1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Huế - Thông tin du lịch

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi ghost2k1, 17/10/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    Chữ "HUẾ" có từ lúc nào ?
    Danh từ "HUẾ" có từ bao giờ ? Chữ "HUẾ" có ý nghĩa là gì ? Đó là điều thắc mắc của nhiều người, trong đó có cả những người con dân Huế .
    Người ta thường cho rằng chữ Huế do tiếng Hóa (trong Thuận Hóa, Hóa Châu) đọc chệch ra, qủa đúng như thế thì đọc chệch ra từ bao giờ, vì sao lại đọc chệch ra như thế ?
    Lần giở những trang lịch sử văn học cổ của dân tộc, chúng ta bắt gặp một câu trong Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn , tương truyền của vua Lê Thánh Tông (tại vị 1460-1469) :"hương kì nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bị hồ tiêu, thau Lào thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vơi then". Dựa vào câu này, nhiều người cho rằng danh xưng "HUẾ" xuất hiện chậm lắm cũng vào cuối thế kỷ thứ Mười Lăm. Tuy nhiên tác phẩm Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ Văn chưa chắc là của Vua Lê Thánh Tông, nên không chắc chắn định được mốc thời gian.
    Đến khi Dương Văn An, tiến sĩ đời nhà Mạc viết sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1555, có ghi một chi tiết của huyện Tư Vinh (thuộc tỉnh Thừa Thiên) như sau : Có nơi hoa tường liễu ngõ, vẻ rất đong đưa, nơi có tiếng Huế, quần Chiêm ..."
    Đến cuối thế kỷ Mười Sáu sang nửa thế kỷ Mười Bảy, do nhu cầu học tiếng Việt để truyền Đạo Công Giáo, vì chữ Hán và chữ Nôm đều rắc rối, các Giáo sĩ Tây Phương đã tìm cách dùng mẫu tự chữ La Tinh để ghi âm ngôn ngữ bản xứ . Người có công lớn trong việc thành lập chữ Quốc Ngữ (chữ viết ngày nay ta dùng) là Giáo sĩ Công Giáo Alexandre De Rhode, (tiếng Việt gọi là Đắc Lộ) người Pháp, ngài đã đến Đàng Trong hai lần, lần đầu khoảng năm 1624-1627, lần sau vào khoảng năm 1640-1645, ngài học tiếng Việt rất giỏi, chỉ trong vòng 6 tháng đã nói thông thạo . Và trong tác phẩm Voyages et Mission của ngài xuất bản tại Paris năm 1653 (tái bản 1666 và 1668) ngài có viết : gọi Thủ Phủ chúa Nguyễn là Kẻ Huế .
    Thế là danh xưng này chắc chắn đã có từ trước, muộn lắm cũng vào năm 1636 khi chúa Nguyễn Phúc Lan, tức Chúa Thượng (1636-1647) khi dời thủ phủ từ làng Phước Yên, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền đến Phủ mới ở làng Kim Long
  2. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    CÁC ĐIỂM THAM QUAN DI TÍCH HUẾ
    1. Kinh thành
    2. Hoàng Thành
    3. Tử Cấm Thành
    4. Ngự Hà
    5. Bảo Tàng Mỹ thuật Cung Đình Huế
    6. Trường Quốc Tử Giám
    7. Hồ Tịnh Tâm
    8. Hộ Thành Hà
    9. Chùa Thiên Mụ
    10. Văn Miếu
    11. Cồn Hến
    12. Cồn Dã Viên
    13. Hổ Quyền
    14. Lăng Dục Đức
    15. Đàn Nam Giao
    16. Lăng Tự Đức
    17. Lăng Đồng Khánh
    18. Điện Hòn Chén
    19. Lăng Thiệu Trị
    20. Lăng Khải Định
    21. Lăng Minh Mạng
    22. Lăng Gia Long
    --------------------------------------------------------------------------------
  3. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    CỐ ĐÔ HUẾ
    Đất Thừa Thiên trai hiền gái lịch
    Non xanh nước biếc, điện ngọc đền rồng
    Tháp Bảy Tầng, Thánh Miếu, Chùa Ông
    Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa
    Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua
    Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, còn đợi khúc âu ca thái bình .
    Những câu ca dao trên đây đã nói lên đất nước và nổi lòng của người dân Thừa Thiên nói chung và Huế nói riêng, nơi trời đất hội tụ những tinh hoa ngàn năm vạn vật .
    Thừa Thiên theo tiếng Hán tức là Vâng Mệnh Trời là tên do Vua Minh Mạng đặt từ năm 1822 . Trước đó có tên là Thuận Hóa . Còn chữ Huế là do chữ Hóa (Thuận Hoá) đọc lệch đi . Dưới thời các Chúa Nguyễn, Huế có tên là Phú Xuân .
    Nhắc đến Huế, trước hết là nhắc đến Sông Hương, núi Ngự và những danh lam thắng cảnh ở đây !
    Đất Huế xưa kia thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Sau một thời gian dài nước ta bị giặc Tàu đô hộ phía Bắc, một dân tộc sống từ lâu ở đây đã thành lập nước Chiêm Thành, làng Nguyệt Hàn là quốc đô Phật Thệ của Chiêm. Năm 1306, vua Chế Mân dâng hai châu Ô va Rí làm sính lễ xin cưới Công Chúa Huyền Trân . Vua Trần Anh Tông đổi châu Rí (Lý) thành châu Hóa, châu Ô thành châu Thuận . Châu Hóa gồm Triệu Phong, Hải Lăng, Phong Điền . Châu Ô gồm Hương Trà, Quảng Điền, Hòa Vang, Diên Phước . Thời Minh thuộc, hai châu Thuận và Hóa nhập lại thành Phủ Thuận Hóa . Đời Lê, vùng này là Phủ Triệu Phong thuộc xứ Thuận Hóa . Năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Trân dựng Phủ mới ở Phú Xuân. Đời Nguyễn Phúc Khoát là Chánh Dinh. Tỉnh Thừa Thiên lập tư thời Minh Mạng .
    Đất thành phố Huế thuộc trấn Thuận Hóa . Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng vào trấn đóng nơi này, lập dinh ở làng Ái Tử, thuộc phủ Triệu Phong (tỉnh Quảng Trị ngày nay). Năm 1887, chúa Nguyễn Phúc Trân dựng phủ mới ở làng Phú Xuân (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, chỗ Đông Nam Kinh ngày nay). Vào thế kỷ thứ 17, người Âu Châu thương gọi Thuận Hóa là Singoa, Sinoa hay là Senna. Đến năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoái lên làm Vua, đổi phủ thành điện, xây tông miếu thờ các chúa thời trước . Thời nội chiến giữa các nhà Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn, Phú Xuân giữ vị trí chiến lược trên cục diện nước ta.
    Năm 1774, đời Chúa Nguyễn Phúc Thuận, Chúa Trịnh Sâm ngoài Bắc cử Hoàng Ngũ Phủ đánh chiếmPhú Xuân . Hơn mười năm sau Nguyễn Huệ giải phóng Phú Xuân (1786), lấy đất làm bàn đạp hành quân ra Bắc và tiêu diệt quân Mãn Thanh xâm lược (1789). Sau đó Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ )định xây dựng Nghệ An thành kinh đô, nhưng vẫn tái thiết và mở mang Phú Xuân để trông về miền Nam.
    Nguyễn Nhạc thủ quân ở Qui Nhơn, mặc cho Nguyễn Ánh trở về Gia Định xây dựng lại lực lượng . Phú Xuân trở thành kinh đô thực tế của Quang Trung và Quang Toản cho đến khi nhà Tây Sơn sụp đổ vào tay Nguyễn Ánh . Năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân và sau khi toàn thắng đặt Huế làm kinh đô, gọi cố đô Thăng Long là Bắc Thành .
    _Diện tích : 5.010 km2 (1957 square miles).
    _Dân số : 1.045.134 người (tính đến ngày 01/04/1999)
    _Tỉnh lỵ : Thành phố Huế
    _Các huyện : Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới, Nam Đông.
    _Dân tộc : Việt (Kinh), Tà Ôi, Cà Tu, Bru-Vân Kiều, Hoa ...
    Phía Bắc, Thừa Thiên Huế giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Tây dực vào dãy Trường Sơn chính là biên giới Việt - Lào, phía Đông trông ra biển . Cách Hà Nội 660 km (413 miles), cách thành phố Sài Gòn 1.080 km (675 miles).
    Địa hình Thừa thiên Huế có cấu tạo dạng bậc khá rõ rệt . Địa hình núi chiếm khoảng 1/4 diện tích, từ biên giới Việt - Lào và kéo dài đến thành phố Đà Nẵng . Địa hình trung du chiếm khoảng 1/2 diện tích, độ cao phần lớn dưới 500 m (1500 ft), có đặc điểm chủ yếu là đỉnh rộng, sườn thoải mái và phần lớn là đồi bát úp, với chiều rộng vài trăm mét . Đồng bằng Thừa Thiên Huế điến hình cho kiểu đồng bằng mài mòn, tích tụ, có cồn cát, đầm phá, đổ ra biển như sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương, sông Truồi, sông Nong, sông Cầu Hai ... trong đó sông Hương là con sông lớn nhất có diện tích lưu vực 300 km2 (117 square miles).
    Bờ biển dài 120 km (75 miles), có cảng Thuận An và Vịnh Chân Mây với độ sâu 18 - 20 m (54 -60 ft), có khả năng xây dựng cảng nước sâu . Thừa Thiên Huế có cửa biển Thuận An (Phú Vang), gần cửa Thuận An, thông với Sam đối diện với làng Sư Lỗ, Mỹ Lam, Dưỡng Mong Thượng, An Truyền .
    Sân bay phú Bài nằm trên đường quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy lục tỉnh . Giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy đều thuận lợi .
    Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gío mùa cho nên thời tiết diễn ra theo chu kỳ 4 mùa, mùa xuân mát mẻ, mùa hạ nóng bức, mùa thu dịu dàng và mùa đông gío rét . Nhiệt độ trung bình cả năm 25 độ C . Số giờ nắng cả năm là 2000 giờ . Mùa du lịch đẹp nhất từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.
    Thừa Thiên Huế có đặc thù ưu việt đó lặu đa dạng của cảnh thiên nhiên cộng với yếu tố nhân tạo đã tạo ra cho Thừa Thiên Huế một nét đẹp hài hòa, phản ánh đầy đủ những thắng cảnh của một Việt Nam thu nhỏ . Sông Hương chảy giữa lòng thành phố, những khu vườn xum xuê, những dòng kênh bao quanh, những đồi thông soi bóng xuống những hồ nước trong xanh, trải rộng, những bãi tắm Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô nước trong, cát mịn . Tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, Thừa Thiên Huế tự hào có khu nghỉ mát lý tưởng Bạch Mã đã từng được so sánh với các khu nghỉ mát độc đáo của Đông dương.
    Thừa Thiên Huế là một vùng đất cổ . Vào thế kỷ 13 vùng đất thơ mộng này đã hoà nhập vào Đại Việt bởi quà tặng của Vua Chiêm Thành khi cưới Công Chúa Huyền Trần nhà Trần . Phong cảnh tươi đẹp, địa hình hiểm trở tạo cho Huế có một vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây đã được Chúa Nguyễn Hoàng chọn làm Kinh Đô xứ Đàng Trong (1558), Vua Quang Trung chọn làm Kinh Đô triều đại Tây Sơn (1788-1802), Vua Gia Long chọn làm Kinh Đô triều Nguyễn (1802-1945). Trong hơn 400 năm, Huế là trung tâm chính trị, văn hoá của đất nước Việt Nam. Chính vì vậy, nơi đây còn lưu giữ hàng trăm di tích lịch sử, văn hoá mà nổi bậc nhất là các cung điện, lăng tẩm của các vua chúa nhà Nguyễn . Với các di tích đó, Huế đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới (ngày 11/12/1993) . Tiềm năng du lịch nổi bậc cúa Huế là quần thể các di tích văn hoá Thừa Thiên Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại với trên 300 công trình kiến trúc bao gồm hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm của các Vua trièu Nguyễn, các kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian, các chùa chiều, miếu, phủ đệ và hệ thống nhà vườn .
    (Tài liệu sưu tầm -- TSHG)
    ________________________________
    Sông Hương - Núi Ngự
  4. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    KINH THÀNH HUẾ :
    Phần kinh thành Huế còn lại đến ngày nay là được xây dựng từ năm 1805 thời vua Gia Long và hoàn thành vào năm 1832 thời vua Minh Mạng, trên khoảng diện tích 5,2 km2 (2,1 square miles) bên bờ bắc sông Hương. Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc của phương Tây kết hợp một cách tài tình với kiến trúc thành quách phương Đông. Kinh thành gồm ba vòng thành: phòng thành, hoàng thành và tử cấm thành.
    Bên trong các lớp thành cao hào sâu là một tổng thể với hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ. Tất cả những công trình này được xây dựng xung quanh một trục chính, theo hướng nam bắc. Khởi đầu là Kỳ Đài (cột cờ), tiếp đến là Ngọ Môn, sân Đại Triều Nghi, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, điện Khôn Thái, điện Kiến Trung và chấm hết ở cửa Hòa Bình. Các công trình kiến trúc còn lại được xây đăng đối ở hai bên đường trục.
    Trải qua gần 200 năm, khu Kinh Thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với 140 công trình xây dựng lớn nhỏ .
    _Phòng Thành là vòng thành ngoài cao 6,6 mét, có chu vi 9.950 m (29,850 ft), thành có 10 cửa đường bộ và 2 cửa đường thủy, thành dày 21 m (63 ft) . Xung quanh và ngay trên thành có thiết lập 24 pháo đài để phòng thủ, ngoài ra còn có một cửa phụ thông với Trấn Bình Đài gọi là Thái Bình Môn.
    _Hoàng Thành là vòng thành thứ 2 còn có tên là Đại Nội, nằm ở khoảng giữa kinh thành, là nơi đặt các cơ quan cao nhất của Triều Đình nhà Nguyễn, và là nơi thờ tự các Vua Chúa đã quá cố . Hoàng Thành có mặt bằng mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4 mét, dày 1mét, xung quanh có hào bảo vệ.
    Hoàng Thành có 4 cửa:
    *Ngọ Môn : là cửa chính của Hoàng Thành (Đại Nội) về hướng Nam, dây là một tổng thể cấu trúc đồ sộ xinh đẹp được vua Minh Mạng xây năm 1833 . Môn nghĩa là cửa . Ngọ là đúng trưa, cao điểm của mặt trời. Ngọ Môn là một công trình kiến trúc bề thế dài 58 m (174 ft), rộng 27,5 m (82,5 ft) và cao 17 m (51 ft) . Cổng gồm 2 tầng, tầng dưới có 5 cửa, chính giữa là cửa Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi, cao 4,2 m (12,6 ft) rộng 3,7 m (11,1 ft), hai cửa liền kề là tả, hữu giáp môn dành cho các quan. Hai cửa ngoài cùng là tả, hữu dịch môn dành cho lính hầu và đoàn tùy tùng. Tầng trên vòm cổng có 9 ngôi lầu xây liền mái gọi là lầu Ngũ Phụng, lợp bằng ngói men vàng (hoàng lưu ly), các mái hai bên lợp bằng ngói men xanh (thanh lưu ly), nơi nhà vua ngự trong các dịp lễ. Đây còn là nơi cử hành lễ xướng danh các sĩ tử trúng tuyển trong các khoa thi hội, thi đình trước khi đem yết bảng ở Phú Văn Lâu. Suốt thời nhà Nguyễn, chỉ khi nào vua đi hoặc tiếp các sứ thần thì cửa Ngọ Môn mới được mở. Phía trước cửa có hai chữ lớn Ngọ Môn bằng cẩm thạch bọc vàng, nhưng bị biến mất từ năm 1943.
    *Hòa Bình : về hướng Bắc, ở phía sau, chỉ dành riêng cho Vua đi trong dịp thường như đi dạo Hồ Tĩnh Tâm, săn bắn, du ngoạn ...
    *Hiển Nhơn : về hướng Đông, dành cho phái Nam ra vào .
    *Chương Đức : vê hướng Tây, dành cho phái Nữ .
    Đại Nội gồm có hơn 100 công trình kiến trúc, được chia ra nhiều khu vực :
    * Từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hòa : nơi cử hành các lễ lớn của Triều Đình.
    *Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu và Điện Phụng Tiên : nơi thờ các Vua Chúa nhà Nguyễn.
    *Phủ Nội Vụ : nhà kho tàng trữ đồ quý, xưởng chế tạo đồ dùng cho Hoàng Gia.
    *Vườn Cơ Hạ và Điện Khâm Văn : nơi các Hoàng Tử học tập và chơi đùa .
    _Tử Cấm Thành là vòng thành trong Hoàng Thành, ngay sau lưng điện Thái Hòa. Đây là nơi ở và làm việc của vua và gia đình. Nơi đây được tách biệt với thế giới bên ngoài. Tử Cấm Thành được xây dựng năm 1804. Thành cao 3,72 mét, xây bằng gạch, dày 0,72 mét, chu vi khoảng 1230 mét . Bao gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ và có 7 cửa ra vào . Đại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho Vua đi vào, Cần Chánh là nơi Vua làm việc hàng ngày, Càn Thành là nơi Vua ở, Cung Khôn Thái là chỗ ở của Hoàng Quý Phi, Duyệt Thị Đường là nhà hát, Thượng Thiện là nơi nấu ăn cho Vua, Thái Bình Lâu là nơi Vua đọc sách ...
    (Sưu tầm --GPHG)
    ______________________________
    Toàn cảnh Hoàng Thành
  5. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    ĐẠI NỘI
    1. Cửa Ngọ Môn
    2. Cửu vị thần công
    3. Hồ Thái Dịch
    4. Cầu Trung Đạo
    5. Cửa Hiển Nhơn
    6. Cửa Đức Chương
    7. Cửa Hòa Bình
    8. Sân Đại Triều
    9. Điện Thái Hòa
    10. Triệu Miếu
    11. Thái Miếu
    12. Hưng Miếu
    13. Thế Miếu
    14. Cửu Đỉnh
    15. Hiển Lâm Các
    16. Điện Phụng Tiên
    17. Cung Diên Thọ
    18. Cung Trường Sanh
    19. Phủ Nội Vụ
    20. Vườn Cơ Hạ
    21. Đại Cung Môn
    22. Vạc Đồng
    23. Điện Cần Chánh
    24. Tả, Hữu Vu
    25. Điện Càn Thành
    26. Điện Khôn Thái
    27. Lầu Kiến Trung
    28. Ngự Tiền Văn Phòng
    29. Thái Bình Lâu
    30. Vườn Ngự Uyển
    31. Duyệt Thị Đường
    32. Lục Viện
    --------------------------------------------------------------------------------
  6. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    1. THặ Mỏằ~NG S"NG HặặNG
    Đi mô mơnh câng nhỏằ> mơnh
    Nhỏằ> sông HặặĂng nặỏằ>c biỏc, nhỏằ> non Bơnh trỏng trong
    Sông HặặĂng, xặa còn có tên là Kim Trà hay Lặ Dung. Tỏằô lÂu nó nỏằ.i tiỏng là con sông thặĂ mỏằTng cỏằĐa Huỏ 'ô. Nó có hai nguỏằ"n: tỏÊ trỏĂch và hỏằu trỏĂch. TỏÊ trỏĂch là hỏằ" nặỏằ>c bên trĂi. Hỏằu trỏĂch là hỏằ" nặỏằ>c bên phỏÊi. TỏÊ trỏĂch và hỏằu trỏĂch giao nhau tỏĂi ngÊ ba TuỏĐn. Tỏằô ngÊ ba tuỏĐn trỏằY 'i, sông HặặĂng lỏằng lỏằ, thiỏt tha, yỏằfu 'iỏằ?u nhặ mỏằTt cô gĂi làm dĂng. Có nặĂi mỏãt nặỏằ>c trong xanh suỏằ't 'Ăy, êm ỏÊ nhặ mỏãt nặỏằ>c hỏằ" thu. Nó uỏằ'n lặỏằÊn qua cĂc 'ỏằ"i Vỏằng CỏÊnh, e lỏằ? nâp mơnh vào ngỏằn Ngỏằc TrỏĐn, thong thỏÊ qua bÊi LặặĂng QuĂn, soi bóng thĂp Thiên MỏằƠ, khu lfng tỏâm cỏằ. kưnh, bóng 'ỏằ"i Long Thỏằ. Sóng và cỏằ"n Gia Viỏằ.n, buông nhỏạ qua thành phỏằ' Huỏ xinh xinh, qua cĂc ruỏằTng vặỏằn phơ nhiêu, làng xóm 'ông vui, sau 'ó lỏĂi vòng qua ngÊ ba Sỏằnh 'ặa nặỏằ>c ra cỏằưa Thuỏưn An.
    TỏĂi sao gỏằi là sông HặặĂng ? Có ngặỏằi cỏt nghâa sông HặặĂng là sông ThặĂm, vơ tỏĂi thặỏằÊng nguỏằ"n, cĂc khe suỏằ'i 'ỏằ. ra sông có nhiỏằu loỏĂi cÂy thuỏằ'c nhặ: ThỏĂch xặặĂng bỏằ" và Thuỏằã xặặĂng bỏằ" có mại thặĂm dơu dỏằi lỏằ. giĂo, nho phong :
    Tôm rỏng lỏằTt vỏằ bỏằ 'uôi
    GỏĂo de An Cỏằu em nuôi mỏạ già
    Non nặỏằ>c ThỏĐn Kinh 'Ê sỏÊn sinh ra nhiỏằu thỏ hỏằ? thặĂ vfn trỏằ tơnh nhặ Miên Thỏâm, Miên Trinh, cĂc công chúa Mai Am, Huỏ Phỏằ'; là nặĂi dỏằông chÂn cỏằĐa Nguyỏằ.n Cặ Trinh, Cao BĂ QuĂt, Bà Huyỏằ?n Thanh Quan và nhiỏằu nhà thặĂ, nhà vfn lỏằ>n khĂc. Non nặỏằ>c ThỏĐn Kinh câng 'Ê 'ỏằf lỏĂi nhỏằng vỏĐn thặĂ 'ỏạp cỏằĐa Hàn MỏĂc Tỏằư, Thỏ Lỏằ, Nam TrÂn...
    Trên sông nặỏằ>c HặặĂng Giang, 'êm vỏằ là cỏÊ mỏằTt thỏ giỏằ>i 'ỏĐy thặĂ mỏằTng và hỏt sỏằâc quyỏn râ, 'ỏĐy dỏôy thuyỏằn tơnh xuôi ngặỏằÊc trên sông:
    Thuyỏằn vỏằ ĐỏĂi LặỏằÊc
    Duyên ngặỏằÊc Kim Long
    Đỏn 'Ây là chỏằ- rỏẵ cỏằĐa lòng
    Gỏãp nhau còn biỏt trên sông bỏn nào.
    Đó 'Ây mĂi chăo khua 'ỏằTng nhỏạ lặỏằ>t và vỏng 'ặa giỏằng hò mĂi nhơ ngỏằt ngào tha thiỏt, tơnh tỏằâ và trong vỏt, vỏằôa bày tỏằ nỏằ-i niỏằm tÂm sỏằ vỏằ>i nặỏằ>c non:
    Thuyỏằn vỏằ Đông Ba thuyỏằn qua Đỏưp 'Ă
    Thuyỏằn tỏằô Vâ DỏĂ thỏng ngÊ ba Sơnh
    Lỏằ 'ỏằ bóng ngÊ trfng nghiêng
    Giỏằng hò mĂi 'ỏây nhỏn tơnh nặỏằ>c non.
    Có lúc giỏằng hò trỏằY nên tơnh tỏằâ lỏĂ thặỏằng:
    Hỏằ" Tânh TÂm giàu sen BỏĂch Diỏằ?p
    ĐỏƠt HặặĂng CỏĐn ngỏằt quẵt thặĂm cam
    Ai vỏằ cỏĐu ngói Thanh Toàn
    ĐỏằÊi em vỏằ vỏằ>i mỏằTt 'oàn cho vui.
    Sông HặặĂng vỏằ>i thành quĂch, lfng tỏâm cĂc vua triỏằu Nguyỏằ.n 'Ê 'ặa hơnh ỏÊnh trỏằY vỏằ vỏằ>i quĂ khỏằâ. Khu cỏằ. thành nỏm phưa TÂy thành phỏằ' Huỏ, trông 'ỏằ" sỏằT, kiên cỏằ' vỏằ>i hặĂn 10 cỏằưa lỏằ>n có vỏằng lÂu. Khu cỏằ. thành bao quanh ĐỏĂi NỏằTi. Còn cĂc lfng tỏâm cỏằĐa cĂc vua triỏằu Nguyỏằ.n 'ỏằu toỏĂ lỏĂc trên 'ỏƠt HặặĂng Trà, phưa bỏc sông, và mỏằTt sỏằ' nỏm trên 'ỏƠt HặặĂng Thuỏằã, phưa nam sông.
    Sông HặặĂng chỏÊy qua Phu-Vfn-LÂu nỏm ỏằY trặỏằ>c kinh thành, hặỏằ>ng ra dòng HặặĂng Giang êm 'ỏằm là nặĂi công yỏt nhỏằng sỏc dỏằƠ và treo bỏÊng vàng cĂc vỏằc TrỏĐn Cao VÂn 'ỏằf bàn 'ỏằi có cÂu ca truyỏằn tỏằƠng cho tỏằ>i ngày nay, kỏằ hỏưu sanh mỏằ-i khi 'ỏãt chÂn 'ỏn 'Ây không khỏằi ngỏưm ngại thặặĂng cỏÊm:
    Chiỏằu chiỏằu trên bỏn Vfn LÂu
    Ai ngỏằ"i ai cÂu, ai sỏĐu ai thỏÊm
    Ai thặặĂng ai cỏÊm, ai nhỏằ> ai trông
    Thuyỏằn ai thỏƠp thoĂng bên sông
    Nghe cÂu mĂi 'ỏây chỏĂnh lòng nặỏằ>c non.
    Sông HặặĂng 'ỏạp và 'ặỏằÊc 'iỏằfm tô không nhỏằng núi Ngỏằ, cỏĐu Tràng Tiỏằn mà còn 'ặỏằÊc 'iỏằfm xuyỏt bỏằYi thĂp chạa Thiên MỏằƠ nỏm bên tỏÊ ngỏĂn ThĂp chạa là mỏằTt thỏng cỏÊnh nỏằ.i tiỏng cỏằĐa Huỏ, do chúa Nguyỏằ.n Hoàng cho xÂy tỏằô nfm 1601. GỏĐn chạa có ThĂnh miỏu do Gia Long xÂy tỏằô nfm 1808 'ỏằf thỏằ éĂằâc Khỏằ.ng phu tỏằư, 4 vỏằc.
    Hỏằ" là mỏằTt 'oỏĂn cỏằĐa sông Kim Long bỏằ, ta liỏằu, ta 'i.
    Rỏằi Kinh Long - kinh thành cỏằ. kưnh - sông HặặĂng lỏãng lỏẵ 'i qua thành phỏằ' Huỏ. CỏĐu Tràng Tiỏằn vặặĂn mơnh trên dỏÊi HặặĂng Giang trong vỏt, là nặĂi hò hỏạn lẵ tặỏằYng và thặĂ mỏằTng cỏằĐa bao nhiêu trai thanh gĂi lỏằc trong xanh. Còn ỏằY bỏc sông là khu phỏằ' cỏằ. kưnh. Xuôi theo bỏằ sông là Đông Ba, Gia HỏằTi, chạa Diỏằ?u Đỏ... Mỏằ-i 'ỏằ<a danh ỏằY 'Ây là mỏằTt trang sỏằư sỏằ'ng 'Ê 'i vào thặĂ ca cỏằĐa dÂn tỏằTc.
    Ngày nay, Huỏ 'ỏạp, Huỏ thặĂ, Huỏ cỏằ. kưnh, Huỏ thÂn thặặĂng mỏằi gỏằi. Huỏ trỏằY thành 'iỏằfm tham quan du lỏằ<ch hỏƠp dỏôn nhỏƠt ỏằY Viỏằ?t Nam. Nhặng có ngặỏằi tỏằông bỏÊo: "Nói 'ỏn Huỏ mà không nói 'ỏn sông HặặĂng thơ 'ỏằông nên nhỏc 'ỏn Huỏ làm gơ!".
    (Nguyỏằ.n NhÂn Thỏằ'ng)
    (C'N TIỏắP )
    Được kevinmitknick sửa chữa / chuyển vào 22:42 ngày 25/05/2004
  7. harry27

    harry27 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/09/2003
    Bài viết:
    19
    Đã được thích:
    0
    To kevinmitknick:
    Rất cảm ơn bạn vì những bài bạn đã gửi vì nói thật là lâu lắm rồi box Du lịch mới có những bài viết hữu ích và có ý nghĩa như topic này,
    Chân thành cảm ơn và đa tạ,
  8. khpl

    khpl Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/03/2004
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Xin cảm ơn bạn kevinmitknick, bài nay rất hữu ích cho tôi đang sưu tầm, một topic bạn post bằng công tôi nghiên cứu và sưu tầm mấy tháng trời thiệt là bái phục, mong bạn post tiếp để học hỏi,
    cảm ơn kevinmitknick nhiều
  9. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    post luôn mấy bài thơ đọc chơi giải sầu
    ANH MUỐN GỬI CHÚT TÌNH CHO HUẾ
    Anh muốn gửi chút tình cho Huế
    Đã cưu mang anh mấy năm trời
    Thương em gái vương đầy mắt lệ
    Ngày chia tay không nói nên lời
    Nhớ thưở ấy mình cùng nhau tình tự
    Trên đồi Thiên An , trên núi Ngự Bình
    Em hiền dịu bên dòng HƯơng tư lự
    Biển Thuận An mình vui phút an bình
    Anh muốn gửi chút tình cho Huế
    Từ nơi xa chưa có dịp quay về
    Nhớ da diết đất thần kinh trầm lặng
    Nhưng tình yêu sâu sắc ít ai bằng
    Anh muốn gửi tự do về cho Huế
    Gửi niềm vui về cho những phố buồn
    Gửi hy vọng về cho từng chuyện kế
    Cho tà áo em đẹp mãi những sân trường
    trần minh hiền
    ................................................................................
    NHỚ HUẾ
    Em vẫn nhớ con đường xưa phượng đỏ
    Đồng khánh buồn vương phủ những chiều mưa
    Bến Vân Lâu vắng lặng buổi tiễn đưa
    Người lữ khách một chiều nao dừng bước
    Và trong em làm sao mà quên được
    Mùa đông về lũ lụt cả miền Trung
    Huế thân thương với giòng nước trùng trùng
    Cơn mưa lớn ngập tràn qua Đập Đá
    Đại nội thành gió bay vàng ngập lá
    Dáng u buồn ủ rủ đứng trong mưa
    Nét rêu phong phủ kín hoàng thành xưa
    Còn ẫn nét hùng anh trong trang sử
    Em vẫn nhớ tiếng mô tê từng chữ
    Đông Ba còn chen chúc nét phồn vinh
    Giòng sông Hương còn vương vấn bóng hình
    Đêm hò hẹn Vân Lâu ngày xưa đó
    Trăng Vỹ Dạ vẫn còn soi sáng tỏ
    Bóng con thuyền đợi khách ở trên sông
    Tà áo ai thấp thoáng ngỏ Kim Long
    "Sông An cựu mưa trong và nắng đục"*
    Em vẫn nhớ áo trắng dài nhũng lúc
    Tan trường về Lê lợi bước tung tăng
    Bến Ngự xưa e ấp dưới bóng trăng
    Trên dốc nhỏ Nam giao ai đứng đợi
    Và Tĩnh Tâm khi lòng buồn vời vợi
    Thoảng hương Sen ngào ngạt cả tâm linh
    Khói chiều lam vương phủ núi Ngự Bình
    Cầu Bạch Hổ còi chiều nghe nhung nhớ
    Em vẫn nhớ tiếng mô ,tê.chi rứa
    Luôn ngọt ngào hương vị của tình quê
    Mà đã lâu em chẳng được ghé về
    Để thăm lại Huế xưa thời thơ dại
    Đã bao năm chuyển mình trong thời đại
    Huế vẫn còn sáng chói giòng sử xanh
    Nước sông Hương vẫn trong mát thơm lành
    Làm nỗi nhớ trong em hoài vương vấn
    Lida
    *****************************************
    NHỚ HUẾ 2
    Đã lâu rồi em không về thăm Huế
    Con đường xưa Lê Lợi có đổi thay
    Hàng sứ buồn Đại nội còn hương bay
    Vân Lâu vắng còn ai ngồi mong nhớ
    Em bên ni nhớ thương về bên nớ
    Chiều nội thành ai có đợi chờ mong
    Mùa hạ xưa hoa nhản với phượng hồng
    Rơi trên áo người nữ sinh áo trắng
    Đồng Khánh xưa những trưa hè loang nắng
    Còn tiếng ve văng vẳng gọi hè sang
    Thừa phủ vui với những chuyến đò ngang
    Tiếng ..mô,rứa gọi nhau trên bến vắng
    Tịnh Tâm xưa có còn trong vắng lặng
    Buổi trưa về ôm vở học ôn thi
    Gốc sung già lấp ló kẻ tình si
    Mắt thờ thẫn nhìn ai qua kẻ lá
    Dốc Nam Giao có người về cư xá
    Mang trong lòng một nỗi nhớ bâng khuâng
    Chuyện tình yêu cứ giữ mãi trong lòng
    Thương yêu đó giờ đây còn không nhỉ
    Bao năm xa lòng em luôn nhớ kỹ
    Trường Tiền kia chăm chỉ những ngày qua
    Bước chân em theo nhịp bước hài hoà
    Ngày hai buổi Nội thành sang Đồng Khánh
    Huế ngày xưa trong lòng còn canh cánh
    Biết bao giờ trở lại chuổi ngày mơ
    Nỗi nhớ mong năm tháng chẳng nhạt mờ
    Ôi nhớ lắm quê hương mình xứ mộng
    (2 bài này không nhớ ai là tác giả)
  10. namoadiaphat

    namoadiaphat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2003
    Bài viết:
    1.093
    Đã được thích:
    0
    hồi trước mới ra Huế Tôi có lần hỏi 9 đỉnh đồng tên là gì , hình như người bạn dẫn đi nói cái gì mà tôi chưa rõ lắm . Dĩ nhiên tên súng thần công cũa vua còn có tên huống chi Cửu Đỉnh to nặng nầy . . Rờ lạnh tay mặc dù lúc đó mùa Hè nóng hâm hập , gió lào từ núi thổi ra nóng như luồng lữa vậy . Cây sứ cùi không động đậy gì hết . Huế đẹp nhất khi mùa mưa mà thôi . Nó buồn không những đứt ruột , đứt gan vậy đó . Ở Huế vài ngày thì chán , nhưng xa rồi thì nhớ ngàn năm . Như lúc nầy vậy ...
    Thế Miếu có 9 đỉnh đồng , do vua Minh Mạng làm ra bắt đầu từ năm thứ 16 khi lên ngôi .
    Làm từ năm 1835 đến 1837 thì xong . Quanh vòng lưng bụng đỉnh đồng , có trạm nổi 162 cảnh vật nước Việt ... nhưng chữ viết thì toàn chử Tàu mà thôi . ( ai biết chữ gì dịch giúp giùm kevin tôi một phát)
    Chín đỉnh đồng tên ghi và sức nặng như sau :
    1.- Cao Đỉnh , nặng 4307 cân
    2.- Nhân Đỉnh , nặng 4160 cân
    3.- Chương Đỉnh , nặng 3472 cân
    4.- Anh Đỉnh , nặng 4261 cân
    5.- Nghị Đỉnh , nặng 4206 cân
    6.- Thuần Đỉnh , nặng 3229 cân
    7.- Tuyên Đỉnh , nặng 3412 cân
    8.- Dụ Đỉnh , nặng 3342 cân
    9.- Huyền Đỉnh , nặng 3201 cân .
    Vì lúc xưa tiền đồng dùng làm tiền tệ xài trong dân gian , nên đồng rất quý giá . Người ta có thể nấu chảy đồng mà đúc tiền xài được như thường . Còn ngày nay thì nấu đồng ra tiền ai mà xài . Họ xài tiền giấy tốt hơn .
    Nên khi đúc xong thì ngân khố gần sạch bách tiền . Rồi tới chuyện xây lăng nữa , nên dân nghèo càng nghèo thêm ...đến đời Tự Đức thì có loạn chày vôi là những thợ xây lăng khỡi loạn ....
    mấy cái này không biết nói vậy có chính xác không nữa....
    Được kevinmitknick sửa chữa / chuyển vào 23:30 ngày 25/05/2004
    Được kevinmitknick sửa chữa / chuyển vào 08:18 ngày 26/05/2004

Chia sẻ trang này