1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Huyệt đạo quốc gia

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi anhoanp, 10/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Huyệt đạo quốc gia

    Là nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau?
    Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng?
  2. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Tự sự: Tui là người sớm ngưỡng mộ Kinh dịch...cũng như ngưỡng mộ KTS Trần Thanh Vân;
    Mạo muội lập ra Topic này để xin được học hỏi nhiều cao thủ trong làng Phong thủy (Kiến trúc sư: ngày nay), học thuật phương Đông! Mong sát thủ "Hồng Vệ Binh" & Maseo không dừng chân nơi thâm cốc nầy :-)
  3. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Đại địa mạch quốc gia
    (TuanVietNam)- Những tìm hiểu của KTS Trần Thanh Vân về đại địa mạch quốc gia.
    Chuyện 700 năm trước
    Trong trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người ?ophạm lỗi? với Triều đình nhà Trần, nhưng đều đã lập nên chiến công lớn, góp phần không nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
    Sách cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói thì quá mạnh bạo mà sinh hoạt thì hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức, bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống.
    Nhưng cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đã trở thành Phó tướng Vân Đồn. Ông đã chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng.
    Võ đã giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho cuốn ?oVạn Kiếp tông bí truyền thư? của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau:
    Người giỏi võ cầm quân thì không cần bày trận
    Người giỏi bày trận thì không cần đánh
    Người giỏi đánh thì không thua
    Người khéo thua thì không chết
    Sách cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự, nhưng vì lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay dòng thứ, để giành ngôi cho cha mình là dòng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đã ?ođẩy? con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đình để tránh hậu hoạ.
    Nhưng cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đã lập nên kỳ tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc nhở, nên đã xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi nhìn ra Bái Tử Long.
    Ngày nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác gì một trạm gác tiền tiêu nhìn ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do vì có tội nên bị điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong những ?obí truyền thư? mà Đức Thánh Trần đã lưu lại để dạy bảo cho chúng ta?

    Được anhoanp sửa chữa / chuyển vào 16:40 ngày 10/08/2009
  4. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Khi bí mật không còn là bí mật
    Cách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: Hình một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m).
    Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta.
    Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và dòm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lý Thái Tổ đã quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa võng mà Cao Biền đã trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước.
    Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lý thuyết về địa mạch thì đã hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, thì nay đã bị phơi bày ra tất cả.
    Cái chính là ?othiên hạ? thì biết cả, nhưng những người trong cuộc có ý thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không?
  5. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Nhìn vào sơ đồ ?ovi địa mạch?
    Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m).
    Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu?
    Thế nhưng các dãy núi chỉ ?ochầu? nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con sông thì đã ?otụ? lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã ?omọc? lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km.
    Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn ?oĐắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi? mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ.
    Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc.
    Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288.
    Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ?
    Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3?T 28?T?T từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia.
    Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông nhau. Nhiều người vẫn còn nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đã chứng kiến chính nơi đó đã có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng.
    Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lý nghe mô tả lại hiện tượng đó thì đoán rằng chắc có kẻ nào đó đã chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne?
  6. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Am Mỵ Châu thờ ai?
    Lúc sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu hình ảnh và hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ý tưởng rất thuyết phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở thành rất ?oam hiểu? về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau.
    Trong một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta.
    Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi:
    - Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không?
    - Dạ không
    Đó chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện tình duyên của Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta vì quá nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa.
    Xưa kia dân tộc ta đã từng bị lừa, hiện nay cũng đang bị lừa và có thể ta còn bị lừa nữa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của Người mẹ Tổ quốc đã và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.?
    - Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không?
    - Không! Ta có một bí mật quốc gia quý hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đã không còn là bí mật nữa rồi, nhưng kẻ thù đã từng ra sức phá. Hiện nay chúng cũng đang phá bằng khẩu hiệu ?obài đế phản phong? để ta tự phá ta, để ta quên đi ta đang có báu vật trong tay.
    - Vậy làm cách nào để khắc phục?
    - Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không?
    - Có ạ, có ạ!
    - Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người.
    Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán.
    Ông cười nhạo, nói: ?oTử vi liên quan đến số phận riêng của từng người thì ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. Còn có cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước thì hễ ai quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!?
    *
    Trần Thanh Vân
  7. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Created by Trần Thanh Vân:
    Giọng nghẹn ngào, tôi nén giận nói rằng : ?oNăm ngoái, khi Quốc hội tranh luận chưa nhất trí thông qua nghị quyết mở rộng Thủ đô, các vị cuống lên đến hỏi tôi về luận thuyết phong thủy Thăng Long. Tôi đưa cho các vị bản Thiên đô chiếu của vua Lý Thái Tổ. Các vị chớp ngay đoạn Tựa núi nhìn sông & Rồng cuộn Hổ chầu đưa vào báo cáo để được Quốc hội ủng hộ và thông qua với số phiếu cao. Nhưng bản Thiên đô chiếu chỉ có 214 chữ mà các vị không thuộc, nguyên văn đoạn này là : ?oHuống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế Rồng cuộn Hổ chầu, chính ngôi Nam Bắc Đông Tây, tiện nghi núi sông sau trước??. Vậy thành Đại La cũ ở đâu?, nếu các vị đưa trung tâm hành chính quốc gia sang Đông Anh (P. án A) hay đưa vào Thạch Thất (P. án B) là các vị di đô rồi còn gì? Phải đưa Trung tâm hành chính quốc gia về Tây Hồ Tây cùng có vĩ độ với Đền Thượng Ba Vì và Đền Kim Ngưu ở Tây Hồ. Trung tâm này phải tựa vào núi Ba Vì, nhìn ra Hồ Tây mênh mông và sông Hồng thoáng rộng, không được xây công trình cao tầng ở sông Hồng như đồ án của Hàn quốc. Còn ở Tây Hồ Tây ngoài Trung tâm hành chính quốc gia rộng 100 ha, phải có kênh mương nối sông Hồng-sông Nhuệ-sông Tô Lịch với Hồ Tây tạo thành một công viên mở chừng 100 ha để phục hồi long mạch, tức là thế Rồng cuộn. Đây là một trong những huyệt đạo quan trọng sản sinh ra HIỀN TÀI, nên ở đây sẽ phải xây Trung tâm đào tạo Nhân Tài Đất Việt.
    Được anhoanp sửa chữa / chuyển vào 17:00 ngày 10/08/2009
  8. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Ngay sau ngày Hà Nội sáp nhập để trở thành Thủ đô (mở rộng), Thư Thăng Long - Hà Nội nhận được bài viết của một kiến trúc sư lâu năm, có tên tuổi. Những ý tưởng và kiến giải của bài là suy nghĩ của một nhà chuyên môn, rất đáng để chúng ta suy ngẫm, trao đổi và biết đâu, có thể trở thành hiện thực không xa?
    Mùa thu năm 1010, ba tháng sau khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã ban Thiên Đô chiếu và Ngài đã hỏi quần thần: ?oÝ các khanh ra sao??. Sự kiện đó diễn ra vào thời kỳ đất nước Đại Việt còn rất lạc hậu nghèo nàn, 1000 năm trước. Quan quân trong triều lúc đó, chắc không mấy ai đã hiểu hết ý nghĩa của 214 chữ do nhà vua ban ra, nhưng họ có niềm tin tưởng tuyệt đối vào đấng minh quân, nên quần thần đã nhất tề hưởng ứng, thông qua và làm theo.
    Vào lúc đó, dưới sự dìu dắt của Thiền sư Vạn Hạnh, dày công tự tìm tòi, nghiền ngẫm và nghiên cứu cấu trúc NÚI CHẦU SÔNG TỤ, sự linh thiêng và thế bay lên của phong thủy Thăng Long dường như đã ngấm sâu vào tâm thức của nhà vua trẻ Lý Công Uẩn nên vừa lên ngôi, Ngài đã cấp tập ra lệnh khởi hành ngay công việc hệ trọng bậc nhất liên quan đến vận mệnh đất nước.
    Lịch sử ngót 1000 năm qua đã chứng minh Đức vua Lý Thái Tổ đã có tầm nhìn xa, có hành động vô cùng thông minh và chuẩn xác!
    Ảnh: Trần Thanh Vân
    Trung tâm Thăng Long xưa là Hồ Tây và sông Hồng.
    Chiếu dời đô ngắn gọn nhưng chứa đựng trí tuệ, hoài bão của bậc minh quân, lại mang hơi thở của một thời đại mới, đã miêu tả địa thế Thăng Long ?o? Ở giữa khu vực Trời Đất, được thế Rồng cuộn Hổ ngồi, chính giữa nam - bắc, đông - tây, tiện nghi núi sông, sau trước??
    Ngày đó, cả nước Đại Việt chỉ có sáu triệu dân. Hoàng thành Thăng Long chỉ rộng chưa đến 10km2, ở phía nam hồ Dâm Đàm là nơi giành cho nhà vua và triều đình cư ngụ, nhưng ở phía bắc hồ là nơi quân lính đồn trú để bảo vệ kinh thành. Như vậy, cung điện nhà vua và trại lính đồn trú là hai thành phần quan trọng nhất của kinh đô xưa đều ôm trọn Hồ Tây.
    Trong suốt thời Lý sang thời Trần, phường Nhật Chiêu bên bờ sông Hồng luôn luôn là nơi tụ hội quân lính, nơi xuất quân ra đi đánh giặc, nơi dân chúng gánh lương thực đi tiếp tế và đón đoàn quân chiến thắng trở về để mở tiệc khao quân. Đình Nhật Tân, đình Yên Phụ và đình Thủ Lệ ngày nay vẫn thờ Đức Linh Lang bảo vệ hồ Tây, vị Thánh được gọi là Uy Đô Vương, con Vua Hồng Bàng. Tương truyền mỗi khi có giặc giã là Ngài nhập thế, dẫn đầu đoàn quân xông ra đánh giặc, giặc tan, Ngài lại bay về trời.
    Lễ hội và tiệc khao quân - Ảnh: Trần Thanh Vân
    Trung tâm Thăng Long nay vẫn là Hồ Tây và sông Hồng
    Ngày nay chúng ta phát triển Thủ đô sang hướng tây và chọn Hồ Tây là trung tâm. Núi vẫn vậy. Sông vẫn vậy. Và bầu trời vẫn vậy, thiên thanh tựa ngàn xưa. Nhưng ngày nay dân số nước ta đã hơn 80 triệu (gấp 13 lần khi xưa), riêng Thủ đô có hơn sáu triệu dân. Thủ đô phải to rộng hơn nhưng vẫn phải bám sát trục phong thủy NÚI CHẦU SÔNG TỤ.
    Thủ đô Hà Nội nay như một ngôi nhà lớn, tựa lưng vào vòng cung từ núi Tản Ba Vì đến Xuân Mai Hòa Bình, nhìn ra Hồ Tây mênh mông, là một đại minh đường hình bán nguyệt, trước nữa có sông Hồng chảy theo hướng Thìn, hướng của chòm sao Cang Kim Long là một đại long mạch.
    Hà Nội cũ đáng trân trọng và cần bảo tồn.
    Năm 1831, Vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội gồm bốn phủ: Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân. Riêng phủ Hoài Đức đã được người Pháp xây nên thành phố Hà Nội, thủ phủ của liên bang Đông Dương, ba phủ còn lại vẫn thuộc Hà Đông và Hà Nam.
    Hà Nội là một thành phố đẹp, nhưng chỉ là một đô thị hành chính của chính quyền bảo hộ, lấy hồ Hoàn Kiếm làm trung tâm. Khu vực đồn trú của quân lính đóng ngay trong khu Hoàng thành cũ, còn hồ Tây và phường Nhật Chiêu xưa thuộc huyện Từ Liêm, mãi đến năm 1995 mới được lập thành quận Tây Hồ.
    Từ năm 1955 đến nay, dân số Hà Nội gia tăng từ 30 vạn lên đến hơn ba triệu người, nhà cửa, công trình? bị xen cấy, chen lấn, cơi nới, lại thêm cách quản lý yếu kém, cục bộ, thiếu tầm và thiếu cả tâm? khiến bộ mặt Hà Nội cũ bị biến dạng, trở nên chật chội, nham nhở, kỳ dị và xấu xí đi rất nhiều.
    Ngày 29/5/2008, Quốc hội nước ta đã thông qua nghị quyết mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, vẫn theo đúng trục phong thủy Thăng Long. Theo tôi, đó là cơ hội cho chúng ta xây dựng một Thủ đô văn minh hiện đại nhưng đắm mình trong thiên nhiên. Đó cũng là cơ hội để chúng ta bảo tồn Hà Nội cũ với trung tâm Hồ Gươm trở về đúng với sắc thái khi xưa.
    Khu Mỹ Đình - Ảnh: vietbao.vn
    Với diện tích là thủ đô lớn thứ 16-17 trên thế giới, bao gồm ba thành phố là Hà Nội (cũ), Hà Đông và Sơn Tây, ba thành phố này phải bảo toàn sao cho vẫn giữ được những sắc thái riêng biệt, trong đó Hà Nội cũ là đô thị hạt nhân. Chính vì Thủ đô mở rộng không còn là ?othành phố trong sông? nữa, nên Thủ đô ở thời kỳ mới, thời kỳ hội nhập quốc tế này, nên mang tên Thăng Long, và sẽ là nơi nắm giữ điểm huyệt của nền kinh tế mũi nhọn.
    Thủ đô mở rộng sẽ là nơi tập trung các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu khoa học, nơi có thành công bước đầu về xây dựng khu công nghệ cao Hòa Lạc, để xây dựng một đô thị xanh hoàn hảo với môi trường trong lành, phát huy tối đa tài năng trí tuệ của giới khoa học trẻ tuổi, để có doanh thu nhiều tỷ USD hàng năm và phát triển kinh tế du lịch sinh thái và dịch vụ.
    Ngày nay, trái đất đang ngày càng nóng lên và cả thế giới đang bị uy hiếp bởi thiên tai, động đất và ô nhiễm môi trường? Bởi vậy xu thế đô thị hóa trên thế giới đã bước sang giai đoạn thứ ba là xây dựng những đô thị xanh để đưa con người về với thiên nhiên, từ bỏ việc xây dựng tập trung nhà bê tông cao tầng và tấm kính lớn.
    Địa giới hành chính Thủ đô mở rộng tới 3.344km2, trong đó có 2.500km2 và ba triệu người là nông dân vẫn ở trên khu đất xanh, cài răng lược với khu đô thị và đan xen giữa các trục giao thông là các hồ chứa nước và các kênh dẫn nước. Giải pháp phong thủy này tạo ra các hành lang dẫn gió đưa luồng sinh khí đến vùng trung tâm Hồ Tây. Giải pháp đó đưa mầu xanh thiên nhiên tiếp cận mọi người dân đô thị, đồng thời đóng góp vào việc xóa bớt ranh giới giữa người giàu và người nghèo.
    Làng đô thị vườn có thể tiến thẳng lên thành một đô thị xanh, không phải qua giai đoạn là một đô thị xám, khi đã có nguồn nước từ sông Đà về, có hồ chứa nước để điều hòa khí hậu, có giải pháp thu năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất để sưởi ấm mùa đông và làm mát mùa hè, có mọi giải pháp thu gom, xử lý chất thải và ô nhiễm môi trường.
    Nhưng đây phải là một sự nỗ lực rất lớn không phải chỉ riêng chính quyền và nhân dân Thủ đô, mà còn đòi hỏi sự chung vai, chung sức, chia sẻ lớn của cả nước. Trong vị thế một thủ đô mới, với chức năng, nhiệm vụ mới, đầy thách thức nhưng cũng đầy cơ hội, Thủ đô mở rộng của chúng ta nên lấy lại tên Thăng Long, cái tên thể hiện thế đất, thế lực, và thế phát triển mới - Rồng bay. Còn Hà Nội, khu đô thị bảo tồn nên giữ lại tên cũ, là một phần quan trọng của Thăng Long.
    * KTS Trần Thanh Vân
  9. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Khi về đã lạnh vườn xưa

    Mỗi thời đại thờ cúng một vị thần. Thần sông Tô Lịch khi dâng nước mênh mông, khi hiền hòa tưới mát các đồng lúa, ở mãi với dân Giao Châu. Cho đến khi Tiết độ sứ Cao Biền sang trấn thủ, bày trò trấn yểm, dìm chúng tôi xuống móng thành Đại La.
    Tôi với Tiểu Khanh chết đi ở giấc canh khuya, khi mặt sông đã hóa bùn và nước sông đã đặc tóc. Song tóc Tiểu Khanh làm sông Tô Lịch chảy mềm mại và từ bấy mang màu tóc Tiểu Khanh. Sông xanh tóc con gái ước mơ và kiên nhẫn.
    Chết trong sóng nước quê mình là một hạnh phúc. Sống vì quê, chết về quê. Đã bao ngày chúng tôi tin vậy, từ khi lọt lòng, khi biết chạy nhảy qua các đồng rạ rồi trèo lên các gốc mận chia trái ngọt của quê mình. Chết, khi tuổi trẻ ngập kín hồn là tuyệt phúc. Vì chết mà nụ cười vẫn tươi. Còn mang hồn nhiên thanh thoát. Tôi nói Tiểu Khanh đừng ngại chết. Tiểu Khanh biết tôi nói dối. Vì chết khi chưa kịp sống, là chết oan. Tiểu Khanh hiểu mà vẫn thương lời nói dối. Chết đi không than trách. Sử Giao Châu không chép, nhưng tôi mang ánh mắt của Tiểu Khanh xuống tuyền đài. Ánh mắt còn chứa chan tình yêu đất này và lấp lánh niềm hoài cảm.
    Cao vương trù tính chúng tôi phải làm âm binh. Tôi hầu quạt còn Tiểu Khanh làm ca kỹ cho Thành hoàng. Chúng tôi cứ thế, ngày ôm móng thành, đêm trồi lên mặt nước, đôi khi ráng chiều muộn còn vỡ trên ruộng mạ phì nhiêu chan chứa tình người mà chúng tôi quyến luyến. Đôi khi mây xám vừng lên những giấc mưa, làm ướt tóc Tiểu Khanh, làm ướt ánh mắt u hoài. Chúng tôi thân với nhau từ ngày vỡ lòng Tam tự kinh, chết đi thành hồn âm nhưng vẫn thương xứ này. Đất Giao Châu muôn thuở, nơi chúng tôi sinh ra, lớn lên và khám phá tình tự đầu đời. Chưa phải là tình yêu vì chúng tôi chưa biết đến, chưa kịp mặn nồng vì chúng tôi chưa biết thề nguyền, nhưng đã là sự trân quý của tuổi trẻ cảm thấu và độ lượng.
    Lìa trần làm âm binh, kiếp người hòa vào kiếp nước, nước của sông Tô Lịch của đất Giao Châu vạn đời. Song chúng tôi phải sống trong chật hẹp, không thể tự do mơ ước, không thể tự do bay nhảy, hay đạt chí cả của đời mình. Vì phải đội sức nặng của thành Đại La cho đến khi vỡ thành như bùa yểm của Cao Biền. Thần sông Tô Lịch cũng lắm phong trần. Khi giữ chức Đô phủ Thành hoàng Thần quân, khi nhận tước Đô quốc Thành hoàng Đại vương, đến triều Trần, năm Trùng Hưng lãnh Bảo quốc, năm Hưng Long lãnh thêm Định bang, toàn hàng mã. Chúng tôi chết đã năm trăm năm, tuổi ma già theo tuổi sông, mà vong linh vẫn tươi trẻ, như dòng nghịch thủy còn xanh tóc Tiểu Khanh.
    Một ngày thầy An đi qua sông.
    Từ xa chúng tôi đã biết gặp một nho sĩ. Thầy An mang linh hồn của một nho sĩ. Chỉ một nho sĩ mới biết viết lên trời xanh. Chỉ một nho sĩ mới biết ấn sâu vào lòng đất chữ thánh hiền. Chúng tôi ngắm bóng thầy xa xa. Tâm hồn thầy thanh sạch. Sức trinh bạch làm trong sắc trời. Giống thầy An làm tan biến mây mù và hiện cầu vồng lướt trên sông. Tiểu Khanh níu tôi, Tiểu Khanh ngửi ra mùi bột gạo của huyện Thanh Đàm, quê của Tiểu Khanh mà cũng là quê của thầy An, tên chữ của thầy là Linh Triệt. Chúng tôi có khả năng ngửi thấy tông tích người sống, cũng như đoán biết đến khi nào các búp lan rừng sẽ chậm rãi nở, sẽ phả hương tinh khiết.
    Chúng tôi trầm dưới sông. Tôi với Tiểu Khanh đùa giỡn. Chúng tôi tự nhiên như hai thiếu niên đang vẫy vùng giữa sông, tin sông Tô Lịch nghìn năm mây phủ và tin chúng tôi đã mất dáng người. Tiểu Khanh cười khúc khích, trong lúc tôi làm trò. Nhưng thầy An trông thấy chúng tôi, mặc dầu chúng tôi vô hình, thầy gọi:
    "Sao không học hành mà tắm dưới sông?"
    Chúng tôi rùng mình. Lần đầu tiên một người sống trông thấy chúng tôi. Tiếng thầy cất trên sông như tiếng hò, của người Giao Châu, gọi nước, gọi hồn. Chúng tôi biết thầy An không phải pháp sư, mà sao thầy trông thấy các hồn âm? Tiểu Khanh nói khẽ: Thầy trông thấy nỗi oan khiên ở đời. Chúng tôi trồi lên, quỳ trên sóng sông Tô Lịch.
    Chúng tôi chắp tay, thưa, chúng tôi rất hiếu học mà khổ nỗi bị xiềng vào chân thành Đại La chìm sâu dưới nước. Chúng tôi thác oan nhưng lễ giáo vẫn giữ. Vẫn tin học lễ rồi mới học văn. Tin vào chữ thánh hiền. Tin vào tình yêu xứ này. Thầy nhìn chúng tôi chăm chú. Thầy biết chúng tôi là quỷ. Nhưng hôm ấy, chừng như thầy thương cảm và xúc động. Thầy nói Tiểu Khanh có thần thái sáng láng, còn tôi tuy bặm trợn vẫn giữ cốt cách có giáo dục. Hôm sau nữa, thầy An trở lại khúc sông vắng, bày hương án, làm lễ xá thủy thần. Thầy lập đàn giải oan, cúng Thành hoàng, rồi lấy bút nghiên viết lên mặt sông những chữ đại tự. Chữ thầy viết đến đâu, mặt sóng lặng như trang giấy. Chữ thầy lan đến đâu, mặt nước thành mặt gương, phản chiếu. Chữ thầy thẳng, như sự ngay thẳng trong lòng thầy. Liễn mực cạn dần theo nét chữ thảo vừa viết trên sông, mà đã thoắt lên trời cao. Nét chữ như nét roi. Nét chữ của một nho sĩ, mang sức mạnh của lương tri mà ghè đá, sóng nước, không cản nổi ý chí viết trên sông, viết lên cái chết oan của tuổi thanh xuân không phạm tội. Đến khuya, chúng tôi được thả.
    Từ bấy, kiếp ma va kiếp đời. Chúng tôi vẫn là hồn âm, nhưng đã thành môn sinh của thầy Chu Văn An. Học thầy phải theo thầy, thầy An dạy, khi chúng tôi bước qua cổng Quốc Tử Giám.
    *
    Vũ trụ là những thời quán, mà mỗi thời quán dài ngắn tùy theo ký ức. Kiếp ma vô tận nên tôi đầy ký ức. Tôi vẫn chưa quên buổi sáng trở về ngôi nhà cũ của thầy An dưới chân núi Chí Linh. Buổi sáng có sắc trắng chập chờn của cội mai già hiu hắt. Có sắc trắng hiu quạnh của bụi lài cô độc. Có sắc trắng nhờ của vài nhành huệ lay lắt trước gió hú kéo lê lá khô qua nền nhà cũ.
    Khi về đã lạnh vườn xưa, tôi biết thầy An muốn hét to vào hướng núi, muốn hét to vào xa vắng, muốn thả nước mắt rơi phương trời. Thiên nhiên không đáp trả tấm lòng thầy. Núi Chí Linh tịch liêu, bất lực với nỗi đau của thầy. Nỗi đau câm. Nỗi đau trong im lặng. Vì suốt đoạn đường thầy không một lần trò chuyện, không một lần cất tiếng. Thầy bước những bước dài, thẳng, không một lần quay lại. Tôi với Tiểu Khanh gánh sách và vật dụng cá nhân, tất tả từ kinh sư theo thầy về Chí Linh, từ buổi trưa thầy ra khỏi Cấm Đình. Chúng tôi quẩy gánh như ma, lướt đi giữa phố phường kín cửa. Bóng chúng tôi lướt qua phố xá im phắc. Thiên hạ bạc như lớp vôi quét trên vách. Chúng tôi làm ma đã đành, thầy An vẫn còn sống mà các môn sinh của thầy, nhiều kẻ đậu đến đại khoa như Phạm Mạnh Sư và Lê Bá Quát, không một ai đưa tiễn. Tất cả sợ. Sợ dây vào mình "Thất trảm sớ." Sợ sai nha của nịnh thần. Sợ mất phú quý. Chỉ một mình thầy An qua cửa Ô. Gần như một phát vãng, tự nguyện, vẫn là phát vãng. Tiểu Khanh khóc, vì thương thầy, chúng tôi ngậm ngùi rời Văn Miếu Môn.
    Ký ức tôi vang động, như đã khảm vào não. Tôi hãy còn nhớ, khi thầy bắt Tiểu Khanh và tôi quỳ lạy tượng Khổng tử và Tứ phối ở nhà Khải Thánh. Khi thầy đứng trên bục giảng, luận về Nhan tử, Tăng tử, Tử tư và Mạnh tử, cho chúng tôi chép vào vở. Tôi với Tiểu Khanh mang nhân dáng nhuyễn thể, vì dìm dưới sông quá lâu, nên chúng tôi có thể treo trên xà nhà, hay trườn dưới mái, hoặc thoắt ở ngọn cây, hoặc trầm dưới Thái hồ. Những ngày ở Quốc Tử Giám là những ngày nhiễm phúc. Tiểu Khanh được thầy An cho ở nhà Thái học sinh, dẫy nhà xây tường ngang, lợp ngói đồng. Tôi được ở khu Tam xá, ba dẫy, mỗi dẫy 25 gian, phía gần bức tường vôi đắp gạch Bát Tràng, kết bạn cùng với các đồng môn. Với thầy An, không có học trò ma, chỉ có học trò của thầy. Mà đã là môn sinh thì phải học làm người. Xác ma nhưng biết chính trực, cốt cách tinh thần thì vẫn là người, như thầy dạy. Cấm ma mãnh. Thầy cấm tất. Học đạo của người quân tử và học cách ký thác lương tri của mình vào chữ. Chữ của người quân tử. Thầy bắt chúng tôi và các môn sinh mỗi ngày tập đồ chữ. Miệt mài cho đến khi nét chữ thật thẳng, như vết phóng. Chữ có thẳng, thì lòng mới ngay. Như thầy bảo. Các môn sinh phải tập viết ra sự ngay thẳng của lý trí mình. Cấm cong, cấm uốn, cấm run rẩy.
    Giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám, thầy An còn dạy thêm khoa lý số, phép tính xác xuất của thời phong kiến. Phép tính giản lược mà khó khăn: Tìm giới hạn của một cá nhân bằng cách tính hiệu năng của cá nhân đối với bách tính. Chúng tôi cần mẫn tu tập. Đôi lúc, tôi mê giọng đọc Luận ngữ của Tiểu Khanh. Đôi lúc, tôi say nét chữ của Tiểu Khanh chép Nam Hoa kinh lên lá bàng. Tình yêu của một nho sĩ phải đẹp như tâm hồn của một nho sĩ. Tôi muốn trở thành nho sĩ để tình yêu thánh khiết của mình trong sáng vĩnh cửu. Nhưng tôi chỉ là ma da. Ma da của sông Tô Lịch. Một ma da tập làm người. Thầy An hiểu, thầy thường khuyên nhủ: Ma vẫn phải trọng danh dự, để không ai khinh, để không nhục, để có thể nhìn thẳng vào mắt người sống mà không cúi đầu, không lạy lục, không van xin. Đôi khi thầy cho phép các môn sinh ra ngoài. Chúng tôi bay lượn khắp kinh kỳ, ngắm hoàng thành rực rỡ, nhìn mặt hồ Thiền Quang sóng khói phả từng giấc mơ. Nhìn những váng mưa phất qua thôn Liên Thủy, chao xuống hồ, như nước giao với nước, thành làn hơi thở mỏng của Tiểu Khanh thu vào từng lời hứa. Tôi say Tiểu Khanh. Say Thăng Long, say nét hoài cổ thắm sắc vàng. Tôi vẽ chân dung Tiểu Khanh lên giấy bảng. Vẽ từng lọn tóc, vẽ từng sợi, như chải tóc cho Tiểu Khanh. Vẽ ánh mắt nhu mì mà u hoài. Vẽ sóng mũi thanh của con gái Giao Châu. Vẽ chân mày hiếu học và khóe môi biết vâng lời thầy.
    Thăng Long rộn rã xe ngựa. Rộn rã phường tuồng. Rộn rã các vườn hoa Bình Than, Diên Hồng. Ngày ngày kép Dương Khương uốn éo với đào thương Dương Mẫu. Các hoàng thân mê đắm Dương Mẫu, đến nỗi Dương Mẫu có mang với Dương Khương vẫn được Cung túc vương Trần Nguyên Dục rước về. Rồi thánh thượng Trần Dụ Tông cũng đắm say với Dương Mẫu, phục chức cho Đỗ Tử Bình, đã bị truất vì tham ô, đồ làm đinh nhân, được thăng lên làm Hành khiển Nghệ An. Đó là ngày cát hung mà thầy An tức uất. Giận dữ vì điềm suy vi nhà Trần đã thấy rõ. Chưa bao giờ chúng tôi thấy thầy giận đến như vậy. Thầy không ngớt quát tháo, xỉ vả triều chính vô đạo.
    Đó là đêm thầy An thảo sớ. Chúng tôi rúc trên mái, bên trên thư phòng vắng vẻ của thầy An. Đêm thâu, vẫn nét chữ roi quất của một nho sĩ, có thể viết lên trời xanh, có thể viết xuống sông sâu, có thể ấn xuống huyệt đất thứ chữ của người quân tử. Vẫn nét chữ rắn của thầy An, rắn trên lá sớ mong manh, rắn tựa thầy lấy thép viết lên tàu lá chuối, để lá chuối ghi tấm lòng sắt son của thầy.
    Thầy quất bảy lần roi. Bảy lần thụy hiệu và tên cúng cơm của bảy nịnh thần hiện ra dưới vết đánh. Thầy hạ bút ký Văn Trinh Công. Không một do dự. Không một giọt mực thừa. Chúng tôi nín thở. Thư phòng lẫm liệt nét chữ. Tiểu Khanh siết lấy tay tôi sợ hãi. Chúng tôi hiểu, thầy đương đầu với xiểm nịnh. Mà xiểm nịnh trên đất nước này lúc nhúc, chúng cùng khắp. Chúng uy quyền và ngạo mạn. Chúng có thể đánh tàn tật bất kỳ kẻ nào. Chúng chỉ chờ dịp để giết thầy. Bắt thầy thú tội. Nhận tội phản triều đình. Chính chúng mới là kẻ có tội, song chúng tiếm danh vua, tiếm danh sơn hà. Chúng tôi thức đêm cuối cùng với thầy An ở Quốc Tử Giám.
  10. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0

    Bảy trăm năm sau, tôi hãy còn nhớ. Bảy trăm năm như một thời quán. Bảy trăm năm trôi vụt, mà những lời tâm huyết cuối cùng của Chu Văn An hãy còn vang trên mặt Thái hồ. Làm như thầy muốn mặt hồ phong phải giữ lấy dư âm, để lớp rêu ẩm, xanh rì, còn giữ được lời thầy. Truyền cho hậu thế. Để mai này hậu thế biết ngày xưa, ở Quốc Tử Giám, các tôn sư đã dạy học như thế nào. Văn Miếu, nơi thầy được tòng tự. Văn Miếu nơi tiếng thầy sang sảng: Chữ thầy là chữ thật. Lời thầy là lời thật. Thầy dạy sao, thầy sống vậy. Mai này ra làm quan phải nhớ lời thầy dạy. Tiếng Chu Văn An sang sảng, nghiêm khắc: Thầy dạy những gì, môn sinh đã biết. Cấm tham ô. Cấm cửa quyền. Thấy sai phải cất tiếng. Không trái với lương tri mình. Đó là những lời cuối, trước khi Văn Trinh Công rời Văn Miếu Môn.
    Thầy sẽ vĩnh viễn không bao giờ quay trở lại nữa, nơi thầy đã đào tạo biết bao môn sinh, biết bao khoa bảng, tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa? Thầy ra khỏi Văn Miếu khi trời đổ mưa. Buổi trưa ấy, nắng nhạt không đủ làm sáng mưa, nắng nhạt không sáng mặt người. Mưa cũng không đủ dội tắt nắng, giống lòng người buổi giao thời, không trông thấy rõ đâu là thiện, đâu là ác, không biết mưa hay nắng, chỉ trông thấy mái điện vàng ban áo gấm. Văn Trinh Công đứng đợi băng qua đường. Trông thầy già nua, nhỏ bé. Thầy cố giữ vạt áo thâm thật thẳng, cố giữ khăn nhiễu quấn chữ Nhất đừng lệch, cố giữ cốt cách của một vị thầy, và cố ôm trong lòng túi vải chứa lá sớ. Thầy ôm chặt túi vải vào mình, vì sợ ướt mưa, khiến chữ nhòe khiến sau này hậu thế không đọc được thụy hiệu của bảy nịnh thần. Thầy ôm chặt vào lòng, vì sợ chúng giật, trước khi lá sớ đến tay Trần Dụ Tông. Không phải vì thầy sợ Trần Dụ Tông không kịp đọc để phê duyệt, mà vì thầy muốn Trần Dụ Tông phải gánh lấy trách nhiệm. Vì thầy biết Trần Dụ Tông sẽ bất động. Sẽ liếc mắt rồi phê "Bất đệ." Không ngự lãm vì phạm lễ. Không ai được quyền dạy vua trảm thần. Thầy biết tất. Biết, nên thầy ôm chặt túi vải. Chúng có thể giật mất lá sớ rồi cho xe ngựa cán thầy. Chúng có thể xóa mọi vết tích mà thầy muốn hậu thế phải biết đến. Không phải quan triều nào cũng im lặng. Không phải nho gia nào cũng bán chữ thánh hiền. Còn Chu Văn An giữ tiết tháo.
    Chúng tôi lẩn quất sau lưng thầy. Núp sau bóng thầy với tất cả kinh sợ. Tiểu Khanh khóc vì biết thầy đương đầu với nguy hiểm. Không ai viết sớ xin chém kẻ cầm quyền, khi chính kẻ ấy giữ đao trong tay, chăn đồ tể. Vậy mà thầy viết. Vậy mà thầy đọc sớ trước mặt chúng. Chúng nham hiểm bao nhiêu trò, làm sao thầy thoát. Chúng tôi níu áo thầy. Khi cổng Cấm Đình hiện ra, thầy An lẳng lặng, quay lại dặn chúng tôi về thu xếp hành trang về núi Chí Linh. Nếu thầy không trở ra, cứ về mà ở. Nếu thầy trở ra, thầy sẽ cùng về. Thầy điềm đạm. Sự trầm tĩnh của một nho sĩ. Giống thầy đã sắp đặt hết. Vì thầy hiểu chỉ có những hồn âm thác oan mới theo thầy, vì chúng tôi không còn gì để mất. Thầy sắp đặt hết. Trảm đầu thầy thì Trần Dụ Tông càng thêm tội. Không trảm thì thầy phải tự phát vãng vì lũ nịnh thần sẽ hãm hại một khi thầy còn ở kinh sư. Chúng tôi khóc, van lạy thầy đừng dâng sớ. Thầy quắc mắt: "Nho sĩ chết không khóc. Chết phải giữ đạo." Rồi thầy dứt áo the thâm, bước vào Cấm Đình. Bước chân của một nho sĩ mang sự quyết liệt khẳng khái của một nho sĩ. Chúng tôi chỉ kịp nhìn thấy vạt áo thâm thẳng tắp giữa hàng sai nha. Giữa đám quan hoạn. Giữa cung phi diêm dúa. Đám đông hiếu kỳ vây quanh cổng. Các tiếng xì xầm bàn tán. Vọng lên dần thành tiếng xôn xao. Rồi cả kinh thành rúng động. Tin lan nhanh như làn nước: Văn Trinh Công dâng "Thất trảm sớ."
    *
    Khi về đã lạnh vườn xưa. Bảy trăm năm sau tôi còn nhớ, khi về, vườn lạnh băng. Thầy muốn hét to vào núi, muốn hét to vào xa vắng, muốn thả nước mắt rơi phương trời. Tôi nhớ, vì đã khảm vào não. Chúng tôi đã đợi cho đến khi vãng mặt trời. Mỗi tiếng trống phiên làm đám đông có rúm vì nghĩ trống tử hình. Mỗi tiếng chuông ngân làm đám đông nghẹn, úp mặt, vì nghĩ chuông trảm thủ cấp. Khát khô môi. Khát mặn lưỡi. Vì cắn dập môi. Cắn dập lưỡi. Trong lạnh toát sợ hãi. Trong xanh mướt hy vọng. Hy vọng thầy An thay đổi đất nước. Thay đổi đất nước đã tím bầm mặt. Nhưng Văn Trinh Công trở ra. Gương mặt thầy tuyệt vọng vì bất lực. Thầy đã hiểu thầy chỉ có thể lập đàn giải oan cho người chết, không thể giải oan cho người sống. Thầy đã hiểu một cá nhân thầy không thể vực dậy triều chính ngu muội. Thầy đã hiểu phải đi đến cùng phép tính của mình. Trần Dụ Tông phải gánh lấy phán xét của lịch sử. Chúng tôi về núi Chí Linh.
    Triều Trần rồi vụt qua như một làn gió. Đi ngược làn gió, chúng tôi gánh sách qua các dẫy phố kín cửa, cửa cái, cửa con đóng sập, để hiểu lòng người quay thoắt. Hương thu còn dậy ở Đồng Xuân mà cả một phiên chợ dừng bán. Chúng tôi lướt qua các tấm phản bất động và các chảo đậu rán ngừng sôi. Lướt qua thau bún lạnh tanh lũ ruồi. Đôi mắt chúng xanh to như hạt đỗ, nhìn chúng tôi trừng trừng. Chúng cợt nhả rồi bay tản từng đàn rình rập. Chúng là lũ phi liêm mọc cánh. "Đừng dây với Chu An" là tiếng chó sủa khi qua bến đò. Bóng tôi với Tiểu Khanh va vào nỗi đau tê tái vì thương thầy. Mới trưa kia ?oThất trảm sớ? làm chấn động, vì thầy lập thụy hiệu gian thần cho các quan đầu triều, nay đã bạc bẽo. Sách Dương Chu, Mặc Tử nặng vì chứa trong mình vũ trụ, sách Kinh Lễ của Khổng Phu nặng vì chứa phép làm người. Ngũ viên và Nhị thập triết khiến chúng tôi mất sức, phải cố gánh thật nhịp nhàng để theo kịp bước chân thầy. Bước chân của một nho sĩ nhẹ tênh, vì lòng không hổ thẹn.
    Tôi muốn nghĩ đến những điều đẹp đẽ. Sắc vân tím trên áo của Tiểu Khanh hay sắc trưa huyền quang khi chúng tôi trốn tiết Hiến Văn lẻn ra cửa Thành Đức, bên hông Văn Miếu, đi viếng cảnh chùa. Có nghe tiếng chuông Chiêu Thiền Tự ngân nga bến Yên Lãng rồi vang sang tận Hoài Đức trên tháp Quảng Nghiêm trước khi về lại Trấn Quốc mới hiểu vì sao chúng tôi thích giẫm lên tiếng đại hồng chung để gang bàn chân đỏ hồng những âm trầm. Tôi muốn nghĩ điều đẹp đẽ mà ký ức chứa bẽ bàng. Trương Hán Siêu gả con cho tù trưởng Nùng Ích Vấn xin đất, kết giao với quan hoạn Phạm Nghiêu Tư để xin chức Tham tri chính sự. Ký thệ tự với thầy, mà trưa thầy đọc sớ, Trương Hán Siêu cáo ốm không vào triều. Văn của một nho sĩ phải hiển lộng. Văn của Trương Hán Siêu chỉ lộng lẫy mà chưa phải bút Tả thanh thiên.
    Bảy trăm năm, bay ngược gió, tôi nghiền ngẫm. Phép tính của một nho sĩ giản dị: Quốc gia ở tính nhân, ở lòng chính trực. Lấy một thân thầy chống với thói gian tà, lấy một thân thầy cảnh cáo lương tri quốc dân. Thầy hiểu lượng vàng mua chuộc, bồ thóc nhấn chìm, chính vì vậy phải lấy một con người với hai tay trắng để chống với đám đông gậy gộc, để sự can đảm càng thêm can đảm, để sự tự tin càng thêm tự tin, và chân lý càng thêm sáng. Số đông bao giờ cũng thắng, nên phép tính lũy thừa của thầy thêm vào thời gian, vì sự chính trực khi lũy thừa thời gian của lòng người sẽ tiến đến vô cực. Từ một cực tiểu trở thành cực đại mà không một triều chính nào có thể hãm.
    Chu Văn An đã muốn hét to vào mai hậu, còn Cao Biền? Hắn muốn trở về đất này để trấn yểm thành Đại La thêm một lần nữa.
    Chu Văn An gửi cho hậu thế:

Chia sẻ trang này