1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hùng Vương!Thời Kì Mơ Hồ!

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thepeoplewholovelanguages, 27/02/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Dạ Lang có phải thuộc Vân Nam và 1 phần tây bắc VN ngày nay ko bác? Mà trong 1 số ghi chép thì An Dương Vương người thuộc vùng này, có sách thì nói thuộc đất Ai Lao (Ai Lao ko phải Lào đâu nhé , nếu xét theo Việt sử tiêu án thì dân này sống cũng khoảng khu vực từ bắc Lào, VN và Vân Nam...)
  2. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Tớ bỏ sót mấy ông Tích Quang, Nhâm Diên,....... Trong cuốn Đỉnh cao văn minh Đông Á có nói khá rõ về hệ thống cai trị của nhà Hán ở .......Đông Bắc TQ và bắc Triều Tiên. Đó là hệ thống ràng buộc lỏng lẻo. Các thái thú có quyền lực giới hạn ở trị sở, ông ta mua lòng trung thành của các tù trưởng địa phương bằng các sắc phong, mua bán, tặng quà các sản phẩm như gương đồng, vũ khí kim loại, vải lụa....và các tù trưởng thì hài lòng thần phục trên danh nghĩa trong khi quyền lực mình không mất đi mà còn được mũ cao áo dài. Rồi trong sử viết về thời kỳ Tây Tấn- Nam Bắc Triều có nhắc đến mấy chức danh như Đông Di hiệu úy, thứ sử Bình Châu ở vùng Đông Bắc Trung Quốc, nhưng quyền lực thật là bé nhỏ so với tù trưởng các bộ lạc Vũ Văn thị, Mộ Dung thị, Thác Bạt thị......
    Giả thiết là từ Triệu Đà cho đến đầu thời Đông Hán, Giao Chỉ ta cũng trong hoàn cảnh tương tự. Triệu Đà cho đến các thái thú danh nghĩa nhà Hán cũng mua sự thần phục bằng quà cáp cho các tù trưởng (bởi vậy được dân khoái). Nhà Đông Hán thành lập, tràn đầy tham vọng cử ông Tô Định sang để thiết lập chính quyền, lập quận huyện, thu cống nạp mới dẫn đến sự bất bình của dân chúng. Chúng ta xui hơn Triều Tiên khi không có các bộ lạc du mục mạnh mẽ che chở.
    Phải coi lại xem các đền thờ Triệu Đà được xây khi nào, nếu từ thời Lê thì rõ ràng bị ảnh hưởng của mấy ông sử thần nho giáo vẽ rồng vẽ rắn. Thời Bắc thuộc trở về trước dân ta thờ linga, yoni, thần đá, dâm thần... mà sau này ngụy trang thành Thạch Phật, bà chúa Xứ, nữ tướng Hai Bà Trưng...
    Thành Cổ Loa có thể là nơi đền thờ, các tù trưởng thường tụ tập bầu bán minh chủ (Hùng trưởng) rồi nhậu nhẹt. Ông Triệu Đà lễ mễ mang quà cáp qua phân phát, các tù trưởng lóa mắt trước cái gương đồng sáng bóng, thanh gươm bén, tấm giáp hộ tậm chắc chắn, chung uống rượu đúc sắc sảo, vò rượu thơm, lụa nước Triệu, ngọc nước sở.....bèn tôn Triệu Đà làm Hùng trưởng. Để cho chắc ăn Triệu Đà cưới một nàng mị châu cho con mình củng cố thêm liên minh. Đến khi Mã Viện sang bèn xây thêm bờ đê (vòng ngoài), lũy đất (thành trong) để thể sức mạnh thống trị của mình.
    Giả thiết thôi nhé
    Được spirou sửa chữa / chuyển vào 09:13 ngày 28/02/2008
  3. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Chuyện các bộ lạc Việt Nam tự trị cho đến thời Hai Bà Trưng được nhiều người công nhận và cũng không mâu thuẩn gì với việc Tàu có chiếm nớc ta lúc đó hay không. Nhưng giải thích cho việc xâm nhập của người Tàu thì 1 cuộc chiến tranh là cách đơn giản nhất.
    Thứ nhất là trước nay chưa thấy ai nói là Hùng (trưởng) là do bầu bán theo định kỳ, mà chỉ nói là 1 cuộc bầu duy nhất (có khi là 1 cuộc chiến) đưa thủ lĩnh vùng Vĩnh Phú lên làm Hùng Vương và truyền luôn đến sau này. Nếu có bầu thật thì cũng không chắc Triệu Đà chờ tới khi có bầu cử mới thôn tính Âu Lạc bằng con đường tự do dân chủ!
    Thứ hai là nhiều khả năng, chức Hùng trưởng ấy đã trong tầm nhắm của ai đó rồi, như hoàng tử của Hùng Vương cũ chẳng hạn. Không dễ gì dùng quà cáp để cho vị này từ bỏ chức vụ quyền hạn được. Phải dùng quân sự thôi. Cái phim Hoàn tử Jumông gì chiếu trên tivi cũng nói về thời nhà Hán ở Triều Tiên, đầu tiên là phải đánh đổ nhà nước hiện hữu đã, rồi lập trụ sở cai trị ở đó, còn dưới địa phương thì vẫn cho tự trị theo bộ lạc hoặc theo quốc gia.
    Được cavalryman sửa chữa / chuyển vào 11:04 ngày 28/02/2008
  4. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Hì, các bác cứ đọc kỹ cả bài báo Thanh niên, cắt riêng những gì được ghi rõ là của ông thiền sư nói ra sẽ thấy ngay cái gì là của thằng nhà báo tương thêm vào. Báo Thanh niên đăng tít giựt gưn như vụ này ko phải là lần đầu đâu!
    Chào thân ái và quyết thắng!
  5. bucnhi

    bucnhi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/12/2007
    Bài viết:
    10
    Đã được thích:
    0
    Thanh Niên:
    Như chúng tôi đã đề cập, giáo sư Lê Mạnh Thát đề nghị dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Cần biết, toàn bộ cơ sở để dựng lên thời kỳ An Dương Vương và Triệu Đà trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ Đại Việt sử lược, rồi Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục... cho đến sử sách ngày nay mà chúng ta biết, là lấy từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vức ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, trong 4 tài liệu đó, 3 tài liệu không rõ nguồn gốc và niên đại (chỉ phỏng đoán được đại khái là vào thế kỷ thứ VI, thứ VII), riêng Nam Việt chí thì có nguồn gốc niên đại rõ ràng (thế kỷ thứ V), nhưng tất cả đều mơ hồ, mâu thuẫn và không đáng tin cậy. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc, cụ thể là Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thơ, chúng ta hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập. Nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc là điều đã rõ. Vấn đề là xác định đất đai Nam Việt của Triệu Đà đến đâu? Kết luận là: Nước Nam Việt không bao giờ lan ra khỏi địa phận tỉnh Quảng Đông, một phần tỉnh Hồ Nam và Quí Châu cũng như Quảng Tây ngày nay. Ông bảo kết luận này cũng không phải mới. "Tư không Trương Hoa đời Tấn viết Bác vật chí 2 tờ 4b11-12 cũng nói: "Nước Nam Việt cùng tiếp với Sở, Ngũ lĩnh về trước đến tới Nam hải, là nước tiếp giáp biển. Đất Giao chỉ gọi là Nam duệ". Viết như thế, Giao chỉ rõ ràng không thuộc đất Nam Việt. Một khi đã kết luận như vậy, Triệu Đà dĩ nhiên không quan hệ gì đến nước ta. Phần gọi là "Triệu kỷ" trong các cuốn sử ta từ Đại Việt sử lược trở đi do thế đáng nên loại bỏ" (sách đã dẫn).
    Việc dùng những tài liệu không đáng tin cậy để ghi vào sử sách nước nhà, rồi cứ đinh ninh như vậy cho đến ngày nay, từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do "những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng "những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn" (như trường hợp về Nhâm Diên, Tích Quang nói dưới đây và nhiều trường hợp tương tự khác). Tuy nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần" so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, nó cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm (sách đã dẫn).
    Với những sử liệu đã dẫn, vấn đề An Dương Vương đã rõ là một phiên bản Việt Nam trong bản anh hùng ca Mahãbhãrata, thế thì xử lý như thế nào về quan hệ giữa An Dương Vương với thành Cổ loa? Giáo sư Lê Mạnh Thát viết: "Để trả lời câu hỏi đó, trước hết cần có một ý niệm tổng quát về quá trình hình thành quan hệ giữa các kỳ quan tự nhiên hay nhân tạo với các nhân vật kỳ vĩ, cụ thể là chuyện con trâu vàng của Không Lộ với Hồ tây. Không Lộ là vị thiền sư mất năm 1119, thế mà lại có một kết nối việc hình thành Hồ tây trong truyền thuyết dân gian như Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh đã ghi lại. Vậy, việc kết nối An Dương Vương với thành Cổ loa trong truyền thuyết không nhất thiết là một sự thật lịch sử, dù sau Lĩnh Nam chích quái, một kết nối như thế đã được Ngô Sỹ Liên đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư và khoác cho nó một bộ áo lịch sử chính thức". Dĩ nhiên triều đại Hùng Vương của chúng ta không thể nào không có thành quách, nên chắc chắn chúng ta có một cái thành như vậy, nhưng 4 tài liệu đã dẫn nói về An Dương Vương cũng không nói gì về tên thành Cổ loa, do đó Cổ loa chẳng qua là một tên gọi được Ngô Sỹ Liên lấy từ truyền thuyết của Lĩnh Nam chích quái để đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư gắn vào An Dương Vương mà thôi.
    Như vậy, các triều đại An Dương Vương và Triệu Đà đã được các sử gia Việt Nam từ Lê Văn Hưu đến Ngô Sỹ Liên dựng lên từ những tài liệu không đáng tin cậy, kiểm chứng tới đâu thấy sai tới đó. Nay với những sử liệu tin cậy có thể kiểm chứng được đến tận gốc mà giáo sư Lê Mạnh Thát đã chỉ ra, chúng ta có đủ cơ sở loại chúng ra khỏi lịch sử, để làm trong sạch tổ tiên bờ cõi chúng ta. Một người thì tiêu diệt vua Hùng (An Dương Vương), một người thì chiếm nước ta (Triệu Đà), khi đã có đủ chứng cứ là không đúng sự thật, thì vinh dự gì mà vẫn để tồn tại trong những trang sử của dân tộc?
    Nhưng khi khẳng định nước ta là nước độc lập cho đến năm Mã Viện đánh bại cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng, thì giải quyết như thế nào đối với các nhân vật như Tích Quang, Nhâm Diên được coi là các "thái thú" Trung Quốc cai trị nước ta trước đó? Hai nhân vật này được sử sách Trung Quốc cho là những người đến "khai hóa" dân tộc ta, bằng những lời lẽ vô cùng xấc xược, coi dân tộc ta là "mọi", là "cầm thú", là "sâu bọ chồn cáo" (lời trong Hậu Hán thơ). Bằng những sử liệu khó chối cãi, giáo sư Lê Mạnh Thát chứng minh Tích Quang, Nhâm Diên chưa bao giờ làm thái thú ở nước ta cả, đó chỉ là sự "hư cấu lố bịch khôi hài". Lấy thí dụ như Nhâm Diên, Hậu Hán thơ viết ông này được cử làm thái thú Cửu Chân (nước ta) vào năm Kiến vũ thứ nhất (năm 25 sau dương lịch), nhưng thời điểm đó cũng theo Hậu Hán thơ, tình hình chính trị Trung Quốc từ sông Dương Tử về phía nam cực kỳ phức tạp, các tướng mỗi nơi chiếm một phương, thiên hạ loạn lạc đến nỗi "vua tự đem quân thân chinh mà còn bị cản đường, xe ngựa không tiến lên được", thì làm sao Nhâm Diên đến được Cửu Chân để làm thái thú ? Vả lại, chứng cứ đanh thép nhất mà sử gia Lê Mạnh Thát tiếp tục dẫn ra là, sau khi Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương", Hậu Hán thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc". Như vậy rõ ràng nước ta đã có luật pháp. Bộ luật đó một chính quyền ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời. Nếu nói nước ta lúc đó chỉ là quận, huyện của Trung Quốc, do các thái thú của Trung Quốc sang cai trị, thì chỗ đâu để có bộ Việt luật cho Mã Viện điều tấu? Mà nếu có Việt luật, nghĩa là có một nhà nước độc lập, thì Tích Quang, Nhâm Diên "cai trị" ở đâu?
    http://www2.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2008/2/28/227859.tno
    Quả này hay rồi, lịch sử thế này xem ra phải đào lại hết.
  6. Ionesome

    Ionesome Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/06/2003
    Bài viết:
    1.195
    Đã được thích:
    1
    Chào bác Trương Thái Du
    Bác có cần tôi lôi các topic mà trong đó mớ lý thuyết của bác bị anh em trên TTVNOL này bẻ cho không còn chỗ nào cựa lại không? Lagn thang các forum khác tôi cũng thấy bác tự mình đánh bóng cho lý thuyết của mình lắm nhưng hình như hiệu quả không cao.
    @Chauphihwangza và bác CoDep: 2 người vẫn còn thích tranh luận tiếp với những kiến thức kiểu này ạ?
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Nước Dạ Lang, một nước ở tây nam Trung Hoa thời Hán, được ghi chép trong Sử Ký Tư Mã Thiên, thiên 116 - Tây Nam Di liệt truyện.
    Phan Quốc Sơn dịch, link:
    http://nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=73795&z=54
    Lời Người dịch: Năm 1918, Henri Maspero phân tích về danh hiệu Hùng Vương do sự đọc nhầm từ chữ Lạc Vương, và tên nước Văn Lang lấy từ tên nước Dạ Lang, một vương quốc cổ nay là đất Quí Châu(1). Giả thuyết này đã bị giới học giả Việt Nam sau đó bác bỏ.
    Tư Mã Thiên là sử gia đầu tiên chép về nước Dạ Lang trong sách của ông, Sử Ký Tư Mã Thiên, thiên 116,Tây Nam Di Liệt Truyện, là thiên mà chúng tôi lần đầu tiên dịch giới thiệu qua bản Việt ngữ sau đây. Các bộ chính sử Trung Quốc lần lượt ra đời suốt hơn ngàn năm nay, từng mỗi thời đại, từ Hán cho đến Tống, đều có riêng thiên ?oTây Nam Di Truyện?, là tuân theo nề nếp bắt đầu từ Tư Mã Thiên vậy. Riêng ?oTây Nam Di Truyện? trong Tiền Hán Thư của Ban Cố , và Hậu Hán Thư của Pham Việp hầu như dựa theo nguyên văn của Tư Mã Thiên, tăng bổ thêm chút đỉnh thông tin mới.
    Cho đến nay chưa có bộ Việt Sử nào khai thác nguồn sử liệu này. Bấy giờ nước ta thuộc vào nước Nam Việt của Nhà Triệu, nên chỉ dựa vào thiên ?oÚy Đà Nam Việt Truyện?. Mãi đến khi Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ ra đời, cũng chép thoáng vài và thêm lời bàn: ?o Thế là nguyên nhân gây họa ở nước Việt khởi từ tương cẩu mà nhà Hán đánh nước Việt?. Chúng tôi dịch lại thiên này nhằm cung cấp thêm sử liệu để chúng ta biết phong phú hơn về thời kỳ khuyết sử của dân tộc ta.
    MẤT NƯỚC VIỆT CHỈ VÌ NƯỚC TƯƠNG DÂU CẨU
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 12:05 ngày 01/03/2008
  8. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    TÂY NAM DI LIỆT TRUYỆN
    Phan Quốc Sơn dịch, link:
    http://nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=73795&z=54
    Đường Mông được nhà Hán phái đi chinh phục miền tây nam để mở đường thông đến nước Dạ Lang, từ đó về sau quân trưởng nước Cung và Tác trở thành chư hầu của nhà Hán và được quan lại Hán cai trị. Vậy tôi chép ra đây ?oTây Nam Di Truyện?.
    Miền tây nam có hàng chục quân trưởng của các nước di, trong đó lớn nhất là vua nước Dạ Lang(2). Phía tây nước Dạ Lang là nước Mĩ Mạc, trong đám ấy lớn nhất là vua nước Điền(3). Phía bắc nước Điền còn có quân trưởng nhiều nước khác, trong đó vua nước Cung Đô là lớn hơn hết.
    Trong các nước có quân vương này, hết thảy dân man tóc đều búi tó, làm ruộng rẫy, và sống thành làng xóm. Phía tây bắc xứ ấy có tộc người Tủy và Côn Minh, đất của họ kéo dài từ Thằng Thủy đến tận Yết Vu, tóc họ lại thắt bím, sống nay đây mai đó đời du mục cùng đàn gia súc, không có vua thống lĩnh và không một chỗ sống nhất định. Địa vực của họ rộng mấy ngàn dặm vuông. Phía đông bắc của người Tủy, còn có hai ba chục tộc trưởng khác, hai tộc lớn nhất là Tây Tích và Tác Đô. Phía đông bắc dân Tác, trong nhiều đám quân trưởng, riêng của hai tộc Nhiễm và Mang là quan trọng hơn cả: Họ có dân tộc sống định cư một chỗ, có giống sống lối du mục. Lãnh địa của họ về phía tây quận Thục. Hướng đông bắc của người Nhiễm và Mang còn rất nhiều quân trưởng khác của các tộc người mà lớn nhất là của người Bạch Mã. Họ thuộc người man di ở về phía tây nam xứ Ba và Thục(4).
    Thuở xưa, đời Vệ Vương nhà Chu, vua sai tướng Trang Kiểu mang quân lên đầu nguồn sông Dương Tử để đánh nước Ba và Thục, Khương Trung và các nước phía tây. Trang Kiểu tiến quân đến hồ Điền Trì, hồ chu vi ba trăm dặm, đất bằng phẳng hàng nghìn dặm mầu mỡ bao quanh(5). Ông đem binh thôn tính nước ấy, đem nội thuộc vào nhà Chu, lúc quay trở về để báo tin cho nhà Chu thì gặp lúc quân Tần đánh Chu, chiếm xứ Ba và Khương trung, cắt mất đường về của ông. Không về Chu được, ông đem quân quay lại Điền, chiếm lấy nước này rồi tự xưng làm Điền Vương, thay đổi mũ áo mà vận theo kiểu bản xứ, theo phong tục mà làm trưởng dân này.
    Đến thời nhà Tần, triều đình cử binh đi chinh phục xứ ấy, xẻ đường rộng đến năm bộ để đi lại. Quan lại Tần được phái đến xây trị sở cai trị các bộ tộc nơi đây. Được đâu mười năm, nhà Tần đổ.
    Khi nhà Hán mới dựng nghiệp, triều đình bỏ lơ việc bình định và lấy biên cương cũ dọc quận Thục làm phên dậu. Dân chúng hai quận Ba và Thục thường đi lại buôn bán, mua ngựa từ nước Tác, nô tì và trâu lông dài từ nước Bộc. Việc buôn bán phát đạt làm người Ba và Thục chẳng mấy chốc giàu có.
    Năm thứ hai hiệu Kiến Nguyên (135 trước Tây lịch), thừa tướng Vương Khôi xuất binh đánh Dư Sính( hay là Dĩnh), vua nước Đông Việt, đang mưu tính nổi loạn. Liền đó cận thần Đông Việt nổi lên giết Dư Sính rồi đem nước nộp làm chư hầu của nhà Hán. Vương Khôi ỷ vào thế binh hùng để bình định toàn vùng, bèn khiến quan lệnh ở Bác Vọng là Đường Mông sang thuyết phục vua Nam Việt chầu phục vào nhà Hán. Trong lúc Đường Mông đang ở trong triều Nam Việt, ông được đãi thưởng thức món tương dâu cẩu. Khi hỏi tương này làm ở đâu, đáp: ?oTương dâu cẩu này từ miền tây bắc sông Tường Kha chở thuyền xuống. Sông Tường Kha bề ngang rộng mấy dặm, chảy qua thành Nam Việt? (6) Kịp lúc Đường Mông trở về kinh đô Tràng An, đem việc ấy hỏi một lái buôn nước Thục đang có mặt tại kinh đô, đáp: ?oThứ tương này được làm ở nước Thục, và được mang sang bán rất nhiều tại nước Dạ Lang, nước này nằm bên sông Tường Kha, nơi ấy bề rộng mấy trăm bộ, rất tiện lợi cho ghe thuyền xuôi ngược sầm uất. Vua Nam Việt thường gửi hóa tệ và tiền bạc xuống mua chuộc Dạ Lang để bành trướng uy quyền của nhà vua đến tận Đông Tủy nhưng vẫn không thu phục được Dạ Lang?.
    Đường Mông gửi chiếu về triều tâu: ?oVua Nam Việt cưỡi xe mui vàng, gắn cờ tả đạo, hành tung muốn ngang hàng với Thiên Tử, làm chúa tể một dải đất từ đông sang tây dài muôn dặm. Hắn tự xưng là kẻ ngoại thuộc đối với bản triều Hán. Nếu cử binh từ Trường Sa và Dự Chương xuống đánh, chắc quân sĩ không vượt nổi sông rộng, khó mà điều binh. Thần nhận tin báo, có thể mộ được mười vạn quân tinh nhuệ từ Dạ Lang. Đoàn quân này có thể tiến xuống bằng ngả sông Tường Kha rồi bất ngờ tấn công, chắc hắn sẽ không kịp trở tay. Thần trộm nghĩ đây là diệu kế điều binh để đánh chiếm đất hắn. Với uy vũ của nhà Hán, cọng thêm sự giàu có của nước Ba, Thục, tất sẽ dễ mở đường thông đến Dạ Lang và lập trị sở tại đấy.?
    Vua Hán nghe theo kế ấy, cử Đường Mông làm lệnh tướng dẫn một ngàn quân cùng một vạn phu dịch mà cùng tiến. Ông vượt núi Tác xứ Ba để vào cõi mà ra mắt Đô Thống, quân trưởng nước Dạ Lang.
    Đường Mông mang phẩm vật biếu Đô Thống rất hậu và tuyên dương uy vũ nhà Hán, thuyết dụ vua để cho sứ giả Hán được vào cõi, hứa sẽ phong con trai trưởng của Đô Thống tập truyền nối dõi mà cai trị đời sau. Các đô ấp nhỏ láng giềng với Dạ Lang bấy giờ rất chuộng hàng lụa của nhà Hán. Về phần Đô Thống nghĩ rằng ngả giao thông giữa nước ông và nước Hán rất nhiêu khê hiểm trở không thể thường đi lại được, nên có thể giữ ngôi cai trị lâu dài một cõi, nên tạm thời ưng thuận lời yêu sách bấy giờ của Đường Mông. Xong sứ mạng, Đường Mông bèn quay về triều tâu báo. Nhờ đó nhà Hán bắt đầu lập nên ở đây quận Kiến Vi, phái quân lính hai xứ Ba, Thục đi mở đường thông qua nước Bộc về hướng sông Tường Kha.
    Người xứ Thục là Tư Mã Tương Như làm quan nhà Hán cũng xin nhà vua lập nên quận trấn tại miền tây của hai nước Cung nước Tác, nhà vua phái Tư Mã Tương Như làm thú lệnh triều đình đến thuyết dụ các nước ấy. Mười huyện trấn mới được dựng nên đặt dưới quyền trông coi của một quan thú lệnh và cắt thuộc vào quận Thục, về phần dân chúng thì được tự cai trị lấy như dân man di ở cực nam.
    Trong việc mở mang đường giao thông đến đất của tây nam di, bốn huyện trong quận Ba và Thục lúc bấy giờ còn có nhiệm vụ gửi binh đi canh giữ đường tải lương cho phu dịch, công việc kéo dài mấy năm liền, đường đắp vẫn chưa xong vì phu dịch vướng bệnh thời khí chết rất nhiều. Lại nữa, người Di thường nổi lên tập kích quân Hán khiến triều đình liên miên phái binh đến chống đánh, hao tốn tiền bạc và tài vật vô kể mà việc ra binh không mấy thành công.
    Nhà vua lấy đó lam lo lắng bèn khiến Công Tôn Hoằng đến tận nơi để dò xét tình thế. Trở về triều, ông tâu rằng kế hoạch khai mở vùng ấy quả bất lợi. Ít lâu sau, ông được bổ làm chức quan trung lang. Nhân lúc ấy nhà vua đang bận công việc xây thành Sóc Phương nhằm đánh đuổi giặc Hung Nô ra khỏi miền nam sông Hoàng Hà. Công Tôn Hoàng không ngưng cảnh giác mối nguy nan trong việc mở đường thông đến miền của các rợ tây nam, ông khuyên vua nên bỏ việc này mà dồn nỗ lực đánh dẹp giặc Hung Nô. Nhà vua nghe theo và bỏ ý định cũ, chỉ giữ lại hai quận Nam Di và Dạ Lang, đặt dưới quyền một quan thú lệnh: Như vậy là bỏ lơ xứ Kiến Vi, hầu như để họ tự lập mà không can thiệp nữa.
    Năm Nguyên Thù nguyên niên (122 trước Tây lịch), Trương Kiên, tước Bác Vọng Hầu, về triều tâu rằng ông thấy ở nước Đại Hạ (9) có bán rất nhiều hàng dệt từ xứ Thục, gậy trúc từ nước Cung sang. Ông có hỏi những món hàng ấy từ ngả nào đến được Đại Hạ, đáp: ?oTừ nước Thân Độc(10) đến, nước ấy ở hướng tây cách đây mấy ngàn lí, chúng tôi mua trong các cửa hàng người Thục ở đó...? Ông còn được cho biết nước Thân Độc cách nước Cung hai ngàn lí về hướng tây. Trương Kiên cả mừng tâu với vua rằng ?o Đại Hạ nằm về phía tây nam nước ta, rất mong được giao hiếu với Trung Quốc và rất bất bình vì Hung Nô chặn ở giữa. Nếu ta tìm một con đường mới sang nước Thân Độc từ xứ Thục, thì họa may từ đó có đường tắt thuận tiện thông tới Đại Hạ mà tránh được lộ trình hiểm nghèo về phía bắc!?
    Thế nên nhà vua cử Uông Nhâm Dự, Bác Thạch Xướng và Lữ Nhược Thâm và một số người bí mật đi về miền các nước tây nam di để tìm lối thông sang Thân Độc. Vừa đến được nước Điền, vua nước ấy là Xích Ngạn Khương bèn giữ họ lại trong nước rồi phái một đoàn gồm mười hay mười hai người nhắm hướng tây tìm ngã đến Thân Độc thay cho họ. Bọn người Trung Quốc phải chờ đợi hơn cả năm trời. Nhưng tất cả các ngả đường dẫn đến Thân Độc đều bị dân Côn Minh đóng chận, nên đám người được cử đi đó không thể nào sang được nước Thân Độc.
    Nhân tiếp chuyện sứ giả Hán, vua Điền hỏi: ?o Nước ta hay nước Hán, nước nào lớn hơn?? Và người Dạ Lang có mặt lúc ấy cũng hỏi một câu tương tự. Vì đường giao thông giữa nước họ và trung quốc chưa mở, nên hai nước ấy cứ tưởng mình là một đại thủ lĩnh của một giải giang sơn mênh mông mà không hề biết sự to tát lớn rộng của nước Hán.
    Khi sứ giả Hán trở về kinh đô, họ cả quyết rằng Điền là một nước lớn, cần phải ràng buộc với nước Hán. Nhà vua lấy đó làm việc cân nhắc hệ trọng.
    Mấy năm sau, kịp lúc nước Nam Việt dấy binh, vua Hán sai Trì Nghĩa Hầu mộ quân người tây nam di trong quận Kiến Vi để hỗ trợ đánh Nam Việt. Thủ lĩnh một xứ man trong miền ấy là Thư Lan e ngại nếu ông ta và bọn đàn ông phải tòng chinh, lỡ có nước láng giềng tiến vào bắt hết đám ông già và các bé trai ở nhà. Cho nên Thư Lan và dân chúng nổi dậy giết sứ giả Hán và quan thú lệnh quận Kiến Vi. Vua Hán đã cho tuyển mộ đám tội đồ hai xứ Ba và Thục ra làm lính để hợp sức đánh Nam Việt, cử ra tám tướng lệnh đem đám lính mới tuyển này đi dẹp loạn quân Thư Lan. Đồng lúc ấy, sự kháng cự của Nam Việt đã được dẹp yên, thì tám tướng quân thay vì xuôi quân theo sông tiến xuống mạn biển, họ lại quay ngược về hướng bắc, ra quân xử tội vua nước Đầu Lan. Đầu Lan là một nước nhỏ trong vùng luôn luôn ngăn trở sự giao thông với nước Điền. Như thế là Đầu Lan và các bộ lạc tây nam di khác được bình định và vùng này được lập thành quận Tường Kha.
    Vương hầu nước Dạ Lang từ trước vốn là vây cánh với Nam Việt Vương, nhưng sau khi Nam Việt bị dẹp tan, ông ta bèn đem xử giảo tất cả bọn cận thần trước đây vốn đã bày mưu cho ông chống nhà Hán. Rồi cuối cùng đích thân ông đến kinh đô Tràng An vào chầu vua Hán, được nhà vua phong cho chức quận vương nước Dạ Lang.
    Sau khi quân Hán đánh thắng Nam Việt, xử giảo quân trưởng nước Thư Lan và nước Cung, giết Tác Vương thì các thủ lĩnh ở miền Nhiễm và Mang tỏ ra hết sức sợ hãi và xin được làm chư hầu của nhà Hán, quan lại Hán đến cai trị họ. Do đó nhà vua lấy hai nước Cung, Tác lập thành quận Việt Tủy, Tác Đô thành quận Thân Lí, Nhiễm và Mang thành quận Vân Sơn, và Bạch Mã ở phía tây Quảng Hàm thành quận Vu Đô.
    Nhà vua còn sai Uông Nhâm Dự đến khuyến dụ vua nước Điền vào chầu ở kinh đô Hán, kể rõ cho ông ta nghe số phận Nam Việt và đám thủ lĩnh tây nam di đã bị quân Hán diệt. Bấy giờ dưới trướng vua Điền có chừng hai hay ba vạn quân, đồng thời phía đông bắc của nước này có bộ lạc Lão Kim và Mĩ Mạc (vốn cùng đồng bào với vua Điền ) đang thống lĩnh, làm vây cánh. Ỷ vào thế mạnh, vua Điền bác lời khuyến dụ của sứ giả Hán. Lại nữa, quân của Lão Kim và Mĩ Mạc thường giết sứ giả và đánh quân Hán. Năm thứ hai niên hiệu Nguyên Phong ( 109 trước Tây lịch), vua Hán sai quân từ Ba và Thục đánh và diệt được Lão Kim và Mĩ Mạc, rồi tiến quân tới đóng ngay biên giới nước Điền. Vì vua Điền nguyên lâu nay vẫn tỏ lòng thân hiếu với nhà Hán nên quân Hán được lệnh không giết ông ta. Bấy giờ vua Điền là Lý Nam bèn đem tất cả thần dân hàng phục nhà Hán, xin Hán gửi quan đến cai trị, và xin đem thân vào chầu triều đình. Sau đó, nước Điền bị cải tên thành Ích Châu, và nhà vua được ban ấn phong làm Điền Vương để tiếp tục vỗ về con dân (11). Như thê, trong đám hàng trăm quân trưởng của các nước tây nam di, chỉ có hai nước Điền và Dạ Lang là được ban ấn vương. Điền tuy là một nước hầu khá nhỏ nhưng chiếm được lòng ưu ái tột bực của vua Hán.
    Thái sử công nói: ?o Tổ tiên nhà Chu chắc được hưởng lộc trời ban! Thuở nhà Chu mới khởi nghiệp, có người trong họ làm chức lệnh tướng dưới triều Văn Vương, các đời con cháu về sau vẫn được hưởng mãi tập ấm tước lộc nhà Chu. Kịp đến khi nhà Chu suy, nước Chu vẫn rộng lớn năm ngàn lí. Nhà Tần dấy lên tiêu diệt hết thảy mọi chư hầu, thế mà chỉ còn hậu duệ nhà Chu vẫn giữ được ngôi vua nước Điền. Và cho dù nhà Hán trừng trị rất nhiều bọn tây nam di và diệt mất nước của họ, nhưng vua Điền vẫn được quí chuộng và được cho giữ nghiệp làm vương.
    ?o Hết thẩy giây liên hệ giữa nhà Hán với các nước tây nam di khởi đầu từ việc có người thấy ở Phiên Ngung có thứ nước tương dâu cẩu và từ việc dân nước Đại Hạ xài gậy trúc làm từ nước Cung! Về sau, các nước tây nam di được chia thành hai miền và đất của họ bị cắt thành bẩy quận?./.
    Chú thích của người dịch:
    (1) Henri Maspero, Etudes d?Thistoire d?TAnnam, Bulletin de l?TEcole Francais d?TExtrême Orient 18 (1918) 1-36.
    (2) Nước Dạ Lang, từ thời Chiến Quốc đến nhà Hán, bao gồm miền tây và miền bắc tỉnh Quý Châu, miền tây tỉnh Tứ Xuyên và miền bắc tỉnh Quảng Tây ngày nay.
    (3) Nước Điền là tỉnh Vân Nam ngày nay. Miền đông bắc Vân Nma là đất của nước Điền từ thời Chiến Quốc đến nhà Hán.
    (4) Xứ Ba và Thục, thời Tần-Hán đặt thành quận, tỉnh Tứ Xuyên ngày nay
    (5) Hồ Điền Trì nằm phụ cận nước Điền xưa, nay là hồ Côn Minh, phía đông của tỉnh Vân Nam.
    (6) Thành Nam Việt, tức Phiên Ngung xưa, kinh đô của nước Nam Việt nhà Triệu, nay thuộc Quảng Châu.
    (7) Tương Dâu Cẩu, tức trái dâu tên Cẩu Kỷ Tử, là loài dâu núi mọc ở chân núi Hy Mã Lạp Sơn, miền Tứ Xuyên. Từ ngàn năm qua dân bản địa đã quí trọng loài dâu này như một loài dược thảo rất bổ khỏe, là sản vật để triều cống cho các hoàng đế Trung Quốc như một thứ quả ?o trường sinh?. Ngày nay có bán như một dược thảo quí.
    (8) Tức vua Triệu Đà, nước ta lúc bấy giờ đã nội thuộc vào nước Nam Việt của nhà Triệu.
    (9) Đại Hạ: Có lẽ nước này ở vào phía tây của Ấn Độ, một phần của Pakistan và A Phú Hãn bây giờ.
    (10) Thân Độc, là nước Ấn Độ ngày nay.
    (11) Các nhà khảo cổ Trung Quốc đã đào được di chỉ Thạch Trại Sơn của nước Điền xưa, ấn vàng bốn chữ ?o Điền Vương Hành Tỉ?. Tài vật khảo cổ này chứng tỏ lời ghi chép của Sử Ký Tư Mã Thiên là đa phần đúng.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 12:02 ngày 01/03/2008
  9. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Bác lại suy nghĩ theo kiểu da trắng rồi, có dân có lãnh thổ, ai xâm phạm thì bị đánh, bọn da trắng cũng phải giở chiêu xin ở tạm rồi sau đó đuổi người ta đi mới có đất, chứ đâu có chuyện đất có dân ở mà là vô chủ!
    Trên kia lại có cái post gì nói về "luật Việt" rồi lại suy ra luật là phải đóng thành cuốn sách có chương điều, phải do vua phê chuẩn.. thì mới gọi là luật.. Thế là bậy, các dân tộc thiểu số ngày nay không có vua, không có ranh giớir rõ ràng nhưng cũng có luật riêng của họ, ai vi phạm có khi bỏ mạng!
  10. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Trí tưởng tượng của tôi bắt đầu bay bổng rồi!
    Ôi tự hào biết mấy, chữ viết dân tộc ta có chứ, có từ hai ngàn xưa chứ lị, nó là chữ phạn cổ đấy!
    Biết đâu tộc việt chúng ta lại chẳng là một nhánh tách ra từ cái đám "gốc" phía bắc Ấn tràn qua đông nhỉ?
    Ở Sài gòn bây giờ có cái chùa Ấn (sau lưng chợ Bến thành) mỗi khi rằm hay đầu tháng là bà con việt tộc lại lũ lượt đến nhang khói, thật sáng suốt!
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này