1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Huế - Thông tin du lịch

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi ghost2k1, 17/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. loops

    loops Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/01/2004
    Bài viết:
    303
    Đã được thích:
    0
    Thuongha quả là đại gia, dùng 750k chỉ để trả tiền phòng, tức là 150k/đêm.
    funlove_bee ơi, mình làm một quả auction nhé. Tớ bid là cậu chỉ cần chi tiêu 650k là đủ một tour năm ngày rồi.
    Chúc vui
  2. thuongha

    thuongha Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2003
    Bài viết:
    89
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng chẳng phải đại gia gì đâu,nhưng nếu bạn ở nhà trọ cũng đã 50ngàn 1ngày,5x50=250,tien an thi mot ngay do 25ngan=5x25=125ngan,roi ngoai ra con tien tieu vat,thue xe may,hay xe dap hay la gi nua thi chang den a?ban xem thuong o Hue o co gi dat qua de tieu chu gi?Ban nham roi,di du lich ma di nhu ban thi tha dung di con hon.Toi tha gom gop quanh năm ma đi cho thoải mái con hơn đi ma lúc nào cũng lo ngay ngay la không đu tiền,để rồi khi ăn gì cũng đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành.Riêng tiền đi đến mấy cái lăng o bạn cũng mất khối tiền rồi.750ngan của bạn chưa phải là to lắm đâu.Tôi chỉ nói cho bạn biết thế thôi,chứ tôi thì đơn giản lắm.Tôi đi nhiều nên biết cách chi tiêu ở đâu cho hợp lý chứ.Sợ nhất cảnh đi mượn tiền.Khó chịu lắm.
  3. loops

    loops Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/01/2004
    Bài viết:
    303
    Đã được thích:
    0
    Thuongha ơi
    Sorry nhé nếu post của tôi hurt bạn. Có lẽ bạn là người Huế à. Tôi không phải người Huế, nhưng tôi cũng rất yêu Huế, và đã từng sống ở Huế vài tháng. Chẳng có lý do gì tôi lại định hạ thấp Huế cả.
    Mà ở Huế thì cũng có khối cái để tiêu tiền đấy. Ăn tối với múa cung đình này, có phải mỗi suất khoảng 10-15USD không. Tra***ional performance này, có phải vài chục USD không. Dancing ở mấy cái pub, đứng dậy cũng phải mất vài trăm ngàn. Hoặc mấy tay đàn ông ham chơi, tối xuống bến sông Hương đoạn đối diện trường Quốc học, lên thuyền nan đi dọc sông với một cô gái địa phương, lúc về có khi chỉ còn cái quần đùi thôi ấy chứ
    Tôi nghĩ funlove_bee là sinh viên, nên mới tính đi Huế bằng budget khoảng 750k. Tôi cũng từng là sinh viên, và cũng muốn đi mọi nơi nhưng lại chỉ muốn tiêu ít tiền. Tôi hiểu và chia sẻ cảm giác đó với funlove_bee. Tôi tin là với 750k funlove_bee có thể đi Huế được, tất nhiên là tằn tiện, nhưng không vì thế mà phải chui rúc trong nhà trọ, hay mang bánh mì đi gặm. Vẫn có thể đi được đường hoàng, dù không sang trọng. Phải không thuongha - a love for Hue.
    Còn tôi, bây giờ mỗi lần đi Huế, tôi bay máy bay và ở Hương Giang hoặc Saigon Morin. Có lẽ những kinh nghiệm đó, tôi sẽ không chia sẻ với funlove_bee làm gì.
    Anyway, tôi đoán thuongha là một cô gái Huế, nhẹ nhàng, dịu dàng và dễ bị tổn thương. Sorry nếu có điều gì làm bạn phật lòng. Đồng ý với tôi nhé, cute girl.
    To funlove_bee: Nếu quả thật cậu muốn đi Huế bằng budget khoảng 750k, msg cho tôi, có thể tôi sẽ có gợi ý gì hay chăng.
  4. thuongha

    thuongha Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2003
    Bài viết:
    89
    Đã được thích:
    0
    Thật ra mình cũng bất bình một chút thôi.Vì theo giọng điệu của funlove khong phai la sinh vien dau.vi di cong tac co ma.Ban cu doc ky đi.Và thực ra một sinh viên bây giờ cũng không phải là nghèo đâu.Họ đã có thể đi chơi cùng nhau để giảm chi phí.Và sự thật sinh viên bay gio dau co nhu chúng ta ngay xua,ngheo và khó.Bây giờ có nhiều cái hơn mình ngày xua và cũng có nhiều cái rẻ phục vụ không chỉ cho sinh viên mà cho tất cả mọi người.Mình cũng chỉ bực mình vì quá nhiều người xem đất Huế rẻ tiền quá.Cái rẻ chưa hẳn đã không đã không đặc sắc,Mà chính cái rẻ làm nên cái hiếu khách.Ngoài ra còn rẻ là vì đây là vùng đất nhận được nhiều sự ưu đãi của con người và thiên nhiên mà.Nếu đã từng ở Huế bạn sẽ yêu quý.Đó chỉ là ý kiến riêng.Ở đâu cũng có hai mặt cả.Mình nghĩ đừng nên nói nhiều mà chỉ nên tìm hiểu.Mình là người ở đâu không quan trọng.Cái chính là thấy không thoải mái thôi.Có một chuyện mình muốn nhắc bạn là con gái Huế thường ít làm cái nghề đó lắm.Có chăng là dân vùng khác đến và nói giọng Huế.Nhưng bề ngoài không làm nên cách sống.Thê nhé,chúc bạn vui vẻ.
  5. vuthanhminh

    vuthanhminh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2002
    Bài viết:
    4.150
    Đã được thích:
    0
    chúng ta làm bạn đồng hành có được không ??
    tui mới qua Huế về hôm qua mờ ???
  6. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    THÁC HANG CỌP
    khách quốc tế. Song lâu nay, du khách chỉ mới biết đến một Đà Lạt với những thắng cảnh, di tích mà chưa một lần thấy và đến thăm những buôn làng dân tộc thiểu số ắp đầy những huyền thoại. Những núi non điệp trùng, những cánh rừng đại thụ vi vút gió ngàn, và cả những thác nước kỳ vĩ tung bọt trắng xoá nằm ở vùng ven thành phố?
    Trong các con thác thuộc địa bàn Đà Lạt có thác Hang Cọp (tên gọi khác: Thác Long Nhân, thác ĐạSar, thác Ông Thuận), thuộc địa bàn thôn Tuý Sơn ?" Xã Xuân Thọ nằm cách Đà Lạt khoảng 15 km về phía Đông Bắc (qua Trại Mát). Đây là một thác nước nhiều tầng, bậc với khung cảnh thiên nhiên còn rất hoang dã. Tên gọi thác Hang Cọp là do người dân địa phương đặt, theo các già làng ở đây kể lại: Ngày xưa, có một con cọp ba chân rất hung dữ đã từng ở đây. Vào những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước con cọp dữ này đã bị người dân bẫy được và bây giờ chứng tích còn lại là một cái hang rất to nằm cạnh chân thác. Xung quanh khu vực thác (rộng trên 150 ha) có rừng thông đặc chủng và rừng hỗn giao khá xanh tốt còn lưu giữ nhiều nguồn gen thực vật quý hiếm, trong đó có nhiều loại thực vật có tên trong sách đỏ của Việt Nam như: Pơ Mu, Sa Mu, Thông lá dẹt? đang chờ đón các nhà nghiên cứu và những nhà khoa học chuyên ngành khảo sát và bảo lưu sự đang dạng sinh học ở vùng đất này.
    Từ trung tâm thành phố Đà Lạt, theo đường quốc lộ 20B ?" quốc lộ 11 cũ, xuôi về hướng Trại Mát 13km, rẽ trái 2,5km là đến thác. Hiện nay, thác đang do công ty TNHH Hoàng Tâm quản lý khai thác và mở cửa đón khách du lịch ?" với nhiều loại hình dịch vụ tham quan dã ngoại, nghỉ dưỡng? Nếu qua đêm, sáng ra-khi ánh mặt trời chiếu qua thác, du khách sẽ có dịp thưởng thức sắc cầu vòng luân chuyển giữa ngọn thác như ?chốn thiên thai? ở trần gian, làm cho con người quên đi mọi nỗi ưu phiền, bộn bề của cuộc sống. Từ trên cao nhìn xuống khu vực thác, du khách sẽ nhìn thấy điệp trùng đồi thông trong sương bảng lảng, gợi cho lòng người một nỗi niềm hoài cảm - có thể ứng tác ngay một tứ thơ, một bản nhạc về chốn thiên nhiên mơ màng này? Cũng chính vì vậy mà người dân địa phương còn gọi khu vực này là Thung lũng trắng.
    Nếu du khách đến với thác Hang Cọp từ hướng Phan Rang ?" Ninh Thuận, qua khỏi đèo Ngoạn Mục, rẽ sang QL 20B - theo đường đèo Dran dài 10km chạy qua những làng đồng bào dân tộc, thôn xóm đã hình thành từ khá xa xưa như Trạm Hành (Abre brorye?T), Cầu Đất (Entrerays), con đường tiếp tục uốn lượn qua những đồi thông điệp trùng, những vườn rau nổi tiếng của vùng Xuân Sơn, Xuân Thọ? qua vùng Trại Mát, Nam Hồ du khách có dịp ngắm nhìn những ruộng rau bậc thang ?" hình ảnh khá độc đáo và tiêu biểu của vùng ngoại vi Đà Lạt. Đặc biệt là khu vực Xuân Thọ, cách Đà Lạt 12km từng được mệnh danh là cao nguyên LangBiang nhỏ (Petit Langbiang). Trước đây, vùng này là khu vực lý tưởng của những chuyến vui chơi dã ngoại với những đồi thông thoai thoải, những thác nước đẹp hoang sơ? Giờ đây, khu du lịch thác Hang Cọp đã và đang tạo tác thêm nhiều công trình giải trí, những trò chơi mang màu sắc bản địa Tây Nguyên?có du khách nói rất văn hoa rằng: Thung lũng trắng giùng giằng ?níu chân lữ khách!
    --------------------------------------------------------------------------------
    HỒ (HỒ )XUÂN HƯƠNG Nguyên trước đây là một thung lũng đất đai phì nhiêu có dòng suối Lát chảy qua. Trong chương trình XD thành phố, người Pháp đã ngăn đập để chắn dòng suối Lát trở thành một hồ nhân tạo (đặt tên là Grand Lac), sau này vào năm 1956 được đổi tên là Xuân hương. Cái tên Xuân Hương của hồ không có gì gắn với nữ sỹ Hồ Xuân Hương nổi tiếng trong thi đàn của đất nước.
    Theo nhân dân kể lại, việc đổi tên Grand Lac của thời Pháp thành Xuân Hương là theo một chủ trương của nhà cầm quyền lúc bấy giờ muốn Việt hoá các địa danh đã có từ thời Pháp.
    Từ khi được mang tên Xuân Hương, một cái tên mỹ lệ duyên dáng, xứng đáng là tấm gương trong lành, trang điểm cho thành phố hoa lệ này.
    Hồ Xuân Hương có chu vi gần 5km, nước hồ xanh biếc vào mùa khô và đỏ ngầu vào mùa mưa lũ. Hồ càng lộng lẫy vào những ngày tháng cuối năm , mặt hồ lăn tăn gợn sóng, hoa anh đào nở rộ khoác cho hồ một bộ áo rực hồng, làm cho hồ nổi nét kiệu sa diễm lệ
    Hồ Xuân Hương dịu êm soi bóng khách sạn Palace, một công trình kiến trúc khá độc đáo, một di tích đáng ghi nhớ-nơi đã tiếp đoàn Đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dự cuộc hội nghị với thực dân Pháp năm 1946, để chuẩn bị cho hiệp ước chính thức giữa chính phủ ta và nhà cầm quyền thực dân Pháp về Việt Nam.
    Hồ Xuân Hương không chỉ là một thắng cảnh lộng lẫy, dịu dàng , chan chứa của tình yêu:
    Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
    Để nghe dưới đáy nước hố reo
    Để nghe tơ liễu rung trong gió
    Và để xem trời giải nghĩa yêu
    (Hàn Mặc Tử )
    Mà hồ Xuân Hương cũng đã bao lần nổi sóng cùng các phong trào đấu tranh của sinh viên, của nhân dân Đà Lạt vùng lên, của phụ nữ Đà Lạt trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cuả cả dân tộc.
    Cái đẹp, cái duyên dáng, cái kiêu sa, lộng lẫy của hồ Xuân Hương đã gắn với lịch sử đấu tranh bất khuất của thành phố Đà Lạt càng làm cho hồ Xuân Hương trở thành một thắng cảnh không những có đủ vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn có đầy đủ vẻ đẹp của một địa danh lịch sử địa phương.
    --------------------------------------------------------------------------------
    HỒ THAN THỞ
    Mỗi khi đặt chân đến Đà Lạt, du khách trước hết mong muốn đến hồ Than Thở - một thắng cảnh thơ mộng gắn với nhiều truyền thuyết về tình yêu dang dở của lứa đôi.
    Hồ ở cách trung tâm thành phố 6km về hướng Chi Lăng. Thời Pháp, tên hồ là Las des Soupirs. Sau 1976 còn có tên là hồ Sương Mai, nhưng du khách vẫn gọi là hồ Than Thở.
    Trước đây chung quanh hồ là rừng thông. Du khách có thể đi bộ hoặc đi ngựa trên những thảm cỏ xanh rì, nghỉ chân ở những nhà dù mái tranh đơn giản ngắm nhìn những giò phong lan rực rỡ toả ngát hương thơm. Hướng dẫn viên du lịch kể nhiều tình sử về hồ, những đậm nét nhất vẫn là câu chuyện về mối tình của Hoàng Tùng và Mai Hương ?" con cái những nhà trâm anh thế phiệt ở miền xuôi nhưng vì cha ông họ không sống nổi dưới ách thống trị hà khắc nên phải bỏ lên vùng này sinh sống. Ngày kia có tin giặc ngoại xâm giày xéo quê nhà, triều đình kêu gọi toàn dân chống giặc. Chàng trai Hoàng Tùng đành chia tay với người yêu lên đường cứu nước. Bên hồ vắng, cặp trai tài, gái sắc nguyện thề thuỷ chung chờ ngày tái hợp. Nhưng tin dữ đưa về: Hoàng Tùng tử trận. Mai Hương vô cùng đau khổ. Trong cơn tuyệt vọng, nàng đã đến nơi ngày xưa hai người hò hẹn, khóc than thảm thiết rồi trầm mình vào lòng nước xanh tự vẫn. Ít lâu sau, chàng trai chiến thắng trở về. Người yêu đã mất, Hoàng Tùng nhớ lại lời hẹn biển, thề non thủa trước và lấy lòng hồ xanh thẳm kết thúc cuộc đời để giữ một mối tình chung thuỷ. Cảm thương đôi trai gái bạc mệnh, từ đó rừng thông rì rầm khúc nhạc bi ai. Người đời gọi hồ Than Thở từ dạo ấy.
    --------------------------------------------------------------------------------
    --------------------------------------------------------------------------------
  7. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    HỒ TUYỀN LÂM
    Theo quốc lộ 20, lên đèo Prenn, qua khỏi thác Ðatanla rẽ về phía trái chừng hơn 1km, băng qua những rừng thông ngút ngàn, du khách sẽ bắt gặp một hồ nước mênh mông, xanh biếc và đầy vẻ quyến rũ - đó là hồ Tuyền Lâm.
    Với diện tích mặt nước khoảng 350ha, hồ Tuyền Lâm được tạo thành bởi dòng suối Tía. Tên hồ không biết có tự bao giờ và do ai đặt, nhưng có lẽ cũng do xuất phát từ khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ ở đây mà tên gọi ấy đã sống mãi. Ðó là nơi gặp gỡ giữa sông, suối và cây rừng
    Năm 1982, để đảm bảo nước tưới cho hàng trăm ha lúa của huyện Ðức Trọng, VN đã cho xây dựng đập ngăn nước tại đây. Năm năm sau, công trình được hoàn thành và đã dần dần trở nên một điểm tham quan, du lịch không thể thiếu đối với nhiều người. Với mặt nước mênh mông quanh co dưới chân những ngọn núi nhấp nhô, trùng điệp, ở mỗi khúc quanh, non nước trời mây hình như luôn biến đổi. Nơi này là rừng thông non, nơi kia là non cao với lớp lớp ngàn thông thẳng tắp. Tuyền Lâm ! thật đúng là non xanh nước biếc, phong cảnh hữu tình.Vào những ngày đẹp trời, dùng canô hay thuyền buồm du ngoạn trên mặt hồ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng tận mắt những đồi thông xanh mởn, xen giữa là những cụm rừng già và những sườn đồi thoai thoải, soi bóng xuống mặt hồ. Trước khung cảnh ấy, lòng ta như bâng khuâng, đồng thời lại có cảm giác như vừa trút bỏ được hết những vướng bận của bụi trần để bước chân vào chốn thần tiên.
    Buổi sớm, hồ nước phủ đầy sương trắng và yên tĩnh đến lạ kỳ, chỉ có tiếng chim quyện thành vòng, thành chuỗi để rồi tan xuống mặt hồ phẳng lặng. Buổi trưa bầu trời sáng láng, mặt hồ xanh biếc như biển khơi, lấp lánh ánh thủy tinh. Ðến chiều thì mềm ra trong ánh sáng mát lạnh và mặt hồ dần dần chuyển sang màu xanh thẫm. Nếu ngồi ở hồ Tuyền Lâm câu cá, làm thơ, hoặc đi dạo với người yêu vào những thời điểm như vậy, mới cảm nhận được hết vẻ kỳ ảo, thơ mộng và huyền diệu của cảnh sơn thủy hữu tình mà tạo hóa đã ban cho đất trời Ðà Lạt.
    Ðến hồ Tuyền Lâm, du khách không thể không viếng thăm thiền viện Trúc Lâm, một địa chỉ mà trong những năm gần đây đã in dấu vào tâm trí nhiều người dân Ðà Lạt. Từ hồ Tuyền Lâm nhìn lên quả đồi cao gần đó chúng ta sẽ thấy thấp thoáng, ẩn hiện xa xa một ngôi chùa. Ðó là thiền viện Trúc Lâm. Mặc dù chỉ mới khởi công xây dựng vào năm 1993 nhưng nơi đây lại thu hút khá đông du khách thập phương và dân sở tại nhất vào mùa du lịch, ngày rằm, mồng một, hay dịp lễ, tết. Vào những ngày như vậy, xe ô tô, xe máy xếp thành hàng dài trong khuôn viên thiền viện, có nhân viên bảo vệ trông coi cẩn thận mà không phải trả tiền như các điểm tham quan du lịch khác. Tiếng loa phóng thanh của thiền viện trầm nhẹ hướng dẫn du khách tham quan. Phần lớn những người đến đây là để lễ Phật và vãn cảnh thiền môn thanh tịnh.
    --------------------------------------------------------------------------------
    LANGBIANG
    Ðến Ðà Lạt, nhiều du khách không khỏi kinh ngạc trước vẻ đẹp của đồi núi chập chùng, đặc biệt là đỉnh Lang Bian hùng vĩ (còn gọi là Núi Bà) cao 2.169m, cùng rặng BiÐúp, mặc dù ngày nay Lang Bian thuộc về huyện Lạc Dương.
    Trong các truyền thuyết, thần thoại của các dân tộc thiểu số ở Ðà Lạt 3 rặng núi : Lang Bian, núi Khổng lồ (Nhút), và BiÐúp có mối quan hệ mất thiết với nhau và thường là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều văn nghệ sĩ. Riêng ngọn Lang Bian là hiện thân của mối tình trong trắng, thủy chung của một đôi uyên ương dân tộc thiểu số bản địa. Họ quyết định chọn cái chết để phản đối luật tục khắc khe và đi đến thống nhất các bộ tộc Lạch, Chil, Srê... thành dân tộc K?THo.
    Chuyện kể rằng (*) : Ngày xưa, xưa lắm, vùng La Ngư Thượng tức Ðà Lạt bây giờ đất đai phì nhiêu, cây cỏ tốt tươi, quanh năm khí hậu ngọt ngào như mùa thu. Thuở ấy, các bộ tộc ít người còn sống riêng rẽ và thỉnh thoảng vẫn xảy ra những cuộc tranh chấp về vùng đất, vùng đồi hoặc phong tục. Trên vùng Cao nguyên xinh đẹp này có 2 bộ tộc mạnh nhất là Lạch và Srê. Tộc Lạch có một tù trưởng khỏe mạnh, đẹp trai, giàu lòng thương người và có tài chinh phục thú rừng, đó là chàng Lang. Một hôm, trong bản làng có hai con voi đi lạc từ vùng La Ngư Hạ lên, rất hung dữ. Hàng chục người Lạch vây hãm mà vẫn không triệt hạ nổi. Khi Lang từ rẫy về, thấy vậy vội ra hiệu cho họ nghỉ tay, một mình chàng tìm cách chinh phục đôi voi. Sau một hồi giao đấu, Lang nắm được đuôi hai con voi liền cột chặt vào nhau làm chúng không đủ sức kháng cự nữa. Chàng bắt cả 2 quỳ xuống hàng phục. Lang không đánh đập khi chúng đã thua mà tìm lời ngọt ngào khuyên nhủ:
    - Ta tha chết cho 2 ngươi... bây giờ phải về làng cũ kẻo dân làng mong tìm. Từ đây không được phá phách nữa.
    Hai con voi cảm động rơi nước mắt, lặng lẽ bước đi ngoan ngoãn. Từ đó Lang nổi tiếng là một dũng sỹ nhân ái được cả cầm thú và bộ tộc thương yêu, kính trọng.
    Năm tháng dần trôi, Lang đã 20 tuổi mà vẫn chưa có vợ vì không có một thiếu nữ nào trong buôn làng cảm thấy xứng đáng bắt Lang làm chồng. Hơn nữa, Lang đang gởi trái tim mình cho một người con gái của bộ tộc khác là nàng Bian kiều diễm, con gái của tù trưởng KZềnh, thuộc bộ tộc Srê. Bian xinh đẹp thông minh và khiêm tốn. Những ngày vào rừng hái trái, kết hoa thì thiên nhiên, cây cỏ dường như tươi vui, thắm thiết hơn, chim rừng xôn xao hót líu lo. Những con thú hiền lành quây quần săn đón nàng. Các loài thú dữ thường lẫn tránh. Tuy nhiên, cũng chính vì vẻ đẹp rực rỡ đó mà hai con rắn hổ tinh đem lòng ghen ghét, tìm cách mưu hại Bian.
    Một hôm nọ, lũ làng Srê theo Bian đi hái quả, khi đến thác Ða Tanla - nơi các tiên nữ thường hay xuống tắm, 2 con rắn hổ tinh liền chặn đoàn người lại và tấn công, dưới sự giúp sức của 2 con cáo già và 7 con chó sói! Trong lúc Bian và lũ làng sắp bị chúng làm hại thì dũng sĩ Lang xuất hiện:
    - Hỡi bọn độc ác, các người không được hại người lương thiện.
    Thế rồi, Lang nhảy vào vòng chiến. Bầy chó sói và rắn tinh quây quanh chàng. Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Cuồng phong nổi lên dữ dội. Cây rừng gãy đổ ào ào. Mặt trời chệch về hướng Tây, xuyên qua kẻ lá làm nổi bật hai cánh tay rắn chắc của người dũng sĩ. Khi hai con rắn tinh lè lưỡi, nhanh như chớp dũng sĩ Lang dùng xà gạc phớt nhanh vào đó, chúng rú lên thảm thiết. Cuối cùng, chàng đã dùng cung tên bắn vào bầy dã thú, chúng kêu lên đau đớn và bỏ chạy hoảng loạn làm náo động cả một khu rừng.
    Lang đi gọi đoàn Srê và nàng Bian đến. Nàng e lệ cảm ơn chàng. Từ đó dũng sĩ Lang và nàng Bian xinh đẹp, dịu hiền yêu mến nhau, cho dù khác bộ tộc và họ ở cách xa nhau mấy con suối! Có những đêm trăng sáng hai người hẹn gặp và sánh vai nhau đi dạo trên những quả đồi ở vùng La Ngư Thượng. Mỗi lần như vậy Bian thường nhắc đến buổi gặp gỡ ở thác Ða Tanla. Tin Bian yêu thương dũng sĩ Lang lan truyền rất nhanh trên Cao nguyên. Chỉ mấy lần trăng tròn, các bộ tộc vùng La Ngư Thượng đều hay tin con gái của tù trưởng KZềnh sẽ bắt chồng là tù trưởng của bộ tộc Lạch, nhưng đám cưới của Lang và Bian không thành vì ông KZềnh nói:
    - Bạp (cha) không chấp nhận. Tục lệ của bộ tộc ta không cho phép bộ tộc người Lạch được nhận vào người Srê.
    Bian nài nỉ:
    - Bạp là tù trưởng, Bạp có thể thay được tục lệ mà. Người Lạch cũng là người, sao không bắt chồng được?
    Ông KZềnh cương quyết:
    - Trước đây người Lạch và Srê có thù oán, cho nên con gái Srê không bắt chồng người Lạch. Yàng (Trời) đã ghi trong luật tục. Bạp không có quyền thay đổi.
    Bian khóc nức nở:
    - Thế thì Bian không bắt ai làm chồng nữa đâu. Bian sẽ trọn đời mang chiếc vòng cầu hôn của Lang.
    Ngày hôm sau, Bian vượt qua nhiều cánh rừng để báo tin cho Lang biết, đám cưới của họ không thành. Lang buồn rầu nói:
    - Ta biết hiện nay giữa các bộ tộc có nhiều luật tục vô lý mà. Chúng ta phải chống lại kẻ độc ác và những oan nghiệt ấy, Bian ạ vì nó đã làm cho ta đau khổ.
    Bian im lặng, cúi đầu. Nước mắt nàng tuôn trào hòa vào con thác, dòng suối trên Cao nguyên khiến chúng gầm réo suốt ngày đêm như khóc than cho mối tình tuyệt vọng của hai người.
    Lang và Bian ngồi yên lặng bên nhau trên đỉnh núi, hết ngày này sang ngày khác, mặc cho đêm xuống, nắng lên, sương tan, bóng xế. Họ quyết định ở bên nhau cho đến chết. Thế rồi, sau một đêm mưa gió bão bùng cả hai người đã qua đời. Tin chàng Lang và nàng Bian gục chết bên nhau để phản đối lại luật tục khắc khe, sự thù oán vô cớ giữa hai bộ tộc Lạch và Srê chẳng mấy chốc được lan truyền khắp núi rừng vùng La Ngư Thượng. Cái chết của chàng Lang và nàng Bian khiến các bộ tộc đều xót thương. Họ kéo nhau đi thành đoàn dài từ thung lũng này sang thung lũng nọ. Ông KZềnh vô cùng ân hận, bèn đứng ra kêu gọi bộ tộc Lạch, Chil, Srê hợp nhất thành dân tộc K''Ho, xóa bỏ mọi hiềm khích trước đây và cho phép con trai, con gái giữa các tộc họ được lấy nhau để sinh con đẻ cái. Mọi người quyết định lấy ngọn núi cao nhất vùng Cao nguyên xinh đẹp này để chôn cất hai người và đặt tên là Lang Bian. Từ đó, mỗi năm các bộ tộc lại tụ họp về đây để cúng tế ăn trâu, uống rượu cần và đắp mộ cho hai người. Do đó, ngọn Lang Bian mỗi ngày một cao thêm và là biểu tượng cho sự hòa hợp, thống nhất giữa các tộc dân vùng La Ngư Thượng.
    Người Lạch còn kể thêm rằng : Yàng cảm thương sự chung thủy của Lang và Bian nên cử một vị thần xuống trần gian chăm sóc cho hai ngọn núi nói trên. Và thần này được đặt tên là thần Lơm Biêng. Thần Lơm Biêng đắp cao ngọn Lang Bian làm trụ trời. Ðây cũng chính là nơi định cư cho dân tộc Kho Lạch. Ngày nay, nhiều già làng người Lạch kể về sự tích núi Lang Bian thường kể về phần hai, tức là phần thần Lơm Biêng xây trụ trời.? Thần Lơm Biêng khi xây có nhờ hai người bạn giúp sức: đó là ông Khổng lồ (Nhút) - cũng là tên rặng núi tiếp với Lang Bian (phía trái nhìn từ Ðà Lạt - Lạc Dương) và BiÐúp. Nhưng ông này keo kiệt, tham ăn nên bị thần Lơm Biêng cho một đạp té xuống gần biển. BiÐúp theo tiếng người thiểu số có nghĩa là té ngữa.
    Ba dãy núi Lang Bian, Khổng lồ, BiÐúp tuy ngày nay không nằm trong địa phận thành phố, nhưng lịch sử của nó gắn liền với lịch sử phát triển của Ðà Lạt và các dân tộc thiểu số của vùng cao nguyên tươi xanh này. Nếu có dịp du khách đứng trên Lang Bian sẽ nhìn thấy các buôn làng người Chil, người Lạch đang âm thầm, lặng lẽ bên dòng sông hay giữa các thung lũng ven những dòng suối nhỏ. Và cũng từ đây nhìn về thành phố, du khách sẽ thấy Ðà Lạt chập chùng những biệt thự, trường học, nhà thờ với tháp chuông cao vút. Cho tới hôm nay, cũng có lẽ mãi mãi về sau, Lang Bian hay núi Bà vẫn là hình ảnh sống động trong lòng các dân tộc của thành phố Ðà Lạt cũng như du khách dù chỉ là một lần chiêm ngưỡng.
    ĐỒI CÙ
    Anh nghiêng nghiêng Đồi cù
    Em lững lờ Xuân Hương?
    Hai câu thơ của ai đó đã vô tình vẽ nên hai hình ảnh chủ đạo của thành phố mộng mơ ?" Đà Lạt. Qua đèo Prenn, xuyên qua những rừng thông bạt ngàn, du khách đã đặt chân đến thành phố cao nguyên. Từ phía bên kia hồ Xuân Hương-khách sạn Place, du khách có thể nhìn thấy những vú đồi cỏ xanh non tơ, như một giải lụa mềm mại vắt ngang Phố núi soi bóng xuống dòng ?oCẩm Lệ? phẳng lặng? đó là Đồi Cù mà có người đã ví như trái tim, như nhịp thở của Đà lạt.
    Ngay từ năm 1942, khi thiết kế đồ án quy hoạch thành phố Đà lạt, kiến trúc sư Lagisquet đã khoanh vùng Đồi Cù như một khu vực "Bất khả xâm phạm" nhằm tạo một tầm nhìn thoáng đãng cho Đà lạt. Về sau, một kiến trúc sư người Scotland đã thiết kế-biến địa danh này thành một Sân Cù 9 lỗ có một Câu lạc bộ đầy đủ tiện nghi nổi tiếng vùng Đông Nam Á. Đồi cù có một tương truyền rất thú vị rằng: Ngày xưa, ở vùng này còn hoang sơ lắm. Đồi cù đã trở thành nơi hò hẹn lý tưởng của những đôi lứa đến tuổi cập kê, gồm 3 quả đồi được gắn 3 cái tên rất lãng mạn: đồi Gặp gỡ, Hò hẹn, ÁI ân và có một dòng Cẩm Lệ liên kết 3 quả đồi lại với nhau. Ngã Năm Đại học bây giờ được gọi là Ngã Năm chờ đợi, đường Đinh Tiên Hoàng là đường Tình tự. Đồi cù đã đi vào tác phẩm thơ ca, nhạc,hoạ? của nhiều văn nghệ sỹ tâm huyết với thành phố mộng mơ này.
    Tên Đồi Cù không rõ có từ bao giờ, còn vì sao gọi "Đồi Cù" lại có hai cách lý giải: Có người cho rằng, những quả đồi thoai thoải nơi đây khi nhìn từ xa giống như tấm lưng trần của những con cừu khổng lồ nên đã ví von gọi là "Đồi Cù"; cũng có người giải thích? vì nơi đây là một địa điểm chơi Golf hay còn gọi là đánh cù, nên tên gọi "Đồi Cù" từ đó mà có. Hiện nay Đồi Cù đã được nâng cấp thành sân Golf 18 lỗ, là nơi giải trí của giới thượng lưu trong và ngoài nước.
    --------------------------------------------------------------------------------
  8. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    SUỐI VÀNG
    Là một điểm tham quan du lịch nổi tiếng của Đà Lạt nằm cách trung tâm Đà Lạt 12km về phía Bắc, hồ Đankia ?" Suối vàng trông như một thiếu nữ vừa bước vào tuổi thanh xuân nằm phơi mình bên những đồi thông xanh biếc trập trùng. Nơi đây, năm 1893 bác sĩ A.Yersin đã từng ngây ngất trước vẽ đẹp thiên nhiên của núi non hùng vĩ trên cao nguyên Langbiang và từ đó đã khai sinh ý tưởng thiết lập một trạm nghỉ dưỡng trên cao nguyên ?" thành phố Đà Lạt.
    Hồ Suối Vàng gồm có hai hồ Đankia và Ankoret có sức chứa khoảng 21 triệu m3 nước cung cấp nguồn nước cho hai nhà máy điện và nước sinh hoạt cho người dân thành phố Đà Lạt. Ngay phía dưới hồ Đankia có một thác nước đẹp gọi là thác 7 tầng, thềm thác rộng có thể chứa được hàng trăm du khách vui chơi cùng một lúc.
    Cái tên Suối Vàng không biết do ai đặt, có lẽ do ở đây có rất nhiều vàng sa khoáng. Nhưng dù sao từ hơn 50 năm qua dòng nước mát Suối Vàng đã thực sự cung cấp nước và điện nuôi sống thành phố Hoa ?" Đà Lạt. Nơi đây có nhà máy thuỷ điện Ankoret ?" nhà máy thuỷ điện xây dựng đầu tiên ở Việt Nam năm 1943. Năm 2000, tại khu vực này đã khánh thành công trình nâng cấp cải tạo nhà máy nước Đankia ?" Suối Vàng do Đan Mạch viện trợ và giúp Đà Lạt trở thành một đô thị có tỷ lệ người dân được cung cấp nước sạch cao nhất nước (80%) và tỷ lệ thất thoát nước cũng thuộc loại thấp nhất nước (dưới 20%). Nếu trong tương lai gần, khi dự án khu du lịch tổng hợp lớn nhất nước với số vốn hơn 730 triệu USD (đã được chính phủ phê duyệt vào tháng 2 năm 1998) đi vào hoạt động thì cái tên Suối Vàng thực sự là ?ovàng ròng? cho vùng đất Lâm Đồng ?" Đà Lạt. Theo quy hoạch, nơi đây sẽ hình thành nên một Đà Lạt thứ hai với những khu nhà, biệt thự nghỉ dưỡng cao cấp, những khu vui chơi giải trí vùng núi đặc thù như chơi Golf, đua ngựa? và một Casino quốc tế. Sẽ có một con đường cao cấp từ sân bay Cam Ly đưa khách Singapore và khách ở khu vực Đông Nam Á đến nghỉ cuối tuần khu Suối Vàng ?" Đankia?
    VƯỜN HOA TP Vườn hoa thành phố cách trung tâm Đà lạt khoảng 2km về hướng Đông Bắc, nằm cạnh hồ Xuân Hương và Đồi cù. Là nơi hội tụ nhiều loài hoa quý hiếm của các làng hoa nổi tiếng trong nước và quốc tế. Ngày xưa, cư dân Lâm Viên thường gọi là Vườn hoa Bích Câu.
    Vườn hoa thành phố cách trung tâm Đà lạt khoảng 2km về hướng Đông Bắc, nằm cạnh hồ Xuân Hương và Đồi cù. Là nơi hội tụ nhiều loài hoa quý hiếm của các làng hoa nổi tiếng trong nước và quốc tế. Ngày xưa, cư dân Lâm Viên thường gọi là Vườn hoa Bích Câu.
    THÁC DAMRI
    Nằm ở độ cao khoảng 1500 m so với mực nước biển, Đamb?Tri là một khu du lịch được phát triển và đầu tư mạnh trong vài năm trở lại đây ở cao nguyên Lâm Đồng. Hằng năm Đamb?Tri đón khoảng 200.000 lượt du khách tham quan.
    Cách thị xã Bảo Lộc (Lâm Đồng) khoảng 18 km, thác Đamb?Tri nằm giữa một khu rừng cấm rộng hàng ngàn héc-ta với nhiều động, thực vật quý hiếm. Len lỏi trong những cây cổ thụ già hàng trăm năm tuổi là các lối đi được xây đá hoa cương hết sức công phu. Từ đây bạn có thể nghe rất rõ tiếng gầm réo của thác nước chính. Đi qua một cây cầu xây giả những gốc cây cổ thụ, bạn sẽ có được một vị trí lý tưởng để chiêm ngưỡng tác phẩm tuyệt đẹp của tạo hoá. Nhìn từ xa, ngọn thác Đamb?Tri cao gần 90 m hiên ngang hùng vĩ giữa rừng núi cao nguyên. Từ trên độ cao ấy, một khối nước khổng lồ tung bọt trắng xoá, Bên dưới là vực sâu với những đoàn khách du lịch chuyển động nhỏ xíu. Nếu nhìn từ dưới lên, bạn sẽ thấy hàng chục cầu vồng bảy sắc do bụi nước và ánh sáng mặt trời tạo nên lung linh huyền ảo. Bao quanh cảnh thác là rừng già nguyên sinh cao vút trông như một bức tường thành màu xanh đang che chở cho những bờ đá âm thầm ngày đêm chịu đựng cơn cuồng nộ của nước.
    Huyền thoại Đamb?Tri được người dân Tây Nguyên thêu dệt thật đẹp. Chuyện kể rằng ngày xưa có một đôi uyên ương người dân tộc K?Tho thường hẹn hò bên thác nước. Tình yêu đẹp như nhánh lan rừng và ngọt ngào như dòng suối mát. Và một ngày nọ, chàng trai bỗng mất tích không có dấu vết để lại. Cô gái khóc mãi, chờ mãi những bóng dáng người yêu vẫn mịt mù trong rừng thẳm. Lâu ngày nước mắt của cô đọng lại và chảy thành dòng thác lớn. Người K?Tho đặt tên thác là Đamb?Tri, nghĩa là ?ođợi chờ?. Ngày nay, ngọn thác hùng vĩ và thơ mộng ấy đã trở thành một minh chứng cho sự thuỷ chung son sắt của người con gái dân tộc K?Tho năm xưa. Dưới chân ngọn thác có một tảng đá hình sư tử với đôi mắt buồn rười rượi. Giai thoại kể lại rằng, khi chàng trai đi làm ăn xa trở về không gặp lại người yêu, anh ta rất buồn và hoá thành con sư tử đá nằm dưới chân ngọn thác. Du khách men theo bờ đá đi vào dòng thác ở những tầng nước phía dưới sẽ thấy con sư tử đá ấy và những kỳ quan khác trong hang động dưới chân thác.
    Thác Đamb?Tri có nhiều tầng kéo dài. Từ phía dưới nhìn lên bạn sẽ thấy những tầng xếp chồng lên nhau rất độc đáo. Đến với Đamb?Tri ngoài việc thưởng thức thắng cảnh của thác, bạn có thể làm một chuyến du lịch mạo hiểm trong rừng cấm. Với hàng ngàn héc-ta rừng nguyên sinh trong khu du lịch, Đamb?Tri sẽ mang lại nhiều dấu ấn kỳ thú khác cho chuyến du khảo của bạn ở vùng đất cao nguyên giàu đẹp
    --------------------------------------------------------------------------------
  9. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    NHÂN DỊP FESTIVAL HUẾ XIN POST BÀI NÀY ĐỂ TẶNG NHỮNG NGƯỜI SẮP ĐẾN VỚI HUẾ :

    Lẽ ra tôi post lên bằng tiếng anh vì bản tôi có trong PC là tiếng anh nhưng giờ có bi nhiêu post bấy nhiêu :
    HUẾ --QUA NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG
    1. HUẾ NHẬP VIỆT TỊCH
    Huế trước kia thuộc về đất Chiêm Thành . Nước Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt, thường hay gây hấn đánh phá vùng biên giới, nhưng cũng có khi hai bên hòa thuận . trong cuộc kháng Nguyên (Mông Cổ) vào cuối thế kỷ 13, hai nước liên kết cùng chống Nguyên. Lúc đó, biên giới giữa hai nước là sông Thạch Hãn đổ ra biển Đông ở cửa Việt (Quảng Trị ngày nay).
    Sau khi đẩy lui quân Nguyên, mối giao hảo giữa Đại Việt và Chiêm Thành khá tốt đẹp . Tháng 2 năm Tân Sửu (1301), Chiêm Thành gởi sứ gỉa sang tiến cống . Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông, gặp lúc rãnh rỗi, theo đoàn sứ gỉa Chiêm trở về, qua thăm Chiêm Thành, vừa để trả lễ vừa để du ngoạn, từ tháng 3 đến tháng 11 cùng năm. Trong cuộc hội kiến với Vua Chiêm là Chế Mân (Jaya Simhavarman III, trị vì 1288-1307), Trần Nhân Tông hứa gả Công chúa Huyền Trân cho Chế Mân.
    Chế Mân nguyên là Thái tử Bổ Đích (Harijit), con đầu của vua Indravarman V (trị vì 1257-1288). Thời kháng Nguyên, vua Indravarman V đã già, Bổ Đích nắm trọng trách điều khiển việc nước . Bổ Đích rất anh hùng, cương quyết chống lại mưu đồ xâm lược của Hốt Tất Liệt (Qubilai), vua Mông Cổ . Năm 1282, Hốt tất Liệt sai tướng Toa Đô (Sogatu) đem quân từ Quảng Châu xuống đánh cửa Thị Nại (Vinaya, Quy Nhơn ngày nay). Để bảo toàn lực lượng, vua Chiêm bỏ kinh đô Đồ Bàn (Vijaya, Bình Định) cho quân Nguyên, rút vào rừng sâu kháng chiến . Dưới sự chỉ huy của thái tử Bổ Đích, quân Chiêm tiêu hoa dần dần lực lượng của Toa Đô.
    Theo Nguyên sử, nhà Trần ớ nước ta đã gởi hai vạn quân và 500 chiến thuyền sang giúp đỡ vua Chiêm. Sinh sống nơi miền thảo nguyên, người Mông Cổ không quen chiến trận vùng rừng núi, lại không hạp thủy thổ . Toa Đô không tiến quân được, phải bỏ Đồ Bàn, lui ra cửa Thị Nại để chờ viện binh. Hốt Tất Liệt sai người sang Đại Việt yêu cầu nhà Trần giúp quân lương và cho mượn đường đánh Chiêm Thành, nhưng nhà Trần từ chối .
    Đợi lâu ngày không được tiếp viện, trongkhi lực lượng Chiêm Thành càng ngày càng mạnh, Toa Đô đành đem quân dọc bờ biển phía Bắc, tiến ra vùng châu Lý, đóng ở vùng hồ Đại Lãng (có thể là đầm Cầu Hai, Thừa Thiên ngày nay). Tại đây, Toa Đô làm tờ biểu tâu về Nguyên triều như sau :"Giao Chỉ liền đất với Chân Lạp (Cambodia ngày nay), Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm (Thái Lan ngày nay), Miến, nên lập tỉnh ngay trên đất ấy, và đóng quân trấn giữ ba đạo Việt lý (Quảng trị ngày nay), triều Châu (Quảng Đông, Trung Hoa), Tỳ Lan (tây bắc Hải Nam), lấy lương ở đó cấp cho quân sĩ, tránh được việc vận tải đường biển mệt nhọc "
    Tấu trình của Toa Đô rất hạp ý Hốt Tất Liệt vì từ lâu, vị chúa Mông Cổ này đã nuôi mộng thôn tính Đông Nam Á . Việc cử Toa Đô đánh Chiêm Thành là bước đầu thực hiện ý đồ này, nhưng lại bị thất bại . Hốt Tất Liệt quyết định quay qua dùng đường bộ, sở trường thiện chiến của người Mông Cổ, để tràn xuống Đông Nam Á, trước tiên là xuống Đại Việt . Năm 1284, Hốt Tất Liệt phong cho con là Thoát Hoan (Toyan) làm Trấn Nam Vương, đem quân tấn công nước ta. Đây là lần thứ nhì người Mông Cổ xâm lăng Đại Việt . Hai cánh quân của Thoát Hoan và Toa Đô họp thành hai gọng kềm, siết chặt quyết chiếm cho được Đại Việt .
    Cùng như lần trước, quân Nguyên lại thất bại . Trong trận Tây Kết (có thể là Hưng Yên ngày nay), Toa Đô bị trúng tên chết . Khi đầu Toa Đô được đưa về trình diện Trần Nhân Tông, nhà vua hết sức thán phục lòng trung dũng của Toa Đô, đã nói : "Làm bầy tôi nên như người này !" Trần Nhân Tông cởi long bào, đắp vào đầu Toa Đô, và ra lệnh mai táng Toa Đô theo đúng nghi lễ .
    Trong cuộc chiến thắng quân Nguyên lần này của nước ta, một phần nhờ Chiêm Thành đã kháng cự mãnh liệt và đẩy lui quân Mông Cổ . Do vậy, người Mông Cổ không thể dùng Chiêm Thành làm hậu cứ, từ phía au lưng tấn công ngược trở lên nước ta. Những người thật sự anh hùng thường dể cảm phục lẫn nhau, nên vào năm 1301, khi gặp thái tử Bổ Đích, nay là vua Chế Mân, Trần Nhân Tông rất ưng ý và hứa gả con mình là công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Ngoài sự cảm phục, có thể lúc đó Trần Nhân Tông còn muốn làm cho sự bang giao hoà hiếu giữa hai dân tộc Việt Chiêm bền vững qua cuộc hôn nhân này .
    Lời hứa của Thượng Hoàng Trần Nhân Tông gặp nhiều phản bác về phía triều đình nước ta . Lúc đó, quan niệm khắc khe về chủng tộc đã khiến các quan và cả Trần Anh Tông, vị vua đương triều, ngăn trở cuộc hôn nhân này . Mãi đến năm 1306 (Bính Ngọ), lễ cưới mới diễn ra khi Chế Mân quyết định tặng hai châu Ô và Rí (Lý) ở phía bắc Chiêm Thành làm sính lễ . Năm 1307 (Đinh Mùi), vua Trần Anh Tông (trị vì 1293-1314) đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Lý thành Hóa Châu, và sai quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài vào vỗ về dân chúng hai châu đó .
    Vào thế kỷ thứ 15, sử quan Ngô Sĩ Liên, tác gỉa bộ Đại Việt sử ký toàn thư, đã phê bình cuộc hôn nhân này như sau :Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành nghĩa là làm sao ? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó được không ? Vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì khó gì, mà lại đem gả cho ngưỡi xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau đó lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu ? Quan niệm kỳ thị trên đây còn được ám chỉ trong câu ca dao lịch sử :
    Tiếc thay cây quế giữa rừng,
    Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.
    Vào đầu thế kỷ 20 này, vẫn còn có người làm thơ mỉa mai :
    Đổi chác khen ai khéo nực cười,
    Vốn đà không mất lại thêm lời .
    Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm,
    Một gái Huyền Trân của mấy mươi ?
    Lòng đỏ khen ai lo việc nước,
    Môi son phải giống mãi trên đời .
    Châu đi rồi lại châu về đó,
    Ngơ ngẩn trông nhau mấy chú Hời .
    (Thái Xuyên Hoàng Cao Khải)
    Được kevinmitknick sửa chữa / chuyển vào 22:41 ngày 25/05/2004
  10. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    TIẾP
    Tặng vật sính lễ là tập tục tự nhiên trong các cuộc hôn nhân . Tùy theo sự giàu nghèo của người đứng cưới, tặng vật có thể rất phong phú, hay cũng rất khiêm nhường . Nói rằng đám cưới Công Chúa Huyền Trân là một cuộc "đổi chác" thì không lẽ tặng vật trong các Hôn lễ đều là sự đổi chác hay sao ?
    Chế Mân tặng hai châu Ô và Lý một cách hào phóng có thể vì ba lý do : thứ nhất để làm đẹp lòng nhà Trần, thứ nhì để củng cố ngai vàng của chính ông bằng cách củng cố liên minh Chiêm-Việt, thứ ba vì vì sự chia rẽ giữa các thế lực nội bộ Chiêm Thành .
    Người Chiêm Thành gồm nhiều thị tộc khác nhau, "mỗi thị tộc có một vật tổ, lấy vật tổ mà gọi tên . Có hai thị tộc lớn nhất trong nước là dòng Cây Cau ( Kramukavamca) và dòng Cây Dừa (Narikelavamca). Hai thị tộc này giành ưu thế trong nhiều thế kỷ, qua nhu8~ng cuộc chiến tranh đẫm máu, rồi thỏa hiệp nhau . Dòng Cây Cau làm bá chủ vùng Panduranga, còn dòng Cây Dừa ngự trị miền bắc, Indrapurạ"
    Inprapura tức Đồng Dương, ngày nay thuộc tỉnh Quảng Nam, nguyên là Kinh đô Chiêm Thành . Sau khi Lê Đại Hành đánh thắng vua Paramecvaravarman năm 982 (Nhâm Ngọ), triều đình Chiêm Thành trải qua một thời gian xáo trộn, và một dòng họ khác lên làm vua, bỏ Indrapura, vào đóng đô ở Vajaya (Đồ Bàn, Bình Định).
    Có lẻ vùng đất từ kinh đô cũ (Indrapura) trở ra bắc thuộc thị tộc khác với dòng vua mới, nên khi bị Lý Thánh Tông (trị vì 1054-1072) bắt đem về giam ở Thăng Long năm 1069 (Kỷ Dậu), vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) đã xin cắt đất ba châu Bố Chính (Hà Tĩnh và bắc Quảng Bình), Địa Lý (trung và nam Quảng Bình), và Ma Linh (Quảng trị) để đổi lấy tự do . Chế Củ nhường đất cho Đại Việt phải chăng là một tiền lệ cho hậu duệ của ông ta là Chế Mân noi theo ?
    Việc lấy chồng của Huyền TRân là sự hy sinh to lớn của một công chúa khuê các . Bà đã phải bỏ nhà, bỏ quê về làm vợ một người xa lạ, nói một thứ ngôn ngữ xa lạ . Bà đã ra đi vì gia lệnh, đúng theo câu tục ngữ "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó ". trong phong tục ngày trước . Nho giáo không lên án cuộc hôn nhân dị chủng . Ngược lại Nho giáo không bao giờ chấp nhận những cuộc hôn nhân loạn luân của hoàng tộc nhà Trần lúc bấy gờ .
    Huyền Trân được vua Chế Mân phong tước Hoàng Hậu Paramecvari . Với Đại Việt, Chế Mân là phò mã . Dầu chưa đặt chân đến quê vợ,phò mã Chế Mân đã thực sự đóng góp công của trong việc xây dựng quê vợ . Điều này đối với lịch sử nước ta hữu ích hơn hẳn phò mã Trọng Thủy thời An Dương Vương theo truyền thuyết . Trọng Thủy cưới Mỵ Châu, con của An Dương Vương, không phải vì tình như Chế Mân, chẳng giúp gì cho quê vợ như Chế Mân, mà chỉ để dò thám, và cuối cùng làm cho Mỵ Châu nhà tan nước mất !
    Đám cưới được một năm, quốc vương Chế Mân từ trần (1307). Theo tục lệ Chiêm Thành, khi vua qua đời, các hoàng hậu phải lên dàn hỏa thiêu chết theo chồng . Nghi lễ này trong Ấn Giáo gọi là trà tỳ (suttee), còn thịnh hành ở Ấn Độ cho đến khi người Anh cai trị và bãi bỏ vào năm 1829.
    Vua Trần Anh Tông thương em, cho tướng Trần Khắc Chung sang Chiêm Thành lấy cớ viếng tang, rồi lập mưu đưa Huyền Trân trở về Đại Việt . Trong tình cảm gia đình, Trần Anh Tông không có gì đáng trách, nhưng ông đã hành động sai trái với hoàng gia Chiêm Thành, và tạo nên sự c(ng thẳng về ngoại giao giữa hai nước .
    Nếu không có Huyền Trân, thì cuộc phát triển về phương nam của dân tộc Việt sẽ chậm lại, biết đâu lịch sử sẽ chuyển dòng theo một hướng khác ? Cuộc hôn nhân của Huyền Trân và Chế Mân tượng trưng cho sự phát triển một cách hòa thuận về phương nam theo truyền thống sống cùng và để người khác cùng sống của người Việt . Người Việt luôn luôn biết ơn Huyền Trân thì người Việt không thể không nhớ ơn Chế Mân, người phò mã đã thiết thực đóng góp xây dựng nước Việt .
    Sau khi qua đèo Hải Vân ở phía nam Hóa Châu, người Việt tiến dần xuống Quảng Ngãi rồi Bình Định một cách dể dàng . Năm 1471 (Tân Mão), Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) gọi chung vùng này là "Quảng Nam thừa tuyên đạo".
    Năm 1558 (Mậu Ngọ) Nguyễn Hoàng được vua Lê cử làm trấn thủ Thuận Hóa . Ông vào lập dinh lần đầu ở Ái Tử (Quảng Trị). Rồi từ đó, các chúa Nguyễn di chuyển sở lỵ của mình dần dần vào đến làng Phú Xuân ở gần núi Ngự Bình, Huế .
    Từ Phú Xuân, các chúa Nguyễn đã tiến xuống phương nam và mở mang lãnh thổ nước ta như địa giới ngày nay . Điểm đặc biệt, nước Đại Việt có được Thuận Hóa nhờ cuộc hôn nhân hoà hiếu vào đầu thế kỷ 14, thì một cuộc hôn nhân hòa hiếu khác vào đầu thế kỷ 17 xuất phát từ Thuận Hóa đã dẫn người Việt xuống đất Chân Lạp, là vào năm 1620 (Canh Thân), Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (cầm quyền 1613-1635) gả công chúa thứ nhì của mình là Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II . Chính hoàng hậu Ngọc Vạn đã vận động vua Chân Lạp chấp thuận lời yêu cầu của Sãi Vương vào năm 1623 (Quí Hợi) đưa người đến lập nghiệp tại vùng Bà Rịa ngày nay, mở đầu cho cuộc di dân tiến xuống khai phá miền nam .
    Được kevinmitknick sửa chữa / chuyển vào 22:45 ngày 25/05/2004

Chia sẻ trang này