1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Huyê??n Trân Công Chúa?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi datvn, 13/02/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. trond

    trond Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    19
    Đã được thích:
    0
    Bác Dongadoan luận và bình khá hay về chính sách bán thằng miền xuôi, nuôi thằng miền ngược của các triều Lý, Trần thực hiện rất thành công.
    Chỉ xin góp thêm 1 ý về câu ca :
    Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
    Đã vo nước đục lại vần lửa rơm.

    không phải giễu cuộc hôn nhân Chế Mân - Huyền Trân như bác dongadoan đã luận mà cười chê vụ việc Trần Khắc Chung đưa công chúa Đại Việt -hoàng hậu Chiêm Thành đi từ kinh đô nước Chiêm về đến nước Việt hết những 10 tháng.
    Cái hay của câu ca trên không chỉ cho thấy sự việc mà còn sử dụng hình tượng so sánh thật chính xác, tinh tế. Vua Chế Mân là người Chiêm, nước da ngăm nên ví như nước đục chăng. Và lửa của quan Hành Khiển Trần Khắc Chung quả là lửa rơm vì chỉ dám cháy có 10 tháng mà không dám làm 1 cuộc chu du vào Thái Hồ như Chu Công Phạm Lãi với người đẹp tây Thi thời Xuân Thu Chiến Quốc.
    Nhân tiện nhắc thêm 1 câu ca khác nói về chuyện bán thằng miền xuôi, nuôi thằng miền ngược của các triều Lý, Trần:
    Tiếc cho cây quế giữa rừng
    Để cho thắng Mán, thằng Mường nó leo
    .
  2. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Chúng ta có thể tham khảo sự kiện Thượng hoàng Trần Nhân Tôn đi Chiêm Thành và quan hệ của 2 bên trong thời kỳ này cho rõ, cũng có đôi chút liên quan tới việc của Huyền Trân công chúa:
    -------------------------------------
    Việc đi Chiêm Thành này theo Trần Chí Chính trong lời đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ có vẻ như là một cuộc vân du của một nhà truyền giáo và đã được vua Chiêm đón tiếp trong tư cách ấy. Trần Chí Chính viết:
    ?oCó lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm Thành biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước và đem đất hai Châu làm lễ cúng dâng cho ngài. Ấy là Thần Châu, Hóa Châu nay vậy?.
    Tuy nhiên căn cứ trên quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành trong giai đoạn Thượng hoàng lãnh đạo đất nước Đại Việt, thì ta có thể chắc chắn vua Chiêm lúc ấy là Chế Mân đã nghe tiếng và có cảm tình khá đậm đà đối với Thượng hoàng. Ta đã thấy ở trên, khi cuộc chiến tranh Nguyên-Chiêm xảy ra vào năm 1283 Thượng hoàng đã gửi chi viện cho nhà nước Chiêm 2 vạn quân và 500 chiến thuyền. Tất nhiên việc gửi quân này là nhằm lợi ích lâu dài của Đại Việt, nhưng trước mắt xương máu Đại Việt đã đổ ra một phần nào cho chiến thắng của quân dân Chiêm Thành. Chính ơn nghĩa này và những hành động xây đắp nền hòa bình hữu nghị Việt Chiêm khác đã tạo điều kiện cho vua Chiêm có một sự kính mến và hâm mộ đối với nhà lãnh đạo Đại Việt.
    Quả vậy, sau khi mở pháp hội Vô Lượng tại chùa Phổ Minh của phủ Thiên Trường và bố thí vàng bạc tiền lụa cho những người nghèo khổ vào rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303), ĐVSKTT 6 tờ 17b7-18b4 đã kể lại việc Đoàn Nhữ Hài trước khi đi sứ Chiêm Thành đã đến bái yết Thượng hoàng ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh. Đợi suốt ngày mà vẫn không gặp được. Đến khi pháp giá của Thượng hoàng ngự ra chơi, Nhữ Hài đã đến bái yết và thưa chuyện với Thượng hoàng trên hai tiếng đồng hồ. Nói chuyện xong Thượng hoàng trở về khen với các quan tả hữu ?oNhữ Hài thực là người giỏi, được quan gia sai khiến là phải?. Chi tiết này cho ta thấy ngay khi không còn trực tiếp điều khiển đất nước, Thượng hoàng vẫn có một quan tâm đặc biệt đối với Chiêm Thành.
    Những sự việc xảy ra sau đó có liên quan đến Chiêm Thành đều xuất phát từ chuyến vân du vừa kể.
    Tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), ĐVSKTT 6 tờ 19b1 chép chuyện một nhà sư tu theo phương pháp du già (yoga) của Chiêm Thành đến nước ta. Nét đặc biệt của vị sư này là chỉ uống sữa bò. Rồi tháng 2 năm Ất Tỡ (1305) ĐVSKTT 6 tờ 20a3-6 chép việc ?oChiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người đem biểu dâng vàng bạc, hương quý, vật lạ để xin định lễ cầu hôn. Triều thần cho là không được. Riêng Văn Túc Vương Đạo Tải chủ trương việc nghị bàn, và Trần Khắc Chung tán thành, nên việc bàn mới quyết?.
    Đến tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), ĐVSKTT 6 tờ 21a8b1 lại ghi việc ?ogả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân. Nguyên trước Thượng hoàng vân du đến Chiêm Thành đã trót hứa rồi. Văn nhân trong triều ngoài nội phần lớn mượn việc vua Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung Nô, làm lời thơ quốc ngữ để mà chê cười?. Đến mùa xuân tháng giêng năm sau, Đinh Mùi (1307) ĐVSKTT 6 tờ 22a7-b2 chép việc ?ođổi 2 châu Ô, Lý làm Thuận Châu và Hóa Châu, sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến ổn định dân chúng. Trước đó chúa Chiêm Thành là Chế Mân đem đất ấy làm vật dẫn cưới. Những người thôn La Thủy, Tác Hồng và Đà Bồng không chịụ. Vua sai Ngự Hài đến tuyên bố đức ý của triều đình, lựa chọn người bọn chúng bổ cho làm quan, đồng thời cấp ruộng đất miễn tô thuế 3 năm để vỗ về?.
    Năm Đinh Mùi tháng 5, Chế Mân chết. Tháng 9 con của Huyền Trân là Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê đem voi trắng dâng và chắc là để yêu cầu triều đình Đại Việt đi rước công chúa Huyền Trân về, vì ?otục nước Chiêm Thành, hễ vua chết thì Hoàng hậu phải vào đàn thiêu chết theo?. Thế là tháng 10 sai Trần Khắc Chung và Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trần và con là Đa Da về nước: ?oBọn Khắc Chung sang, mượn cớ làm lễ viếng, rồi nói rằng: ?~Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương. Chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về sẽ vào đàn thiêu?T. Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ để cướp đi rồi đưa về. Bèn cùng Công chúa tư thông loanh quanh mãi ở đường biển, lâu ngày mới đến kinh sư? như ĐVSKTT 6 tờ 32a7-33a2 đã ghi. ĐVSKTT 6 tờ 33b3-4 nói: ?oMùa thu ngày 18 tháng 8 năm Giáp Thân, (1308), công chúa Huyền Trân từ Chiêm Thành trở về. Thượng hoàng sai trại chủ Hoá Châu đưa 300 người Chiêm đi thuyền trở về nước họ?. Thế là gần một năm Trần Khắc Chung mới đưa được Công chúa Huyền Trân về Đại Việt. Và chưa đầy 3 tháng trước khi Thượng hoàng mất, công việc Chiêm Thành vẫn được Thượng hoàng theo dõi. Chúng ta ngày nay không biết trại chủ Hóa Châu lúc bấy giờ là ai và tại sao phải đưa 300 người Chiêm về nước của họ. Phải chăng họ là những người Chiêm đã đi cùng Công chúa ra biển làm lễ chiêu hồn? Dẫu sao, trước khi mất, Thượng hoàng đã gặp lại được người con gái thân yêu của mình tưởng phải mãi mãi xa cách để thực hiện một sứ mệnh có lợi cho đất nước muôn đời về sau. Đó là đưa hai châu Ô và Lý vào bản đồ Đại Việt, để sau này trở thành vùng đất Thuận Hóa nổi tiếng và từng là kinh đô của một nước Việt Nam thống nhất.
    Châu Ô chính là vùng đất Ô Mã của Chiêm Thành, mà Toa Đô trong đợt xâm lược năm 1283 đã báo cáo là vùng đất ?onằm gần nước An Nam?, như Nguyên sử 209 tờ 9b đã ghi nhận. Còn châu Lý, tức vùng đất Việt Lý, mà bọn Toa Đô phải đi qua trước khi tiến công vào trại Bố Chính và đất Hoan Ái của ta và đã gây cho ta nhiều tổn thất. Chính vì cánh quân Toa Đô từ miền Nam kéo ra này đã gây nên diễn biến chính trị và quân sự phức tạp đến nỗi vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng đã phải chỉ huy cánh quân phía Nam của ta để đối phó lại với chúng và cuối cùng đã chiến thắng vang dội với việc chém đầu Toa Đô và bắt sống gần một vạn quân chúng tại trận Tây Kết lần thứ hai.
    Ô, Lý, do đó có một vị trí chiến lược xung yếu đối với nền an ninh của Đại Việt. Cho nên dưới cái nhìn chiến lược của một nhà quân sự thiên tài, ngay từ những năm chiến tranh, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã nghĩ tới việc nắm lấy hai châu này để đảm bảo cho sự sống còn của Đại Việt được an toàn. Chắc chắn xuất phát từ cái nhìn như thế, mà cả một loạt biện pháp đã được thực hiện, trong đó có cả việc gả công chúa Huyền Trân, người con gái duy nhất của Thượng hoàng cho vua Chiêm là Chế Mân. Việc sáp nhập hai châu Ô, Lý vào bản đồ Đại Việt đã diễn ra một cách hòa bình, rất khác với việc sáp nhập ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính của Lý Thánh Tông hơn 200 năm trước đó.
    Lý Thánh Tông đã bắt Chế Củ dâng đất để chuộc mạng sống của mình. Còn vua Trần Nhân Tông thì không thế. Vua Chiêm có thêm một người vợ Việt, và người vợ này còn sinh hạ cho vua Chiêm một người con trai là Chế Đa Da. Sách lược ngoại giao hòa bình của vua Trần Nhân Tông đã đem lại những thành quả chính trị và an ninh quá to lớn thật không ngờ tới. Từ đây ta thấy dòng Nam tiến của người Việt ngày càng dồn dập như một cơn thủy triều đang cuồn cuộn dâng lên. Chưa đầy một trăm năm sau khi Ô Lý đã thành châu Thuận và châu Hoá, thì Hồ Quý Ly đã có thêm Thăng Hoa và Tư Nghĩa. Hơn nửa thế kỷ sau Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông đã cắm mốc trên núi Đá Bia ở Phú Yên. Việc lấy được Ô, Lý bằng con đường hòa bình như thế đã đặt nền móng cho việc mở rộng biên cương của tổ quốc. Đây phải nói là một trong những cống hiến vĩ đại của vua Trần Nhân Tông đối với dân tộc, mà muôn đời về sau con cháu vẫn còn ghi nhớ.
    Công việc Chiêm Thành cho đến những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình, Thượng hoàng vẫn có một quan tâm sâu sắc. Tuy thế, không phải vì công việc đó mà Thượng hoàng sao nhãng những công việc khác. Theo Thánh đăng ngữ lục thì vào năm Giáp Thìn (1304), Thượng hoàng ?ođi khắp các xóm làng để giáo hóa và trừ bỏ các việc thờ cúng bậy, dạy cho họ thực hành 10 điều thiện?. Việc Thượng hoàng Trần Nhân Tông đem 10 điều thiện để dạy dân chúng rõ ràng phản ảnh quan điểm chính trị của Phật giáo Việt Nam mà trước đó hơn ngàn năm đã được ghi vào trong kinh Lục Độ tập. Bản kinh này có thể nói là một trong những bản kinh xưa nhất của Phật giáo nước ta hiện biết, đã tổng hợp nhuần nhuyễn và thành công tư tưởng Phật giáo và truyền thống dân tộc. Nó liên tục kêu gọi những người lãnh đạo chính trị phải dùng 10 điều thiện làm ?opháp luật quốc gia? (quốc pháp), làm ?ochính sách quốc gia? (quốc chính). Và đây là lần đầu tiên ta thấy Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã thực hiện lời kêu gọi này.
  3. lonesome

    lonesome LSVH, 7xSG Moderator

    Tham gia ngày:
    17/04/2002
    Bài viết:
    7.018
    Đã được thích:
    11
    Còn đât là bài viết trên báo Sài gòn Doanh nhân Cuối Tuânôs 18/2/2005 của Tiến sĩ sử học Thông Thanh Khánh xung quanh chuyện tình giữa Huyền Trân và Trần Khắc Chung.
    Có không chuyện tình
    Huyền Trân Công chúa - Trần Khắc Chung?

    * Tiến sĩ Thông Thanh Khánh
    Từ rất lâu câu chuyện đàm tiếu về một chuyến đi mang yếu tố lịch sử được thượng hoàng Trần Nhân Tông và nhà vua Anh Tông giao phó cho quan hành khiển Trần Khắc Chung, chuyến đi mà tên tuổi ông được các giới sử học sau đó đánh giá khá mỉa mai bởi tính định mệnh của nó:
    Người dũng tướng trong trận chiến vệ quốc chống quân Nguyên -Mông, được phong đến chức Nhập nội hành khiển, một nội tướng quan trọng trong triều đình, đã gục ngã trước nhan sắc nàng công chúa duy nhất của vua Trần Nhân Tông. Sử gia Ngô Sĩ Liên, người thực hiện bộ Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) đã đánh giá một cách khá gay gắt về câu chuyện này, rồi ông xem đó như là một vết nhơ đáng trách. Chính việc ĐVSKTT ghi chép một thiên tình sử tựa như câu chuyện của Tây Thi - Phạm Lãi thời Việt Vương Câu Tiễn bên nước Tàu được thêu dệt truyền tụng khắp nhân gian, đã tạo nên những cơn phong ba của hỷ, nộ, ái, ố, qua các thế hệ trước sau.
    Câu chuyện bắt đầu từ việc ''''Năm Đinh Mùi, tháng 5, Chế Mân chết. Tháng 9, con của Huyền Trân là Chế Đa Da sai sứ thần tên là Bảo Lộc Kê đem voi trắng dâng. Tháng 10, sai Trần Khắc Chung và Đặng Văn sang Chiêm Thành. Bọn Khắc Chung sang mượn cớ làm lễ viếng rồi nói rằng: Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về sẽ vào đàn thiêu, người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ để cướp đi rồi đưa về. Bèn cùng công chúa tư thông loanh quanh mãi ở đường biển, lâu ngày mới đến kinh sư (ĐVSKTT 6 tờ 32a7-33a2). Và rồi cũng chính từ đây ĐVSKTT 6 tờ 33b3-4 lại nói tiếp "Mùa thu ngày 18 tháng 8 năm Giáp Thân (1308) Công chúa Huyền Trân từ Chiêm Thành về nước. Thượng hoàng sai trại chủ Hóa Châu đưa 300 người Chiêm đi thuyền trở về nước họ". Cũng theo hư truyền rằng trước khi sang làm dâu xứ Chiêm, Huyền Trân và Trần Khắc Chung đã có một mối tình sâu đậm, vì lợi ích quốc gia nên đành phải hy sinh mối tình đầy thơ mộng để đổi lấy hai châu Ô Mã và Ô Rí. Rồi khi Chế Mân mất đi, tình xưa của hai người được kết nối qua cuộc giải vây và hộ tống Huyền Trân về lại Đại Việt. Rồi năm qua tháng lại, dòng đời tuôn mãi, câu chuyện ấy vẫn được các thế hệ truyền lưu. Nhưng đâu là sự thật lịch sử, một sự thật lịch sử công bằng để đánh giá đúng tầm của cả hai nhân vật Khắc Chung và Huyền Trân?
    Những đối lập đáng ngờ
    Khi đọc lại những gì mà ĐVSKTT ghi chép, nếu tinh ý chúng ta sẽ thấy được những điểm đáng ngờ và đầy tính bất ổn về sự kiện này. Trước nhất ở Q.6 tờ 20a3-6 ĐVSKTT ghi là: "Tháng 2 năm Ất Tỵ (1305) Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng 500 người đem biểu dâng vàng, bạc, hương quý, vật lạ để xin đính lễ cầu hôn. Triều thần cho là không được. Riêng Văn Túc Vương Đạo Tải chủ trương việc nghị bàn và Trần Khắc Chung tán thành nên việc bàn mới quyết". Vậy thì cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và vua Chiêm Thành là Chế Mân đã gặp phải sự kháng cự khá gay gắt bởi các quan lại trong triều đình dẫn đến việc Văn Túc Vương Đạo Tải phải tổ chức một hội nghị luận bàn nên hay không nên gả Huyền Trân về xứ Chiêm. Cuộc luận bàn này diễn ra trong sự tranh luận nảy lửa về tính dị tộc nhưng chính quan Nhập nội thành khiển Trần Khắc Chung lại hoàn toàn nhất trí về cuộc hôn nhân này. Nếu quan hệ tình cảm với công chúa Huyền Trân có thật thì đây là cơ hội cho Khắc Chung đứng về phía triều thần để phản đối, chứ đâu lại là người ủng hộ việc đưa Huyền Trân về với Chế Mân. Đứng về quan hệ huyết thống thì Khắc Chung là cháu của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Quốc Tung, anh cả của Nguyên Chánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Huyền Trân là con của Thái hậu Nguyên Chánh với thượng hoàng Trần Nhân Tông, một trực hệ rất gần như thế thì khó có chuyện quan hệ tình cảm, dù rằng vấn đề quan hệ hôn nhân đồng huyết đã xảy ra khá phổ biến trong nội bộ hoàng gia triều Trần nhưng chỉ xảy ra đối với trực hệ xa từ hai đời trở lên, chứ không quá gần như Khắc Chung với Huyền Trân.
    Còn nếu bảo rằng Khắc Chung vì lợi ích quốc gia nên đồng ý gả công chúa Huyền Trân để lấy lại châu Ô Mã và Ô Rí như ĐVSKTT 6 t 22a7-b2 ghi "Đổi 2 châu Ô, Rí làm Thuận Châu và Hóa Châu, sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến ổn định dân chúng. Trước đó chúa Chiêm Thành là Chế Mân đem đất ấy làm vật dẫn cưới". Liệu điều này có đúng không? Theo một tư liệu có từ đời Trần nói về việc đi Chiêm Thành của thượng hoàng Nhân Tông thì Trần Chí Chính trong lời đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ có ghi: "Có lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía Nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước và đem đất hai châu làm lễ cúng dâng cho Ngài. Ấy là Thuận Châu và Hóa Châu nay vậy". Tác phẩm ra đời trước ĐVSKTT như tư liệu nêu trên vào đời Trần chắc chắn phản ánh sự việc có tính chính xác hơn là ĐVSKTT vào đời nhà Lê - như vậy vấn đề đất đai với chuyện hôn nhân của Huyền Trân hầu như không có gì liên hệ với nhau. Mặt khác cuộc nghị bàn mà ĐVSKTT gọi là của các quan lại trong triều đình do Văn Túc Vương Trần Đạo Tải chủ trì nên nhìn từ góc độ thân tộc. Chúng ta nhớ rằng đa số các quan lại trong triều Trần là những hoàng thân, quốc thích nên vấn đề đồng ý và không tán đồng có ý nghĩa thân tộc nhiều hơn ý nghĩa chính sự quốc gia.
    Theo cách ghi chép của ĐVSKTT mà chúng tôi trích dẫn ở phần trên thì những điểm bất ổn đã liên tục xảy ra. Việc thế tử Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê đem voi trắng đến dâng vào tháng 9 Đinh Mùi (1307) và việc gả công chúa Huyền Trân vào tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) thì ở thời điểm này thế tử Chế Đa Da mới có 4 hay 5 tháng tuổi và trước đó vào tháng 5 năm Đinh Mùi thì vua Chế Mân đã băng hà. Theo tư liệu Thư tịch cổ của người Chăm bàn về các vật lễ dâng cúng cho thần và vua (Dăk Tôh Kaya Pô yang Patau) thì con voi trắng là vật thế hay con vật trả. Sứ thần Bảo Lộc Kê đưa voi trắng đến dâng cúng có hàm ý là xin trả công chúa Huyền Trân về lại Đại Việt, vì vua Chế Mân đã chết. Chính yếu tố này giúp cho chúng ta thấy rằng sự việc mà phái bộ sứ thần yêu cầu là chính đáng vì người Chiêm Thành theo chế độ mẫu hệ. Tính mẫu hệ ở đây được hiểu như là mẫu tính (người con theo họ mẹ) và mẫu cư, người con sinh sống với mẹ, việc cho phép thế tử Chế Đa Da theo Huyền Trân về nước đã phần nào nói lên điều này. Thêm một điều nữa, do vua Chiêm là chàng rể ngoại tộc nên mọi vấn đề triều chính là do Hội đồng Hoàng gia nghị bàn và quyết định, hoàng hậu mới được xem là nội tộc và những đứa con của hoàng hậu mới chính là nội tộc hoàng gia có quyền đảm nhận việc thừa tự truyền ngôi và vua Chế Mân không được chọn lựa ai khác ngoài những đứa con của Hoàng hậu.
    Giàn hỏa đầy tai tiếng
    ĐạiViệt SưKỷ Toàn Thư chép ''''Tục nước Chiêm Thành, hễ vua chết thì hoàng hậu phải vào đàn thiêu chết'''' và thế là vào tháng 10 triều đình đã sai sứ bộ gồm nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung và An phủ sứ Đặng Văn dẫn đầu đến Chiêm Thành để đón Huyền Trân và thế tử Chế Đa Da về nước. Việc hỏa táng mà ĐVSKTT chép thật ra là một tục lệ của Ấn Độ dành riêng cho các đẳng cấp Bà La Môn. Trong khi đó, sử ký Chiêm Thành và tất cả các thư tịch cổ bàn về nghi lễ hỏa táng (Dăk Ngăk Dam Chuh) không bao giờ đề cập đến việc khi vua mất đưa lên đàn thiêu, hoàng hậu cũng chấp nhận thân phận chết theo đầy phi lý ấy. Theo thư tịch Dăk Ngăk Dam Chuh thì việc hỏa táng là cách mà chính thể xác và linh hồn được nhập thân vào vũ trụ. Tổ chức một đám hỏa táng với đầy đủ các nghi lễ của nó là diễn lại sự tái sinh của linh hồn người đã mất về lại thế giới thực tại. Tục hỏa táng diễn ra rất cổ xưa ngay từ thời đại văn hóa Sa Huỳnh, một dạng văn hóa mà chủ nhân của nó là những cư dân Chămpa của Vương quốc Chiêm Thành, người ta đã thấy những vò, chum chôn cất những phần tro xương của những người đã hỏa táng. Tập tục hỏa táng chung được xem như húy kị (tabo) đối với cộng đồng người Chăm, nên việc mà ĐVSKTT ghi chép hoàn toàn mang tính truyền thuyết hơn là sự thật lịch sử. Nhìn từ góc độ gia tộc thì đối với người Chiêm Thành phụ nữ là Nội và nam giới thì Ngoại (Mư Kèeh Mék Pên) nên phụ nữ chết theo chồng là chuyện không thể xảy ra bởi tính thừa tự của gia đình và dòng họ (Muh thuôh Plei). Người đàn ông Chiêm có thân phận như cô gái Việt, chấp nhận thân phận đi ở rể, con gái đến cưới. Việc làm vua của vương quốc này cũng thế, con gái út của hoàng hậu mới hưởng quyền truyền thừa ngôi báu và chồng cô ta khi cưới về sẽ đảm nhận vai trò là quốc vương. Chính vì vậy mà cộng đồng người Chăm có câu ca dao ca thán về tục lệ này "Còn sống thì làm cho người ta/Khi chết ra ma đem xương về tộc họ" (Thok thiêuk ngăk ka urang, Mư tai pà kalan ka kậu). Từ đó cho chúng ta thấy việc đồn đại rằng Huyền Trân phải lên giàn hỏa cùng Chế Mân là cách đàm tiếu của người xưa bởi tính hẹp hòi và ích kỷ của việc hôn nhân dị tộc. Nó không bao giờ xảy ra như thế. Ngược lại khi vua Chế Mân chết vào tháng 5, sứ bộ Chiêm Thành dâng voi trắng vào tháng 9 và đến tháng 10 sứ bộ nhà Trần mới có mặt tại Vương quốc Chiêm Thành để đưa Huyền Trân về nước thì vào thời điểm đó việc hỏa táng Chế Mân đã tiến hành đến 4 tháng. Do vậy vấn đề hỏa táng Huyền Trân chung cùng Chế Mân lại càng không thể xảy ra.
    Sứ hộ Chiêm Thành đưa voi trắng như chúng tôi trình bày ở phần trên là cách mà Hội đồng Hoàng gia Chiêm Thành vừa báo lễ tang và xin trao trả công chúa Huyền Trân và con là Chế Đa Da về lại Đại Việt. Cũng chính từ yêu cầu này mà một phái bộ sứ thần do hai vị quan đứng đầu triều Trần là Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung và An phủ sứ Đặng Văn đã đến Chiêm Thành để đón Huyền Trân, Chế Đa Da và những người hầu mà công chúa được phép mang theo khi qua làm dâu Chiêm Thành. Dĩ nhiên đoàn sứ bộ lúc này không chỉ có Trần Khắc Chung mà có cả quan An phủ sứ Đặng Văn, một người có uy danh trong triều Trần cùng đi, mọi vấn đề đều diễn ra trước hàng trăm cặp mắt thì không có việc mà Ngô Sĩ Liên chép trong ĐVSKTT rằng ''''Họ có tư thông với nhau'''' chỉ vì căn cứ vào một lý do cực kỳ đơn giản là chuyến đi loanh quanh gắn một năm trời mới về đến Đại Việt. Một điều là cho đến nay chưa ai có thể xác định được là ngày và tháng mà Trần Khắc Chung và phái đoàn sứ bộ rời Chiêm Thành. Riêng ĐVSKTT chỉ chép chung chung về việc giải vây cho Huyền Trân của Trần Khắc Chung, vậy thì trong lúc giải vây này An phủ sứ Đặng Văn đang ở đâu? Căn cứ vào những yếu tố mà chúng tôi phân tích có thể thấy rằng câu chuyện tư thông cũng như mối tình giữa Huyền Trân và Khắc Chung chỉ là lời đồn đại có chủ ý của các nhân vật bất đồng quan điểm với nhà Trần và chống đối với cuộc hôn nhân mang tính dị tộc. Việc mà chờ cho đến ngày 18 tháng 8 năm Giáp Thân (1308) sứ bộ mới đưa được Huyền Trân công chúa về đến Thăng Long và việc thượng hoàng Trần Nhân Tông cho đưa về Chiêm Thành 300 người Chiêm ở trại Hóa Châu đã phản ánh tinh thần hòa hiếu giữa hai triều đình lúc bấy giờ. Ở đây chuyến đi kéo dài gần tròn một năm là bởi theo chúng tôi có thể là phái bộ phải chờ tham dự lễ giáp năm (Păk thuôn) cho vua Chế Mân, đồng thời cho công chúa làm tròn bổn phận của người vợ hiền đối với vị vua Chiêm Thành Chế Mân. Tuy vậy đây chỉ là những thông tin ban đầu mà chúng tôi xin cung cấp cho các giới nghiên cứu lưu tâm đến vấn đề Chiêm Thành và quý độc giả tham khảo. Chúng tôi hy vọng trong một ngày gần đây nhất sẽ tìm được những sử liệu khoa học về vấn đề này giúp bổ sung và làm sáng tỏ câu chuyện rắc rối đã lưu truyền hàng mấy trăm năm nay.
  4. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Người dũng tướng trong trận chiến vệ quốc chống quân Nguyên -Mông
    ---------- Trích từ bài do bác Cao bồi đưa lên -------------------
    Sao tớ chưa nghe vụ này bao giờ nhỉ ? Khắc Chung là con người dũng cảm thì chắc rồi, nếu không đã không dám đối đáp cứng cỏi thế với Ô-Mã-Nhi. Nhưng ổng đâu có ra trận mà là dũng tướng nhỉ ?
  5. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Chỉ xin góp thêm 1 ý về câu ca :
    Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
    Đã vo nước đục lại vần lửa rơm.
    -------------------------------------------------------------------------------
    Thưa bác trond : bác gốc dân thành phố phải không ? Tớ đoán thế vì bác nhầm than với lửa, ở nông thôn ngày xưa đun bằng củi or rơm, khi cơm sôi người ta dụi lửa đi chỉ ủ cái nồi đất vào tro than cho cơm chín dần bằng hơi --> cái đó gọi là vần cơm. Câu ca trên theo bản của tớ nghe có vẻ hợp lý hơn vì đã vần cơm thì không cần lửa nữa, phải không bác ?
  6. trond

    trond Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    19
    Đã được thích:
    0
    Thưa bác DongaDoan, cũng chẳng biết nên gọi tôi là dân cày đường nhựa hay nhaque nữa, nhưng vụ nấu cơm bằng than đá vo viên hay than củi và cả rơm rạ thì trond tôi có trải qua nên vụ vần cơm, vùi tro như cách bác tả ở phần trên. Trong các tài liệu tôi đọc, chỉ thấy các dị bản dùng lửa rơm nên nhắc lại theo những gì đã đọc.
    Có điều theo tôi câu trên ám chỉ vụ việc TKC & HT công chúa đi hàng tháng rời trên một chiếc thuyền từ Chămpa về Đại Việt hơn là nói về cuộc hôn nhân ngoại giao.

Chia sẻ trang này