1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Huyền thoại mùa thu - Jim Harrison

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi CuZin, 27/06/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
              Sáng hôm ấy ở Havana, Tristan ăn sáng rồi đi dạo phố đến giờ đã hẹn buổi trwa, giờ hàng ngày ông nội anh thăm hãng tàu thuỷ. Lúc đầu cuộc gặp gỡ bình thường, nh­ng lúc thoát khỏi các thw ký và dấu vào cái nóng gay gắt của ban ngày, ông nội anh trở nên nghiêm trang và đi vượt lên nhanh như một người chạy cơn mưa dông. Ông lão đã cho tốp thuỷ thủ về nhà và lão bị bệnh tỵ, đấy là câu phàn nàn duy nhất Tristan nghe thấy từ miệng ông nội, nhưng nó che giấu một điều chắc chắn xảy ra: con thuyền buồm sẽ bị tịch thu trên đường về Falmouth để dùng cho chếin tranh. Họ phải hợp tác điều khiển con thuyền. Lúc hai ông cháu đi qua Lãnh sự quán Anh, ông già dừng lại nhìn Tristan bằng cặp mắt xanh lơ lạnh lùng và bảo anh đừng nói gì hết, cuộc thoả thuận đã xong. Rồi ông lão uống một ngụm rum lớn trong chai của lão và đưa mời Tristan, nói rằng cảm xúc của lão ắt phải cùn nhụt đi một chút mới chịu được những kẻ ngu đần như thế này.
               Đến cuối buổi chiều, họ chất các thứ lên thuyền buồm cùng một phó thuyền trưởng mới, một anh chàng Đan Mạch từ San Francisco tên là Asgaard và ba thuỷ thủ người Cuba rõ ràng là dày dạn kinh nghiệm. Lúc này thuyền trưởng không chính thức là Tristan, trong danh sách của ông nội, anh là một hành khách đi Falmouth. Họ lénkhỏi nơi buộc thuyền sau khi trời tối, cắm cờ Mỹ trước buồm chính và ghi chép hành trình vào một cuốn nhật ký mới. Sáng hôm sau có gió đông bắc mạnh, họ lượn vòng quanh mũi Antonio và nhằm hướng tây nam xuống kênh Yucatan, thẳng tới Barranquilla bốc hàng của một nước trung lập gồm gỗ dái ngựa và hồng mộc, và chẳng phải ngẫu nhiên, có cả một thần dân quan trọng người Anh. Rồi nhằm hướng đông, họ qua phía nam của Caymans, ngược lên kênh Windward rồi ra Caicos Passage, quay mũi về hướng bắc, được dòng Gulf Stream trợ giúp thẳng tới nước Anh.
              Trong cabin riêng, thỉnh thoảng ông lão ra lệnh cho Asgaard và dạy dỗ Tristan không ngừng. Họ chia thành ca hai người một, uống cà phê Jamaica cho tỉnh ngủ. Suốt một tháng liền, mọi thứ bếin sạch khỏi tâm trí Tristan ngoài việc nhồi nhét những kinh nghiệm sáu chục năm ròng của ông nội anh: giấc ngủ của anh đầy những đường đi của các cơn bão tưởng tượng, dây neo, cách chia cột buồm, những cơn sóng lừng lạ lẫm ở ngoài khơi Madagasca, hiếm có trong mùa đông. Họ không thấy dấu hiệu bị Đức phong toả lúc đến gần bờ phía nam nước Anh. Ban đêm, lúc họ lẻn vào Falmouth thì chạm trán tình báo Anh. Đây là chuyến hàng cuối cùng của ông lão và tối hôm ấy, Tristan và bà vợ dìu ông lão lên giươờg, bà cụ đã đếm từng chuyến trở về của lão từ hơn nửa thế kỷ nay. Lão gần như vui vẻ lúc nắm tay vợ và nói lão về đến nhà là mừng lắm rồi.
              Ngày hôm sau, Tristan được một giám đốc trước đây làm giám đốc nhà máy ở Midlands chỉ dẫn vắn tắt. Viên giám đốc tỏ ra cung kính và rót cho Tristan một cốc lúc anh căng thẳng sờ tập hồ sơ. Rồi ông ta hỏi liệu Tristan có phiền không nếu cho biết cách lột da đầu người khác; hồi trẻ, ông ta đã đọc nhiều tác phẩm văn học về miền Tây nước Mỹ, nhưng chưa có tác giả nào miêu tả chính xác kỹ thuật này, mà ông ta rất muốn biết. Tristan lẳng lặng đưa bàn tay xuống dưới lưỡi trai của mũ trong một cử chỉ cho thuận, rồi làm động tác bóc toạc thật nhanh. Nó làm anh có cảm giác hài hước thật hiếm hoi và anh nói người ta đợi cho đến lúc kẻ địch đã chết hoặc gần chết mới lột, tuỳ thuộc vào mức độ căm ghét, không thể lột da người đã bị chặt đầu vì cần phải giữ cho chắc bằng một điểm tựa. Người Anh gật gù tán thưởng rồi họ nói tiếp vào công việc. Sáng hôm sau, hàng trên thuyền dỡ xuống, những hòm gỗ đề thịt bò đóng hộp nhưng thực ra bên trong chứa vũ khí loại tân tiến. Hàng sẽ chở đến Malindi trên bờ biển Kenya viện trợ cho quân Anh, chặn trước những chuyện rắc rối với Đức ở pháo đài Ikomo ở Tanganyika. Trong giai đoạn tương đối sớm này của cuộc chiến, họ không muốn gây rắc rối với Đức nên đã trương cờ Mỹ, nhưng tình hình chỉ thay đổi tạm thời và nếu Tristan bị nã đạn, anh phải đánh đắm thuyền. Nếu cuộc đụng độ nhỏ lúc họ đến gần Kenya, chỉ cần một hộp súng trương hoặc súng săn gửi đến Nairobi là có thể chống giữ được, và anh sẽ huấn luyện các thuỷ thủ tình huống có thể xảy ra này.
              Tristan ngồi suốt buổi chiều cạnh giường ông nội, đợi chuyến ra khơi lúc nửa đêm. Trong lúc ông già ngủ, anh viết thư cho Susannah và cha rằng anh đi công cán cho chính phủ, không biết thư từ có bị kiểm duyệt không, vì ngày hôm ấy một nhân viên tình báo cải trang thành ngư dân xứ Cornwall đã lẽo đẽo theo anh khắp mọi nơi. Viết thư đem lại cho anh một sự uỷ mị khá lạ lùng, dường như lát nữa số phận anh không thể thay đổi được nữa và anh sẽ tự chôn mình. Anh hình dung cha anh và Decker trnah cãi về dòng giống, còn mẹ anh trong phòng khách với chiếc máy hát đang chơi bản Cavalleria Rusticana. Anh như nhìn thấy Susannah ngồi dậy trên giường, duỗi đôi cánh tay trong ánh sáng ban mai, hình dáng mảnh mai của cô đến bên cửa sổ xem thời tiết bao quanh các ngọn núi, rồi cô trở lại giường và nhìn anh một lúc lâu, không nói lời nào.
              Một số hành động kỳ lạ nhất của chúng ta cũng là đặc điểm sâu sắc nhất, đó là sự khao khát ngấm ngầm giữ nguyên những ý nghĩ yếu đuối, trừ khi họ có ý chí mạnh mẽ đủ xua tan chúng. Lẽ tất nhiên chẳng ai nhìn thấy "ý chí" và có lẽ nó là một khái niệm hơi rẻ tiền, một từ ngữ cùn mòn cần đến một ngàn từ bổ nghĩa. Sáng hôm ấy, sau bữa ăn sáng dưới ánh đèn lặng lẽ với bà nội - bà cụ cho anh cuốn Kinh Thánh bọc trong chiếc áo len đan dài tay bằng len lông cừu - Tristan ra khơi đi châu Phi, đáp ứng những khao khát nung nấu lòng anh. Từ khi học địa lý lớp sáu ở trường làng, anh đã mơ đến châu Phi không phải để săn bắn, vì One Stab đã dạy anh cảm giác về danh dự và chính trực hơn là việc bắn một con vật để vừa lòng cái tôi của mình, nhưng vừa nhin thấy, ngửi thấy, cảm thấy và hiểu biết, cậu bé Tristan đã mê tít các bản đồ cậu có. Một ám ảnh nữa nhờ những câu chuyện của cha cậu kể về những chuyến đi ngắn ngủi hồi niên thiếu với ông nội anh: một chuếyn đi Goteborg ở Thuỵ Điển vào mùa hè, chuyến khác đi Bordeaux và nhìn thấy cá voi ở Biển Bắc. Là người chăn ngựa rất thành thạo, trong giấc mơ Tristan hình dung thuyền buồm như một con ngựa trên biển khổng lồ nhảy trên ngọn sóng đầy bọt và nghiêng ngả trên những cơn sóng lừng. Một cảm giác không nói ra, không hình dung nổi, ngoài dự kiến về thời gian và không gian sẽ cho anh biết vì sao Samuel chết.
             Một tuần gió rét căm căm đưa họ vòng quanh Mũi St.Vicient, nơi họ nhằm hướng đông nam đến Gibraltar. Asgaard tính trung bình mỗi ngày họ đi được một trăm năm mươi hải lý, đằng nào thì khi vào Địa Trung Hải thì cũng phải đi chậm lại. Hai lần họ phải hạ buồm để tập súng trường. Tristan rất hài lòng mở hộp thấy bảy khẩu Holland&Holland có cỡ nòng khác nhau kể cả một súng bắn voi và bốn khẩu súng săn. Nhưng biển cả quá dữ dội và gần như không có thời gian để ngắm bắn, và sóng cứ trồi lên thụt xuống làm đổ các chai để ở đuôi tàu. Chỉ có Tristan và một trong những anh chàng Cuba - sau này tiết lộ là người Mexico bị đi đày - là có thể bắn được. Asgaard là một người Đan Mạch bình thản, nhắm cả mắt khi kéo cò; một trong những người Cuba không thể nín được cười khúc khích, còn người kia cứng nhắc và nghiêm túc nhưng không có kinh nghiệm.
     
  2. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
             Vào Địa Trung Hải được một ngày rưỡi, lúc đang qua Alboran, một tàu khu trục Đức đánh tín hiệu bảo họ cuốn mép buồm và dừng lại, nhưng một cơn gió mạnh đột ngột và mây đen vần vũ làm họ chạy thoát ngon lành. Để an toàn, Asgaard nghĩ khôn ngoan nhất là đi men bờ Algeria và Tunisia, bên ngoài điểm họ cho là ít nhất cũng đủ an toàn cho đến Ấn Độ Dương. Điều đó chứng tỏ là đúng, tuy Tristan kiệt sức và không ngủ khi thuyền họ đứng yên vì thiếu gió suốt ba ngày ở ngoài khơi Lybia. Trái với thông lệ, họ đỗ lại Ierapetra ở Crete đủ lâu để lấy nước ngọt thay chỗ nước hơi bị mặn của họ. Trên cầu tàu, một chủ hiệu rõ ràng là người Đức lén theo dõi họ và anh chàng Mexico gợi ý với Tristan nên cắt phăng cổ họng thằng cha nọ. Tốp thuỷ thủ không được báo cho biết nhiệm vụ, nhưng chẳng ai tin các hòm kia chứa thịt bò. Asgaard phát hoảng khi Tristan bỏ hết những nghi thức trên tàu tách biệt thuyền trưởng với nhân viên, những thủ tục mà anh căm ghét và chống lại trong quân đội. Toàn bộ thuỷ thủ trên tàu đều nhanh nhẹn và có năng lực, phấn chấn, phần lớn vì họ đang hướng về phương nam, đến vùng ấm hơn mà họ yêu thích.
             Vào một buổi rạng đông, con thuyền đến Port Said và vào kênh đào Suez yên ổn. Chỉ Tristan và Asgaard là lo âu vì Hồng Hải quá nóng lực. Sức nóng giảm hẳn khi họ đến eo biển Bab el Mandeb có những cơn gió mạnh thổi từ phương nam của Ấn Độ Dương trong vịnh Aden. Hai tuần sau họ đến Malindi, và thấy nơi hẹn đã đổi đến Mombasa, phải bơi hai ngày nữa về phương nam. Tristan lại rơi vào nỗi buồn vì anh ngấm ngầm mong chạm trán tàu chiến Đức, nhưng việc đổi đến Mombasa là bất khả kháng. Viên sĩ quan Anh nói họ phải biết ơn vì tuy đi xa hơn nhưng thế là đền đáp khá thiên vị cho cuộc hành trình đầy gian nguy của họ. Anh ta còn nói đã đề nghị thưởng huân chương, đến nước ấy Tristan phát ớn và ra khỏi phòng. Sau hơn một tháng lênh đênh trên biển, cànhg công tử bột nhiễu sự này làm Tristan buồn nôn. Trước kia Asgaard đã ở Mombasa, anh ta dành chuyến lên bờ vui thú với một goá phụ người Pháp, nên Tristan và hai gã Cuba và gã Mexico lên chuyến tàu hoả mới đi Nairobi, nhậu nhẹt và chơi gái đến mệt lử. Tristan nhận chở một chuyến ngà voi, răng nanh lợn lòi và ngà voi giả bằng sừng tê giác, một loạt thuốc ******** của Trung Hoa đến Singapore. Ở Nairobi, anh hút thử thuốc phiện và khá thích thú. Trên đường về cảng, ở trạm lấy nhiên liệu Tristan chụp một tấm ảnh đầu con tê giác vắt qua lòng anh. Anh trả hai chục đôla cho anh chàng thợ ảnh người Anh nghiện rượu, gây gổ, rồi gửi tấm ảnh về cho One Stab, nhờ ông William Ludlow, Choteau, Montana, Mỹ, chuyển hộ. Bức điện viết: "Con vật này chết chỉ trong giây lát ngăn đoàn tàu".
            Mùa thu lại đến Montana, mới có một năm định mệnh từ lúc các chàng trai ra trận. Isabel và Susannah đã đi Boston, sau khi Susannah khỏi trận viêm phổi vì đã đi bộ lâu dưới mưa. Năm ấy chỉ có ba ngày là mùa hè Indian thực sự, và một buổi chiều ngoài hành lang, Ludlow loay hoay lắp cái radio, trong lóc One Stab và bé Isabel chăm chú quan sát. Khi những tiếng nhạc đầu tiên từ Great Falls toả ra theo sóng radio, tất thảy phát hoảng. Lũ chó săn chim đang ngủ trong hành lang đứng phắt dậy mà sủa, con đực rúm ró lại vì sợ. Ludlow suýt đánh rơi cái máy ông đã mất hai ngày lắp ráp. Rồi Isabel cười phá lên và vừa vỗ tay hoan hô, vừa nhảy vòng tròn. Lão One Stab lại chìm vào suy tư trong lúc ông Ludlow giải thích khái niệm rằng con vật nào cũng có âm thanh riêng của nó. Ngẫm nghĩ suốt một giờ, One Stab coi cái radio bản chất là thứ vô dụng chẳng kém gì cái máy hát.
             Susannah ở suốt mùa đông tại nhà Isabel ở quảng trường Louisburg. Vẫn bị cha mẹ xa lánh vì cuộc hôn nhân, cô thấy Isabel là người bạn gần gũi và quan hệ mẹ chồng - nàng dâu giả tạo của họ đã trở thành bạn bè thân thiết. Năm ấy Isabel quyết không cặp bồ với ai, ngoài việc xem nhạc kịch và nghe giao hưởng, bà dồn hết sức học tiếng Pháp và tiếng Ý, cho vấn đề nam nữ bình quyền, đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Bà tổ chức một bữa tiệc tối mừng nữ thi sĩ Amy Lowell là em họ xa của bà. Cô ta đã xảy ra chuyện bê bối vì dám hút xì gà công khai. Susannah vẫn còn yếu, cô thích thú thấy người phụ nữ khoa trương ấy đòi một ly brandy sau bữa tối, châm điếu xì gà và đọc những vần thơ mong manh, yếu đuối, khác xa với tác giả đến nực cười.
            Susannah chẳng bao giờ nhận được thư của Tristan từ Falmouth, chỉ duy nhất một bức thư ngắn gửi từ một tỉnh ở Anh, báo tin thư từ sẽ bị kiểm duyệt để không gây nguy hiểm cho cuộc chiến. Tin này làm cô hoang mang và đau đớn, suýt nữa thì cô liên lạc với cha cô, ông đã nhận được tin Tristan được khen thưởng gì đó. Lãnh sự Anh ở Boston báo cho ông biết Tristan được thưởng Bội tinh Victoria vì đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm, song không thể tiết lộ chính xác. Cha của Susannah không thể không lẩm bẩm "Cái thằng thích phiêu lưu ********!" khi nghe tin ấy trong bữa tiệc trưa của Câu lạc bộ Harvard, ông được chúc mừng vì có người con rể ưu tú đến thế. Ông đã ăn mặc khá giống J.P.Morgan và Jay Gould dù hoạ tiết rõ ràng nhỏ hơn. Cuộc chiến ở châu Âu đã đem lại cho Arthur một thời hoàng kim về tài chính, ông ta đầu tư nhiều vào ngựa và thóc lúa, chủ yếu dựa vào khai mỏ và sản xuất. Ông ta đưa Alfred vào văn phòng ở Helena, cổ vũ anh bước vào chính trường và gửi các bản báo cáo hàng tuần mọi tin tức tình báo kinh tế ông ta có được. Alfred đã giúp ông ta kiếm được những khoản lãi kếch xù vì bán lúa mì với giá cắt cổ, và cha Susannah không thể không nghĩ giá anh ta là con rể thì hay biết bao. Arthur đã đầu tư vào Standard Oil là công ty đã mua quyền khai thác đồng ở Anaconda, Montana, và đang thành lập Amalganated Copper. Alfred hiểu rõ đặc quyền của những người góp vốn trong lúc Ludlow nặng về tình cảm, chỉ chú ý đến tiền lương và điều kiện sống của thợ mỏ. Khi các đội viên dân phòng treo cổ một kẻ phá cuộc đình công ở cầu Butte, Arthur đã chào họ.
              Đến mùa xuân, Alfred đến miền đông theo lời chỉ bảo của Arthur, xếp đặt kế hoạch cho tương lai của anh, gặp mẹ và không phải ngẫu nhiên, gặp Susannah mà anh vẫn yêu thầm nhớ vụng. Alfred hơi cục mịch so với Tristan và Samuel nhưng anh là người trước sau như một, luôn thán phục các em, bản tính anh đằm thắm và trung thành. Một buổi tối, anh đã khóc lúc đi ngủ khi thấy mình mong Tristan không trở về và Susannah vì lý do nào đấy sẽ yêu anh. Thực ra, Alfred hơi quá chân thật, đặc điểm ấy làm sự nghiệp chính trị của anh biến đổi nhanh chóng. Ở Boston, anh bị tổn thương sâu sắc khi Susannah dường như chẳng chú ý gì đến anh bên bàn tiệc mừng gia đình đoàn tụ. Những ngày sau đó, trong một số cuộc dạo chơi tháng Tư qua Boston Common, cô tỏ ra thân thiện nhưng xa cách khi thấy anh có vẻ náo nức. Lúc chia tay, cô tặng anh cuốn thơ của Amy Lowell, với bản chất tẻ nhạt anh không biết làm gì, nhưng lời đề tặng "Alfred thân mến nhất, anh là người đàn ông tốt bụng và đáng kính trọng. Thương mến, Susannah" làm tinh thần anh phấn chấn đến mức trong ngăn riêng trên chuyến tàu về nhà, anh mở bìa cuốn sách, ngửi dòng đề tặng của cô và run cả người khi nghĩ đã bắt được mùi hương của cô.
             
  3. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
                Chiếc thuyền buồm không hoàn toàn ra ngoài tầm nhìn của Dar es Salaam, lúc họ chất xong đồ bằng ngà, Tristan bị bệnh lỵ nặng đến mức lả đi bên bánh lái. Giai đoạn đầu anh nằm lịm và sốt cao suốt một tuần, trong lúc sóng bểin dâng cao đến mức Asgaard lo cho tính mệnh của cả con thuyền lẫn thuyền trưởng. Nếu Tristan và con thuyền không có một thể tạng gần như siêu nhiên, ắt cả hai đã phải nằm trần trụi dưới đáy Ấn Độ Dương. Cuối tuần lễ đầu tiên, cơn sốt chưa dứt hẳn nhưng đã giảm đến mức ít nhất Tristan cũng đi lại được trong cơn ác mộng vùng nhiệt đới. Trong những giấc mơ náo động, anh nhìn thấy cánh cổng địa ngục và muốn đi qua, nhưng chỉ mình Chúa biết và giữ anh lại và vào lúc nửa đêm, anh trần truồng vắt vẻo trên rầm néo buồm giống như một cái máng xối, bọt nước ấm áp của đại dương làm anh dịu đi: lát sau gã Mexico dùng cọc cắm thuyền đỡ anh xuống và đặt anh vào giường.
                Với Tristan, Thần Chết đã ở trên boong và trong cabin anh uống rượu dù vẫn đang sốt, anh nghe thấy tiếng bước chân của họ. Samuel cười vang và nói về thực vật học nhưng tuyết bám trên tóc anh, mái tóc trắng xoá của anh bay trong gió biển lúc họ đến gần Colombo ở Sri Lanka. Susannah xuất hiện với đôi cánh xanh biêt và One Stab hú gọi ở tận mũi tàu. Anh nghe thấy tiếng họ, thậm chí nhìn thấy họ qua những thanh gỗ tếch và gỗ sồi trắng. Anh không biết đấy là giấc ngủ mê sảng hay lúc thức mê sảng, nhưng trong giấc mơ cả ngủ lẫn thức đều có những người bị săn đuổi. Một hôm lúc tảng sáng, Asgaard thấy anh ở bên dưới, trần truồng, ôm chặt một cái ngà voi to tướng vào ngực, xem xét gốc ngà vấy máu đã đen kịt lại và bốc mùi khủng khiếp. Tristan đang gắng lên boong và cố kéo cái ngà qua mạn tàu thì Asgaard giữ anh lại và nhốt anh vào cabin, cắt gã Mexico canh gác.
                 Trong cơn sốt, Tristan rơi vào tình trạng thèm khát bí ẩn nhưng anh không được chuẩn bị chu đáo cho nó: với anh mọi thứ trên cõi trần gian cả sống cũng như chết đều có tỷ lệ như nhau, anh không nhận ra bất cứ cảm giác có ý nghĩa nào trong bàn chân trần của anh ở cuối giường, hay đại dương ở dưới mũi ai, lúc nào cũng là đêm dù đang là giữa trưa, máu ở cuối cái ngà to tướng kia không là của con thuyền, nó chảy qua mạn thuyền rồi không biết vì sao trở lại đầu con voi. Susannah đến như một bóng ma gợi tình màu hồng nhạt, dạ con của cô phủ kín anh, nước mặn như đang phun ra từ rầm néo buồm cho đến lúc anh cũng thành bóng ma, và anh trở thành đại dương, bản thân Susannah, con ngựa đang nhảy chụm bốn vó dưới người anh, cả một rừng ngựa biển dưới anh, gió xé toạc cả cánh buồm lẫn mặt trăng lơ lửng bên trên, và bóng tối len ở giữa thật nhẹ nhàng.
               Anh hồi phục rất nhanh, đúng lúc họ đến lối vào eo Malacca và bơi trong làn gió nhẹ, thuận buồm tới Singapore. Ngà voi đem bán hạ giá trong một hội nghị trên thuyền, lờ lãi không ít và các thương nhân Trung Hoa sợ bị giết nên canh chừng cuộc mặc cả. Tristan nằm dài, gầy gò như một sợi dây cáp vì đau ốm, nhưng đầy uy quyền. Anh đồng ý nhận với giá quá cao chở một hòm thuốc phiện đi San Francisco, có một trong các nhà buôn đi kèm. Asgaard tìm cách thoái thác nhưng đến bữa trưa Tristan chia đều lãi bán ngà voi cho toàn bộ thuỷ thủ, dành một phần đặc biệt cho ông nội là chủ chiếc thuyền. Anh nói tiền lãi thuốc phiện cũng chia như thế và Asgaard mơ ước một nông trại nhỏ bên bờ biển Đan Mạch có thể dễ dàng thuộc về tay anh ta. Những anh chàng Cuba say sưa nghĩ gia đình họ sẽ sung sướng biết bao với sự giàu có mới mẻ này. Chỉ có Tristan và gã Mexico là vất vưởng, chẳng lo gì đến việc tiếp theo với đồng tiền trước họ, vì họ chẳng muốn dùng số tiền ấy mua gì; người ta đoán rằng gã Mexico nghĩ đến đất nước yêu quý và xa xôi mà gã không thể trở về mà không bị tội chết. Chỉ có Chúa mới biết Tristan muốn gì ngoài việc mong người chết sống lại: đầu óc anh đầy tàn tích của cuộc chém giết, một thành phố hoặc một khu rừng cháy trụi, một mô sẹo lạnh ngắt.
                Chiếc thuyền buồm nhằm hướng bắc qua biển Nam Trung Hoa, đỗ ở Manila lấy nước ngọt và đồ tiếp tế. Người đi kèm thùng thuốc phiện rất sợ bến cảnh bỉ ổi này, nên Tristan phải cắt Asgaard và hai gã Cuba vũ trang súng trường trên boong. Sau đó, Tristan xuống cabin và viết một bức thư ngắn nhưng là đòn chí tử cho Susannah (Chồng cô đã chết hẳn rồi, xin đi lấy người khác) rồi lúc đi gửi bưu điện, anh và gã Mexico gặp viên thuyền trưởng một tàu nhanh chạy hơi nước họ đã gặp trong một cuộc nhậu nhẹt say sưa ở Manila. Trước lúc rạng động, trên đường về thuyền họ chạm trán bốn kẻ côn đồ gần vũng tàu đậu và có thể đã chết nếu gã Mexico không tước vũ khí một tên, trong lúc Tristan tấn công tên to lớn nhất. Gã Mexico chém phăng đầu tên đó bằng chính con dao của hắn, cứu Tristan đang bị bóp nghẹt cổ, làm những tên khác bỏ chạy tán loạn nhưng Tristan bị thương nặng vào chân, một nhát chém sâu qua một bên đầu gối cắt đứt gân. Gã Mexico buộc garô cho Tristan, và họ vừa hát inh ỏi vừa trở về xuồng rồi lảo đảo bơi về chỗ neo thuyền. Lúc họ đến Hawaii vết thương đã lành, nhưng từ đó trở đi Tristan đi khập khiễng.
                Trong sáu năm sau đó, ngoài tốp thuỷ thủ ở xa của anh, không ai biết nhiều về Tristan, trừ một vài chi tiết. Mọi người càng bực mình hơn vì sự kém cỏi của họ: chúng ta đã biết anh đến San Francisco, rồi nhằm hướng nam đến Panama, định qua con kênh mới đào nhưng trận lở đất ở Gaitland Cut đã tạm thời đóng con đường này, anh phải đi vòng Horn và đặt thêm một cái máy phụ chạy hơi nước nhỏ ở Rio. Trong ba năm sau đó ở Caribbea, chiếc thuyền buồm là thuyền buồm tương đối ổn định, chạy từ Bermuda qua Martinique đến Cartagena. Tristan mua một nông trại nhỏ ở Isla Decker Pinos rồi lên đường đi Dakar, phiêu lưu chuyến nữa cho chính phủ Anh trong năm cuối cùng của cuộc chiến. Anh đi vòng mũi Hảo Vọng trở về Mombasa, đưa một phụ nữ Galla ra nước ngoài một tuần lễ, nhưng cô ta sợ con thuyền chòng chành và đòi lên bờ ở Zanzibar với một túi nhỏ đựng vàng. Anh lặp lại việc chở ngà voi và thuốc phiện khi lại nhằm hướng đông đến Singapore, Manila, Hawaii và San Francisco, xuôi xuống qua kênh đào đã thông vào cuối năm 1921 rồi từ đấy trở về Havana, ở đó Asgaard và tốp thuỷ thủ còn lại chia tay với anh, trừ gã Mexico. Anh ở nông trại của mình vài tháng và lúc về Havana, anh biết tin ông nội anh mất từ năm năm trước, còn Ludlow bị đột quỵ, ông đang mong anh về nhà để có thể gặp nhau trước khi ông qua đời. Tristan và gã Mexico thuê một tốp thủy thủ khác rồi lên đường đi Vera Cruz, lúc này gã Mexico đã đủ tiền để tạo quyền lực riêng cho mình. Tristan để gã Mexico trông nom con thuyền buồm, anh cưỡi ngựa và đi tàu hoả lên miền bắc, đến nơi vào tháng Tư năm 1922, vẫn cháy nắng, khập khiễng, lòng không yên ổn và nhìn đời bằng con mắt hờ hững nhất.
                Chúng ta khó mà hiểu hết sự mãn nguyện không nói nên lời của Ludlow trong một chiều tháng Tư ấm áp, ông và One Stab ngồi ở ngoài hiên nghe nhạc từ chiếc radio, bỗng thấy con ngựa của Tristan vòng quanh đống tuyết đang tan trên đường rồi tế lên chui qua cổng. Tristan nhảy từ trên ngựa xuống và đỡ lấy người cha từ trên hiên lao vào vòng tay anh, anh nhắc đi nhắc lại với cha, nói mãi nhưng ông già lúc này đã thực sự không thốt nên lời vì cơn đột quỵ. One Stab ngước nhìn chăm chú và cảm nhận những giọt nước mắt đầu tiên của con người thô bạo đến thế lúc cảm nhận sự hài lòng của Ludlow. One Stab bắt đầu hát. Decker chạy từ bãi quây súc vật về, cả Tristan và Decker đều cố nhấc bổng nhau lên. Nghe tiếng ồn ào, Pet từ trong bếp chạy ra và cố cúi chào vì Tristan đã ôm chầm lấy chị. Một cô gái trạc mười sáu tuổi có mớ tóc dài buộc túm kiểu đuôi ngựa, mặc quần áo nam giới, chạy vòng góc nhà xách bộ cương, nước da ngăm ngăm của cô sạm nắng gió nhưng không hẳn là người da đỏ. Cô nhìn Tristan chằm chặp, anh bắt chợt cái nhìn của cô nhưng ngay lúc đó cô lảng đi ngay. Decker nói đấy là Isabel, con gái anh nhưng tính nó nhút nhát.
                 Pet giết và lột da một con cừu non, gầy một đống lửa đằng sau bếp và quay cừu. Họ ngồi uống rượu trong hành lang, nhưng gần như lặng lẽ. Ludlow viết bằng phấn những câu hỏi lên tấm bảng đá đen. Tóc ông bạc trắng song dáng người vẫn thẳng. Decker ngoảnh nhìn vào nơi xa và giải thích với Tristan rằng mẹ anh đang ở Rome, rồi ngừng lại lưỡng lự, sau đó nói thêm rằng Alfred và Susannah đã lấy nhau cách đây một năm, họ đang du lịch tuần trăng mật kéo dài khắp châu Âu và sẽ ở Cap d''Antibes suốt mùa hè. Decker nhẹ cả người và uống một ngụm lớn khi Tristan có vẻ chẳng bận tâm. Tristan đi một vòng tròn trên bãi cỏ, nói anh muốn phi ngựa và hy vọng họ sẽ không quá say trong bữa trưa. Anh phi nước đại ngược thung lũng hẹp dẫn đến con suối trong hẻm núi. Lúc anh đến và xuống ngựa, vẫn còn dấu vết đống tuyết phủ trên mộ Samuel, một con ác là bay vụt khỏi tảng đá. Anh ngắm những hoạ tiết vô hìnhmà con chim tạo thành lúc bay vút lên trong không khí, đến tận mỏm hẻm núi trên đầu anh. Anh thấy mình chẳng làm được điều gì tốt lành cho thế giới bên kia vì nấm mồ dưới chân anh chỉ là tuyết, đất, và một tấm bia đá xám xỉn vì thời tiết. Trên đường về nhà, anh ngắm Isabel đang chải lông cho ba con ngựa non dưới ánh mặt trời. Decker gọi cô là Isabel Hai để khỏi nhầm với mẹ của Tristan. Anh hỏi cô gái con lửng đâu, cô nói con vật đã mất tích nhưng con cái nó vẫn sống ở đằng sau vườn quả. Cô dẫn Tristan vào chuồng ngựa và chỉ cho anh xem con cún Airedale ông Ludlow đã mua tặng sinh nhật cô. Dù mới mười tuần tuổi, con chó sấn đến cắn Tristan và anh vỗ vỗ nó cho dịu dần, cho đến lúc nó nhay nhay tai anh. Rồi anh nhìn cô gái thân mật làm cô đỏ bừng mặt và nhìn xuống chân.
               Đến bữa trưa, Ludlow cắt thịt cừu một cách trịnh trọng rồi viết lên bảng "Kể chuyện cho chúng ta nghe" và đưa cho Tristan. Lạ lùng thay, và giống như bất cứ những người phiêu lưu chẳng phải vì thích mạo hiểm mà chỉ vì sự thôi thúc của cả thể xác lẫn tâm hồn, Tristan chẳng thấy gì quá ư đặc biệt trong bảy năm qua của anh. Nhưng anh có một ý nghĩ hoàn toàn quái gở về những điều cả bàn muốn nghe nên anh kể cho cha việc chặt đầu tên Phillipinnes; trận bão lớn ở ngoài khơi quần đảo Marshall; con rắn cuộn mồi anh mua trong lúc say rượu ở Ricife, có thể cuộn quanh cột buồm chặt đến mức không thể gỡ ra, cho đến lúc họ phải đưa một con lợn con đến dứ; vẻ đẹp của mấy con ngựa anh đã để lại cho tốp thuỷ thủ của anh chăm nom ở Cuba; dân Singapore ăn thịt chó ra sao làm mọi người ngồi quanh bàn sửng sốt trừ One Stab, lão hỏi thăm Tristan về châu Phi. Sau bữa trưa, anh phát quà để trong túi yên: anh đeo quanh cổ One Stab chuỗi vòng bằng răng sư tử, chỉ mấy ngày sau lão đã phi ngựa ba ngày liền tới Fort Benton để khoe chuỗi vòng với Người Nhìn Tinh Như Chim. Tristan hấp tấp đưa chiếc nhẫn gắn hồng ngọc định tặng mẹ cho Hai, anh đeo vào ngón tay đeo nhẫn của cô và hôn lên trán cô. Cả bàn ăn lặng ngắt và Pet định can nhưng Decker bảo chị thôi đi.
                   Đêm khuya hôm ấy, lúc mọi người đã đi ngủ, Tristan lang thang mãi trên đồng cỏ dưới ánh trăng: tuyết loang lổ thành những mảng trắng quái gở và xa tít về phía tây, anh có thể nhìn thấy những ngọn núi trắng hơn của dãy Rockies. Anh lắng nghe tiếng sói tru, tiếng lách cách lúc truy đuổi và thỉnh thoảng một tiếng hú ngắn. Nghe thấy tiếng con cún con sủa ăng ẳng ở đằng sau gần bãi quây, anh vào chuồng ngựa và bế nó lên. Anh mang nó vào trong nhà rồi đưa vào phòng riêng, đặt nó lên tấm da la và quây cho nó một cái ổ bằng chăn bông chống lại cái rét ban đêm. Sau đó Tristan ngủ cho đến nửa đêm, lúc con cún rên rỉ và trong ánh trăng tràn qua cửa sổ, anh thấy Hai đang đứng ở chân giường. Anh nhoài ra nắm lấy tay cô và lát sau, cô hoà vào giấc ngủ say sưa, không mộng mị của anh. Cuối cùng thì những nỗi đau gây ra cho nhau và mọi sự lẻ loi đang biến dần khỏi cõi đời.
  4. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
               Cuộc đời Tristan dường như chuyển động theo thời gian với số gia của số bảy: lúc này anh đã có bảy năm từng trải, một giai đoạn có một không hai và quý báu của đời anh, để rồi trong tương lai anh sẽ trở lại khoảnh khắc này; những chi tiết vụn vặt của cuốn sách được lật giở với sự háo hức nhất đinh. Không có thái độ cô lập, và điều cao quý hơn là những người anh yêu thương, nhưng họ chỉ hiểu thấu đáo khi anh đã ra đi, những người đã đưa anh đến chân lý và tình cảm ấm áp; Trong buổi sáng đầu tiên ấy, anh có thể nhìn thấy họ rõ ràng từ cửa sổ sau khi Hai chui vội vào chiếc áo choàng ngủ và hôn anh rồi ra khỏi phòng. Lúc đầu có tiếng huyên náo khó xác định ở mãi trong đồng cỏ, chứng tỏ chiếc Ford cũ kỹ đang xóc nảy trên những hòn đá và chạy qua lớp bùn thành những vòng lớn, One Stab ngồi ở tay lái và Ludlow mặc áo khoác bằng da bò rừng ngồi thẳng người cạnh lão. Decker dựa vào chuồng ngựa, đội chiếc mũ len Irish, một làn khói sớm trong khoảng ánh sáng mặt trời và tiếng cọ mũi sột soạt của con bò đực Hereford qua các thanh hàng rào, Pet vừa rắc thóc cho gà và mấy con ngỗng, vừa xùy xuỳ đuổi con cún đang chạy theo đàn gà. Lúc anh xuống ăn sáng, cái bếp lò đun củi ấm áp và ánh mặt trời tuôn chảy qua cửa sổ hướng nam cho thấy phong cảnh của thung lũng. Hai rót cà phê cho Tristan, anh nhìn vào cái bát sành đựng cá trích là món Roscoe Decker rất mê và lấy một miếng với hành dầm. Hai dọn cá hồi rán mà One Stab mới đánh lúc tảng sáng cho anh. Lúc cô rửa bát đĩa, Tristan nhìn chằm chặp vào lưng cô và mớ tóc ten bóng tết một cái đuôi sam. Anh nhắm mắt lại và trong giây lát, sàn nhà trong trành bên dưới anh như biển cả, anh như ngửi thấy không khí trong lành của biển khơi lúc thuỷ triều phương bắc xuống thấp. Anh mở mắt và mỉm cười hỏi Hai có đồng ý lấy anh không, như thế sẽ tránh được chuyện chướng tai gai mắt trong nhà vì những chuyến đến thăm ban đêm. Cô lau khô tay và cầm chiếc nhẫn hồng ngọc trên bậu cửa sổ như đang giữ cốc rượu lễ và đáp vâng, nếu bản thân anh tin chắc, và nếu anh chưa tin chắc cũng vâng.
                Đám cưới tổ chức trọng thể vào đầu tháng Mười, hoãn lại để chờ Isabel kịp về từ châu Âu và do Pet cố nài, vì sợ Tristan sẽ bất chợt bỏ đi bất cứ lúc nào anh thích, ý nghĩ ấy khác xa với suy nghĩ của anh. Tristan đã mất  cả mùa hè xây một nhà nghỉ trên hẻm núi, nhìn xuống dòng suối. Một tốp thợ mộc Na Uy từ Spokane đến cùng ba thợ xây đá Italy từ Butte. Căn nhà thiết kế giản dị, có một phòng chính đồ sộ, căn bếp và lò sưởi ở một đầu, đầu kia là một lò sưởi bằng đá cạnh tường. Có hai chái nhà, mỗi chái có ba buồng ngủ. Hai rất lúng túng vì quy mô nơi này, One Stab và Ludlow ngày nào cũng đi chiếc ô tô rẻ tiền đến thăm và mang bữa trưa cho công nhân. Ludlow đã viết được những bức thư hơi dài, đầy thuyết phục và cứ sau bữa tối, Tristan lại trả lời bên lò sưởi.
     
                Ở Montana, cuộc khủng hoảng đến sớm mười năm. Tại các vùng đồng bằng phía đông, thị trường ngũ cốc phát đạt nhờ ảnh hưởng của chiến tranh, nay suy sụp hoàn toàn vì bị hạn hán hai năm liền. Nhiều ngân hàng phá sản và thị trường ngựa lạm phát vì sự hăng hái nhập ngũ đã giảm. Decker đã giảm số gia súc đăng ký ở Herefords, nhưng thu nhập duy nhất của nông trại từ ngựa giống vẫn phải cậy nhờ vào những người như Arthur Thịt chó, loan tin Decker gây giống ngựa thuần chủng. Lứa con cháu không khoẻ mạnh và sung sức như ngựa đua nhưng là loại ngựa thanh nhã và cưỡi rất thích, mặt chúng đẹp và đầy khí thế. Chúng chạy rất nhanh trong cuộc đua một phần tư dặm, Tristan và Decker đem chúng đua ở chợ phiên Montana, Idaho, Washington và Oregon. Với số tiền được cuộc, Tristan mua cho Ludlow chiếc ô tô du lịch Packard mà One Stab lái rất đường hoàng và cẩn thận, lão vân đeo chuỗi vòng răng sư tử. Người từ các nơi xa như San Antonio, Kingsville, Texas đến mua ngựa nhiều đến mức Decker Ludlow đâm lưỡng lự, nhưng Tristan giải quyết công việc rất khôn ngoan.
                Lễ cưới mùa thu đã trở thành kỷ niệm, vắng mặt Alfred và Susannah. Thực ra, Tristan gặp Susannah từ bốn năm trước, trong bữa tiệc Giáng sinh tao nhã song vui nhộn. Thỉnh thoảng Alfred đến, mỗi khi có cuộc vận động trong khu vực của Thượng viện Mỹ, một cuộc đua mà anh chiến thắng ngon lành nhờ két bạc và ảnh hưởng của bố vợ. Không người nào - ngoài Pet và Hai - nhìn thấy nỗi sầu khổ của Susannah trong lễ Giáng sinh năm ấy. Cô vẫn không có con và khi các con của Tristan là Samuel Decker và Isabel Ba vuốt ve mái tóc vàng óng của cô trong hiên nhà, cô đã bật khóc.
               Nền kinh tế quốc gia ngày càng phát sinh nhiều vấn đề theo lời khuyên của Arthur, Ludlow rút dần vốn khỏi ngân hàng Helena vì thiếu suy nghĩ, ông đem chôn vàng dưới một tảng đá lớn ở nền lò sưởi nàh Tristan. Tristan một mực đòi tự trang trải cho nông trại, một thói quen tuy ngạo mạn song dễ thương. Anh vẫn gửi thông báo đúng thể thức và tiền cho Susannah và cha cô, vì quyền sử dụng đất đai mà họ cùng sở hữu.
  5. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
    Chương
    III
     
              Tristan lại bị đoạ đày lần nữa vì chuyến đi đến Great Plains với Hai và những người làm trong nông trại, đưa một tốp bò đực non mùa thu đến ga đầu mối (có quá ít điều để nói về hạnh phúc, bản thân hạnh phúc vốn là sự yên bình, xúc cảm kín đáo, là trạng thái chấp nhận một tấm lòng thư thái nhưng tâm trí luôn day dứt). Chuyến đi thật thích thú, không ít niềm vui vì hầu như đều theo lối cổ. Đã vào tháng Mười và thị trường cổ phiếu các loại vừa sụt giá. Nhưng Tristan xoay được ít tiền mặt mua gia súc và tất cả bọn - Hai, Tristan, Decker, một người Cree lai đen, một người Na Uy còn lại trong nhóm thợ mộc từ nhiều năm trước - lưu lại vui chơi sau một mùa hè gian khổ, nóng nực. Họ ăn một bữa tuyệt ngon trong thành phố và uống nhiều rượu, nhưng bị một tốp ở nông trại lân cận ăn mặc lộng lẫy và giàu sang kích rằng họ giàu lên nhờ buôn lậu rượu từ Canada, bất chấp Luật Cấm rượu.
             Ngày hôm sau, One Stab lái chiếc Packard đưa Hai về nhà cùng những thứ cô mua sắm, nên Tristan nói với người cầm đầu tốp buôn lậu là sẽ nhận mười hòm whiskey để dùng và bán cho hàng xóm. Anh bảo những người làm là sẽ chia lãi và đang say, họ thích thú thấy kiếm tiền dễ dàng, lại đặt thêm whiskey rồi chất vào sọt trên lưng lũ ngựa thô.
              Họ đi thành một hàng kỳ cục xuống hẻm núi hẹp vào thung lũng gần Choteau, đoàn ngựa đi sau chiếc Packard bị Samuel lầy không xa lắm và đi chậm chạp trong màn mưa tháng Mười. Lúc đến miệng hẻm núi, gần chỗ con đường rẽ hướng bắc đến Choteau, hai cảnh sát có vũ trang và một chiếc ô tô Ford chắn ngang đường. Họ bắn vu vơ vào không trung như cho biết đây là Cảnh sát Liên bang. Cả đoàn dừng lại, vẫn đang trong tâm trạng vui vẻ. Viên Cảnh sát Liên bang nói họ đã được báo về chuyến hàng và Tristan phải nộp chỗ whiskey. Họ nhận ra Tristan và xin lỗi lúc nói anh sẽ phải nộp phạt vào tháng Mười một ở Helena, nhưng họ phải huỷ số rượu này. Tristan quay ngoắt khỏi viên cảnh sát lúc nghe tiếng One Stab kêu thất thanh. Anh đến bên chiếc Packard, nhìn vào mặt One Stab rồi nhìn Hai ngồi ở ghế sau với đồng đồ đạc và quà. Cô ngồi như tạc bằng đá, một viên dạn bắn thia lia từ vách núi găm gọn vào trán như một đồng xu đỏ tươi.
    Tristan nổi khùng, giật phắt lấy khẩu súng rồi quật vào từng viên cảnh sát đang hoảng hốt, làm một trong hai người gần chết trong nhiều tháng. Anh kéo xác Hai khỏi chiếc Packard và chạy xuống hẻm núi. Cả đoàn theo sau lúc Tristan bế cái xác đi nhiều dặm đường dưới trời mưa lạnh lẽo. Anh mang cái xác, thỉnh thoảng lại hú lên bằng thứ ngôn ngữ chẳng ai hiểu trên đời.
     
              Ba ngày sau, cảnh sát trưởng đến nhà Ludlow nói Tristan bị phạt giam ba chục ngày ở Helena vì tội nghiêm trọng đã đập vỡ sọ một trong các cảnh sát liên bang. Bản án thật nhẹ, nhờ ảnh hưởng lớn lao của Alfred trên chính trường Montana. Pet nói xen vào, báo tin Isabel Ba đã đi đâu mất. Tristan phi ngựa suốt mười hai dặm, cho đến lúc tìm thấy cô bé trong rừng gần dòng suối. One Stab đang ngân nga một bài hát tang của người Cheyenne và cô bé hoà theo, giọng cao vút và ai oán đến mức trái tim Tristan muốn vỡ làm đôi. Anh nhấc tấm thân bé bỏng của con gái lên yên và mang nó về nhà.
              Những người cao tuổi trong vùng vẫn tranh cãi rằng hoặc vì rượu, vì tù đày hoặc nỗi đau đớn, hay đơn giản vì tính tham làm Tristan trở thành kẻ sống ngoài vòng pháp luật, nhưng đây chỉ là chuyện phiếm làm mồi cho những lúc rượu chè của người về hưu và thích thú thấy bốn mươi năm sau, Tristan vẫn là một đề tài hấp dẫn, dẫu chỉ là kẻ sống ngoài vòng pháp luật cuối cùng chứ không phải là một kẻ cướp.
              Nói tóm lại, sau khi tìm thấy cô bé Ba lên sáu bên dòng suối, đang hát cùng One Stab, Tristan trở nên lặng lẽ trong nhiều tháng, ngoại trừ với các con. Anh câm lặng trong nhà tù, từ chối mọi khách đến thăm kể cả Alfred, anh mang đến thư chia buồn của Susannah. Báo chí Helena đăng lên trang nhất cuộc gặp dưới đầu đề "Thượng nghị sĩ thăm hỏi người em trai tang tóc trong tù".
              Thực ra, Alfred hy vọng an ủi và can thiệp cho Tristan. Anh đến nông trại ngay sau hôm đưa đám, chỉ vài giờ sau khi cảnh sát trưởng áp giải Tristan đến nhà giam. Ludlow ở lì trong phòng và không chịu gặp người con cả. Ông bảo Pet mang tấm bảng xuống hành lang, viết rằng ông sẽ không nói chuyện với Alfred chừng nào anh còn đại diện cho chính quyền Mỹ và các thủ tục của chính quyền.
             Ludlow thực sự coi Hai như con gái và yêu thương cô như con gái. Nhiều năm trước, ông đã vui lòng dạy cô đọc và viết, không ngớt cho cô quà cáp làm Pet và Decker lo ngay ngáy làm hỏng cô bé. Chính Ludlow viết thư cho Isabel và bảo bà mang về cho Hai bộ áo cưới lộng lẫy nhất, đắt tiền hết mức. Giờ đây, lúc đi thăm mộ cùng One Stab trên chiếc ô tô cũ kỹ, ông cảm thấy đằng đẵng hơn cả bảy nhăm năm của ông khi nghĩ đến một ngày tháng Mười khác, ông tiễn các con ra trận, và buổi trưa tháng Mười tuyệt đẹp bảy năm sau, Tristan và Hai làm lễ thành hôn trong khu rừng nhỏ toàn cây bông. Hôm ấy, mặt trời chiếu lấp lánh trên chiếc áo dài cưới trắng muốt, tương phản với sắc màu lộng lẫy của mùa thu, với cỏ đã héo và những cây dương vàng óng. Hai cái chết của những người yêu quý trong có mười bốn năm chưa phải là ngoại lệ khác thường với người khóc thuê đã mất hết mọi cảm giác về sự khác thường và thông thường, vì còn mải nghĩ đến những thứ còn lại, làm thế nào để có thể lấy được.
               Alfred trở về Washington, đi một chuyến dài bằng tàu hoả, xao động không sao ngủ được. Về mặt chính trị, anh thấy Prohibition (1) là vô nghĩa, nó chỉ càng đẩy mạnh những thích thú tội lỗi, và trong những năm suy tàn của Luật này càng thể hiện rõ hơn. Với Alfred, cha anh lúc nào cũng là một người anh hùng. Anh thích trích dẫn ông già tao nhã của vùng biên giới trong các bài diễn văn với Thượng viên, dù chắc chắn là Ludlow không nghĩ như thế về bản thân. Những quan niệm phổ biến mà ngớ ngẩn về cơ bản như "người chăn bò" hoặc "người ở vùng biên giới" hay bản thân Luật Cấm rượu đều là sự kế thừa thực tế trong những giai đoạn tự khen của lịch sử, khi những hoạt động tích cực trở htành chiêu bài và trật tự xã hội.
            Sự khó xử của Alfred càng trở nên sâu sắc về bản chất, hơn là những quan điểm chính trị và một người cha đang giận ghét. Thực ra Susannah rất bất hạnh, cô luôn là người không may trong cách cư xử lặng lẽ, không rõ ràng. Những đòi hỏi của xã hội Washington với vợ của một thượng nghị sĩ càng làm những khó khăn của cô trầm trọng thêm. Alfred đã mua một nhà nghỉ nông thôn có chuồng ngựa ngoài trời ở Maryland, cho nhiều ngựa đua của bố vợ ở tạm. Susannah ở đấy phần lớn thời gian, một bác sĩ tâm thần người Do Thái Pháp từ Johns Hopkins đến thăm mỗi tuần hai lần. Bác sĩ đã thề kín mồm kín miệng, vì có một người vợ điên là trở ngại lớn cho những hoạt động chính trị. Yêu thương đến mù quáng, Alfred không chịu thừa nhận tình hình đã đến lúc nghiêm trọng. Nhiều năm về trước, một buổi chiều lúc đang đi ôtô từ Vallauris đến Nice để đáp tàn thuỷ về nhà, Susannah nhất quyết bắt lái xe dừng lại, họ đi bộ lên triền đồi có nhiều cây và ********. Cô có vẻ hạnh phúc trong nhiều tuần dù thỉnh thoảng lại lên cơn khóc lóc. Bất chấp điều đó, Alfred thấy chưa bao giờ anh hạnh phúc tột cùng đến thế, nhưng Susannah lại rơi vào tình trạng dằn vặt ghê gớm, suốt hai tuần trong chuyến về New York cô không chịu rời khỏi cabin. Về ở nông thôn và có giải thoát khỏi mọi sức ép của Washington có vẻ là một lối thoát.
     
    Ghi chú:
    (1) Prohibition: Luật cấm nấu rượu và bán rượu, thời kỳ 1920 - 1933 ở Mỹ
     
  6. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
           Trong suốt chín năm chung sống, có những giai đoạn phải gọi là điên rồ ở các mức độ nghiêm trọng khác nhau. Bác sĩ tâm thần không phấn khởi dù trong mấy năm qua, Susannah là bệnh nhân được ông quý chuộng nhất. Ông ép Susannah tham gia hoạt động ở chuồng ngựa đua, vì hiểu rằng bận bịu với súc vật sẽ làm bệnh nhân dịu lại, những con ngựa có vẻ tử tế sẽ xoá nhoà những tổn thương dù chỉ là tạm thời.
           Nhiều tuần sau khi từ Montana trở về, Alfred như rơi vào địa ngục. Susannah lên tới đỉnh cao của giai đoạn hưng phấn, mọi thứ trên đời đều trở nên qua sống động không thể chịu nổi: cô có thể nhìn thấy quả tim của con ngựa qua lớp da, các cơ và xương, mặt trăng ở ngay sát bên ngoài cửa sổ; cô cắt những bông hoa tàn trong bình và kinh hãi, đòi phải úp những bức tranh nào đó của Pháp vào tường; cô xác nhận không có con chẳng phải là việc gì to tát, sao cô cứ vất vả cố một đứa làm gì, và việc Tristan không trả lời bức thư chia buồn của cô như một cái đòn bẩy đẩy cô rơi vào trầm cảm.
           Đến tháng Tư, Alfred trở lại miền Tây, bề ngoài là thăm hỏi các cử tri. Anh mua một ngôi nhà lớn ở Helena, nghĩ rằng nếu Susannah sống ở Montana suốt mùa hè thì đây có thể là lối thoát. Isabel sẽ ở đấy, cả Tristan và Pet có thể chịu được Susannah, lại có thêm Ba và Samuel đỡ đần. Lúc lái xe qua bãi rào lầy bùn gần Choteau, tấm lòng luôn lạc quan của Alfred nhẹ nhõm vì nhiều dự định và vì vẻ đẹp của nông trại.
            Tristan và Decker ở ngoài nhà kho, đang đóng khung các bộ yên thồ trong lúc Ludlow và One Stab vừa hút tẩu vừa quan sát. Lúc Alfred ra khỏi xe, Ludlow lọt qua hàng rào và đi ra mãi ngoài đồng cỏ, One Stab theo sau. Tristan, Decker và Alfred nhìn Ludlow vòng quanh những dòng tuyết đang tan như thể ông định đi đến tận cùng thế giới. Nước mắt chảy dài trên má Alfred và Tristan nắm lấy cánh tay anh. Alfred muốn xin cha tha thứ, nhưng Tristan là người thực tế, anh chỉ nói:
               - Tha thứ cái gì, anh đâu có bắn vợ tôi!
            Decker ngồi trên cái giá cưa nhìn Alfred và Tristan đi vào đồng cỏ sau hình dáng xa dần của Ludlow và One Stab. Vốn là người Bắc Âu rắn rỏi hơn, Decker đau buồn nhưng không yếu đuối. (Decker đã đợi ba năm cho đến cuộc bán đấu giá gia súc ở Bozeman, anh mới có dịp bắn một trong những cảnh sát trên đường từ Bozeman đến Livingston, con đường mà cảnh sát đi lại hàng ngày. Ngồi trên một tảng đá trên cao, giữa những cây thông um tùm, khẩu 270 trên lòng, anh bắn phát đầu tiên thủng lốp xe, và lúc viên cảnh sát ra khỏi xe, Decker bắn liền mười phát hết sức hả hê. Một cảnh sát liên bang khác phải chuyển sang miền Đông và Decker đành hài lòng giết được một tên).
             Đến nửa đường vào đồng cỏ, Alfred đứng lại và nói một thôi một hồi, giải thích rằng Tristan phải viết thư cho Susannah, làm dịu mặc cảm tội lỗi méo mó của cô. Tristan gật đầu thông cảm với anh trai. Lúc họ đuổi kịp Ludlow, ông mệt lử dựa vào tảng đá òn, One Stab lánh ra khỏi tầm nhge. Tristan nắm lấy cánh tay cha và xin ông tha thứ cho Alfred, anh là con trai ông chứ không phải chính phủ. Ludlow run rẩy vì rét và nhìn Alfred trừng trừng, cặp mắt nghiêm khắc nhưng giàn giụa nước, ông gật đầu với Tristan và ngoảnh đi. Vì không có tấm bảng đen, ông chỉ ôm lấy Alfred và bắt đầu quay về nhà.
              Sáng hôm sau lúc Alfred ra đi, anh cảm thấy thảnh thơi và phấn chấn dù trời đang mưa. Anh đã được tha thứ và họ có một buổi tối dễ chịu, các con của Tristan ngồi trong lòng Alfred lúc anh kể cho chúng nghe những chuyện sinh hoạt ở các thành phố lớn miền Đông. Anh dừng lại trên đường ra đường cái, để một đoàn ngựa thồ và la do hai người làm lùa qua, anh nhận ra một người Cree lai đen và và một người thợ mộc Na Uy. Anh vẩn vơ tự hỏi sao Tristan lại muốn có nhiều đàn gia súc đến thế.
     
  7. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
               Đầu tháng Năm, khi biết chắc mùa xuân đã hết, những cơn dông bão trên núi sẽ ngắn và thất thường, Người Nhìn Tinh Như Chim từ Fort Benton xuống, dẫn Tristan, Decker, gã Na Uy và gã Cree từ Choteau ngược lên qua Valier và Cut Bank đến Cardston ở Alberta, ở đấy họ chất lên năm chục con ngựa thồ mỗi con bốn thùng whiskey, tắt đường về Shelby và Conrad đến Great Falls; Tristan đẩy hết chỗ whiskey được sáu ngàn đôla. Lợi nhuận kếch sù nhờ whiskey là rượu Canada loại nhất, không pha loại rượu mạnh chống hại dạ dày của tầng lớp lao động, và do những kẻ buôn lậu ngày càng hối lộ nhiều hơn. Một nguyên nhân nữa đem lại lãi lớn là rất ít đường lên phía bắc Montana, làm nó thành một vùng cảnh sát tương đối nới tay. Người Nhìn Tinh Như Chim được One Stab bảo lãnh, lão đang buồn vì Tristan nhất quyết bắt lão ở nhà trông nom Ludlow và nông trại.
              Thật không may, Tristan không thoả mãn. Anh không nhận thức được điều đó, anh hy vọng ít gặp phải sự đối kháng nhất định. Hồi đó Decker đã can giám anh nên nghĩ đến các con và đến một thực tế là số dân ít ỏi ở Montana rốt cuộc sẽ bị bắt như bỡn. Tristan đồng ý, tuy cơn giận ngấm ngầm của Decker lớn đến mức có nói ra những lời ngăn cản chẳng qua vì Pet một mực lo sợ cho các cháu. Tristan làm thêm chuyến nữa vào giữa hè và lúc họ về đến nhà, One Stab nói Pet đã biến mất cùng hai đứa cháu. One Stab nói lẽ ra lão phải đi theo, nhưng Ludlow bị ốm. Thế là Tristan và Decker lao tuốt lên Fort Benton trong chiếc Packard có một lỗ thủng ở ghế sau và đưa pet cùng lũ trẻ về nhà.
              Rồi Tristan sẽ bỏ, sau khi đánh điện cho gã Mexico ở Vera Cruz đưa chiếc thuyền buồm đến San Francisco vào mùa xuân tới. Còn kiếm tiền lần nữa chứ. Isabel đã đến miền Tây suốt mùa hè để giúp Susannah ổn định, trong ngôi nhà thích hợp với một thượng nghị sĩ ở Helena. Isabel cùng các cháu nội và Pet xuống đấy một tháng, sức khoẻ lung lay của Susannah khá lên rất nhiều, cô chăm sóc họ, đáp lại cả Ba và Samuel rất yêu quý cô. Không ai biết rằng sự khoẻ mạnh bề ngoài của Susannah phần lớn dựa vào những nhận thức sai lầm, mong manh. Khi Tristan trả lời thư cô do Alfred một mực yêu cầu, anh nhấn mạnh quá nhiều đến thực tế là số phận đã chia lìa họ và bất chấp những gì đã xảy ra, họ phải sống mãi với nó như một ơn huệ. Bức thư thật ác nghiệt dù không chủ tâm, dù sao chăng nữa nó cũng làm Susannah quá sống động, méo mó, lộn ngược, để ngày tháng của cô là một chuỗi các sự kiện tinh tế. Alfred dự định tổ chức một bữa dạ tiệc lớn, mời tất cả các chính khách và bạn bè thân hữu ở Montana, có Isabel là chuyên gia trong lĩnh vực này giúp đỡ.
               Tristan xuống Helena gặp đại diện của một người chưng cất rượu Canada anh đã gặp ở Cardston. Người này thảo luận với Tristan về những rắc rối do một băng đảng gọi là băng Irish ở Seattle gây ra, rõ ràng là chúng nắm quyền kiểm soát việc buôn bán rượu ở vùng Tây Bắc và California. Những khách hàng đòi hỏi khắt khe ở San Francisco không thể có whiskey loại nhất ưa thích của họ. Hai người đã ngập ngừng thoả thuận rằng Tristan sẽ dùng thuyền buồm chở hàng từ đảo Vancouver đến San Francisco và Tristan dành cả ngày đẹp trời này ở Helena bắt tay vào phi vụ quá đắt giá này. Anh mang theo năm thùng Haig&Haig làm quà biếu Alfred tuy anh đã khước từ đến dự tiệc. Anh luôn bị những người bạn bề ngoài rất quan trọng mà Alfred đưa đến nông trại trong mùa săn bắn loại ra: họ đánh bài và uống rượu thâu đêm, dậy muộn và được hưởng một số ngoại lệ. Vùng Cree cho họ săn bắn thoả thích nai sừng tấm và hươu, tuy vậy Tristan không chịu hợp tác nữa sau khi một người giàu có chuyên bán đồ lót nam giới bắn chết một con gấu xám đang ngủ trên triền đồi.
              Sau cuộc gặp mặt, Tristan lái xe vòng quanh toà nhà lộng lẫy thời Victoria của Alfred cho đến lúc tìm ra lối cổng sau. Anh định vào chào mẹ, đưa số whiskey và bằng mọi cách tránh mặt Susannah rồi trở về nông trại. Helena luôn làm anh mệt mỏi, gượng gạo, tất cả những người đàn ông lang thang quanh quẩn đều có vẻ dính líu một cách đáng ngờ tuy không nói ra đến một tháng lao tù lạnh lẽo của anh, hồi đó cổ họng và ***g ngực anh không ngừng đau thắt, nghẹn ngào vì những hồi nhớ về Hai. Ngay cả sau khi sinh con, cô vẫn nhảy phắt lên ngựa không cần dùng bàn đạp, và khi phi trên con ngựa lang thiến cứng cáp, mớ tóc cô tung bay về phía sau như bờm một con thú hoang dã. Tristan có những quan niệm rõ ràng, đơn giản về sự báo thù và có lẽ nỗi đau đã thành thô ráp, đầu độc anh đến mức anh biết không có bàn thắng lúc xế chiều với đời, vì dù có trả được mối thù, anh cũng không thể tái tạo được người phụ nữ hứng mưa trút tơi bời, cho đến lúc mái tóc dài đen mướt của cô nhún nhảy đập vào chân anh.
             Người đàn ông đã bị định mệnh biến thành kẻ hiếu chiến này bước vào nhà bếp của anh trai, thấy Susannah đang cười và chuyện trò với Samuel và Ba. Anh chào rồi ôm ghì lấy các con, sau đó bọn trẻ chạy tuốt đến giúp bà nội treo rèm trang trí cho bữa tiệc. Susannah và Tristan ngồi đó, bứt rứt đến nỗi dường như nhà bếp sắp nổ tung. Susannah hơi dối trá nói với cô nằm mơ thấy cô thành mẹ của Samuel và Ba, nhưng Tristan lắc đầu bảo "đừng" và cô đứng dậy, hai bàn tay đan lại như thể kéo đôi vai vào với nhau. Cô rời khỏi bàn vào phòng để bát đĩa. Tristan ngồi lại, toát mồ hôi trong tiết tháng Tám nóng nực, rồi cô gọi tên anh, giọng cô trong trẻo, dịu dàng. Anh úp chặt hai bàn tay lên mặt rồi bước vào phòng đó, thấy Susannah đứng trần truồng, cặp mắt lấp lánh, mái tóc buông xoã quanh vai, quần áo tụt bên chân cô. Anh đóng cửa phòng và cố làm cô bình tĩnh lại, rồi đắm đuối không hề lưỡng lự khi cô nói nếu anh không ******** với cô, cô sẽ hét lên và kêu la cho đến lúc chết. Họ chìm vào vòng tay nhau, da dẻ họ dán chặt xuống sàn nhà lát gạch mát mẻ.
              Sau khi Tristan ra về, Susannah lấy kéo cắt phăng mái tóc và ở lỳ trong phòng riêng suốt bữa tiệc, có bác sĩ và các y tá chăm sóc. Sớm hôm sau, Susannah được đưa đến Choteau cùng bác sĩ, Isabel, Pet và bọn trẻ. Họ đi hai chiếc ô tô và Alfred quẫn trí nhưng ân cần, rõ ràng là chẳng hay biết gì. Lúc họ đến nơi, Tristan đưa bọn trẻ lên lều săn trên núi vài ngày, anh đã dựng cái lều đó cách nhà vài chục dặm.
              Nhưng lúc anh trở về, Susannah lại sôi nổi và duyên dáng, ai cũng nhẹ cả người, rồi Alfred đến Helena vài ngày vì công việc chính trị. Tristan đi vắng trọn một tuần, đến San Francisco gặp gã Mexico và chiếc thuyền. Anh giữ ít thuỷ thủ, chỉ mang gã Cree và Na Uy theo vì anh tin cậy họ.
             Lúc ấy là đầu tháng Chín, một đợt rét ngắn kéo dài hai ngày, rắc tuyết lên các ngọn đồi thấp và đến giữa buổi sáng đã tan chảy giữa các cây dương. Tristan ngồi  một mình trong nhà nghỉ, sau khi One Stab và Ludlow đưa bọn trẻ xuống ăn trưa với Isabel. Vừa đẩy thanh củi đang cháy âm ỉ vào lò, anh vừa chán chường nghĩ đến sự phản bội của anh với anh trai, đến hoàn cảnh bế tắc này. Tristan không mảy may trách cứ Susannah vì nhận thức được rằng cô chịu trách nhiệm rất ít về việc làm một cách định kỳ, chẳng khác gì đứa con bé nhất của anh. Tim anh nhói đau vì sự nhầm lẫn và đau đớn anh đã gây ra trên đời. Anh rót một cốc whiskey và bắt tay vào chuẩn bị hành lý đi San Francisco sớm, biết rằng ở xa Susannah là hay nhất, và chỉ sợ cô suy sụp lần nữa.
              Tristan đóng gói rất nhanh, dặn dò Decker chỗ anh giấu tiền, phòng khi anh không trở về. Nhưng lúc anh vào phòng chính đã thấy Susannah đang ngồi trên đi văng trước lò sưởi. Anh gọi tên cô nhưng cô không trả lời. Anh đến bên đi văng, nhìn ngọn lửa rồi nhìn xuống mái tóc ngắn và quần áo ướt nước mưa của cô. Susannah nói khẽ và rõ ràng, hỏi anh có thể tha thứ được vì cô yêu anh tha thiết và biết đã có thời anh cũng yêu cô, nhưng cũng hiểu chuyện ấy là không đúng đắn nên cô sẽ đổ vỡ tan tành nếu lại cùng anh lần nữa trong đời. Cô khó ở và dày vò mọi người khổ sở, nên khi mọi việc sắp xếp xong xuôi, Susannah và Alfred sẽ trở lại miền Đông, cô sẽ chịu đựng cuộc sống của mình. Cô quả quyết với Tristan rằng chẳng có gì dính dáng đến sự thương thân, chỉ vì cô không chịu nổi những thời kỳ điên dại và sự vắng mặt của anh được nữa.
             Lúc cô dừng lại, Tristan cố thu thập vài khoảnh khắc, đầu óc anh quay cuồng vì hoảng hốt. Anh vội vã tuôn trào cả lời lẽ lẫn suy nghĩ, cảm thấy trái tim đờ đẫn và rụng xuống, chìm sâu mãi vì thực tại. Anh nói Susannah không thể chịu đựng cuộc sống của cô vì cuộc sống thật kinh khủng và phức tạp, rồi sẽ có ngày họ lại có thể sống cùng nhau. Ít ra là một năm nữa anh sẽ trở về, họ sẽ lại gặp nhau, lúc đó tâm trí và tinh thần sáng sủa, họ sẽ có thể nói chuyện một cách bình tĩnh.
            Thế là anh đi, còn cô lại hy vọng, bám lấy lời dối trá của anh để cứu vãn đời cô khỏi chấm dứt. Susannah hy vọng nhiều hơn vì trước kia anh đã bỏ đi nhiều năm như thế, vì cô tưởng cô đã hiểu anh sâu sắc, anh lại muốn chung sống với cô lần nữa. Sức khoẻ của Susannah khá lên đột ngột và khi trở về Washington, Alfred và bác sĩ tâm thần rất hài lòng vì cách cư xử của cô trong hơn mười tháng sau, họ hy vọng cũng sôi nổi và nhầm lẫn như chính cô vậy.
  8. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
             Ở San Fracisco, Tristan, gã Cree và gã Na Uy nhanh chóng liên hệ với gã Mexico, rồi lên thuyền buồm và ra khơi trong bóng tối mịt mùng. Theo lời khuyên của đại diện người chưng cất rượu, gã Mexico đã để lại dấu vết ở bến tàu là chiếc thuyền đi Hawaii để giao hàng ở Maui. Họ lên đường trong thời tiết bão tố, lạnh giá của miền bắc, ngược theo bờ biển và trong một tuần đi đường thuận lợi, họ đã đến một vịnh nhỏ gần Church Point ở đảo Vancouver. Họ chất hàng trong đêm tối và trở lại điểm hẹn ở vịnh Bolinas ngay phía bắc San Francisco.
            Vận may tiếp tục theo họ ở Bolinas, việc dỡ hàng và thanh toán sòng phẳng không gặp trở ngại gì. Tristan và gã Mexico được một người đưa xuống San Francisco giúp thoả thuận chuyến hàng tiếp theo, do một nhóm chủ khách sạn trả tiền. Sau cuộc gặp trong căn phòng bên trên hàng bán rượu lậu ở North Beach, người đó lái xe đưa họ đến thẳng Golden Gate, đỗ bừa cạnh một nhà hàng trên cầu tàu để ăn một bữa ăn nhanh. Lúc buổi trưa, gã Mexico lo lắng khi nghĩ vừa thoáng thấy một kẻ giống hệt A. trước kia. Lúc họ ra khỏi bãi đỗ, bốn tên đàn ông nhanh chóng vây quanh họ, nện Tristan và gã Mexico bất tỉnh bằng dùi cui, rồi ném trả về xe họ, cắt cổ người đàn ông kia. Trước khi đánh, tên lịch sự nhất trong những kẻ tấn công bảo tốt nhất họ tránh xa việc buôn rượu ở bờ biển này đi. Sau nửa đêm, lúc tỉnh dậy Tristan nhớ lại bộ complê màu xám và cặp mắt tươi cười của hắn, cùng đôi giày đi núi của dân Irish. Tristan và gã Mexico kéo người đàn ông bị cắt cổ ra khỏi xe, lái trở lại hàng bán rượu lậu và hỏi liệu công việc có tiếp tục nữa không. Nó vẫn thế.
     
               Khi từ Canada trở về California, lần này đến vịnh Tomales gần Point Reyes, họ đã sẵn sàng lúc rạng đông, một chiếc xuồng lớn áp sát vào chỗ thuyền họ thả neo. Những người trong xuồng không biết Tristan đã dỡ hàng trên bờ biển cách đấy vài dặm. Lúc xuồng đến gần, Tristan và gã Mexico nằm dưới tầm buồm ướt quan sát, còn gã Na Uy và gã Cree ở bên dưới sẵn sàng đợt tấn công thứ hai nếu cần. Chiếc xuồng quét một tràng súng máy đanh gọn trước khi Tristan và gã Mexico khai hoả rất chính xác khẩu súng săn 375. Tristan nhận ra hai tên đánh anh và họ lia loạt đạn đầu tiên 500 grain (1) dành cho những động vật có vú lớn nhất trái đất, thổi bay bọn chúng thành từng mảnh bắn tung khỏi xuồng. Gã Mexico theo dõi mớn nước của xuồng, rồi phát hiện ra đầu của hai tên còn lại đang bơi chó trong làn nước thuỷ triều đang lên.
           Họ dong buồm về hướng nam đến Ensenada, và Tristan nhận ra rằng dù anh thắng trận này nhưng không thể thắng trong cả cuộc chiến. Suốt mùa đông anh im hơi lặng tiếng, còn gã Mexico trở về Vera Cruz, ví đầy ắp nhưng hiểu rằng cuộc chơi đã kết thúc. Một tháng sau, Tristan cử gã Cree và gã Na Uy mang về nhà ở nông trại một bức thư dài cho các con, nhắn Ludlow và Decker rằng anh sẽ về nhà, sau khi thăm Alfred và Susannah trong mùa đua ngựa ở Saratoga. Tristan thuê một ngư dân già người Mexico và vợ ông ta trông nom con thuyền và nấu ăn cho anh. Anh uống rượu, rồi nghĩ đến Susannah và những gì có thể nói vì hồi tháng Sáu đã chẳng kể gì với cô. Anh bắt đầu buồn nhớ các con và cho phép vợ chồng lão ngư dân đưa ba đứa cháu lên thuyền khi mẹ chúng bỏ rơi chúng. Anh dành nhiều ngày uống rượu, cùng ông già câu cá bằng dây câu trên chiếc xà lan nhỏ có buồm. Đầu tháng Năm, anh day dứt nhớ các con đến mức để chiếc thuyền buồm lại cho đôi vợ chồng già trong nom, rồi đi về hướng bắc. Anh chẳng có ý niệm mơ hồ về việc anh có thể thôi thúc Susannah sống lâu hơn biết chừng nào, nhưng anh về nhà trước khi đi về hướng đông đến Saratoga.
         Tristan không có mấy giờ thảnh thơi ở Montana khi anh về đến nông trại hồi tháng Sáu. Mọi người có vẻ dễ chịu sau một mùa đông khắc nghiệt, dù Ludlow có phần ếyu đi và giữa tháng Năm Isabel tạt qua nhà đã thầm nghĩ thế. Đến bữa trưa, Decker nhắc rằng có hai người Irish bạn cũ của Tristan từ California vừa đến hôm kia, nhưng không may anh bảo họ rằng Tristan đến Saratoga. Tristan cảm thấy lạnh buốt sống lưng và giận điên lên khi biết rằng tất cả những người anh yêu quý đều có nguy cơ bị chết.
         Tảng sáng hôm sau, Decker và One Stab đưa anh đến ga xe lửa ở Great Falls. Decker rất e ngại và muốn đi cùng nhưng Tristan không cho, bảo anh ta phải ở lại trông nom nông trại. Trước khi họ ra về vào lúc chiều muộn, gã Cree và gã Na Uy đã có mặt ở hành lang, kể rằng có những kẻ lạ mặt vụt qua trong tầm nhìn. Tristan lên tàu, mặc bộ complê cũ của Samuel (anh chẳng có bộ nào), một túi đầy tiền và đồ lót, khẩu súng lục Beasley của ông nội và con dao găm của One Stab.
           Khi Tristan đến New York, anh vội vã mua quần áo và một chiếc ô tô rồi lái hết tốc lực về hướng bắc đến Saratoga Springs. Mùa đua đang sôi nổi dù kinh tế suy thoái và anh không sao tìm được phòng trọ, nên đành ở lều của khách du lịch gần Glens Falls. Anh cạo phăng bộ ria và sáng hôm sau mua quần áo của một người giữ ngựa rồi thay bên dưới khán đài, tiếng ầm ầm của đám đông ngay trên đầu. Giữa các cuộc đua, anh xách xô nước và cái bàn chải ngựa, ngắm cuộc diễu hành long trọng của những con ngựa trên lớp cỏ mới xén ở đằng sau khán đài lớn, biểu diễn cho cuộc đua tiếp theo. Anh quan sát đám đông thật kỹ và nhận ra Alfred và ông bố vợ, Susannah che dù đang đứng với một nhóm các chủ ngựa sang trọng, gồm một nhóm nhỏ người Whitneys, Vanderbilts, Guests và Wideners; sau đó anh phát hiện ra một trong những tên Irish đứng gần luống hoa trang trí lộng lẫy, ăn mặc bảnh bao nhưng rõ ràng là hắn. Tristan đến bãi giữ ngựa gần chuồng, đi qua một người đàn ông to lớn, bóng bảy đang nói chuyện với một tay dô kề. Lúc đi ngang qua, Tristan nhận ra giọng nói của tên thứ ba đã đánh anh ở North Beach. Tristan không quay lại và đi thẳng vào chuồng ngựa, người ta bảo anh dọn dẹp các ngăn chuồng. Đúng lúc đó, tên đàn ông vào chuồng và nhìn quanh rụt rè. Hắn vào một ngăn vắng để đi tiểu. Tristan theo sau và rập mạnh đầu hắn vào tường rồi đè cái chạc cào phân hai răng nặng nề lên đầu hắn. Tristan vùi hắn dưới lớp rơm và phân trong góc chuồng rồi trở lại nhà vệ sinh trong khán đài để thay quần áo. Anh xác định vị trí của tên Irish thứ hai và theo hắn đến nhà nghỉ của du khách sau khi hắn đã nhìn quanh tìm đồng bọn, cho đến lúc sân đua gần như vắng ngắt. Tristan đi theo hắn đến tận lúc chiều muộn chờ dịp, cho đến lúc hắn từ bữa nhậu nhẹt về nhà trên hè đường có bóng mát gần nhà cho du khách. Tristan bẻ gẫy cổ hắn, đổ sạch một thùng rác rồi nhét hắn vào trong và nhẹ nhàng đậy nắp lại.
            Sáng hôm sau, sau một giấc ngủ say sưa nhờ rượu whiskey, anh lái xe về Saratoga, mặc bộ quần áo đắt tiền mua ở New York. Anh hy vọng có thể tách Susannah ra một lát và bằng cách nào đấy quả quyết với cô về tình yêu của anh, đủ để giữ cho cô sống tiếp. Cơ hội của anh đã đến sau bữa trưa, lúc cô đứng ngắm con ngựa hồng trong cuộc đua đầu tiên. Tristan đứng cạnh cô cho đến lúc cô nhận ra anh nhưng cô không tỏ ra ngạc nhiên, chỉ nói rằng cô biết anh sẽ đến.
            Họ nhanh chóng ra khỏi trường đua đến ngôi nhà cách đó mấy khối, cha cô vẫn giữ cho mùa đua ngựa. Tristan hơi do dự, nhưng cô nói ít ra còn một giờ hoặc hơn, người ta mới thấy thiếu cô. Thật không may, Alfred đã phân công cho một trong những người trợ lý của thượng nghị sĩ để mắt đến Susannah vì cô có vấn đề về thần kinh. Sau lúc người trợ lý thấy Susannah vào nhà với một người đàn ông lạ, anh ta vội chạy lại trường đua báo cho Alfred.
            Susannah dẫn Tristan đến phòng ngủ của chủ nhân để tránh bị các cô hầu đột nhập. Thoạt đầu cô tỏ vẻ lãnh đạm và khắt khe, đòi Tristan gặp cô ở Paris vào giữa tháng Mười. Anh từ chối, nói rằng thời gian đó không thích hợp. Cô trở nên kích động và anh gợi ý mùa xuân sang năm như một sự thoả hiệp, ngoài lúc đó ra cô không thể đi đâu. Cuối cùng là một lúc im lặng dài, đau đớn không chịu nổi khi anh nhận thấy những dấu hiệu chứng tỏ cơn điên của Susannah sắp đến. Anh chặn trước bằng cách kéo cô vào người và cam đoan rằng tháng Năm tới anh sẽ sẵn sàng. Cô run bắn lên trong tay anh và lúc anh nhìn chằm chằm qua vai cô, Alfred đã bước vào phòng. Susannah cảm thấy bàn tay Tristan cứng lại trên lưng cô và nghe thấy tiếng đóng cửa. Cô đoán việc xảy ra và lòng cô nhẹ hẳn khi nghĩ rằng mọi sự như thế là chấm dứt và cô có thể ra đi cùng Tristan.
          Họ cứ đứng như những pho tượng đá trong vườn, nghe tiếng thở của nhau và những tiếng ồn ào xa xa vọng từ trường đua. Alfred chỉ nói với Tristan:
          - Tao muốn giết mày.
          Tristan dứt khỏi Susannah và đưa cho Alfred khẩu súng lục của mình. Alfred trân trối nhìn khẩu súng rồi dí miệng súng vào thái dương Tristan. Họ nhìn nhau và Susannah tiến đến gần họ như người mộng du. Alfred quay súng vào đầu mình và Tristan đánh bật nó ra khỏi bàn tay anh. Alfred sụp xuống sàn khóc nức nở, còn Susannah cúi xuống bên anh, bình tĩnh và vô tư nói rằng đấy là một sự hiểu lầm khủng khiếp, rằng cô sẽ ở lại với anh mãi mãi. Rồi Alfred đứng lên, anh và Tristan trao đổi một cái nhìn không thể nói nên lời, vượt xa ngoài tầm hiểu biết, nhưng cái nhìn của Alfred không vương một chút hận thù. Susannah theo Tristan vào phòng khách, hôn anh và cười rồi nói rằng có lẽ một ngày nào đó họ sẽ gặp nhau ở thiên đường hoặc địa ngục, ở bất cứ nơi nào con người đến, nếu họ đến được bất cứ nơi đâu.
            Trên đường về nhà, Tristan đờ đẫn vì những ý nghĩ u ám và vì rượu, anh cười phá lên lúc đổi tàu ở Chicago, anh nhìn thấy trên quầy báo lệnh huỷ bỏ Luật Cấm rượu. Về đến nhà, Tristan chăm chỉ làm lụng với lũ ngựa, vui đùa cùng các con và đi săn cùng One Stab, ông lão có vẻ nhanh nhảu giả tạo và xanh xao của người già, nhưng không chịu thừa nhận tuổi tác.
            Gần đến cuối tháng Chín, Tristan nhận được một bức điện của Alfred từ Asheville, Bắc Carolina "Chú đã có cô ấy. Tôi đang gửi cô ấy về nhà...". Tristan phi ngựa đến Choteau kiểm tra bằng điện thoại địa chỉ gửi, và rất lo lắng thấy đó là địa chỉ của một nhà thương điên tư nhân. Anh mượn chiếc xe tải Ford và lái đến Great Falls đón tàu, hơi bối rối nhưng dù sao cũng hình dung ra rằng anh sẽ dùng phần đời còn lại để chăm nom Susannah, mường tượng rằng cuối cùng ở nông trại, có lẽ cô sẽ khoẻ lên. Tristan đón đoàn tàu với cảm giác lạnh buốt trong bụng nhưng anh bất chấp. Một chính khách bạn của Alfred đến gần Tristan, dẫn anh đến toa chở hành lý, đưa cho anh một danh sách những lời chỉ dẫn về việc mai táng lúc phu khuân vác dỡ chiếc quan tài bằng gỗ hồng mộc bóng loáng xuống.
          Chẳng còn gì nhiều mà kể nữa. Susannah được chôn cất cạnh Samuel và Hai, và hỡi bạn đọc, nếu anh ấy và cô ấy là tín đồ ngây thơ, có thể cảnh báo Chúa Trời rằng hãy để anh ta một mình hoặc những việc tầm phào như thế. Không ai hiểu được vì sao tính ngẫu nhiên lại là sự kết hợp của báng bổ và định mệnh. Chỉ có một nhà nghiên cứu thần học lâu đời mới có thể suy xét việc Tristan nguyền rủa Chúa Trời từ nhiều năm trước ở Pháp, lúc anh và Noel bọc trái tim của Samuel trong nến. Người đương đại coi những sự kiện như thế hoàn toàn là ngang trái, có đủ mọi loại như nước ở nơi sâu nhất và xa nhất của Thái Bình Dương.
     
    Chú thích:1. grain: đơn vị trọng lượng, bằng 0,0648 gr
  9. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
               Một sáng Chủ nhật ấm áp giữa tháng Mười vài tuần sau tang lễ, Samuel và Ba đang chơi bập bênh trên hiên bằng chiếc hiên ngựa nhỏ và dây buộc vào tay vịn. Isabel đã mang bữa sáng lên gác cho Ludlow, ông thấy không được khoẻ. Bà đang đọc Pierre, hoặc Những sự mơ hồ của Melville cho ông nghe. Ludlow ưa thích Melville trong khi Isabel thấy tác giả này khá buồn chán.
              Trong bếp, Pet đang gói bữa trưa cho Tristan và các con đi chơi ngoài trời. Chị chăm chú lắng nghe câu chuyện của Decker và Tristan. Họ đang cố tìm cách thoát khỏi tình thế quá khó xử: rõ ràng bọn Irish có thể trở lại để báo thù. Tristan vươn vai và đến chỗ Pet hỏi ý kiến chị. Chị nói điều họ cần quan tâm nhất là bọn trẻ con và điều duy nhất quan trọng với chị là chúng được an toàn. Isabel Ba bước vào và kéo mạnh tay bố. Tristan hôn cô bé và bảo đợi mười phút nữa, cô bé chạy ra hiên hét tướng lên với Samuel mười phút nữa.
            Decker gợi ý nên đến Cuba là nơi Tristan có một finca nhỏ anh mua từ mười năm trước, hiện giờ do hai thủy thủ người Cuba trông nom, từ mùa xuân năm ngoái họ đã chở đến hai con ngựa cái tốt để gây giống. Tristan lo lắng đến việc học của bọn trẻ và Decker nói tính mạng của bố chúng quan trọng hơn việc học hành. Pet là người đầu tiên nghe thấy tiếng ôtô, chị cứng người nhưng Samuel kêu to là cảnh sát đến và chị nguôi đi. Decker theo Tristan ra hiên và đứng lại với các cháu lúc Tristan đến gần hai cảnh sát đang đứng cạnh chiếc xe Ford hai chỗ.
            Tristan ung dung và gần như chịu đựng lúc gật đầu chào mấy người cảnh sát, nhưng tim anh chợt nảy lên khi nhìn thấy một đứa chính là tên Irish lịch sự ở San Francisco và tên kia là một kẻ đâm thuê chém mướn, vụng về trong bộ đồng phục. Họ nhìn nhau trừng trừng trong giây lát.
           - Tao đã mất hai người anh. Tốt nhất là chúng ta dàn xếp chuyện này - Tên đàn ông nói.
          Tristan liếc vào hàng hiên, nơi Decker đang đứng canh Samuel, Ba và One Stab. Anh biết anh sắp hết đời và tim anh nhức nhối vì các con đang đứng trong ánh mặt trời trên hiên.
            - Tôi sẽ đi với các anh, tôi chỉ muốn các con tôi không nhìn thấy - Tristan nói.
           Tên Irish gật đầu rồi bỗng giật mình vì Ludlow mặc áo ngủ, đi chân trần, lảo đảo qua lớp cỏ màu nâu khô héo, chiếc áo khoác bằng da bò rừng quấn quanh người. Tristan lịch thiệp nói đây là cha anh nhưng Ludlow lắc mái đầu bạc trắng, giơ chiếc bảng đen trên viết "Chuyện này nghĩa là gì vậy?".
          Tên Irish khe khẽ xin lỗi, nói hắn rất tiếc nhưng Tristan phải trả món nợ với xã hội bằng một thời gian dài ở tù. Ludlow lắc đầu, thân hình ông thình lình giật nảy lên như thể ông là con chim ưng đang vồ mồi. Ông nâng khẩu súng săn cỡ 12 ly để dọc chân lên qua kẽ hở của chiếc áo choàng và thổi bay hai tên Irish vào chốn vĩnh hằng.
        
    PHẦN KẾT
     
             Buổi sáng tháng Mười ấy là kết cục câu chuyện của Tristan. Sau cái hậu quả choáng váng ấy, Ludlow đổ sụp xuống nhưng đến bữa trưa thì hồi tỉnh. Tristan ôm lấy các con, và Pet giải thích với chúng rằng những tên ác quỷ kia đến để giết bố chúng. Isabel kích động một cách lặng lẽ. Decker, gã Cree và gã Na Uy chôn những cái xác và đêm ấy, gã Cree vứt chiếc ôtô vào vực sâu ở thượng lưu sông Missouri. Nhưng chính lão One Stab mới là người sướng đến phát cuồng trước khi tiếng vang của những phát súng tắt dần. Lão nhảy múa và hát vòng quanh các xác chết, thân hình lão hết uốn cong lại nhảy cỡn lên, lão ngân nga nho nhỏ một bài hát, rồi lão cúi xuống ôm ông Ludlow bất tỉnh trong vòng tay. Tristan biết nếu không phải chính ông Ludlow giết, trong lúc phấn khích lão One Stab có thể lột phăng da đầu bọn chúng.       Sau đó, Tristan đưa các con lên thuyền buồm đi Cuba và mãi hai mươi ba năm sau mới rời bỏ nơi ấy, lúc nông trại thuộc sở hữu của Isabel Ba và chồng cô gần McLeod ở Alberta bắt đầu nhiều thay đổi về mọi mặt. Nếu bạn ngược lên gần Choteau và xuôi xuống đường Ramshorn bên nông trại lúc này là của con trai Alfred trong cuộc hôn nhân thứ hai, bạn sẽ không được phép vào. Đây là một biện pháp hiện đại có hiệu quả, nhưng trong hẻm núi ở sau nông trại có những ngôi mộ mang ý nghĩa nhất định với số người ít ỏi còn lại trên đời: Samuel, Isabel Hai, Susannah và tách ra một chút là Ludlow chôn giữa những người bạn thực sự của ông. One Stab và bà Isabel; cách đấy một khoảng nhỏ là Decker và Pet. Lúc nào cũng trơ trọi, tách rời và vì lý do nào đó là người cô đơn, Tristan được chôn ngược lên phía trên, ở tận Alberta.       
  10. CuZin

    CuZin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/06/2006
    Bài viết:
    1.422
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    BÁO THÙ
    Báo thù là một món ăn
    tốt nhất nên dọn lúc đã nguội
    (Ngạn ngữ cổ Sicily)
    CHƯƠNG
    I
        Bạn không thể nói người đàn ông trần truồng kia đã chết hay còn sống, nếu bạn là con chim đang sà xuống (mà có một con chim đang sà xuống thật, một con kền kền). Chính người ấy cũng không biết và con chim ngập ngừng lúc đáp xuống mặt đất, kêu rền rĩ lúc đến bên cạnh, nghi ngờ và nhìn vào khu rừng rậm như thể mong đàn chó sói. Xác chết đã thối sẽ được chia theo một kiểu không do những kẻ chung phần muốn, mà theo kiểu đã định sẵn, từ trước khi bất cứ kẻ nào biết đến. Con kền kền vừa ăn một con rắn chuông bị xe tải chẹt chết ở ngoài Nacozari de Garcia, một thành phố nhỏ hấp dẫn du khách, cách Nogales khoảng một trăm dặm. Lũ chó sói sẽ theo vòng lượn của con kền kền vì tò mò, dù chúng trong cuộc săn đêm còn đói hay không. Khi buổi sáng ấm lên, kền kền sẽ tới đông thêm cho đến lúc người đang chết kia có người nhòm ngó.
          Giữa buổi sáng lúc trời sáng rõ, sức nóng đã hun khô và đóng bánh lớp máu trên mặt người đàn ông, máu hầu như đã mất mùi tanh của đồng. Người đang hấp hối lúc này chập chờn, phần lớn vì hơi nóng và mất nước hơn là vì những vết thương: một cánh tay bị vặn xoắn, một vết bầm lớn màu xanh lơ trên ngực, một bên gò má vỡ vụn, máu trào ra giống như mặt trời đỏ tía, hai hòn cà sưng phồng. Máu từ cái đầu bị thương làm đen thẫm cát sỏi và dìm anh ta vào giấc ngủ hôn mê gần như chí tử. Anh ta vẫn còn thở, luồng không khí nóng rít như còi qua chiếc răng vỡ và lúc tiếng còi rít lên đặc biệt to, lũ chim kền kền đâm lúng túng. Một con sói cái và những con sói con vừa cai sữa dừng lại nhưng chỉ một lúc thôi: sói mẹ đớp lũ con như muốn nói cái sinh vật tầm thường này chỉ bị nguy cấp xoàng xoàng thôi. Nó gật gù lúc đi ngang qua một con sói đực già rất to dưới bóng một tảng đá mòn đang tò mò ngắm nghía. Nó nhìn rồi gà gà ngủ, ngay cả trong giấc ngủ vẫn cảnh giác mà chúng ta không biết. Bụng nó đầy javelina và nó rình người đàn ông đang hấp hối chỉ vì đã từ lâu, đấy là vật thú vị nhất bất ngờ trên đường của nó. Tuy vậy tất cả chỉ vì tò mò: khi người chết, sói sẽ bỏ đi ngay, để lại cho lũ kền kền. Đây là chuyến thức canh suốt đêm của nó, vì nó ở gần ngay đó lúc người đàn ông trần truồng kia bị ném khỏi xe ô tô trong đêm qua.
     

Chia sẻ trang này