đến đây. - Gọi luôn hai ba tiếng, Tần Chung vẫn không mở mắt, Bảo Ngọc lại kêu to:
    - Bảo Ngọc đến đây.
    Bấy giờ Tần Chung hồn đang lìa xác, chỉ còn một tí hơi thừa ở ngực. Hắn thấy nhiều quỉ sứ cầm bài mang thừng đến bắt, nhưng khi nào hắn chịu đi ngay. Nghĩ đến nhà không có
    người trông nom, nghĩ đến ba bốn nghìn lạng bạc của cha để lại nghĩ đến Trí Năng hiện bơ vơ không có chỗ nương tựa, hắn phải khẩn khoản van xin bọn quỉ sứ. Nhưng chúng không nghe, quát mắng: "Anh là người đọc sách mà không biết câu: ?oTheo tục lệ cũ, người chết rồi, thì thay chiếu nằm. Diêm Vương bảo canh ba phải chết . Ai dám chờ đến trống canh năm. Chúng ta ở âm phủ đều là những người mặt sắt, không thiên tư gì , không như ở dương gian, nể nang tình vị, làm lỡ cả việc?.
    Đương lúc ồn ào, hồn phách Tần Chung chợt nghe thấy bốn tiếng "Bảo Ngọc đến đây", lại vội van nài:
    - Xin các vị từ bi một chút, cho tôi trở về nói rốt một lời với người bạn thân rồi xin đi ngay.
    Quỉ sứ nói:
    - Lại còn bạn thân nào?
    Tần Chung nói:
    - Không dám nói dối các vị, người ấy là cháu Vinh quốc công, tên gọi Bảo Ngọc.
    Phán quan nghe nới sợ hãi, vội vàng đứng lên mắng lũ quỉ sứ:
    - Ta đã bảo các ngươi lôi nó đi ngay, các người không nghe lời, để có người vận đỏ đến quấy rối, thì làm thế nào bây giờ ?
    Lũ quỉ sứ nghe phán quan nói thế, sợ quá, chân tay luống cuống một mặt lại hậm hực:
    - Trước kia ngài quát tháo ầm lên như sấm ran, sét nổ, là vì chưa nghe thấy hai chữ "Bảo Ngọc". Theo ý chúng tôi, nó ở dương gian, ta ở âm phủ, cần gì phải sợ nó.
    Phán quan lại càng tức giận, gắt ầm lên:
    - Đồ chó? Tục ngữ có câu: ?oQuan thiên hạ trị dân thiên hạ!?
    Xưa nay người với quỷ là một, âm dương không hai. Mặc dầu anh ta ở âm hay ở dương, cũng phải kính trọng, không được sai trái . Lũ quỷ nghe vậy, đành phải tha hồn Tần Chung về. Hữ một tiếng, hai mắt hé mở, thấy Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, Tần Chung gắng gượng thở dài:
    - Sao anh không lại sớm? Chậm chút nữa em sẽ không được gặp .
    Bảo Ngọc cầm tay Tần Chung, nước mắt giàn giụa:
    - Có dặn lại câu gì không ?
    Tần Chung nói:
    - Không có gì đáng dặn cả. Trước đây anh em ta cứ tưởng cao quý hơn đời, nay mới biết là sai. Sau này anh nên quyết chí công danh làm rạng rỡ ông cha mới đúng.
    Nói xong thở dài một tiếng, lặng lẽ qua đời.
    (hết hồi mười sáu)
  2. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Hồi thứ mười bảy và mười tám
    Đề câu đối trong vườn Đại Quan, thử tài Bảo Ngọc
    Về thăm nhà ở phủ Vinh Quốc, gặp tiết nguyên tiêu
    Giàu sang là đáng thích,
    Ly biệt lại khôn khuây.
    Tiếng hão dành mua được,
    Ai hay nỗi đắng cay.

    Tần Chung chết rồi, Bảo Ngọc khóc lóc mãi, bọn Lý Quí phải khuyên giải, khi về nhà hãy còn ngậm ngùi thương xót.
    Giả mẫu đã gửi giúp mấy chục lạng bạc, lại sắm sửa lễ vật để Bảo Ngọc đến viếng. Sau bảy ngày chốn cất xong, Bảo Ngọc nhớ tiếc, nhưng chẳng làm thế nào, và cũng chẳng biết bao giờ mới nguôi được.
    Một hôm, Giả Trân đến trình Giả Chính:
    - Công việc sửa sang trong vườn đã xong, ông Cả đã đến xem, chỉ chờ ông đến xem có chỗ nào chưa ổn thì sửa sang lại, và cần phải đề biển, câu đối.
    Giả Chính nghĩ một lúc, rồi nói:
    - Đề biển và câu đối là một việc khó, cứ nhẽ ra thì xin Quý phi mới phải. Nhưng người chưa trông thấy thì cũng khó nghĩ phỏng ra được. Nếu chờ khi người đến, thì bao nhiêu cảnh trí, bao nhiêu lâu đài, lại không có một chữ đề vào, mặc dù cây hoa non nước có đẹp đẽ dường nào, cũng kém phần sinh sắc .
    Bọn gia khách đứng bên cạnh nói:
    - Ngài nghĩ rất phải. Cứ ý chúng tôi thì biển và câu đối không thể thiếu, nhưng cũng không thể đặt tên trước được.
    Bây giờ tùy theo từng cảnh mà đề hai, ba, bốn chữ gì na ná cho hợp rồi làm bằng đèn ***g treo tạm lên đã, chờ khi Quý phi đi du ngoạn, sẽ xin người đặt tên, như thế có tiện không.
    Giả Chính nói:
    - Nghĩ thế đúng đấy. Bây giờ chúng ta hãy đi xem các nơi, rồi cứ đề đi, nếu ổn thì dùng, không ổn thì nhờ ông Vũ Thôn đến sửa lại.
    Mọi người cười nói: .
    - Hôm nay ngài nghĩ chắc là hay, cần gì phải đợi ông Vũ Thôn.
    Giả Chính cười nói:
    - Các ông không biết, tôi từ bé đến giờ, về việc vịnh chim hoa non nước, cũng thường thôi. Bây giờ có tuổi, lại bận việc văn án nhiều, nên thú ngâm vịnh lại càng xao nhãng. Dù có nghĩ ra thì cũng quê mùa, lại làm cho vườn hoa cây cảnh kém phần xinh đẹp, chẳng còn thú gì!
    Bọn gia khách nói:
    - Cái đó không ngại, chúng tôi cùng nghĩ, ai nấy đều theo sở trường của mình, hay thì để, dở thì bỏ, cũng chẳng hề gì.
    Giả Chính nói:
    - Như thế phải đấy. Hôm nay khí trời ấm áp , chúng ta đi chơi một lượt.
    Nói rồi đứng dậy dẫn mọi người đi. Giả Trân đi trước, báo cho mọi người biết.
    Bảo Ngọc hồi này vì nhớ Tần Chung, lòng thương xót mãi. Thấy vậy Giả mẫu thường sai người dẫn đến vườn mới dạo cảnh cho khuây. Một hôm, vừa vào đến vườn, chợt gặp Giả Trân. Giả Trân cười bảo:
    -Sao chú không tránh đi chỗ khác, chốc nữa ông đến đấy.
    Bảo Ngọc nghe nói, dẫn ngay lũ hầu, chạy vút ra khỏi vườn . Vừa đi đến quãng đường vòng, thì gặp ngay Giả Chính dẫn các gia khách đến. Bảo Ngọc tránh không kịp, đành phải đứng về một bên.
    Gần đây Giả Chính thường nghe Đại Nho khen Bảo Ngọc làm câu đối khá; tuy không thích học, nhưng có tài vặt. Vì thế Giả Chính bảo Bảo Ngọc đi theo vào trong vườn, ý muốn thử tài xem sao. Bảo Ngọc chưa biết ý định của bố, đành phải đi theo. Vừa đến cửa vườn, đã thấy Giả Trân dẫn các người chấp sự đứng hầu một bên. Giả Chính bảo:
    - Cháu hãy cho đóng cửa vườn lại, để chúng ta xem bên ngoài đã, rồi sẽ vào sau.
    Giả Trân sai người đóng cửa lại.
    Giả Chính trước hết đứng ngắm nghía năm gian cửa chính, nóc nhà cong, lợp ngói ống, cánh cửa và bực cửa đều chạm trổ theo kiểu mới, không sơn vẽ hoa hòe; một dãy tường quét vôi trắng xóa, dưới thềm lát đá trắng thành hình hoa sen.
    Nhìn hai bên tường trắng như tuyết, dưới xây đá có vân như da hổ, không lòe loẹt như lối nhà giàu thô tục. Giả Chính lấy làm thích, bảo mở cửa đi vào. Thoạt nhìn, một dãy núi xanh chắn ngay trước mặt. Các gia khách đều nói:
    - Núi đẹp thật!
    Giả Chính nói:
    - Nếu không có núi này, thì khi vào sẽ trông thấy hết cả các cảnh đẹp ở trong vườn, còn thú gì nữa?
    Mọi người nói:
    - Rất đúng. Nếu ngài không có kiến thức rộng rãi thì làm sao nghĩ được như thế!
    Đi vào tận nơi, thấy đá trắng chồng chất, hoặc như hình quỷ quái hoặc như hình thú dữ, ngang dọc đứng chầu nhau, bên trên, rêu xanh lấm tấm, cây leo chỗ thưa, chỗ nhặt, ở giữa hiện lên một con đường nhỏ quanh co. Giả Chính nói:
    - Chúng ta vào con đường này chơi, rồi ra đường bên kia, thế mới nhìn khắp được.
    Rồi bảo Giả Trân dẫn đường, còn mình thì dắt Bảo Ngọc đi quanh lên núi. Ngẩng lên trông thấy phía trước có một tảng đá mặt nhẵn như gương, chính là chỗ đáng để đề thơ.
    Giả Chính quay lại hỏi:
    - Các ông xem chỗ này nên đề thế nào cho hay?
    Có người xin đề hai chữ "Điệp thúy" (1), có người xin đề: ?oCẩm chướng"](2), có người xin đề : "Trại Hương Lô? (3). Lại có người xin đề: ?otiểu Chung Nam? (4). Tất cả hàng mấy chục tên.
    ------------------------------------
    (1): Màu xanh của núi và cây chồng chất
    (2): Núi gấm
    (3): Đời Hán có một người thợ khéo làm lư hương hình quả núi gọi là Bắc Sơn Hương Lô. Ở đây ý nói quả núi đẹp như Bắc Sơn Hương Lô.
    (4): Chung Nam nhỏ. Chung Nam là một ngọn núi phong cảnh rất đẹp ở nam Thiểm Tây, đông Hà Nam, tây Cam Túc.
    ------------------------------------
    Mọi người biết Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, cho nên đều nghĩ mấy chữ sáo mép cho qua. Bảo Ngọc cũng biết ý ấy.
    Giả Chính nghe xong, ngoảnh lại hỏi Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:
    - Cổ nhân có câu: "Mới không bằng cũ, cổ vẫn hơn kim". Nơi này không phải là nơi chính, chẳng qua là bước đầu vào vườn ngắm cảnh, chưa thể đề gì được. Sao bằng dùng ngay mấy chữ cũ: "Khúc kín thông u?(5) mới có nghĩa bao quát và hàm súc.
    ------------------------------------
    (5): Con đường nhỏ quanh co đưa đến chỗ thắng cảnh.
    ------------------------------------
    Mọi người khen: .
    - Phải lắm ! Hay lắm ! Cậu Hai thông minh, tài tình, không như chúng tôi là hạng mọt sách.
    Giả Chính cười nói:
    - Không nên khen nó quá, nó còn bé, chẳng qua nghĩa mười hiểu một, góp làm trò cười đấy thôi, để sau bàn lại.
    Mọi người lại đi vào hang đá, thấy cây đẹp xanh um, hoa lá rực rỡ, một dòng nước trong từ chỗ cây cối đằng xa chảy xuống khe đá. Đi mấy bước nữa, rẽ sang phía bắc, có một chỗ rộng phẳng, hai bên có lầu cao vút, nóc vẽ, cột sơn, ẩn núp dưới sườn núi ngọn cây. Cúi xuống nhìn thì thấy dòng trong chảy ngọc, bực đá xuyên mây, lan can đá trắng, bao lượn quanh hồ.
    Đầu cầu đá ba nhịp con thú giả trông như khi ngậm vào, khi nhả ra. Trên cầu có cái đình.
    Giả Chính cùng mọi người vào ngồi trong đình, hỏi:
    - Theo ý các ông nên đề chữ gì ở đây?
    Mọi người đều nói:
    - Ngày trước trong bài ký "Túy Ông Đình" của Âu Dương Tu(6) có câu ?ohữu đình dực nhiên? vậy nên đặt là "Dực nhiên? (7).
    ------------------------------------
    (6): Âu Dương Tu tự là Vĩnh Thúc, hiệu là Túy Ông, một nhà văn nổi tiếng đời Tống có hai bài ký Túy Ông Đình. Nay ở Từ Huyện, tỉnh An Huy còn di tích cái đình này.
    (7): Quang đãng, sáng sủa.
    -------------------------------------
    Giả Chính nói:
    - "Dực nhiên" hay thật, nhưng đình này ở trên mặt nước, cũng nên nói đến nước mới phải. Cứ ý tôi nghĩ, Âu Dương Tu có câu ?oTả ư lưỡng phong chi gian?(8), vậy nên dùng chữ "tả" mới được.
    -------------------------------------
    (8): Suối chảy qua giữa khe hai quả núi.
    -------------------------------------
    Có một người khách nói:
    - Phải lắm! Thế thì nên dùng hai chữ ?oTả ngọc?(9) là hay.
    -------------------------------------
    (9): Nước chảy ra từ ngọc
    -------------------------------------
    Giả Chính vuốt râu ngẫm nghĩ, rồi sai Bảo Ngọc cũng thử nghĩ xem.
    Bảo Ngọc nói:
    - Cha vừa dạy rất phải, nhưng xét cho kỹ, có lẽ ngày trước Âu Dương Tu dùng chữ "tả" đề vào "Nhưỡng tuyền"(10) thì đúng, bây giờ dùng chữ "tả? ở đây hình như chưa ổn. Huống chi đây là biệt thự "tỉnh thân", cũng nên theo như thể văn ứng chế, nếu dùng chữ "tả ngọc", con sợ thô lậu không nhã. Xin đề thế nào cho có nghĩa sâu xa hơn.
    -------------------------------------
    (10): Nước suối ngon có thể dùng để nấu rượu.
    -------------------------------------
    Giả Chính cười nói:
    - Các ông nghe nó nói thế nào? Vừa rồi mọi người đặt chữ mới, thì mày bảo không bằng dùng chữ cũ; bây giờ dùng chữ cũ, mày lại bảo là không ổn! Thế mày định dùng chữ gì?
    Bảo Ngọc thưa:
    - Dùng hai chữ "Tả ngọc? , sao bằng dùng hai chữ "Thấm phương?(11) chẳng mới và lịch sự hay sao?
    -------------------------------------
    (11): Nước đượm mùi thơm.
    -------------------------------------
    Giả Chính vuốt râu, gật đầu không nói gì. Mọi người chìu ý ngay, khen Bảo Ngọc tài tình khác thường. Giả Chính nói:
    - Đề hai chữ trên biển cũng dễ, thử làm đôi câu đối bảy chữ xem sao.
    Bảo Ngọc nhìn quanh một lượt, nghĩ ngay ra, bèn đọc:
    Quanh bờ vẻ biếc ba hàng liễu
    Cách bến mùi thơm một dãy hoa.

    Giả Chính nghe xong gật đầu mỉm cười. Mọi người lại khen ngợi một hồi. Ra khỏi đình, sang qua ao, từ một ngọn núi, một hòn đá, một bông hoa, một gốc cây chỗ nào họ cũng để ý ngắm nghía. Chợt ngẩng đầu lên thấy trước mặt một dãy tường trắng, mấy ngôi nhà con xinh xắn, thấp thoáng trong đám hàng nghìn khóm trúc xanh. Mọi người đều nói: "Chỗ này nhã thật!?. Rồi cùng đi vào. Bước vào cửa là một dãy hành lang quanh co. Nước đượm mùi thơm.Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ, cửa khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía trong có cửa con đi ra sân sau. Có mấy cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau, lại có vài gian nhà nhỏ . Chân tường có một dòng suối rộng chừng một thước quanh co theo thềm đến dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc róc rách chảy ra.
    Giả Chính cười nói:
    - Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới cửa sổ đọc sách, cũng không uổng một đời.
    Nói rồi nhìn Bảo Ngọc, Bảo Ngọc sợ quá cúi đầu xuống.
    Mọi người vội vàng nói lảng sang chuyện khác. Có hai người nói:
    - Chỗ này nên đề một cái biển bốn chữ.
    Giả Chính cười hỏi:
    - Bốn chữ gì?
    Một người đọc:
    - ?oKỳ thủy di phong?(12).
    -------------------------------------
    (12): Điển tích trong Kinh Thi: Phong nhã của Bến Kỳ còn sót lại.
    -------------------------------------
    Giả Chính nói:
    - Quê lắm.
    Lại một người đọc:
    - Thư viên nhã tích(13).
    -------------------------------------
    (13): Di tích của vườn Thư
    -------------------------------------
    Giả Chính nói:
    - Cũng quê.
    Giả Trân đứng bên cạnh nói:
    - Lại đến chú Bảo nghĩ thôi.
    Giả Chính nói:
    - Nó là đồ khinh bạc, chưa làm nổi đã khen chê người khác.
    Mọi người nói:
    - Khen chê đúng thì làm thế nào được.
    Giả Chính vội nói:
    - Thôi! Đừng nuông nó thế.
    Rồi bảo:
    - Hôm nay cho mày muốn nói gì thì nói, phải bàn cãi ra lẽ đã rồi mới cho mày làm. Những câu đề vừa rồi, có câu nào được không?
    Bảo Ngọc nói: .
    - Hình như đều không được cả.
    Giả Chính cười nhạt:
    - Làm sao mà không được?
    Bảo Ngọc nói:
    - Đây là nơi ra chơi đầu tiên của Quý phi, nên có những lời chúc tụng mới phải. Nếu muốn dùng bốn chữ đề biển thì có sẵn của cổ nhân rồi, cần gì phải làm nữa.
    Giả Chính nói:
    - "Kỳ thủy" và ?othư viên" không phải là chữ của cổ nhân hay sao?
    Bảo Ngọc thưa:
    - Mấy chữ ấy cũ lắm, sao bằng đề: ?oHữu phượng lai nghi?(14) còn hơn.
    -------------------------------------
    (14): Có chim phượng đến múa, ý nói điềm lành trong cảnh thái bình.
    -------------------------------------
    Mọi người nhao lên khen hay. Giả Chính gật đầu nói:
    - Thằng ngu! Thực là đồ lấy ống dòm trời, lấy bầu đong biển.
    Lại bảo:
    - Phải đề một câu đối nữa.
    Bảo Ngọc lại đọc.
    Bên cửa cờ tan tay vẫn mát,
    Trong lò trà cạn khói còn thơm.

    Giả Chính lắc đầu:
    - Chưa lấy gì làm hay.
    Nói xong, dắt mọi người đi ra. Lúc sắp đi, chợt nghĩ việc gì, Giả Chính hỏi Giả Trân:
    - Chỗ này nhà cửa, bàn ghế có đủ, nhưng màn, rèm và các đồ trần thiết đã xếp đặt đâu vào đấy chưa?
    Giả Trân thưa:
    - Những đồ trần thiết phải sắm thêm nhiều, đến ngày ấy sẽ đâu có đấy . Các thứ màn, rèm, hôm nọ chú Liễn nói còn thiếu vì lúc mới khởi công, đã vẽ đồ bản theo đúng kích thước và sai người đi thửa, hôm qua chắc đã làm được một nửa.
    Giả Chính nghe nói, biết việc này không phải của Giả Trân, liền cho đi gọi Giả Liễn. Một lúc, Giả Liễn đến. Giả Chính hỏi:
    - Tất cả bao nhiêu thứ ? Đã được bao nhiêu rồi? Còn thiếu bao nhiêu nữa?
    Giả Liễn nghe hỏi, vội vàng rút quyển sổ ở trong ống giày ra xem, rồi trình: .
    - Các thứ đoạn thêu rồng, thêu hoa, các thứ hoa lụa chỉ điều chỉ viền, các thứ màn che lớn nhỏ cộng một trăm hai mươi chiếc, hôm nọ đã được tám mươi chiếc, còn thiếu bốn mươi chiếc. Rèm hai trăm chiếc, sắm đủ rồi. Ngoài ra còn rèm da hai trăm chiếc, rèm trúc sơn đỏ tết chỉ vàng một trăm chiếc, rèm trúc sơn đen hai trăm chiếc, rèm thêu hoa năm màu hai trăm chiếc, mỗi thứ đã được một nửa, đến mùa thu thì đủ cả. Gối tựa, khăn bàn, quần giường, đệm ghế, mỗi thứ một nghìn hai trăm chiếc, đã đủ cả rồi.
    Mọi người vừa nói chuyện vừa đi, đã đến một ngọn núi xanh chênh chếch. Đi vào trong núi, thấp thoáng có một bức tường thấp, đất vàng, trên tường có rơm che, có mấy trăm cây hoa hạnh, trông như lửa phun, ráng phủ. Mặt trong có mấy gian nhà tranh, mặt ngoài có những cây dâu, dâm bụt và găng mơn mởn tốt tươi theo nhau chỗ nhô ra, chỗ lượn vào, đan thành hai hàng rào xanh. Dưới chân núi, ngoài hàng rào có cái giếng khơi, bên cạnh có gầu và trục kéo nước; mé dưới có mảnh rộng phẳng lì, có luống rau tươi tốt, trông bát ngát mênh mông.
    Giả Chính nói:
    - Chỗ này thế mà có ý nghĩa lắm. Tuy tự tay người ta bày đặt ra, nhưng nhìn đến ai cũng phải cảm xúc, khêu gợi lòng ta muốn về hưởng thú điền viên. Chúng ta hãy vào đấy nghỉ ngơi xem.
    Nói xong đang định đi vào, chợt thấy bên ngoài hàng giậu có một hòn đá, cũng là chỗ đáng đề thơ. Mọi người cười nói:
    - Đẹp lắm! Đẹp lắm! Chỗ này mà treo biển đề chữ, thì hết hẳn phong vị nhà quê . Dựng một cái bia ở đây lại càng thêm vẻ đẹp . Nếu không có bài thơ ?oĐiền gia" của ông Phạm Thạch Hồ(15) thì không tả hết được cái đẹp của nó.
    -----------------------
    (15): Phạm Thành Đại, hiệu Thạch Hồ cư sĩ, một nhà văn nổi tiếng đời Nam Tống Cao Tông, có làm bài thơ tả phong vị nhà làm ruộng.
    -----------------------
    Được letdown sửa chữa / chuyển vào 02:49 ngày 02/03/2006
  3. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Giả Chính nói:
    Xin các ông đề cho.
    Mọi người nói:
    - Vừa rồi cậu Bảo nói làm mới không bằng theo cũ, cổ nhân đã nói nhiều rồi, chi bằng đề ngay ?oHạnh Hoa thôn" là hay.
    Giả Chính nghe nói, cười bảo Giả Trân:
    - Nhờ có câu ấy, ta lại nghĩ ra một điều. Chỗ này đẹp cả, chỉ thiếu một cái kỳ bài bán rượn thôi. Ngày mai làm cho ta một cái, mặt ngoài cứ theo lối nhà quê, không cần trang hoàng, lấy một con sào treo kỳ bài vào đó rồi buộc lên ngọn cây là được.
    Giả Trân vâng lời, lại thưa:
    -Chỗ này không cần nuôi các loài chim đẹp biết hót, chỉ nuôi ngỗng, vịt, gà... thì mới đúng.
    Mọi người đều nói:
    -Đúng đấy!
    Giả Chính lại nói:
    -"Hạnh Hoa thôn" hay thực, nhưng hiềm vi phạm vào chính tên thôn của người ta, đợi xin quý phi đặt tên mới phải.
    Mọi người nói:
    - Phải đấy, nhưng bỏ trống không tiện, cũng nên dùng chữ gì?
    Mọi người đương nghĩ, Bảo Ngọc sốt ruột, không chờ Giả Chính bảo, nói ngay:
    -Thơ cũ có câu "Hồng hạnh sao đầu quải tửu kỳ?(16).
    Nay xin đề bốn chữ: ?oHạnh liêm tại vọng?(17) là hơn.
    -------------------------------
    (16) Trên ngọn cây mận treo kỳ bài bán rượu
    (17) Cờ bán rượu trên cây hạnh trước mặt
    -------------------------------
    Mọi người đều nói:
    - Hai chữ ?otại vọng" hay lắm, lại ngụ ý "Hạnh hoa thôn".
    Bảo Ngọc cười nhạt:
    - Tên thôn mà dùng hai chữ "Hạnh hoa" thì quê lắm. Thơ Đường có câu: ?osài môn lâm thủy đạo hoa hương?(18). Sao không dùng ba chữ "Đạo Hương thôn" có hay không?
    -------------------------------
    (18) Cửa tre dòm xuống nước, mùi lúa thơm ngào ngạt
    -------------------------------
    Mọi người đều vỗ tay khen. Giả Chính quát to:
    - Thằng súc sinh ngu ngốc kia, mày biết được mấy vị cổ nhân, nhớ được mấy bài thơ cũ, đã dám múa mép trước các vị tiền bối? Vừa rồi cho phép mày nói bừa, chẳng qua ta thử xem mày hay dở thế nào, để làm trò cười đấy thôi. Mày cứ tưởng thực đấy à?
    Nói xong, dẫn mọi người vào trong nhà tranh. Ở đây, cửa sổ dán giấy, giường gỗ đơn sơ, không có gì là hào hoa phú quý cả.
    Giả Chính trong lòng rất sung sướng, lại nhìn Bảo Ngọc nói:
    - Chỗ này thế nào?
    Mọi người thấy hỏi, đều khẽ đẩy Bảo Ngọc, xui Bảo Ngọc nói là đẹp. Bảo Ngọc không nghe, nói ngay:
    - Xem ra chỗ này kém xa "Hữu phượng lai nghi?.
    Giả Chính nói:
    - Hứ! Đồ ngu xuẩn! Chả biết gì. Mày chỉ thích lầu son gác tía đẹp đẽ một cách thô tục, biết đâu được cái cảnh u nhã này.
    Rút lại chỉ vì lỗi tại mày không chịu đọc sách thôi.
    Bảo Ngọc đáp:
    - Cha dạy đành là phải, nhưng cổ nhân có nói hai chữ "thiên nhiên", con không hiểu ý ra làm sao?
    Ai nấy thấy Bảo Ngọc bướng bỉnh, sợ sẽ bị mắng; nay thấy hắn hỏi nghĩa hai chữ "thiên nhiên" đều vội nói:
    - Cái gì cậu cũng hiểu cả, sao lại còn phải hỏi hai chữ "thiên nhiên". "Thiên nhiên" nghĩa là tự nhiên thiên thành, không phải sức người làm được.
    Bảo Ngọc nói:
    - Thế thì chỗ này đặt thành trang trại, rõ ràng là do người bày đặt ra. Xa thì không có hàng xóm, gần thì không có thành quách, dựa vào núi thì không có mạch, trông ra nước thì không có nguồn, chỗ cao thì không có tháp nhà chùa, chỗ thấp thì không có cầu ra chợ, trơ trọi đứng một mình, không phải là nơi bao la rộng rãi. Sao bằng mấy nơi trước có vẻ tự nhiên hơn. Tuy có giồng trúc, khơi suối cũng hơi xuyên tạc, nhưng không hại gì . Cổ nhân có bốn chữ ?obức tranh thiên nhiên?, sợ chỗ này không đáng có thôn trang, và sơn thủy, mà gượng bày đặt ra, dù khéo léo đến đâu cũng vẫn không hợp.
    Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính nổi giận thét lên:
    - Thôi, bước ngay!
    Bảo Ngọc vừa đi ra, Giả Chính lại thét: "Hãy quay lại, làm thêm câu đối nữa, nếu không làm được thì ta sẽ vả vào mồm".
    Bảo Ngọc đành phải đọc:
    Giặt vải xanh tươi nguồn dưới bến;
    Hái rau thơm đượm khách trong mây.

    Giả Chính nghe xong, lắc đầu nói:
    - Cũng chẳng ra gì!
    Rồi dắt mọi người đi ra, đi quanh sườn núi, khi trong hoa, khi dưới liễu, khi trên núi, khi bên sông, đến rặng đồ mi, vào giàn mộc hương, lên đình mẫu đơn, qua vườn thược dược, tới viện tường vi, tựa vào khóm ba tiêu, ngang dọc, quanh co; chợt nghe thấy tiếng nước ở trong hang đá róc rách chảy ra, trên thì dây leo lòng thòng rũ xuống, dưới thì hoa rụng rập rờn trôi quanh. Mọi người đều nói: "Đẹp lắm!"
    Giả Chính hỏi:
    - Các ông định đề chữ gì?
    Mọi người nói:
    - Không cần phải nghĩ nữa, cứ viết ba chữ ?oVũ lăng nguyên?(19) là được rồi.
    -----------------------------
    (19): Theo bài ký "Nguồn đào" (Đào Nguyên) của Đào Tiềm đời Tấn.
    -----------------------------
    Giả Chính cười nói: .
    - Cũ lắm! Lại không đúng sự thực.
    Mọi người cười:
    - Không thì đề bốn chữ ?oTần nhân cựu xá?(20) cũng được.
    -----------------------------
    (20): Nhà cũ của người đời Tần, tức là người đời Tần vào tránh loạn ở trong Đào Nguyên.
    -----------------------------
    Bảo Ngọc nói:
    - Lại càng hỏng nữa. "Tần nhân cựu xá" có ý là tránh loạn, dùng thế nào được? Chi bằng dùng bốn chữ ?oLiễu đình hoa tự"(21) thì là hơn.
    -----------------------------
    (21): Bờ cỏ liễu bên hoa (cỏ liễu là loại cỏ thơm mọc dưới nước)
    -----------------------------
    Giả Chính nói:
    - Cũng lại nhảm nữa! .
    Giả Chính đi vào trong hang, hỏi Giả Trân:
    - Có thuyền không?
    Giả Trân nói:
    - Có bốn thuyền hái hoa sen, một thuyền ngồi chơi , nhưng bây giờ chưa làm xong.
    Giả Chính cười nói:
    - Tiếc rằng không vào được.
    Giả Trân nói:
    - Đi quanh lên núi, sẽ đến nơi.
    Nói rồi đi trước dẫn đường. Mọi người níu dây vịn cây đi lên, thấy mặt nước hoa rụng man mác, dòng suối trong vắt rập rờn quanh co; hai hàng liễu rủ bên bờ, những cây đào, cây mận, mọc chen nhau che rợp cả bóng mặt trời. Khắp nơi, không có một chút đất bụi. Trong rặng liễu nhô ra một nhịp cầu, lan can sơn đỏ . Qua cầu, đường thông các ngả; xa xa, có một tòa nhà ngói mát mẻ và một dãy tường hoa. Ở đây mạch núi chính đều xuyên qua tường chia đi các ngả.
    Giả Chính nói:
    - Tòa nhà này ở đây chẳng có nghĩa lý gì!
    Rồi bước vào cửa. Chợt thấy mặt trước có một quả núi đá lấp lánh cao ngất trời, xung quanh bao bọc bằng các thứ đá đủ các màu, che kín hẳn những nhà cửa bên trong. Ở đây, không có một gốc cây, toàn những cỏ lạ hoặc leo lên núi, hoặc bò ra đất hoặc từ trên núi rủ xuống, hoặc luồn qua khe đá chui ra; lại có những dây từ mái nhà bò xuống, leo quanh cột chằng chịt cả bờ hè, như vải xanh phất phơ, như sợi vàng uốn khúc, quả đỏ hoa vàng, hương thơm ngào ngạt, không một thứ hoa nào có thể bì được.
    Giả Chính nói:
    - Thú quá! Chỉ hiềm không biết là những loại cỏ gì?
    Có người nói là:
    - ?oTiết lệ đằng la?.
    Giả Chính nói: .
    - ?oTiết lệ đằng la? làm gì có hương thơm lạ này?
    Bảo Ngọc nói:
    - Thực không phải. Trong loại cỏ này cũng có "tiết lệ đằng la", nhưng hương thơm là của "đỗ nhược hành vu?. Còn cái giống này, hình như đây là cỏ "chi lan", kia là cỏ "thanh cát", đây là "kim đăng?, kia là "ngọc lộ", thứ đỏ kia là "tử vân", thứ xanh này là "thanh chi". Nhớ đến những cỏ lạ đã nói ở trong "Ly tao văn tuyển" (văn của Khôi Nguyện), nào là "hoắc nạp", "khương vượng", nào là "luân tổ", "tử giáng"; lại còn có cỏ thạch phàm, thủy tùng, phù lưu; cũng có những cỏ lục di, đan tiêu, mi vu, phong liên... Nay đã lâu năm, người đời không thể nhớ lại được, nên cứ trông hình dạng mà đặt tên; dần dần gọi sai đi, có lẽ thế đấy ...
    Bảo Ngọc nói chưa dứt lời, Giả Chính thét lên:
    - Ai hỏi đến mày?
    Bảo Ngọc sợ hãi lùi xuống, không dám nói nữa.
    Giả Chính thấy hai bên hành lang có tay vịn, nhân tiện đi vào . Trước mặt, năm gian nhà mát mẻ, giàn hoa dựng lên, bốn mặt hành lang cửa sổ sơn xanh vách bóng, trông rất thanh nhã . Giả Chính thở dài:
    - Ở đây mà pha trà, đánh đàn, thì chẳng cần phải đốt trầm nữa. Không ngờ lại có chỗ này, các ông chắc phải có những câu hay đề ở đây cho khỏi phụ cảnh đẹp.
    Mọi người cười nói:
    - Sao bằng đề bốn chữ "Lan phong huệ lộ?(22) là thiết thực hơn.
    -------------------------------
    (22) Gió hoa lan, sương hoa huệ.
    -------------------------------
    Giả Chính nói:
    - Thế mới được bốn chữ thôi, còn câu đối?
    Một người nói:
    - Tôi nghĩ được một câu, xin các vị chưa cho. Nói rồi đọc:
    Đỗ nhạc ngạt ngào châu minh nguyệt,
    Xạ lan sực nức viện tà dương.

    Mọi người nói:
    - Hay thì hay thực, chỉ có hai chữ "tà dương" chưa ổn.
    Người ấy nói:
    - Cổ thi có câu ?oMi vu mãn viện khấp tà dương?(23).
    -------------------------------
    (23) Hoa cỏ đầy sân khóc bóng chiều
    -------------------------------
    Mọi người nói:
    -Buồn lắm! Buồn lắm!
    Lại có một người nói:
    - Tôi cũng có một câu, xin các vị chữa cho. Nói xong đọc:
    Ba ngõ gió đưa hương ngọc huệ;
    Một sân giăng rọi bóng kim lan.

    Giả Chính vuốt râu, ngẫm nghĩ, cũng muốn để một câu.
    Chợt trông thấy Bảo Ngọc đứng yên bên cạnh, mới thét:
    - Sao lúc đáng nói mày không nói, định để người ta mời mày hay sao?
    Bảo Ngọc thưa:
    - Chỗ này làm gì có "lan xạ?, "minh nguyệt" và chơi chữ , nếu cứ kể ra cho hết, thì đề đến hai trăm câu cũng không đủ .
    Giả Chính nói:
    - Ai gõ đầu mầy bắt phải nói những chữ ấy?
    Bảo Ngọc thưa:
    - Đã thế thì cái biển nên đề bốn chữ: "Hành chỉ thanh phân?, câu đối thì đề:
    Ngâm câu đậu khấu, thơ càng đẹp,
    Sao giấc đồ mi, mộng vẫn thơm.

    Giả Chính cười nói:
    - Mày lại ăn cắp cái câu ?oThư thành tiễu diệp văn áo lục?(25), lấy gì làm lạ.
    ----------------------------------------
    (25) Viết lên lá chuối chữ còn xanh
    ----------------------------------------
    Mọi người nói:
    - Bài ?oPhượng Hoàng đài? của ông Lý Thái Bạch cũng ăn cắp bài ?oHoàng Lạc lâu", chỉ cốt ăn cắp khéo là được. Bây giờ cứ nghĩ kỹ ra thì câu của cậu còn nhã và mạnh hơn câu ?othư thành tiêu diệp? nhiều, khéo câu "Thư thành..." lại ăn cắp ở câu này cũng nên.
    Giả Chính cười nói:
    - Có nhẽ nào thế.
    Mọi người đi ra, không mấy chốc đã thấy gác tía nguy nga, lầu son cao ngất, nhà cửa san sát, đường đi quanh co.
    Tùng xanh chạm mái, ngọc lan quanh thềm; mặt thú, đầu ly, sơn vàng sáng nhoáng. Giả Chính nói:
    - Đây là điện chính, xa hoa quá?
    Mọi người đều nói:
    - Thế mới hợp thể, tuy rằng quý phi thích tiết kiệm thực, nhưng bây giờ đã tôn quý rồi, lễ nghi như thế, chẳng lấy gì làm quá .
    Vừa nói vừa đi, thấy mặt trước có một cái cổng chào xây bằng ngọc thạch, phía trên long cuốn ly vờn, chạm trổ rất khéo.
    Giả Chính nói:
    - Chỗ này đề chữ gì được?
    Mọi người nói:
    - Nên đề "Bồng lai tiên cảnh".
    Giả Chính lắc đầu không nói gì.
    Bảo Ngọc trông thấy chỗ này, lòng tự nhiên xúc động, hình như mình đã được thấy ở đâu rồi, nhưng không nhớ ngày tháng năm nào (26)
    ----------------------
    (26) Chỗ này ý nói Bảo Ngọc nhớ lại giấc mộng đã nói ở hồi 5.
    ----------------------
    Giả Chính lại bảo đề, Bảo Ngọc đương ngẫm nghĩ cảnh trước, không để bụng đến việc này. Mọi người không biết ý, cho là Bảo Ngọc bị quở mắng, từ bấy đến giờ tinh thần rối loạn, lẩn quẩn nghĩ không ra; nếu giục, sợ xảy ra sự gì thì không tiện bèn nói với Giả Chính.
    - Thôi! Xin để ngày mai sẽ đề.
    Giả Chính cũng sợ Giả mẫu không yên lòng, cười nhạt:
    - Thằng súc sinh, mày đã đến lúc hết khoe giỏi rồi! Thôi ta hạn cho mày, đến ngày mai, nếu không đề được, ta nhất định không tha đâu. Chỗ này quan hệ nhất, phải làm cho hay mới được!
    Nói xong, dẫn mọi người đi xem chỗ khác. Kể từ khi vào cửa vườn đến giờ, mười phần mới đi ngắm được năm sáu. Lúc này, có người vào báo: "Có ông Vũ Thôn sai người đến trình việc.? Giả Chính cười nói:
    - Còn vài chỗ chưa đến được, chúng ta hãy theo đường này đi ra, thì dù chưa biết hết cũng có thể xem qua loa.
    Liền dẫn mọi người đến một cái cầu lớn, thấy nước như rèm thủy tinh dội vào, thì ra cái cầu này là cửa đập thông ra ngoài sông, khơi thành suối để dẫn nước vào.
    Giả Chính hỏi:
    - Đặt tên cái đập nây là gì.
    Bảo Ngọc nói:
    - Đây là dòng chính của suối "Thấm phương", thì nên đặt là "đập Thấm phương? .
    Giả Chính nói: .
    - Mày lại nói nhảm, không nên dùng hai chữ "thấm phương".
    Mọi người theo đường đi ra, thấy có những nhà rộng, lều tranh, tường, đá, cửa hoa, dưới núi có chùa, trong rừng có phòng luyện thuốc, hiên dài, động sâu, nhà vuông, đình tròn.
    Giả Chính không đi hết được. Vì đã nửa ngày chưa được nghỉ ngơi; lưng đau chân mỏi, chợt trông thấy phía trước có một cái nhà. Giả Chính nói:
    - Nơi này có thể nghỉ được!
    Liền đi theo con đường nhỏ quanh khóm bích đào, qua cửa tò vò đan bằng trúc và cài hoa. Chợt thấy tường trắng vây quanh, ngoài có liễu xanh rủ xuống. Giả chính cùng mọi người đi vào. Hai bên, hành lang nối nhau, ở trong lác đác mấy ngọn núi . Một bên có mấy khóm chuối; một bên là cây hải đường của phủ tây, trông như cái tán, dây rủ xanh biếc, hoa đỏ như son.
    Một người nói:
    - Hoa đẹp nhỉ! Hải đường có nhiều, nhưng chưa thấy cây nào đẹp như thế này.
    Giả Chính nói:
    - Đây là "nữ nhi đường? , lấy giống ở nước ngoài. Tục truyền giống này ở nước Nữ Nhi. Bên ấy có rất nhiều, nhưng cũng là lời hoang đường, không đáng tin.
    Một người nói:
    - Bảo rằng hoang đường không đáng tin thì tại sao từ lâu đã có cái tên ấy.
    Bảo Ngọc nói:
    - Phần nhiều các nhà ngâm vịnh thấy hoa này đỏ như son, ẻo lả như có bệnh, gần giống phong độ của người trong khuê các, cho nên đặt tên là "Nữ Nhi". Có lẽ sau này người đời không thích nghe cái tên ấy, bèn dựa vào sử sách cho có chứng cớ rồi cứ thế truyền sai mãi đi, để thành sự thực.
    Mọi người đều gật đầu khen ngợi, rồi ra ngồi cả ở giường ngoài hiên. Giả Chính bảo:
    - Nên đề mấy câu gì thực mới đây?
    Một người khách nói:
    - Nên đề hai chữ ?otiêu hạc?(27).
    Lại một người nói: "Nên đề bốn chữ "Sùng quang phiếm thái?(28).
    -------------------------------
    (27) Cây chuối và con hạc.
    (28) Màu sáng lộng lẫy rọi ra nhiều vẻ.
    -------------------------------
    Giả Chính cùng mọi người nói:
    - ?oSùng quang phiếm thái? hay!
    Bảo Ngọc nói:
    - Hay đấy, nhưng đáng tiếc
    Mọi người hỏi:
    - Sao lại đáng tiếc?
    Bảo Ngọc nói:
    - Chỗ này trồng chuối và hải đường, ám chỉ màu đỏ , màu xanh . Nếu chỉ nói chuối mà bỏ sót hải đường thì không hay; trái lại nói hải đường mà bỏ sót chuối cũng không được. Như thế không thể chỉ có chuối mà không có hải đường, càng không thể chỉ có hải đường mà không có chuối.
    Giả Chính nói:
    - Ý mày định viết chữ gì?
    Bảo Ngọc nói:
    - Con muốn viết bốn chữ "Hồng hương lục ngọc" thì mới đủ cả hai nghĩa.
    Giả Chính lắc đầu:
    - Không được, không được!
    Mọi người vào trong buồng, thấy ở đấy trang trí không giống các nơi, nhìn chỗ nào cũng như chỗ nào. Nguyên ở đây xung quanh đều ghép gỗ chạm nổi của những tay thợ rất tài tình: chỗ thì chạm trăm con dơi bay vòng quanh, chỗ thì chạm ba người bạn mùa đông(29), chỗ thì chạm sông núi, nhân vật, chỗ thì chạm các thứ chim, cỏ, cây hoa hoặc thập cẩm, hoặc đời cổ hoặc chữ phúc, chữ thọ, các thứ này đều được khảm vàng ngọc đủ các màu sắc. Có nhiều ô vuông, tròn khác nhau, theo hình hoa quỳ, lá chuối, vòng tròn hay bán nguyệt để bỏ sách, bút nghiên, đặt đỉnh, lọ hoa chậu cây. Thực là trăm hoa nghìn gấm, chói lọi khắp nơi. Chỗ này cửa sổ dán lụa ngũ sắc xinh xắn; chỗ kia cửa che lụa mỏng lờ mờ. Khắp tường, có bày các đồ cỗ, như đàn, gươm, bầu rượu. . . đều đặt trong từng ô một, phẳng lì với mặt trăng. Mọi người đều khen: "Thực là tinh xảo! Làm được thế này khó lắm!"
    -----------------------------
    (29) Tùng, trúc, mai gọi là ba người bạn mùa đông
    -----------------------------
  4. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Giả Chính chưa đi đến từng thứ hai đã lạc đường, trông sang bên tả có cửa ra vào, nhìn sang bên hữu có cửa sổ ngăn lại, tiến lên phía trước bị một tủ sách chắn ngang, quay lại phía sau thấy cửa sổ che màn lụa trông rõ lối đi. Khi đến nơi, chợt thấy có người lù lù đi lại giống mình như hệt, đó là cái gương pha lê lớn. Luôn qua cái gương lại thấy nhiều cửa. Giả Trân cười nói:
    - Ông cứ theo tôi, đi đường này ra thì đến sân sau, ở đằng sau đi ra thì gần hơn đằng trước.
    Mọi người đi quanh hai lần cửa gấm, quả nhiên có một lối ra. Trong sân có nhiều giàn hoa tường vi. Qua hàng rào hoa, thấy có một khe nước chắn ngang. Mọi người lấy làm lạ nói:
    - Dòng nước này từ đâu đến đây?
    Giả Trân trỏ ra đằng xa nói:
    Nó từ cửa đập đằng kia chảy đến cửa hang, theo chỗ trũng ở núi phía đông bắc dẫn đến trang trại. Lại có dòng nhỏ chảy ra phía tây nam, đến đấy hợp lại làm một, rồi theo chân tường chảy đi.
    Mọi người đều nói: "Khéo quá nhỉ!"
    Chợt thấy ngọn núi lớn chắn ngang, ai nấy đều sợ lạc đường Giả Trân cười nói:
    - Cứ đi theo tôi.
    Rồi hắn đi trước dẫn đường. Vòng khỏi chân núi một quãng lại là đường to bằng phẳng, có một cái cửa lớn hiện ra trước mắt. Mọi người nói: ?oThú thực, thú thực! Thần kỳ tinh xảo đến thế là cùng!?
    Bấy giờ Bảo Ngọc chỉ để tâm nhớ nhà, không thấy Giả Chính bảo gì, đành phải theo đến thư phòng. Giả hình sực nhớ, nói:
    - Mày còn chưa về à? Đi chơi nửa ngày trời vẫn chưa chán hay sao? Chắc cụ lại mong đấy. Về ngay đi. Nuông lắm sinh hư thôi! .
    Bảo Ngọc nghe vậy mới dám về. Ra đến ngoài, bọn hầu bé của Giả Chính chạy lại ôm lấy nói:
    - May mà hôm nay ông nhà vui đấy. Vừa rồi cụ mấy lần sai người ra hỏi, chúng tôi đều nói ông đương vui với cậu; nếu không thì cụ đã gọi cậu về ngay rồi, còn trổ tài làm sao được? Ai cũng bảo thơ cậu hay hơn mọi người. Hôm nay được hãnh điện như thế, phải thưởng cho chúng tôi mới được.
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Cho mỗi người một quan tiền.
    Mọi người nói:
    - Một quan tiền thì ai mà chẳng có? Thưởng cho cả cái túi của cậu!
    Nói xong đứa cỡi lấy cái túi, đứa lấy túi quạt, chẳng kể đầu đuôi, chúng lấy sạch các thứ đeo ở trong người Bảo Ngọc.
    Rồi nói:
    - Thôi đưa cậu về đi.
    Một lũ vây tròn lấy Bảo Ngọc, dẫn về đến tận cửa Giả mẫu. Bấy giờ Giả mẫu đương mong, thấy Bảo Ngọc về, biết là không xảy chuyện gì, trong lòng rất vui.
    Một chốc, Tập Nhân mang nước trà đến, thấy những đồ đeo trong mình Bảo Ngọc không còn một thứ gì, cười hỏi: Những đồ đeo đâu cả? Chắc lại bị bọn mặt dày nào lột mất rồi.
    Đại Ngọc nghe nói chạy lại, thấy chẳng còn cái gì, hỏi Bảo Ngọc:
    - Cái túi của tôi khâu, anh cũng cho chúng nó rồi à? Mai lại chực xin cái khác, đừng hòng có của sẵn thế.
    Nói xong, bực tức về buồng, lấy kéo cắt vụn cái túi đựng hương đang khâu cho Bảo Ngọc.
    Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc bực lên, biết lại sinh chuyện, vội vàng chạy đến thì Đại Ngọc đã cắt mất cái túi rồi, Bảo Ngọc cũng đã trông thấy cái túi ấy, tuy chưa làm xong, nhưng khéo lắm. Nay Đại Ngọc tự nhiên cắt đi, nghĩ cũng đáng tức. Bảo Ngọc vội vàng cỡi áo trong lấy cái túi của Đại Ngọc cho khi trước giơ ra nói:
    - Em xem, cái gì đây! Khi nào tôi lại cho người ta nhưng cái em tặng tôi!
    Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc cẩn thận, sợ người ta lấy mất, đã đeo ở tận trong áo, rất hối hận đã quá nóng, cắt mất túi hương, nên cứ ngồi cúi đầu không nói câu gì.
    Bảo Ngọc nói:
    - Em không cần phải cắt. Tôi biết rằng em không thích cho tôi cái gì nữa. Ngay cái túi náy tôi cũng xin nộp lại có được không?
    Nói xong, Bảo Ngọc ném cái túi vào lòng Đại Ngọc, rồi đi.
    Đại Ngọc tức phát khóc lên, lại chực cắt nốt cái túi này.
    Bảo Ngọc vội quay lại giật lấy, cười nói:
    - Thôi! xin em tha cho nó!
    Đại Ngọc vứt kéo đi, gạt nước mắt nói:
    - Anh không nên thế, lúc thì tử tế, lúc thì giận dỗi. Không ưa nhau thì buông tha nhau ra.
    Nói xong, bực tức lên giường nằm ngoảnh mặt vào tường chùi nước mắt. Bảo Ngọc lại phải chạy đến xin lỗi hết cô em thế nọ, đến cô em thế kia.
    Giả mẫu cho người đến tìm Bảo Ngọc. Mọi người nói:
    - Hiện đương ở buồng cô Lâm.
    Giả mẫu nói:
    - Được được! Để cho anh em nó chơi với nhau.Vừa rồi bố nó giam hãm nó mất nửa ngày, nay cho nó thỏa thuê một chút. Nhưng bảo chúng nó không được cãi nhau.
    Mọi người vâng lời.
    Đại Ngọc bị Bảo Ngọc làm rầy mãi, đành phải đứng dậy nói:
    - Ý anh không muốn cho tôi yên, thì tôi đành phải xa anh.
    Nói xong, chạy ngay ra ngoài.
    Bảo Ngọc cười:
    - Em đi chỗ nào, anh cũng đi chỗ ấy.
    Một mặt lại cầm lấy cái túi đeo vào người.
    Đại Ngọc giơ tay giăng lấy:
    - Anh vừa nói không cần, sao lại còn đeo? Tôi lấy làm xấu hổ hộ anh!
    Nói xong, phì ra cười. Bảo Ngọc nói:
    - Em ơi, ngày mai lại khâu cho anh cái túi khác nhé!
    Đại Ngọc nói:
    - Để xem đã, lúc nào thích thì làm.
    Hai người vừa nói, vừa đến buồng Vương phu nhân, thì gặp Bảo Thoa cũng ở đấy. Lúc này trong nhà Vương phu nhân bận rộn lắm. Vì Giả Tường đã mua mười hai người con gái ở Cô Tô về. Hắn mời người dạy hát và cả những đồ diễn tuồng nữa.
    Tiết phu nhân thì dọn sang ở một ngôi nhà về phía đông bắc.
    Viện Lê Hương được sửa sang lại cho phường hát ở để dạy con hát. Những người đàn bà già trong nhà, trước biết hát đều đến đó trông nom bọn con hát. Các khoản chi tiêu hàng ngày, các vật liệu cần dùng, đều do Giả Tường cai quản.
    Lại có Lâm Chi Hiếu đến báo: mười hai ni cô, đạo cô trẻ tuổi đã đón về, hai mươi bốn bộ áo lễ nữa đã may xong. Ngoài ra có một vị sư cô để tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, phải làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia vì thế đi tu mà vẫn để tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn có hai người vú và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc lòng, người lại đẹp. Nghe nói kinh đô có những di tích phật Quan âm và bản kinh viết bằng lá bối, nên năm ngoái cô ta theo sư phụ đến đây, hiện đương ở chùa Mầu Ni ngoài cửa tây. Sư phụ của cô ta, lấy số tiên thiên rất giỏi, nhưng đã chết từ mùa đông năm ngoái rồi. Theo lời dặn của sư phụ, Diệu Ngọc không nên về quê, cứ ở đây chờ tự khắc có kết quả tốt. Bởi vậy cô ta chưa về.
    Vương phu nhân nói:
    - Sao không mời cô ta?
    Lâm Chi Hiếu nói:
    - Nếu mời miệng thì cô ta sẽ nói: ?oNhà quan hay cậy thế ức hiếp người, ta không khi nào chịu đến!?
    Vương phu nhân nói:
    - Cô ta là con gái nhà quan, tất nhiên hay làm cao. Ta viết thiếp mời, cũng không ngại gì.
    Lâm Chi Hiếu vâng lời, ra bảo thư ký viết thiếp mời Diệu Ngọc, ngày mai sắp xe kiệu đi đón.
    Bấy giờ có người đến trình: các thợ đang cần the lụa để trang trí, đến xin Phượng Thư mở lầu phát cho; lại có người đến trình: xin Phượng Thư nhận bỏ kho cho nhưng đồ vàng bạc, Vương phu nhân cùng các người hầu thân đều không ai được rỗi. Bảo Thoa nói:
    - Chúng ta không nên ở đây làm quẩn chân, vướng tay người ta.
    Bèn cùng Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến buồng Nghênh Xuân nói chuyện phiếm.
    Vương phu nhân ngày nào cũng bận túi bụi. Mãi đến cuối tháng mười thu xếp xong. Những người đốc biện đã tính toán và bàn giao sổ sách; các đồ cổ, các bức thư họa đã được bày biện ở các nơi; những chim muông như hạc, hươu, thỏ, gà, ngỗng đã mua về và đem thả ở trong vườn. Giả Tường cũng soạn xong hai mươi ba vở hát. Các ni cô, đạo cô niệm phật, tụng kinh đều đã thông thạo. Bấy giờ Giả Chính mới yên lòng, mời Giả mẫu vào vườn xem lại một lượt. Thấy mọi việc xếp đặt đã ổn thỏa đâu vào đấy không còn sai sót một ly. Giả Chính bèn chọn ngày tâu sớ lên. Chỉ vua truyền xuống: đến rằm tháng giêng sang năm là tiết thượng nguyên, Quý phi sẽ về thăm nhà. Từ đó trong phủ họ Giả bận rộn suốt ngày, ăn tết cũng vội vã.
    Thấm thoát gần đến tiết nguyên tiêu, từ mồng tám tháng giêng trở đi đã có viên thái giám đến xem xét phương hướng: chỗ thay áo, chỗ ngồi chơi, chỗ nhận lễ, chỗ ăn tiệc, chỗ nghỉ ngơi. Lại có viên thái giám tổng quản lý quan phòng đem bọn thái giám nhỏ đến xem xét chỗ canh gác, chỗ căng màn, và dặn bảo người nhà họ Giả các nghi lễ như chỗ nào phải lui ra, chỗ nào quỳ, chỗ nào dâng món ăn, chỗ nào tâu việc. Bên ngoài lại có nhân viên bộ công và ty ngũ thành binh mã phải đến quét dọn đường sá, ngăn cấm những người không có chức vụ qua lại.
    Bọn Giả Xá thì đốc thúc những thợ làm đèn đuốc. Mãi đến ngày mười bốn, mọi việc mới xếp đặt xong. Đêm hôm ấy, không một ai được chợp mắt.
    Hôm rằm, đầu canh năm, từ Giả mẫu trở xuống, theo chức tước mặc phẩm phục đại trào. Trong vườn Đại quan, màn rồng, rèm phượng, vàng bạc châu báu choáng lên khắp nơi.
    Đỉnh đốt hương bách hợp, lọ cắm hoa trường xuân, bốn bề im lặng như tờ, không một tiếng động. Bọn Giả Xá đứng ngoài cửa Tây, bọn Giả mẫu đứng ở ngoài cửa chính phủ Vinh. Đầu đường cuối ngõ mùng màn che kín. Đang lúc chờ lâu sốt ruột, chợt có một viên thái giám cưỡi ngựa đến, Giả Chính đón hỏi tin tức.
    Viên thái giám nói:
    - Hãy còn sớm chán, đầu giờ mùi ngự cơm chiều, giữa giờ mùi đến lễ phật ở cung Bảo Linh, đầu giờ dậu vào cung Đại Minh hầu yến, xem đèn rồi mới xin thánh chỉ về, có lẽ đầu giờ tuất mới bắt đầu đi.
    Phượng Thư nghe xong, nói:
    - Thế thì mời bà và mẹ hãy về buồng nghỉ, chờ lúc ấy sẽ ra cũng không muộn.
    Giả mẫu trở về. Công việc trong vườn đều do Phượng Thư trông nom.
    Những người coi việc, mời bọn thái giám đi ăn uống, sau đó bảo người nhà gánh từng gánh nến đi thắp ở các nơi.
  5. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa chạy rầm rập, chừng mười viên thái giám thở hồng hộc đến vẫy tay ra hiệu. Bọn thái giám ở đấy biết là quý phi sắp đến, đều theo phương hướng đứng xếp hàng. Giả Xá dẫn con cháu trong họ đứng chực ngoài cửa Tây. Giả mẫu dẫn đám đàn bà trong họ đứng ở ngoài cửa chính đón tiếp . Lặng lẽ một lúc, thấy hai viên thái giám đi từ từ đến cửa Tây, xuống ngựa đem buộc ở ngoài chỗ quây màn rồi ngoảnh mặt về phía tây, buông thõng tay đứng chực. Chốc sau lại có hai viên nữa. Rồi cứ thế lần lượt tới gần mười đôi, khi ấy mới nghe văng vẳng có tiếng âm nhạc từ đằng xa vọng lại. Rồi từng đôi một cầm quạt phượng, cờ rồng, lông trĩ, quạt rồng, và lẵng vàng đốt trầm hương. Theo sau là một cái tán vàng thêu bảy con phượng, che mũ, áo, đai, giày. Lại có bọn thái giám mang khăn tay. ống nhổ, phất trần cũng từng đôi một lũ lượt đi qua. Sau cùng là tám viên thái giám rước cỗ xe loan thêu phượng màu vàng từ từ đi đến.
    Giả mẫu vội quỳ xuống, có ngay bọn thái giám đến đỡ dậy. Xe loan đi vào cửa chính, rẽ sang phía đông, đến trước một nhà, có viên thái giám quì xuống, mời quí phi xuống xe thay áo. Khi vào đến cửa, bọn thái giám lui ra, chỉ có Tiêu dung, Thái tần(30) đỡ Nguyên Xuân xuống xe.
    ----------------------
    (30) Các nữ quan ở trong cung
    ---------------------
    Trong vườn, đèn hoa sáng rực, đều làm bằng the lụa cực kỳ tinh xảo, trên treo một cái biển căng đèn, viết bốn chữ: ?oThể nhân mộc đức?(31).
    ---------------------
    (31) Nhờ nhân đức nhà vua
    ----------------------
    Nguyên Xuân vào thay áo rồi lại lên xe ra thăm vườn: khói thơm nghi ngút, bóng hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, lúc nào cũng tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong lưu phú quí, nói không xiết được!
    Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại Hoang, mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và đạo sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới này. Muốn làm một bài phú đèn trăng, bài tụng tinh nhân, để ghi lại việc hôm nay, nhưng lại sợ vướng vào khuôn sáo của các sách. Với quang cảnh ấy, dù có làm bài phú, bài tụng, cũng không thể hình dung hết cái đẹp của nó; mà không làm thì những hào hoa mỹ lệ, chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng ra được. Cho nên xin bớt đi, khỏi phải dài dòng, để quay về ý chính là hơn.
    Giả phi ngồi trên kiệu trông thấy quang cảnh trong và ngoài vườn, lẳng lặng thở dài: ?oXa hoa quá?. Chợt viên thái giám quì mời lên thuyền. Giả phi xuống kiệu, chỉ thấy một dòng nước trong uốn khúc như rồng lượn, hai bên bờ đá, treo các thứ đèn bằng thủy tinh hoặc pha lê, sáng như bạc, trắng như tuyết. Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả bằng giấy lụa và thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình hoa sen, hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly. Trên thuyền lại có các chậu hoa, các thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần phải nói nhiều. . . Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: ?oLiễu đình hoa tự?.
    Bạn đọc thử xem, những chữ: ?oLiễu đình hoa tự?, ?oHữu phượng lai nghi?, chính là những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề thực? Họ Giả lại là một nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay tài giỏi, làm gì chả có mấy người đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của chú bé con để lấp liếm cho qua? Như vậy khác nào bọn hào phú, quẳng tiền ra, chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: "Trước cửa khóa vàng cây liễu lục; sau nhà bình gấm chặng non xanh"; và cho đó là nhã. Đằng này, hai phủ Ninh, Vinh mà suốt cuốn "Thạch đầu" đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem thế, đủ thấy trái ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho hay.
    Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào. Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ. Tuy là chị em, nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả phi thường nhắn tin cho cha mẹ: ?oCần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc, làm cho cha mẹ lo buồn?.
    Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút nào. Mấy hôm trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính chưa tin, nhân lúc vào thăm vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào. Ông ta nghĩ: ?oCâu đối, biển đề? có nhờ ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó gì. Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng có chỗ đáng lấy và có phong vị của nhà mình hơn?. Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả phi biết rằng: những câu đề vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả phi ngày thường mong mỏi. Vì thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước chưa đề, về sau đều đề thêm cả.
    Giả phi xem bốn chữ này cười nói:
    - Hai chữ ?ohoa tự? là được rồi, cần gì phả thêm ?oliễu đình? nữa?
    Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính. Giả Chính lập tức cho viết lại.
    Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả phi lên xe, thấy cung điện nguy nga, trên bức hoảnh viết bốn chữ lớn: ?oThiên tiên bảo cảnh?(32) Giả Phi sai đổi là: ?oTỉnh thân biệt thự?(33), rồi tiến vào hành cung. Ở đây, đèn đuốc rực trời, hương thơm nhát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ hương, tường treo quạt đuôi trĩ. Thực là: ?oChốn thần tiên cửa vàng lầu ngọc, nhà hoàng phi đền quế, cung lan? .
    ---------------------------
    (32) Cảnh đẹp cõi tiên
    (33) Nhà riêng về thăm cha mẹ
    ----------------------------
    Giả phi hỏi:
    - Tại sao nơi này không đề biển?
    Thái giám đi theo hầu, quì tâu:
    - Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.
    Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm. Chiêu Dung truyền dụ: "miễn lễ". Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: "miễn lễ?. Mọi người lại lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghỉ. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại. Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:
    - Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?
    Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.
    Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn hầu đàn bà con gái. Giả phi hỏi:
    - Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.
    Vương phu nhân thưa:
    - Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện vào hầu.
    Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể chuyện hàn huyên. Kế đến lượt bọn a hoàn Bảo Cầm là những người trước kia theo Nguyên phi vào cung, cũng lên lạy chào Giả mẫu. Giả mẫu đỡ dậy, sai người mời vào nhà riêng tiếp đãi. Bọn thái giám cùng Thái tần, Chiêu dung và các người theo hầu thì đã có người hai phủ Ninh, Vinh tiếp đãi. Chỉ để ba bốn viên thái giám nhỏ lại hầu. Sau đó mẹ con, chị em mới kể lại những chuyện xa cách, và hỏi han những việc riêng trong nhà.
    Giả Chính đứng ngoài rèm vái chào, thăm hỏi. Nguyên phi nói:
    - Những nhà thôn quê, dưa muối sồi vải, lại được hưởng thú đoàn tụ trong gia đình. Nay ta phú quý, nhưng cốt nhục phân ly, cũng chẳng có thú gì.
    Giả Chính ngậm ngùi thưa:
    - Kẻ thần tử hàn vi ở nơi thảo mãng, trong đàn chim cưu, chim nha, ngờ đâu lại có điềm lành được trông thấy chim loan phượng. Quý nhân trên đội ơn trời, dưới nhờ đức tổ, là tinh hoa cả núi sông, của mặt trời, mặt trăng và đức trạch của ông cha chung đúc vào một người, làm thơm lây đến vợ chồng Chính này. Nay Hoàng đế thể lòng trời đất, rộng lượng ban ân xưa nay chưa từng có. Chính này dù có gan óc lấm đất, nhưng đạo tôi con cũng khó bề báo đáp trong phần muôn một. Chỉ biết sớm tối lo sợ, làm hết chức vụ; cúi mong đức Thánh quân hưởng thọ muôn năm, đó là phúc của dân của nước. Xin Quý phi chớ áy náy đến tuổi già của vợ chồng Chính này. Chỉ mong Quý phi giữ gìn sức khỏe, cẩn thận cung kính hầu đức Hoàng thượng, để khỏi phụ ơn trên.
    Giả phi cũng dặn dò:
    - Việc nước nên siêng năng, lúc rỗi phải tĩnh dưỡng, đừng nên nhớ quá.
    Giả Chính lại tâu:
    - Những câu đề ở đình, đài, hiên, quán trong vườn đều do Bảo Ngọc nghĩ cả, nếu có câu nào được xin cho tên đề.
    Nguyên phi nghe của Bảo Ngọc đề, mỉm cười nói:
    - Quả nhiên học đã khá đấy.
    Giả Chính lui ra, Nguyên phi thấy Bảo Thoa, Đại Ngọc đẹp như hoa như ngọc, khác hẳn các chị em, liền hỏi:
    - Sao không thấy Bảo Ngọc.
    Giả mẫu tâu:
    - Chưa có chỉ dụ, con trai bên ngoại không dám thiện tiện vào chầu.
    Nguyên phi truyền gọi. Thái giám dẫn Bảo Ngọc vào. Làm lễ xong, Nguyên phi gọi Bảo Ngọc đến gần, dắt vào lòng, xoa đầu cười nói:
    - Lớn hơn trước nhiều.
    Nói chưa hết câu, nước mắt rỏ xuống như mưa.
    Bọn Vưu thị, Phượng thư lên tâu:
    - Tiệc yến bày xong, mời Quý phi ra ngự.
    Nguyên phi đứng dậy, truyền Bảo Ngọc dẫn đường, cùng mọi người đi ra cửa vườn. Dưới ánh đèn sáng, các thứ bày biện la liệt. Lối đi vào vườn, trước tiên phải qua các nơi có đề: "Hữu phượng lai nghi", "Hồng hương lục ngọc", "Hạnh liêm tại vọng", "Hành chỉ thanh phân", trèo gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi, lại khuyên: "Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá". Đến chính điện, Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng thư thì dâng canh, nâng chén.
  6. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là ?oĐại quan viên?(34), biển ở chính diện đề là: ?oCố ân tư nghĩa?(35).
    --------------------------------
    (34) Vườn lớn nhiều cảnh đẹp, làm cho người du lãm có một tầm mắt bao la
    (35) Trông thấy ơn vua thì nghĩ đến nghĩa lớn
    -------------------------------
    Câu đối đề:
    Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,
    Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.

    Chỗ có biển đề: ?oHữu phượng lai nghi? thì đặt tên là: ?oTiêu Tương quán?(36) Chỗ đề: ?oHồng hương lục ngọc?, thì đổi là: ?oDi hồng khoái lục?(37), và đặt tên là: ?oDi Hồng viện?. Chỗ đề ?oHành chỉ thanh phân? thì đặt tên là: ?oHành Vu uyển?. Chỗ đề: ?oHạnh liêm tại vọng? thì đặt tên là: ?oCán các sơn trang?(38) lầu giữa đặt tên là: ?oĐại quan lâu?. Lầu bên đông đặt tên là: ?oXuyết Cầm các?(39). Lầu bên tây đặt tên là: ?oHàm Phương các". Lại còn những tên ?oLục phong hiên?, ?oNgẫu hương tạ?(40), ?oTử lang châu?(41), ?oHành diệp chứ?. Biển đề có những chữ: ?oLê hoa xuân vũ?(42), ?oĐồng tiễn thu phong?(43), ?oĐịch lộ dạ tuyết?(44).
    ---------------------------
    (36) Quán sông Tiêu, sông Tương
    (37) Màu đỏ màu xanh cùng vui tươi
    (38) Trại giặt vải gần núi
    (39) Lầu tràng gấm
    (40) Thơm mùi ngó sen
    (41) Hoa súng tía
    (42) Hoa lê trong mưa xuân
    (43) Lá ngô đồng gặp gió mùa thu
    (44) Hoa lan gặp đêm tuyết
    ---------------------------
    Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi đề một bài tứ tuyệt như sau:
    Non nước bao quanh khéo lạ lùng,
    Biết bao công của mới làm xong.
    Thợ trời thêm thợ người tô điểm,
    Gọi Đại quan viên có xứng không?

    Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:
    - Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi. Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài ?oĐại Quan viên ký? và bài ?oTỉnh thân tụng? để kỷ niệm ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng. Trong các nơi, ta thích nhất ?oquán Tiêu Tương? và ?oHành Vu uyển? rồi đến ?oviện Di Hồng? và ?oCát cân sơn trang?, bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được. Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!
    Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.
    Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên, nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một bài. Giả phi lần lượt xem:
    Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH
    Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.
    Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.
    Cõi trần đâu có nơi nào thế,
    Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!

    Nghênh Xuân ​
    Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY(45).
    Vườn này xây đắp thực nguy nga,
    Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa.
    Tinh xảo nhường nào không kể xiết,
    Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.

    Thám Xuân
    ------------------------
    (45) Muôn vẻ đua sáng
    ------------------------
    Biển đề VĂN CHUƠNG TẠO HÓA
    Non nước bao quanh mấy dăm dài,
    Lâu đài cao ngất giữa từng mây.
    Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,
    Bác thợ trời kia cũng kém tài
    .
    Tích Xuân
    Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU
    Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,
    So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.
    Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,
    Quần xòe sắc đỏ cánh hoa rơi.
    Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.
    Tiên ở đài dao lại xuống chơi.
    Từ lúc vườn này chào khách quí,
    Phàm trần đã đến được bao người.

    Lý Hoàn
    Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY(46).
    Vườn hoa xây cạnh đế thành,
    Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.
    Rời hang oanh đã đậu cao,
    Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.
    Gió văn thổi lúc ra chơi,
    Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.
    Tài tiên cao diêu tuyệt vời,
    Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?

    Tiết Bảo Thoa
    -------------------------
    (46) Họp mọi màu sáng và chung đúc điềm lành
    -------------------------
    Biển đề THẾ NGOẠI TIÊN NGUYÊN(47)
    Dạo chơi Người lại thêm vui,
    Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!
    Đep thay mượn cảnh non sông,
    Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.
    Rượu kim cúc ngát mùi hương,
    Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.
    Mong sao trên đội ơn trời,
    Vườn này thường được đón mời xe loan.

    Lâm Đại Ngọc
    -------------------------
    (47) Suối cõi tiên ở ngoài cõi trần
    -------------------------
    Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:
    - Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em chúng ta không ai bằng.
    Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người. Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách.
    Bảo Ngọc mới làm xong hai bài ?oTiêu Tương quán? và ?oHành vu uyển?, đang nghĩ bài ?oDi hồng viện?. Bảo Thoa liếc mắt nhìn, thấy trong bản nháp của Bảo Ngọc có câu ?oLục ngọc xuân do quyển?(48). Nhân lúc mọi người không để ý, bèn đẩy Bảo Ngọc bảo:
    - Quý phi không thích những chữ ?ohồng hương lục ngọc? mới đổi ra ?odi hồng khoái lục?, giờ anh lại dùng hai chữ ?olục ngọc? như thế chả phải là cố làm trái ý người hay sao? Vả chăng điển tích lá chuối cũng có nhiều, nên đổi đi là phải.
    --------------------------
    (48) Ngọn ngọc mùa xuân còn đang cuốn (chỉ cây chuối)
    --------------------------
    Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa nói thế, gạt mồ hôi nói:
    - Bây giờ tôi nghĩ mãi cũng chẳng nhớ ra được điển tích nào?
    Bảo Thoa cười:
    - Anh chỉ đổi chữ ?olục ngọc? làm chữ ?olục lạp?(49) là được.
    --------------------------
    (49) Sáp xanh
    --------------------------
    Bảo Ngọc nói:
    - Chữ ?olục lạp? xuất xứ ở đâu?
    Bảo Thoa khẽ bĩu môi, gật đầu nói:
    - Đêm nay mới có thế mà anh đã cuống lên, sau này thi ở trước đền vàng, có lẽ họ Triệu, họ Tiền, họ Tôn, họ Lý cũng quên tất. Bài thơ Vịnh ba tiêu của Hàn Dực nhà Đường có câu: ?oLãnh chúc vô yên lục lạp can?(50) anh quên rồi à!
    --------------------------
    (49) Ngọn đuốc không có khói mà cây sáp xanh cứ khô dần
    --------------------------
    Bảo Ngọc nghe xong chợt nhớ ra cười nói:
    - Đáng chết! Đáng chết! Chữ ngay trước mắt tôi cũng không nghĩ ra. Chị đáng là ?oNhất tự sư?(51) vậy. Từ rầy tôi xin gọi là thầy, chứ không dám gọi là chị nữa.
    --------------------------
    (51) Thày dạy một chữ
    --------------------------
    Bảo Thoa khẽ cười nói:
    - Làm nhanh đi, đừng chị chị em em nữa. Ai là chị? Người mặc áo vàng ngồi trên kia mới là chị.
    Sợ làm mất thì giờ của Bảo Ngọc, Bảo Thoa vừa cười nói, vừa quay đi chỗ khác.
    Bảo Ngọc làm xong bài này, mới là ba bài. Bấy giờ Đại Ngọc chưa được trổ hết tài, vẫn chưa mãn nguyện. Nhân thấy Bảo Ngọc nghĩ ngợi khó khăn, nghĩ bụng: ?oSao ta không làm giúp vài bài cho anh ấy đỡ mệt?. Rồi chạy đến bên bàn Bảo Ngọc khẽ hỏi đã làm xong chưa. Bảo Ngọc nói:
    - Mới làm xong ba bài, còn thiếu bài ?oHạnh liêm tại vọng?.
    Đại Ngọc nói:
    - Đã vậy anh cứ chép ba bài kia đi, còn bài này tôi sẽ làm giúp.
    Nói xong nghĩ ngợi một lúc, làm xong một bài, viết vào mảnh giấy, vê tròn ném cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc giở ra xem, thấy hay hơn ba bài của mình nhiều, vội chép cẩn thận rồi đưa nộp. Nguyên phi xem thấy:
    HỮU PHƯỢNG LAI NGHI
    Ngọc tốt vừa ra quả,
    Đang chờ phượng đến chơi.
    Rờn rờn xanh mấy ngọn,
    Thoang thoáng mát đầy nơi.
    Qua bực, e thềm ướt.
    Lọt rèm thơm sặc mùi,
    Bóng kia đừng rung động,
    Giấc mộng đẹp đương dài.

    HÀNH CHỈ THANH PHÂN
    Vườn kia im lặng như tờ
    Hành la đua nở đương chờ đợi ai ?
    Có xuân xanh lẫn màu trời,
    Dải hồng tha thướt quyệt mùi hương thơm.
    Khói bay nhè nhẹ bên đường,
    Áo quần xanh đẫm hơi sương lạnh lùng.
    ?oTrì đường? là khúc hóa công,
    Anh em họ Tạ giấc nồng nàn thay
    .
    DI HỒNG KHOÁI LỤC
    Một vùng sân vắng ngày dài,
    Thuyền quyên hai ả cả hai đẹp dòn,
    Trời xuân anh vẫn cuộn tròn,
    Áo hồng thơ thẩn khuya còn đứng đây.
    Bên kia áo đỏ gió bay,
    Khói xanh, dựa đá bên này đỡ chơi.
    Trước gió đông đứng hàng đôi,
    Chủ nhân ướm hỏi ai người biết thương?

    HẠNH LIÊM TẠI VỌNG
    Cờ rượu treo mời khách,
    Kề non dựng một tòa.
    Cỏ thơm ao tắm ngỗng,
    Dâu tốt yến xây nhà.
    Rau xuân xanh bát ngát,
    Mùi lúa nức gần xa.
    Đời thịnh nào ai đói.
    Canh cửi vội chi mà.

    Bảo Ngọc kính đề
  7. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Nguyên phi xem xong, thích lắm, nói:
    - Học đã tiến rồi đấy!
    Lại bảo:
    - Trong bốn bài, thì bài ?oHạnh liêm? hơn cả.
    Rồi đổi tên ?oCán cát sơn trang? làm ?oĐạo hương thôn?(52).
    ------------------------
    (52) Làng Thơm mùi lúa
    -----------------------
    Nguyên phi sai Thám Xuân lấy giấy hoa tiên chép cẩn thận những bài thơ ấy, rồi cho thái giám đưa ra nhà ngoài. Bọn Giả Chính xem, đều khen ngợi mãi. Giả Chính lại dâng bài ?oQui tính tụng?. Nguyên phi sai lấy các đồ vàng ngọc thưởng cho Bảo Ngọc và Giả Lan. Giả Lan hãy còn bé, chưa hiểu gì, chỉ biết theo mẹ và chú đến tạ.
    Giả Hoàn bị ốm từ trong năm đang điều dưỡng nên không nói đến.
    Bấy giờ Giả Tường đã dẫn một ban hát đứng ở dưới lầu, chờ mãi sốt ruột, chợt có một viên thái giám chạy đến bảo: thơ làm xong rồi, đem trình ngay các mục vở hát lên. Giả Tường vội đem trình các mục vở hát và danh sách mười hai ca nữ. Một lúc thấy chấm bốn vở:
    1. Hào yến,
    2. Khất sảo,
    3. Tiên duyên,
    4. Li hồn.
    Giả Tường vội xếp đặt các vở đem ra diễn. Những điệu hát lên cao, lanh lảnh, những điệu múa biến ảo như ma, tuy chỉ là lối biểu diễn hóa trang, nhưng nỗi vui buồn đều biểu lộ rõ
    Hát xong, bọn thái giám bưng lên một mâm kẹo bánh, hỏi:
    - Ai là Linh Quan?
    Giả Tường biết là để thưởng cho Linh Quan, vội vàng nhận lấy và bảo Linh Quan ra tạ ơn. Thái giám nói: Quí phi truyền ?oLinh Quan giỏi lắm, hát thêm hai vở nữa. Vở gì cũng được?.
    Giả Tường vội vàng vâng lời, bảo diễn thêm hai vở ?oDu tiên? và ?oKinh mộng?.
    Linh Quan nói:
    - Không quen hát hai vở ấy.
    Hắn nhất định không nghe và xin hát hai vở ?oTương ước và ?oTương mạ?. Giả Tường ngăn không được, đành để cho hát, Nguyên phi thích lắm, truyền: ?oKhông nên bắt ép đám trẻ con quá, để nó học tập dần?. Và đặc cách thưởng cho hai tấm nhiễu trong cung, hai cái túi và mấy thoi vàng bạc nhỏ. Tan tiệc Nguyên phi lại ra ngắm cảnh những chỗ chưa dạo qua. Chợt thấy ngôi chùa ở bên núi, Nguyên phi vội vàng rửa tay, thắp hương lễ phật, đề biển bốn chữ ?oKhổ hải từ hàng?(53), rồi đặc cách ban thưởng cho bọn ni cô, đạo cô.
    ----------------
    (53) Bè từ bi độ chúng sinh trong bể khổ
    ----------------
    .
    Một lúc thái giám quì tâu: ?oĐồ ban thưởng sắp cả rồi, xin theo lệ phân phát?. Rồi trình bản kê lên. Nguyên phi xem từ đầu đến cuối, không nói gì, truyền cứ theo thế mà làm. Thái giám đem xuống ban cho mọi người. Giả mẫu được một đôi như ý(54) bằng vàng và bằng ngọc, một cái gậy bằng gỗ trầm hương, một chuỗi tràng hạt, bốn tấm đoạn ?ophú quí trường xuân?(55), bốn tấm phiễu ?ophúc thọ miên trường?(56), mười hai thoi vàng ?obút đĩnh như ý?(57), mười thoi bạc ?ocát khánh hữu dư?(58). Hai phần của Hình phu nhân, Vương phu nhân cũng thế, chỉ kém cái gậy, thoi như ý và tràng hạt. Giả Kính, Giả Xá, Giả Chính, mỗi phần hai bộ tân thư ngự chế, hai hộp mực quí, hai chiếc chén vàng. Còn đồ biếu khác thì cũng như trên. Chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc, mỗi người một bộ tân thư, một cái nghiên quí, bốn thoi vàng bạc đúc kiểu mới. Bảo Ngọc, Giả Lan thì hai cái vòng bằng vàng bạc, bốn thoi vàng bạc. Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, mỗi người bốn thoi vàng bạc, bốn thứ đồ biếu. Hai mươi bốn thứ đồ biếu, tiền năm trăm quan, thì thưởng cho bọn vú bõ và a hoàn hầu Giả mẫu và các phòng. Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung đều mỗi người một thứ đồ biếu, hai thoi vàng bạc. Một trăm tấm lụa hoa, một nghìn lạng vàng bạc, rượu ngự tiếc hoa thì thì cho bọn trông nom công việc bày biện, đi lại, coi ban hát, trông đèn nến ở hai phủ Vinh, Ninh. Năm trăm quan thưởng cho những người trông nom bếp nước, chèo hát, các trò chơi, sai vặt...
    ---------------------------------
    (54) Nguyên là đồ dùng để gãi lưng, sau để làm đồ trân ngoạn, hoặc bằng vàng hoặc bằng ngọc, ngụ ý để chúc tụng những sự tốt lành.
    (55), 56), (57), (58): Đều là những danh từ chúc tụng
    ---------------------------------
    Mọi người tạ ơn xong, viên thái giám chấp sự tâu: ?oNay đã đến giữa giờ sửu, mời loan giá về cung?.
    Nguyên phi lại nước mắt giàn giụa, nhưng phải gượng cười cầm tay Giả mẫu và Vương phu nhân dặn dò nhiều lần: ?oGiữ lấy sức khỏe, không nên thương nhớ. Hiện giờ ơn trên rộng rãi, mỗi tháng cho vào cung thăm một lần, gặp mặt cũng dễ dàng, việc gì phải buồn rầu? Nếu sang năm ơn trên lại cho về thăm nhà, thì không nên bày vẽ xa xỉ như thế này?. Giả mẫu khóc nức nở, nói không ra lời. Nguyên phi tuy không nỡ rời tay, nhưng vì theo phép tắc nhà vua, nên đành dằn lòng lên xe. Mọi người khuyên giải Giả mẫu và Vương phu nhân rồi dìu về nhà.
    (Hết hồi mười bảy và mười tám)
  8. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Hồi thứ mười chín
    Tình đằm thắm đêm khuya hoa biết nói
    Ý triền miên ngày vắng ngọc thêm hương

    Giả phi về cung, hôm sau vào chầu Vua tạ ơn và tâu lại về việc thăm nhà. Mặt rồng rất vui, lại phát những vàng bạc, gấm vóc trong kho thưởng cho Giả Chính và gia thuộc.
    Nói về hai phủ Vinh, Ninh suốt mấy ngày làm hết hơi sức, sau đó lại phải thu xếp những đồ trần thiết trong vườn, hai ba ngày mới xong, ai cũng mỏi mệt. Phượng Thư là người bận hơn cả. Nếu như người khác còn có thể lảng tránh công việc, nhưng Phượng Thư thì không sao làm ngơ được; vả lại chị ta tính hiếu thắng, không chịu để người chê trách, nên ôm đồm hết thảy mà vẫn làm ra dáng ung dung như không bận rộn gì. Trái lại, chỉ có Bảo Ngọc là người nhàn rỗi nhất. Một buổi sáng, mẹ Tập Nhân đến hầu Giả mẫu, xin phép cho con về nhà ăn cỗ đầu năm, đến chiều mới về. Vì thế Bảo Ngọc chỉ đánh cờ, chơi đùa với lũ a hoàn. Đương lúc buồn, chợt thấy người hầu vào nói: ?oông Trân bên phủ Đông mời cậu sang xem hát, đốt cây bông?. Bảo Ngọc nghe nói, bảo thay quần áo. Lúc sắp đi, thì Giả phi sai người đem cho bánh sữa. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Tập Nhân thích ăn thứ bánh này, liền bảo để dành, rồi xin phép Giả mẫu đi xem hát.
    Những trò hát bên nhà Giả Trân là ?oĐinh lang nhận phụ?, ?oHoàng Bá Ương đại bài âm hồn trận?, ?oTôn hành giả đại náo Thiên cung?, ?oKhuơng thái công trảm tướng phong thần?. Lúc thì quỷ thần biến ảo, lúc thì ma quái ly kỳ; phất cờ chạy đèn, dâng hương niệm phật, tiếng chuông trống, hò hét ầm ĩ, cả ngoài đường cũng nghe thấy. Người qua lại trên phố đều tán tụng: "Vui quá nhỉ? Nhà khác làm gì có trò này". Bảo Ngọc thấy phồn hoa huyên náo quá, không chịu được, ngồi một lúc rồi ra dạo chơi các nơi. Trước hết, vào nhà trong nói quấy với Vưu thị và các tỳ thiếp một lúc, rồi đi ra cửa. Vưu thị tưởng Bảo Ngọc lại ra xem hát, nên không để ý. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Tiết Bàn thì lăn vào đánh đố, uống rượu, giở trăm trò vui, ai nấy cứ cho là Bảo Ngọc đi vào nhà trong, nên không hỏi đến. Cả những người lớn theo hầu Bảo Ngọc cũng cho là Bảo Ngọc thế nào đến chiều mới về. Được dịp rỗi, họ họp nhau đánh bạc, hoặc đi uống rượu ở nhà họ hàng, bạn hữu. Mỗi người tản đi mỗi nơi, hẹn nhau đến chiều mới về. Bọn trẻ con thì chen nhau vào buồng xem hát.
    Bảo Ngọc không thấy có người nào theo hầu, liền nghĩ: "Nhà này có một thư phòng nhỏ, trong có treo bức tranh mỹ nhân rất thần tình. Bây giờ ở đây vắng người, mỹ nhân ấy chắc cũng hiu quạnh lắm. Ta cần phải đến đó thăm hỏi xem sao". Nghĩ thế rồi đi. Đến nơi, mới vào cửa, nghe trong phòng có tiếng thở. Bảo Ngọc giật mình, nghĩ: Có lẽ mỹ nhân hiện thành người thật chăng? Rồi đánh bạo, dấp nước bọt, chọc thủng cửa sổ giấy nhìn vào, thấy mỹ nhân vẫn y nguyên ở trong tranh. Té ra Dính Yên đương đè một người con gái, ôn lại bài học của nàng tiên Cảnh ảo trước đây. Bảo Ngọc ăn không được, đạp cửa vào hét to: "Quá lắm nhỉ!" Hai người nghe động, ôm lấy áo sợ run lên.
    Dính Yên trông thấy Bảo Ngọc, vội quỳ xuống kêu van. Bảo Ngọc nói:
    - Đương lúc ban ngày ban mặt, mày làm trò gì thế? Nếu anh Trân biết thì mày sống hay chết?
    Nhìn lại thấy người con gái, mặt mũi sạch sẽ, tuy không đẹp lắm, nhưng có vẻ dễ thương, hổ thẹn cúi đầu, đứng im không nói gì. Bảo Ngọc giậm chân nói:
    - Còn không đi à?
    Cô gái nghe xong chạy đi ngay. Bảo Ngọc lại theo ra nói to:
    - Đừng sợ! Tao không mách ai đâu.
    Dính Yên vội kêu lên:
    - Ông trẻ ơi! Thế là ông mách người ta rồi còn gì?
    - Con bé ấy bao nhiêu tuổi?
    - Độ mười sáu mười bảy tuổi.
    - Ngay tuổi nó mày cũng không hỏi, mà đã làm cái trò ấy! Thật là nó vớ uổng phải mày! Đáng thương! Đáng thương! Còn tên nó là gì?
    - Nếu nói tên nó ra thì chuyện cũng dài và mới lạ lắm. Nó nói: khi sắp đẻ, mẹ nó nằm mộng thấy được một tấm gấm, trên mặt thêu hoa năm sắc hình chữ "Vạn", vì thế đặt tên nó là Vạn Nhi.
    - Thế thì lạ thật, chắc sau này nó cũng khá đấy.
    Nói xong, Bảo Ngọc lặng lẽ nghĩ ngợi giờ lâu.
    Dính Yên hỏi:
    - Hát hay thế, sao cậu không xem?
    - Xem một chốc, buồn quá, chạy ra ngoài chơi thì gặp chúng bay. Bây giờ nên làm gì đây?
    Dính Yên cười khì khì:
    - Bây giờ không ai biết, tôi lẳng lặng đưa cậu ra ngoài thành chơi một chốc rồi sẽ về.
    - Không được, cẩn thận đấy, kẻo mẹ mìn nó bắt đi. Và nếu họ biết thì lại làm ầm lên. Sao bằng đi chơi nơi nào gần đây rồi lại trở về.
    - Nếu đi gần đây thì nên đến nhà ai? Kể cũng khó đấy!
    - Cứ ý ta, chúng ta đến thăm chị Hoa(1) xem chị ấy ở nhà làm gì.
    (ND: Tập Nhân họ Hoa)
    - Được được, nhưng tôi không nhớ nhà chị ta. Vả lại, nếu họ biết tôi dẫn cậu đi chơi nhảm, thì tôi sẽ bị đòn.
    - Đã có ta.
    Dính Yên nghe nói, dắt ngựa đến, rồi hai người từ cửa sau đi ra. May là nhà Tập Nhân không xa, chỉ độ nửa dặm đường thoắt đã đến cửa.
    Dính Yên vào trước gọi anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương. Bấy giờ mẹ Tập Nhân đương ăn hoa quả với Tập Nhân và mấy người cháu gái. Nghe bên ngoài có người gọi "anh Hoa", Hoa Tự Phương vội chạy ra, thấy hai thầy trò Bảo Ngọc. Hắn sợ hãi không biết có việc gì, vội vàng bế Bảo Ngọc xuống ngựa, rồi chạy vào nhà nói to: "Cậu Bảo đến đấy!" Tập Nhân nghe thấy, không biết chuyện gì, vội chạy ra đón, dắt tay Bảo Ngọc, hỏi:
    - Có việc gì mà cậu đến đây?
    - Buồn quá, đến xem chị làm gì thôi.
    Tập Nhân nghe xong mới yên lòng, nói:
    - Cậu cũng liều quá, đến đây làm gì?
    Rồi hỏi Dính Yên:
    - Còn có ai đi theo hầu không?
    - Chẳng có ai cả.
    Tập Nhân lại sợ hãi nói:
    - Như thế sao được! Nếu gặp người quen, hay ông nhà hoặc ngoài đường người chen, ngựa giẫm, có việc gì xảy ra thì sao? Có phải chuyện chơi đâu? Các người quả to gan thật. Chỉ tại thằng Dính Yên bày trò ra cả. Khi về, ta mách các vú nhất định đánh cho chết thằng giặc này.
    Dính Yên bĩu mỏ nói:
    - Cậu mắng tôi, đánh tôi, bắt phải đưa đi, bây giờ lại đổ tội cho tôi. Tôi đã bảo đừng đến mà! Nếu thế, chúng tôi về quách.
    Hoa Tự Phương khuyên can:
    - Cậu đã trót đến đây rồi, nói lôi thôi mãi làm gì. Chỉ hiềm nhà tôi nhà rách, vách nát, chật hẹp, bẩn thỉu, biết mời cậu ngồi đâu được?
    Mẹ Tập Nhân ra đón. Bảo Ngọc thấy trong buồng có bốn năm người con gái. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều cúi đầu, thẹn đỏ mặt. Mẹ con Hoa Tự Phương sợ Bảo Ngọc lạnh, mời lên ngồi trên bục, mang hoa quả, nước trà đến. Tập Nhân cười nói:
    - Đừng làm cuống lên, vô ích, tôi biết cậu ấy rồi, đừng nên cho ăn nhảm.
    Nói xong đem cái nệm của mình giải trên ghế, rồi dắt Bảo Ngọc ngồi xuống. Lại mang cái ***g ấp chân của mình để vào chân Bảo Ngọc. Lại lấy ở túi ra hai cái bánh mai hoa đưa cho Bảo Ngọc và đốt ***g ấp tay của mình, đậy kín lại, để vào lòng Bảo Ngọc. Rồi lại lấy chén riêng của mình pha trà mời Bảo Ngọc uống. Bấy giờ anh và mẹ Tập Nhân đã bày sẵn một mâm hoa quả. Tập Nhân thấy không có gì đáng ăn, liền cười nói:
    - Cậu đã đến đây, có nhẽ nào lại về không, hãy nếm một tí gọi là lần đầu đến chơi nhà tôi.
    Nói xong, lấy một ít hạt dẻ bóc sạch vỏ, đựng vào khay tay đưa cho Bảo Ngọc.
  9. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Bảo Ngọc trông thấy Tập Nhân hai mắt đỏ hoe, mặt phấn hơi ướt, khẽ hỏi:
    - Chị khóc gì thế?
    - Ai khóc bao giờ, vì ngứa mắt, tôi dụi đấy thôi.
    Rồi bỏ qua chuyện ấy. Nhân thấy Bảo Ngọc mặc áo vóc đỏ chẽn tay, thêu rồng vàng lót da cáo, ngoài khoác áo xanh lót da cừu. Tập Nhân nói:
    - Khi cậu đến đây mặc áo mới, ở nhà không ai hỏi à?
    - Anh Trân mời xem hát, nên mới thay mặc bộ này.
    Tập Nhân gật đầu, lại nói:
    - Hãy ngồi một lát rồi về. Chỗ này không phải là chỗ cậu đến đâu nhé.
    - Chị nên về nhà ngay mới được. Tôi đã để phần chị một thứ ngon lắm.
    - Nói khẽ chứ, người ta nghe thấy thì còn ra làm sao?
    Rồi giơ tay tháo "viên ngọc thiêng" ở cổ Bảo Ngọc ra, cười nói với các chị em:
    - Này hãy xem đi. Ngày thường các chị cứ phàn nàn không được trông thấy của hiếm này, bây giờ thì xem cho chán đi, có gì là lạ, chẳng qua nó cũng chỉ thế thôi.
    Nói xong, Tập Nhân đưa viên ngọc cho mọi người chuyền tay nhau xem một lượt, rồi lại đeo vào cổ Bảo Ngọc.
    Tập Nhân bảo người anh đi thuê xe hoặc kiệu đưa Bảo Ngọc về. Hoa Tự Phương nói:
    - Để tôi đưa đi, cậu ấy cưỡi ngựa cũng được.
    Tập Nhân nói:
    - Không phải là không được, chỉ sợ người ta trông thấy.
    Hoa Tự Phương vội đi thuê một cỗ kiệu lớn, mọi người không tiện giữ lại, đành để Bảo Ngọc ra về. Tập Nhân lại đưa một nắm quả cho Dính Yên và cho nó tiền mua pháo, rồi bảo:
    - Nếu nói với ai, cả mày cũng có tội đấy.
    Rồi đưa Bảo Ngọc ra cửa, lên xe, buông màn xuống. Hoa Tự Phương và Dính Yên dắt ngựa đi theo. Đến phủ Ninh, Dính Yên bảo dừng xe, rồi nói với Hoa Tự Phương:
    - Tôi và cậu Hai hãy vào phủ Đông chơi một lúc sẽ về, để người ta khỏi ngờ.
    Hoa Tự Phương cho là phải, vội ẵm Bảo Ngọc xuống kiệu, rồi đỡ lên ngựa. Bảo Ngọc cười:
    - Làm phiền anh quá.
    Liền đi về cửa sau.
    *
    * *​
    Thấy Bảo Ngọc đi vắng, lũ a hoàn tha hồ chơi đùa, đánh cờ, đánh bài, vất đầy vỏ hạt dưa ra. Vú Lý chống gậy đến thăm Bảo Ngọc, thấy bọn a hoàn xúm nhau lại chơi đùa, vú rất khó chịu, thở dài:
    - Dạo này ta ít đến đây, chúng bay càng làm bừa bãi quá. Các vú khác chẳng ai dám nói động đến chúng bay cả. Bảo Ngọc như cây đèn cao ngất, chỉ biết đi soi nhà người, còn nhà mình thì không hề soi đến, để cho chúng nó phá phách đến thế này, chẳng còn thể thống gì cả.
    Bọn a hoàn xưa nay biết Bảo Ngọc không để ý đến những việc lặt vặt; vú Lý đã thôi việc cáo lão về nhà rồi, còn cai quản thế nào được chúng. Vì thế, mụ nói gì mặc mụ, chúng cứ việc chơi đùa. Vú Lý lại hỏi:
    - Bây giờ Bảo Ngọc mỗi bữa ăn được bao nhiêu cơm? Đến giờ nào đi ngủ?
    Bọn a hoàn trả lời qua loa. Có đứa còn nói: ?oCái mụ già này chán thật!?
    Vú Lý lại hỏi:
    - Bánh sữa trong bát kia sao không đưa ta ăn?
    Nói xong, vú Lý lấy ngay ra ăn. Một a hoàn bảo:
    - Mụ đừng động vào! Cậu bảo là để phần chị Tập Nhân. Lát nữa cậu về là lôi thôi đấy. Má ăn thì má phải chịu lấy, đừng để rầy rà đến chúng tôi.
    Vú Lý nghe xong vừa tức vừa xấu hổ, liền nói:
    - Ta không ngờ cậu ấy lại xử tệ với ta như thế. Đừng nói một bát bánh sữa chứ một thứ gì quý giá hơn nữa ta ăn cũng đáng. Lẽ nào cậu ấy lại quý Tập Nhân hơn ta? Lẽ nào cậu ấy lại không nghĩ vì ai mới lớn được như thế? Vì máu ta hoá sữa cho cậu ấy bú rồi mới lớn lên. Bây giờ ta ăn một bát bánh sữa mà cậu ấy lại sinh sự với ta à? Ta cứ ăn, xem cậu ấy làm trò gì? Chúng bay có biết Tập Nhân là đứa thế nào không? Nó là một đứa a hoàn bé con, do tay ta gây dựng, chứ có quý hoá gì.
    Vừa nói vừa tức, vú ăn hết cả bát bánh sữa. Một a hoàn cười nói:
    - Các chị ấy vụng về, làm má tức giận. Cậu Bảo Ngọc vẫn thường biếu má thứ này thứ khác luôn, có nhẽ nào vì một bát bánh sữa mà cậu ấy không bằng lòng?
    Vú Lý nói:
    - Chúng mày cũng đừng nói mèo nói cáo đánh lừa ta. Mày tưởng bận trước chuyện đập chén trà của con Phiến Tuyết, ta không biết à? Ngày mai có xảy ra điều gì, ta sẽ đến nhận.
    Nói xong hầm hầm đi ra.
    Một lúc Bảo Ngọc về, sai người đi đón Tập Nhân, thấy Tình Văn nằm dài trên giường không dậy. Bảo Ngọc hỏi:
    - Ốm hay thua bạc đấy?
    Thu Văn nói:
    - Nguyên là nó được bạc, nhưng vì vú Lý đến làm ồn, nó đối đáp không lại, nó tức khí đi ngủ đấy thôi.
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Các chị đừng để ý đến mụ ấy, mặc kệ mụ ấy là hơn.
    Ngay sau đó, Tập Nhân về, mọi người chào nhau. Tập Nhân hỏi Bảo Ngọc hôm nay ăn cơm ở đâu? Về sớm hay muộn? Lại nói mẹ và em gửi lời hỏi thăm các chị em. Rồi thay quần áo, bỏ đồ trang sức ra. Bảo Ngọc sai người lấy bánh sữa. Bọn a hoàn nói: "Vú Lý ăn cả rồi". Bảo Ngọc toan hỏi, thì Tập Nhân vội cười nói:
    - Thế ra để phần cái ấy à? Cám ơn cậu lắm. Hôm nọ vì thấy ngon, tôi ăn nhiều, đâm ra đau bụng, sau phải nôn ra mới khỏi. Bà ấy ăn cho là may, nếu cứ bỏ đấy cũng phí đi thôi. Tôi chỉ thích ăn hạt dẻ, cậu bóc giùm cho mấy hạt để tôi đi thu dọn giường chiếu đây.
    Bảo Ngọc nghe nói tưởng thật, không nghĩ đến chuyện bánh sữa nữa. Bèn lấy hạt dẻ đến gần đèn ngồi bóc. Nhân thấy trong buồng vắng người, Bảo Ngọc cười hỏi Tập Nhân:
    - Hôm nay cái người mặc áo đỏ là bà con thế nào với chị?
    - Là chị con bà dì tôi đấy.
    Bảo Ngọc nghe nói thở dài mấy cái.
    Tập Nhân nói:
    - Việc gì mà cậu thở dài? Tôi biết bụng cậu rồi. Cậu cho là chị ấy không đáng mặc áo đỏ chứ gì?
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Không phải thế, không phải thế! Người như thế không đáng mặc thì còn ai đáng? Vì tôi trông thấy chị ấy đẹp thật, làm thế nào để chị ấy đến ở với chúng ta thì hay lắm.
    Tập Nhân cười nhạt:
    - Một mình tôi làm tôi đòi chưa đủ, cậu muốn dắt cả bà con họ hàng tôi vào nữa hay sao? Cậu thì muốn chọn tất cả những người con gái thật đẹp đến ở nhà này ấy?
    Bảo Ngọc vội cười nói:
    - Chị lại hay đa nghi! Tôi bảo chị ấy đến ở nhà tôi, chứ có phải nhất định đến đây làm tôi đòi đâu; coi chị ấy như họ hàng không được à?
    Tập Nhân nói:
    - Đâu dám chơi trèo thế.
    Bảo Ngọc không nói gì nữa, chỉ bóc hạt dẻ. Tập Nhân cười hỏi:
    - Sao không nói chuyện nữa đi? Chắc vừa rồi tôi nói có điều trái ý cậu. Ngày mai tức khí cậu phí mấy lạng bạc mua họ về là được ngay chứ gì?
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Nói thế còn ai biết trả lời thế nào? Chẳng qua tôi khen chị ấy đẹp, đáng lẽ phải sinh vào nơi cửa cao nhà rộng như ở đây. Trái lại chúng tôi là hạng ô trọc lại được đẻ ở nhà này!
    Tập Nhân nói:
    - Chị ấy tuy không được may mắn như cậu nói, nhưng cũng được nuôi nấng chiều chuộng. Dượng và dì tôi coi như viên ngọc quí vậy. Năm nay chị ấy mười bảy tuổi, các đồ tư trang đã sắm đủ cả, sang năm sẽ đi lấy chồng.
    Bảo Ngọc nghe hai tiếng "lấy chồng", không nhịn được, lại thở dài, trong bụng áy náy khó chịu. Tập Nhân lại than thở:
    - Trong mấy năm nay, chị em mỗi người mỗi ngả, nay tôi đang định xin về, thì họ lại sắp đi cả.
    Bảo Ngọc nghe câu nói có ý tứ, giật mình, bỏ ngay hạt dẻ xuống hỏi:
    - Vì cớ gì chị lại muốn về?
    Tập Nhân nói:
    - Hôm nay tôi thấy mẹ tôi và anh tôi bàn với nhau bảo tôi cố ở rốn lại một năm. Sang năm sẽ xin chuộc về.
    Bảo Ngọc nghe nói, cuống cả lên hỏi:
    - Làm sao lại chuộc chị về?
    Tập Nhân nói:
    - Cậu hỏi mới lạ chứ? Tôi có phải như những người khác, đời đời làm tôi đòi đâu. Cả nhà tôi ở nơi khác, chỉ có một mình tôi ở đây sao lại để mãi thế được?
    - Nhưng tôi không bằng lòng thì chị cũng khó mà về được.
    - Xưa nay không có nhẽ nào như thế. Đừng nói nhà cậu, ngay đến trong cung nhà vua cũng có lệ nhất định, mấy năm một lần tuyển, mấy năm một lần thải về, không có nhẽ nào giữ mãi người ta ở lại được.
    Bảo Ngọc nghĩ thấy có lý, lại nói:
    - Nhưng cụ không cho chị về thì sao?
    Tập Nhân nói:
    - Tại sao lại không cho tôi về? Nếu quả khó tìm được một người như tôi, cụ và bà Hai có bụng tiếc, cho nhà tôi thêm mấy lạng bạc nữa, giữ tôi ở lại, thì cũng có lý. Nhưng thực ra, tôi cũng chỉ là hạng tầm thường, còn rất nhiều người hơn. Khi bé, tôi theo cụ rồi hầu cô Sử mấy năm, bây giờ đến hầu cậu. Giá nhà tôi đến chuộc, có lẽ không mất tiền chuộc mà nên gia ơn cho tôi về mới phải. Còn bảo rằng tôi hầu cậu khéo, không cho về, thì không bao giờ có chuyện như vậy. Phận sự tôi là phải khéo hầu, chứ nào có công trạng gì. Tôi về thì sẽ có người hầu khéo hơn, đừng sợ vắng tôi không có người làm nổi việc.
    Bảo Ngọc nghe vậy, thấy Tập Nhân chỉ muốn về chứ không muốn ở, trong bụng càng bồn chồn, liền nói:
    - Chị nói thì đúng đấy, nhưng tôi cứ giữ chị lại, thế nào cụ cũng nói chuyện với bà nhà, và đưa thêm ít tiền, chắc bà cũng không nỡ đón chị về nữa.
    Tập Nhân nói:
    - Khi nào mẹ tôi dám cưỡng. Đừng kể đến chuyện nói tử tế và cho thêm tiền, dù chẳng bảo gì, chẳng cho đồng nào, cứ bắt tôi ở lại, mẹ tôi cũng không dám trái lệnh. Nhưng nhà ta xưa nay chẳng cậy thần thế ức hiếp bao giờ. Việc này không thể ví với các việc khác được, hễ cậu thích là bỏ nhiều tiền ra mua, người bán hàng không bị thiệt thế là được rồi. Nay vô cớ, giữ tôi lại, đã không ích gì cho cậu, lại làm cho ruột thịt nhà tôi chia lìa nhau. Việc này cụ và bà Hai có nỡ làm không?
    Bảo Ngọc nghe xong nghĩ một lúc rồi nói:
    - Theo lời chị nói thì chị định đi thật à?
    Tập Nhân nói:
    - Định đi thật.
    Bảo Ngọc nghĩ bụng: "Không ngờ người thế mà lại bạc tình bạc nghĩa!" Liền than thở:
    - Nếu sớm biết ai cũng định đi cả, thì mình chuốc đến đây làm gì. Có lẽ sau này chỉ còn trơ trọi một mình.
    Nói xong, bực bội lên giường ngủ
  10. letdown

    letdown Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/05/2004
    Bài viết:
    145
    Đã được thích:
    0
    Nguyên khi về nhà, Tập Nhân được tin mẹ và anh muốn chuộc mình về. Tập Nhân nhất định không chịu, nói:
    - Ngày trước nhà ta không có bát ăn, chỉ có một mình tôi là đáng giá mấy lạng bạc; nếu không bán tôi đi, để mẹ chết đói, sao cho đành lòng. Bây giờ may mắn tôi được vào nơi này, ăn mặc cũng như chủ nhà, lại không bị đánh hôm chửi mai gì. Vả chăng, cha đã chết rồi, nhà ta lại gây dựng được cơ nghiệp. Ví còn nghèo túng, định chuộc tôi về để kiếm thêm ít tiền, thì đã đành rồi. Nhưng thực ra nhà ta không đến nỗi thế. Vậy định chuộc tôi về làm gì? Cư coi như tôi đã chết rồi là xong, đừng nên nghĩ đến chuyện ấy nữa.
    Rồi chị ta khóc lóc một hồi.
    Mẹ và anh thấy Tập Nhân cương quyết như thế, tất nhiên là không chịu về. Vả chăng, trong văn tự là bán đứt. Nhưng thấy họ Giả là một nhà từ thiện phúc đức, nếu đến xin nài, có thể không phải mất tiền chuộc. Hai là họ Giả xưa nay ân nhiều uy ít chưa từng hành hạ người nhà bao giờ, bao nhiêu con gái hầu thân trong các phòng đều được biệt đãi, ngay các cô gái nhà thường dân chưa chắc đã được quý trọng bằng. Sau đó Bảo Ngọc đến chơi, sự thân mật giữa họ làm cho hai mẹ con càng thấy rõ như ban ngày, thật là ngoài sức tưởng tượng. Từ đó mọi người yên lòng, không nghĩ đến việc chuộc nữa.
    Tập Nhân thấy Bảo Ngọc từ bé tính tình khác thường, cáu kỉnh, ngang bướng khác mọi đứa trẻ. Lại có những nết xấu rất kỳ quặc, không thể nói hết. Lâu nay được bà nuông chiều, bố mẹ không dám ngăn cấm. Bảo Ngọc càng phóng túng dông dài, không thích chăm lo việc chính. Nhiều lúc, Tập Nhân muốn khuyên nhủ, nhưng biết Bảo Ngọc chẳng chịu nghe nào. May sao hôm nay nhân có dịp nhà muốn chuộc mình về, Tập Nhân nói dối để dò ý và ngăn chặn Bảo Ngọc nhụt bớt đi, rồi sẽ tìm cách khuyên răn. Thấy Bảo Ngọc lẳng lặng đi ngủ, biết rằng cậu ta không nỡ dứt tình vơi mình và lòng đang chán nản. Tập Nhân vốn không thích ăn hạt dẻ, nhưng sợ vì một bát bánh sữa mà sinh chuyện, lại như chuyện chén trà của Phiến Tuyết lần trước, nên nói dối là thích ăn, để đánh lảng câu chuyện. Sau đó, chị ta cho bọn a hoàn nhỏ đem đi ăn, rồi đến đánh thức Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc nước mắt giàn giụa, Tập Nhân nói:
    - Việc gì mà phải đau buồn thế? Nếu cậu thực bụng giữ lại thì khi nào tôi đi!
    Bảo Ngọc thấy câu nói ý vị, liền nói:
    - Theo như chị nói, thì tôi giữ chị lại làm sao được? Và chính tôi cũng chẳng biết nói thế nào nữa.
    Tập Nhân cười:
    - Hai chúng ta ngày thường tử tế với nhau, cái đó không cần phải nói. Nhưng cậu muốn giữ tôi ở lại, thì không phải chỉ ở chỗ tử tế với nhau. Tôi đề ra ba việc, cậu có nghe thì mới là thực bụng giữ tôi ở lại, dù dao kề cổ cũng không khi nào tôi đi.
    Bảo Ngọc cười:
    - Chị nói đi! Những việc gì? Chị ơi, chẳng cứ ba việc, đến ba trăm việc tôi cũng theo; chỉ mong các chị ở đây trông nom tôi giữ gìn tôi, khi nào tôi hóa thành tro bay, nhưng tro bay cũng chưa được, vì nó còn dấu vết, còn có tri thức! Phải chờ khi nào tôi hóa thành một làn khói nhẹ, gió thổi một cái là tan ngay, các chị không trông nom được tôi, tôi cũng chẳng đoái hoài đến các chị, lúc ấy tôi cũng vậy, các chị cũng vậy, tha hồ muốn đi đâu thì đi.
    Tập Nhân vội vàng bịt mồm Bảo Ngọc lại bảo:
    - Khéo lắm! Tôi đang muốn ngăn đi, cậu lại mở miệng nói độc rồi.
    - Từ rày tôi không nói thế nữa.
    - Đấy là điều thứ nhất cậu cần phải đổi ngay.
    - Xin đổi. Nếu tôi nói nữa thì chị cứ vả vào mồm tôi! Còn việc gì nữa không?
    - Còn việc thứ hai: cậu thực lòng thích học hay giả vờ cũng mặc, nhưng không nên chê bai bừa bãi trước mặt ông nhà và mọi người. Cậu nên làm ra dáng chăm học để ông nhà đỡ bực mình và nên lựa lời nói khéo lấy lòng người ta. Trong bụng ông thường nghĩ nhà ta đời đời đọc sách, không ngờ từ khi có cậu, không những biếng học, làm cho ông buồn bực, lại khi vắng mặt người ta thì cậu hay chê bai nhảm nhí. Những người đọc sách để tìm đường tiến thủ, cậu đều đặt cái tên riêng cho họ như "con mọt ăn lộc?. Cậu lại nói, trừ mấy chữ "minh minh đức? ra, thì không còn sách nào nữa, toàn là do ý nghĩ nhảm nhí của người trước biên chép ra. Nói như thế tránh sao ông chả giận, chả muốn đánh cậu?
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Thôi, không nói thế nữa. Đó là lúc tôi còn bé, không biết trời cao đất dày, quen miệng nói nhảm. Từ giờ tôi không dám nói những câu ấy nữa. Còn việc gì nữa không?
    Tập Nhân nói:
    - Cậu không được chế nhạo tăng đạo, không được chơi hoa chơi phấn. Điều cần nhất là không được ăn những sáp non đã đánh ở trên môi người ta, và những nết tính xấu như ưa thích màu hồng.
    - Xin chừa hết, xin chừa hết. Còn việc gì nữa nói nết ra.
    - Chẳng còn gì nữa, chỉ cần mọi việc, cậu phải suy nghĩ cẩn thận, không được làm liều là được rồi. Nếu cậu quả thực nghe theo những lời tôi khuyên, thì dù đem kiệu tám người khiêng đến, cũng không thể rước nổi tôi ra khỏi nhà này.
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Chị cứ ở đây, cũng có lúc ngồi kiệu tám người khiêng.
    Tập Nhân cười nhạt:
    - Cái đó tôi chẳng thèm khát gì. Có phúc mà không có đức thì dù được ngồi kiệu cũng chẳng thú gì.
    Hai người đương nói chuyện, thấy Thu Văn đến giục:
    - Canh ba rồi, nên đi ngủ thôi. Vừa rồi cụ sai người sang hỏi, tôi trả lời cụ đã ngủ rồi.
    Bảo Ngọc lấy đồng hồ xem thì kim đã trỏ giờ tý hai khắc, bấy giờ mới bắt đầu rửa mặt súc miệng, cởi áo đi nằm.
    Sáng hôm sau, Tập Nhân dậy, thấy người khó chịu, đầu nhức, mắt hoa, chân tay nóng nực, lúc đầu còn cố, sau không gượng nổi, chỉ thích ngủ, bèn để nguyên cả áo nằm xoài trên giường. Bảo Ngọc vội trình Giả mẫu cho mời thầy xem mạch.
    Thầy thuốc nói bị cảm lạnh, uống một vài thang phát tán sẽ khỏi. Rồi kê đơn sai người đi lấy thuốc về sắc. Bảo Ngọc dặn Tập Nhân uống xong phải trùm chăn cho ra mồ hôi. Sau đó Bảo Ngọc đến thăm Đại Ngọc. Đại Ngọc đương nằm ngủ trưa. Bọn a hoàn đi chơi cả. Trong nhà im lặng như tờ. Bảo Ngọc vén rèm thêu vào, lay Đại Ngọc dậy, nói:
    - Cô em vừa ăn xong đã đi ngủ à?
    Đại Ngọc tỉnh dậy, thấy Bảo Ngọc, nói:
    - Anh hãy ra ngoài chơi. Đêm qua tôi thức cả đêm, hôm nay chưa được nghỉ, đau nhừ cả người.
    Bảo Ngọc nói:
    - Đau mình là sự thường, chứ ăn mà ngủ ngay, thì thành bệnh to. Tôi sẽ làm cho cô em đỡ buồn, để quên ngủ thì hơn.
    Đại Ngọc cứ nhắm mắt, nói:
    - Tôi không ngủ, chỉ nằm nghỉ một lát, anh hãy ra ngoài chơi, chốc nữa sẽ đến.
    Bảo Ngọc nói:
    - Tôi đi đâu bây giờ?
    Đại Ngọc phì cười, rồi nói:
    - Nếu muốn ở lại đây, thì sang bên kia ngồi nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ nói chuyện.
    - Tôi cũng muốn ngả lưng.
    - Thì anh cứ ngả lưng.
    - Nhưng không có gối. Chúng ta gối chung một gối vậy.
    - Bậy nào! Ở ngoài kia chẳng có gối là gì? Mang một cái đến mà gối.
    Bảo Ngọc ra bên ngoài, nhìn một lượt rồi quay vào nói:
    - Cái gối kia tôi không cần, không biết đó là gối của mụ già nào mà bẩn thế!
    Đại Ngọc nghe nói, trừng mắt đứng dậy nói:
    - Anh thực là sao "thiên ma" trong lá số của tôi. Đây xin mời gối cái gối này.
    Nói xong, Đại Ngọc đưa cái gối của mình cho Bảo Ngọc, rồi lấy cái gối khác để gối. Hai người nằm đối diện nhau.
    Đại Ngọc nhìn thấy bên má trái Bảo Ngọc có một nốt đỏ bằng cái khuya áo, liền xích lại gần lấy tay xoa kỹ xem rồi nói:
    - Đã bị móng tay ai cào sứt ra đây?
    Bảo Ngọc nằm nghiêng lại, cười nói:
    - Chẳng có ai cào cả. Có lẽ lúc nãy lọc sáp cho họ bị sáp bắn lên một giọt.
    Nói xong tìm khăn để lau. Đại Ngọc lấy khăn lụa của mình lau hộ, và chép miệng:
    - Anh lại làm những trò ấy à? Làm thì đã đành rồi, nhưng cũng cần phải giấu đi. Dù cậu không thấy, nhưng nếu người khác thấy thì họ cho là một việc lạ lùng quái gở, sẽ kháo ầm lên, đến tai cậu thì chẳng ai yên được đâu.
    Nhưng Bảo Ngọc chẳng nghe gì cả, chỉ ngửi thấy mùi thơm ở trong tay áo Đại Ngọc đưa ra, làm Bảo Ngọc tâm hồn mê mẩn, liền kéo tay áo Đại Ngọc xem trong ấy đeo thứ hương gì. Đại Ngọc cười nói:
    - Đương buổi trưa này ai đeo hương làm gì?
    - Thế thì mùi thơm này ở đâu ra?
    - Tôi cũng không biết, hay là mùi hương ở trong hòm áo.
    Bảo Ngọc lắc đầu:
    - Chưa chắc. Mùi hương này lạ lắm, không giống như mùi hương bánh, hương quả cầu và hương trong túi đâu.
    Đại Ngọc cười nhạt:
    - Làm gì có vị La Hán chân nhân nào đem cho tôi những mùi hương lạ ấy? Dù có chăng nữa, cũng chẳng có anh em ruột thịt nào lấy hoa, lấy nhụy, lấy sương, lấy tuyết chế ra cho tôi. Tôi chỉ có những thứ hương phàm tục thôi.
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Hễ tôi nói một câu, là em lại sinh sự bắt bẻ. Nếu không trị cho em một phen đáo để thì em không biết tay, từ giờ không tha thứ nữa đâu.
    Nói xong, giơ hai tay lên, lấy ngón tay cù vào hai bên cạnh sườn Đại Ngọc. Đại Ngọc có máu buồn, thấy Bảo Ngọc giơ tay muốn cù thì cười giốc lên:
    - Anh Bảo Ngọc, anh đùa nữa tôi giận đấy.
    Bảo Ngọc mới dừng tay lại cười hỏi:
    - Còn nói thế nữa thôi?
    Đại Ngọc cười nói:
    - Không dám nói nữa ạ.
    Rồi vén tóc cười:
    - Tôi có mùi "hương lạ" thì anh có mùi "hương ấm?(2) không?
    (ND: Đại ngọc nói bóng gió đến "lãnh huơng hoàn" (viên thuốc hương lạnh) của Bảo Thoa)
    Bảo Ngọc nghe không hiểu, hỏi:
    - Thế nào là "hương ấm"?
    Đại Ngọc cười nói:
    - Ngu quá! Anh có ngọc thì người ta có vàng để sánh đôi, thế mà người ta có "hương lạnh", anh lại không có "hương ấm" à?
    Bảo Ngọc mới nghe ra, cười nói:
    - Vừa mới xin lỗi, đã lại nói kháy rồi.
    Nói xong, lại chực giơ tay cù.
    Đại Ngọc cười:
    - Anh ơi! Tôi không dám thế nữa!
    Bảo Ngọc cười nói:
    - Tha cho em cũng dễ thôi, nhưng phải đưa tay áo cho tôi ngửi.
    Bảo Ngọc kéo tay áo Đại Ngọc trùm vào mặt ngửi mãi. Đại Ngọc giật tay nói:
    - Thôi anh nên về đi.
    Bảo Ngọc cười:
    - Tôi không về đâu. Chúng ta cùng nằm tử tế nói chuyện với nhau.
    Bảo Ngọc lại nằm ngả mình xuống. Đại Ngọc cũng nằm, lấy khăn lụa che mặt.

Chia sẻ trang này