1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Italia, Milan, Baggio and me (don't hurt me!)

Chủ đề trong 'Italy' bởi milanista_81, 05/08/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Vespa - Phong cách từ Italia
    Lần đầu tiên Vespa được cả thế giới biết đến là khi xuất hiện cùng với Audrey Hepburn và Gregory Peck - hai thần tượng điện ảnh - cùng nhau dạo chơi trên đường phố Rome trên một chiếc Vespa trong bộ phim ?oRoman Holiday? năm 1953.
    Piaggio, nhà sáng lập và sản xuất xe Vespa xâm nhập vào thị trường Anh lần đầu tiên vào năm 1992 khi ngành xe tay ga hiện đại của đảo quốc sương mù này chỉ mới ở trong giai đọan sơ khai. Năm ấy, Piaggio chỉ bán được vỏn vẹn 800 sản phẩm. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 5 năm, con số sản phẩm tiêu thụ hàng năm đã tăng vọt lên 4,850 và đến cuối năm 2005, sự tăng trưởng đã đạt đến hơn 350%, thể hiện qua hơn 22,000 xe được tiêu thụ.
    Sự tăng trưởng thần kỳ này có thể được xem là do Piaggio đã chọn một thời điểm chiến lược để thâm nhập thị trường Anh quốc, xét về cả mặt môi trường lẫn sự phát triển, nhờ vào phương thức tiếp cận của Piaggio trong tiếp thị sản phẩm và đặc biệt là nhờ vào thương hiệu Vespa.
    Piaggio đã nắm bắt được một xu thế mới: sự thay đổi trong nhu cầu của người tiêu dùng, xuất phát từ mật độ dân cư đô thị ngày càng dày đặc và giá cả của các phương tiện vận chuyển công cộng đang leo thang trong khi chất lượng lại đi xuống. Người dân bắt đầu đi tìm một phương tiện khác độc lập và đáng tin cậy hơn. Xe hơi không còn là một lựa chọn sáng suốt nữa vì không gian ngày càng trở nên chật hẹp và giá cả quá đắt đỏ.
    Nhờ nắm bắt được nhu cầu thiết thực này và nhận biết rằng khách hàng (đặc biệt là những người lái xe hơi) không muốn từ bỏ sự thoải mái cũng như sự thanh lịch trang nhã, Piaggio đã dẫn đầu trong cuộc cách mạng hoá xe tay ga, biến đây thành một phương tiện vận chuyển hữu dụng. Trong những thập niên vừa qua, thị trường xe ngày càng phát triển với tốc độ chóng mặt với người đi đầu không ai khác hơn là Piaggio. Hoàn toàn không có đối thủ, doanh thu của Piaggio liên tục tăng đều đặn năm này qua năm khác, và hiện tại đang chiếm 34% thị phần.
    Chỉ riêng tại Anh, khi phải đối mặt với những thứ cước phí thu cho xe hơi năm 2005 đã khiến người dân có xu thế đi tìm một phương tiện thay thế khác cho việc đi lại.
    Tạo dựng được một vị thế dẫn đầu trong tâm trí khách hàng chính là một mục tiêu lý tưởng mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng khao khát. Vespa là một hiện tượng thành công tiêu biểu mà rất nhiều hãng đã và đang tìm cách sao chép nhưng không thể nào đạt được một phần thành tích của Vespa. Kể từ khi mới được hình thành vào năm 1946, Vespa đã sớm tạo lập được cho mình một hình ảnh biểu tượng và được xem là một trong những đặc trưng của thời đại hiện nay.
    Với hơn 16 triệu xe được tiêu thụ kể từ năm 1946 cho đến nay, Vespa đã trở thành một hình ảnh quen thuộc mà ai trong chúng ta cũng có thể bắt gặp tại mọi ngõ đường và là một phần của cảnh quan đô thị. Vespa không chỉ đơn thuần cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm thiết thực nhưng còn tượng trưng cho một sự lựa chọn sáng suốt trong phong cách.
    Không chỉ là một trong những biểu tượng cho sự thanh lịch trên toàn thế giới, Vespa còn sớm đạt được sự công nhận này ngay từ sự khởi đầu khiêm tốn của mình. Trải qua biết bao thăng trầm thay đổi trong các xu thế thời trang trong suốt 60 năm qua, sức hút mãnh liệt của Vespa vẫn không hề suy giảm và càng làm tăng thêm uy tín cho thương hiệu Vespa. Ngày nay Vespa là biểu tượng của sự kết hợp hài hoà giữa phong cách thanh lịch cổ điển và nhịp sống hiện đại, hơn hẳn các thương hiệu khác. Bên cạnh đó, Vespa không chỉ đơn thuần thành công về mặt thương mại mà còn để lại những dấu ấn rất sâu đậm trong xã hội. Không một thương hiệu xe tay ga nào có khả năng so kè với Vespa về mặt hình tượng, vị thế cũng như mức độ được ngưỡng mộ.
    Vespa ra đời vào năm 1946, bắt nguồn từ ý tưởng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các phương tiện vận chuyển hiện đại với giá cả thích hợp tại Ý trong thời kỳ hậu chiến của Enrico Piaggio. Corradino D?TAscanio, kỹ sư hàng không thiết kế thành công chiếc máy bay trực thăng đầu tiên, được giao nhiệm vụ thiết kế một lọai xe tay ga với kiểu dáng đơn giản nhưng bền chắc, dành cho cả nam và nữ, không làm bẩn quần áo của người điều khiển xe và có thể chở thêm một người ngồi phía sau.
    Lọai xe này trước hết phải có giá cả vừa phải và tiện lợi - một sản phẩm dành cho tất cả mọi người và phải có khả năng vực Italy dậy sau sự tàn phá của chiến tranh Thế giới II. Và cũng chính những yếu tố ban đầu này - bộ khung kim loại, chỗ ngồi của 2 người, động cơ đơn giản - đã trở thành những tính cách không thể thiếu của các sản phẩm Vespa về sau và trở thành chuẩn mực để các lọai xe tay ga khác hình thành.
    Lần đầu tiên Vespa được cả thế giới biết đến là khi xuất hiện cùng với Audrey Hepburn và Gregory Peck - hai thần tượng điện ảnh - cùng nhau dạo chơi trên đường phố Rome trên một chiếc Vespa trong bộ phim ?oRoman Holiday? năm 1953. Thế là sau nhiều năm vô danh, Vespa bỗng chốc trở thành ?ongôi sao? thật sự trong thập niên 50 với hình ảnh cặp tình nhân cùng nhau dạo khắp phố phường với chiếc Vespa vốn cuốn hút trí tưởng tượng của biết bao khán giả màn bạc. Và khi Vespa trở thành sự lựa chọn của Mods (những thanh niên Anh thích cưỡi xe gắn máy và ăn mặc hợp thời trang trong thập niên 60), hình ảnh Vespa mang những nét cứng rắn hơn, với một chút mạo hiểm và nổi lọan. Kể từ đó, phong cách lãng mạn từ ?oRoman Holiday? và sự ngang ngạnh của trào lưu văn hóa Mod kết hợp với phong cách cổ điển của Italy đã tạo nên một phong cách Vespa đặc trưng được ưa chuộng cho đến ngày nay.
    Tính đến nay đã có khoảng 136 mẫu xe Vespa với nhiều đời khác nhau, mỗi loại đều có những nét đặc trưng riêng không thể nào sao chép được. Chiếc Vespa 125cc xuất xưởng năm 1948, chiếc 150 GS huyền thoại của năm 1955 và 1968 là một vài mẫu giúp là nổi bật sự vượt trội trong phong cách và kỹ thuật của thương hiệu Vespa.
    Hiện nay trên thị trường phần lớn có 3 mẫu xe Vespa: Vespa PX truyền thống, Vespa ET tự động và gần đây nhất là mẫu Vespa mới, có kích cỡ to nhất, và đạt vận tốc nhanh nhất với tên gọi Granturismo. Điểm chung của tất cả các sản phẩm này là chỉ ngay từ cái nhìn đầu tiên, người ta có thể gọi đích xác đây là một chiếc Vespa.
    Xuất hiện năm 1977, Vespa PX là hiện thân tiêu biểu của phong cách Vespa nguyên thuỷ với những chi tiết kỹ thuật vẫn được giữ nguyên như 25 năm về trước. Khi mới ra đời, Vespa PX đã bán ra khoảng 2 triệu chiếc và nhanh chóng trở thành sản phẩm được nhiều người với tâm trạng hoài cổ và cả giới trẻ ưa chuộng. Trên thực tế Vespa PX tại châu Âu được sản xuất nhằm nhắm đến khách hàng trong độ tuổi từ 18-34 trong đó số khách hàng trẻ từ 18-24 chiếm trên 30%. Đây là một điều thú vị đáng chú ý vì phần lớn những người khoảng 18-24 đều chưa chào đời khi chiếc PX được giới thiệu. Sức hút của PX nằm ở hộp số tay, kiểu dáng truyền thống và phong cách cổ điển.
    Loạt xe ET được xuất xưởng vào năm 1996, đánh dấu sinh nhật lần thứ 50 của Vespa. Được xem là phiên bản tự động và được cải tiến của loại PX với kiểu dáng dễ nhìn hơn, Vespa ET bao gồm ET2 50cc, và ET4 (chiếc Vespa đầu tiên với động cơ 4 thì) dưới dạng 50cc và 125cc. Tất cả các phiên bản khác đều sử dụng cơ cấu ?olên ga và chạy? làm cho người sử dụng có thể lái xe dễ dàng hơn. Loại ET rất được khách hàng nữ giới ưa chuộng, đặc biệt là tại Châu Âu (chiếm 30% tổng số) nhờ vào những đường cong duyên dáng trong thiết kế, kích cỡ nhỏ và cực kỳ tiện dụng. Đây là loại xe lý tưởng dành cho những ai ưa thích những kiểu xe gắn máy dễ điều khiển nhưng vẫn đảm bảo chuyển tải được thông điệp về phong cách.
    Được giới thiệu vào năm 2003, Vespa Granturismo là thành viên mới nhất trong gia đình Vespa và nhanh chóng tìm được chỗ đứng cho mình bên cạnh Vespa PX và ET. Granturismo có loại 125cc và 200cc với bộ truyền tự động. Vespa Granturismo là loại xe tối tân nhất và mạnh nhất mà Piaggio từng sản xuất.
    Sự xuất hiện của Granturismo đã góp phần mở rộng sản phẩm của Vespa sang các loại xe tay ga hiện đại hàng đầu mang thương hiệu Vespa. Đây là lần đầu tiên kể từ khi Piaggio ngừng sản xuất xe Primavera vào năm 1983, Vespa lại có đầy đủ 3 loại xe trên thị trường.
    Granturismo cũng góp phần vào việc tạo ra một sản phẩm mới trên thị trường, có thể nói, đây là cầu nối giữa loại xe tay ga to và xe tay ga truyền thống, đáp ứng được nhu cầu cao về loại xe tiện dụng, thoải mái và chất lượng cao trong khi vẫn đảm bảo thông điệp về phong cách.
    Cửa hàng thời trang Vespa được xây dựng vào năm 2003 với các loại trang phục và phụ kiện càng tạo điều kiện cho khách hàng tiếp xúc gần gũi hơn với thương hiệu Vespa. Bên cạnh các loại xe tay ga, những vật gì mang nhãn Vespa giờ đây đều được xem là có chất lượng cao với phong cách trang nhã được thể hiện qua thiết kế.
    PR là công cụ hữu hiệu và được Piaggio đặc biệt tin dùng trong việc quảng bá cho thương hiệu Vespa như một phụ kiện không thể thiếu của phong cách thanh lịch của người thành thị. Bằng cách thiết lập tên tuổi Vespa song song với danh tiếng của các ngôi sao nổi tiếng và nhắm đến các tạp chí thời trang hơn là chú trọng vào việc xuất hiện trong các trang tạp chí xe máy hay tạp chí chuyên ngành, Vespa thật sự trở thành một từ đồng nghĩa với sự thanh lịch và thời trang.
    Trong vài năm qua, Vespa đã hợp tác chặt chẽ với các nhà thiết kế thời trang nổi tiếng thế giới, những người đã dành ra không ít thời gian quý báu để tự thiết kế nên chiếc Vespa mang phong cách riêng của mình, trong đó có các tên tuổi sáng chói như Dolce & Gabanna, Julien Macdonald (của Givenchy), Vivienne Westwood, Donna Karan, Jimmy Choo và Joshep.
    Không chỉ nổi tiếng trong ngành thời trang, Vespa còn có rất nhiều ?ofan? trung thành là những ngôi sao giải trí khác. Năm 2001, Vespa giành được giải thưởng PR cho ?oHoạt động Khuyến thị thành công nhất? dành cho dự án Art Vespa. Tám gương mặt ưu tú của nước Anh trong đó có David Bailey, Simon Le Bon và Jasper Conran đều góp mặt chung với chiếc Vespa cổ điển. Chiếc xe này đã được trưng bày tại Sotheby 2 tuần truớc khi được đưa ra bán đấu giá vì mục đích từ thiện.
    Sự bảo trợ của các ngôi sao cũng là một trong những hoạt động định vị của Vesa với những tên tuổi sáng giá như nữ diễn viên đã từng đoạt giải Oscar Gwyneth Paltrow và phu quân Chris Martin, ca sĩ chính của ban nhạc Coldplay, Laura Bailey, Jonathan Ross và Jemma Kidd, những người hay được bắt gặp đang dạo quanh thành phố Luân Đôn trên chiếc Vespa sang trọng của mình.
    Kể từ ngày đầu tiên ra đời Vespa đã được nhìn nhận là một biểu tượng của sự quý phái theo phong cách cổ điển, chứ không chỉ là một chiếc xe tay ga thông thường. Vespa tượng trưng cho một cá tính và phong cách sống đặc biệt được khách hàng đam mê - sự phiêu lưu pha phong cách thanh lịch nhưng giản dị - và gợi lên cảm giác ngọt ngào lãng mạn như trong các bộ phim kinh điển như ?oRoman Holiday? và ?oLa Dolce Vita?.
  2. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Robertino Loreti - ca sĩ thần đồng Italia của thập niên 60
    Ngày nay, đã hơn 40 năm trôi qua, người ta cũng đã thay đổi nhiều mốt âm nhạc ,cũng trong ngần ấy thời gian chúng ta cũng đuợc biết đến rất nhiều ca sĩ nổi tiếng mới ,nhưng Robertino vẫn được mọi người nhớ mãi như một ánh hào quang rực rỡ, những kỉ niệm không thể nào quên về giọng hát thần đồng của một cậu bé người Ý đã làm rung động hàng triệu con tim .
    Robertino Loreti sinh ngày 22 tháng 10 năm 1947 tại Roma -Italia trong một gia đình có tám người con. Ngay từ thưở ấu thơ anh đã bộc lộ một niềm say mê âm nhạc. Giọng hát của anh trong trẻo tuyệt vời. Nhưng để được học hành nghiêm túc thì cần phải có tiền mà ở gia đình anh thì không thể có. Khi cha anh lâm bệnh, cả gia đình anh phải sống trong sự thiếu thốn, Robertino cùng con đường âm nhạc của anh đi vào bế tắc. Trong những năm tháng khó khăn Robertino phải đi làm thêm ở một số tiệm bánh mì ở Roma và hát ở một số quán cà phê và lập tức được mọi người chú ý bởi giọng hát trẻ trung mà vô cùng điêu luyện. Một ông chủ hãng đĩa hát của Đan Mạch đã mời anh sang Copenhagen đĩa thu đĩa và phát hành, Robertino đã tiến xa hơn và nhanh chóng trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng. Đĩa hát của anh được phát hành khắp nơi .Những hợp đồng biểu diễn, ghi âm, quay phim, chụp ảnh cùng những lời tán tụng về cậu - một ca sĩ tuyệt vời người Ý bay đi khắp thế giới.
    Những chiếc đĩa hát nhựa của Robertino đã có mặt ở nước ta ngay từ những năm sáu mươi. Đó là đĩa do những sinh viên Việt Nam sang Liên Xô và các nước Đông Âu học mang về .Nhiều người yêu mến giọng hát tenor trong trẻo, khoẻ khoắn nhưng lại pha một chút mảnh mai dễ thương của cậu bé 13 tuổi ấy đến độ bây giờ khi tìm lại trong kí ức còn tự coi mình là thế hệ "Robertino".
    Robertino đã hát, hát và hát không nghỉ. Hát đến hết sức lực mình và thật không ngờ, do biểu diễn quá sức nên anh đã bị mất giọng.Anh bị mổ và phải trở về nước. Cũng may mắn thay, sức khoẻ mau chóng hồi phục nhưng giọng hát thần đồng trong trẻo đã vĩnh viễn mất đi.
    Ngày nay, tên tuổi của anh ít được biết đến hơn xưa ngay cả trên quê hương Italia, nhưng hình ảnh và giọng hát của anh mỗi khi được nhắc đến lại là một kỉ niệm hết sức tuyệt vời về một thần đồng ca hát đã làm xao động bao trái tim giới yêu nghệ thuật toàn thế giới.
  3. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Milanello ?" Trung tâm huấn luyện của AC Milan
    Nhắc đến AC Milan, không thể không đề cập đến Milanello ?" khu tập luyện của đội bóng và hơn hết, đây là nơi ươm mầm những tài năng. Baresi, Maldini, Costacurta? đã trưởng thành từ đây và chắc chắn trong tương lai sẽ còn nhiều ngôi sao khác gắn bó và tỏa sáng cùng Milan.
    Trung tâm được thành lập năm 1962, là trung tâm thứ nhì được xây dựng sau trung tâm huấn luyện của đội tuyển quốc gia Italia. Công cuộc xây dựng rất hoàn hảo nên từ đó chưa phải thực hiện những tu chỉnh lớn. Khi ngài Berlusconi đến với AC Milan, trung tâm chỉ cần phải tăng thêm những tiện nghi cho cầu thủ.
    Các cầu thủ của trung tâm đến từ khắp nước Ý. Mỗi chủ nhật có 80 quan sát viên có mặt tại các sân đấu để tìm kiếm những tài năng trẻ. Họ phải báo cáo thường xuyên cho Ariedo Braida ?" giám đốc thể thao. Và muốn vào trung tâm, các cầu thủ trẻ này, dĩ nhiên phải hay hơn các cầu thủ đang theo học và tập luyện tại đây. Hàng năm trung tâm tiến hành thử nghiệm hơn 500 cầu thủ, nhưng không phải tất cả trong số này đều được giữ lại trung tâm. Milanello tổ chức những cuộc thực tập để phát hiện tài năng ở rất nhiều nơi trên toàn nước Ý: Roma, Verona, Florence và trong những năm gần đây trung tâm đã mở rộng đối tượng tìm kiếm của mình ra khỏi lãnh thổ Italia, sang châu Phi. Trung tâm đứng ra tổ chức các cuộc thi đấu nhỏ, nhất là vào mùa xuân để thử nghiệm các cầu thủ trẻ. Các cầu thủ này được cho đấu với các đội bóng của Milan trong dịp lễ phục sinh để trải qua những thử thách phụ. Những cầu thủ thể hiện được mình sẽ có cơ may gia nhập trung tâm.
    Các học viên của Milanello đều tiếp tục con đường học vấn cho dù họ có trình độ nào đi nữa. Theo mong muốn của ngài chủ tịch Berlusconi thì Milan phải đào tạo không chỉ những cầu thủ bóng đá mà còn đào tạo họ như những con người. Điều này lý giải vì sao đa số các cầu thủ Milan đều có thái độ rất đúng mực, rất lịch lãm và rất thành công trong các lĩnh vực ngoài sân cỏ. Không ít trong số họ tiếp tục ở lại đội bóng trên các cương vị khác nhau và thậm chí họ là những nhà quản lý không tồi, đó là Baresi, Tassotti, Leonardo? Việc trang bị kiến thức cho các học viên ở Milanello là rất nhân đạo vì không phải tất cả trong số họ có thể tiếp tục theo đuổi sự nghiệp cầu thủ, họ cần được chuẩn bị tất cả cho tương lai. Gần giống như ở các trường học, mùa tập huấn ở đây bắt đầu vào tháng 8. Đúng vào học kỳ, ngày làm việc sẽ rất dài. Các học viên sẽ thức dậy vào lúc 6h45; dùng điểm tâm lúc 7h10; lên xe bus và đến trường lúc 7h30; trở lại trung tâm lúc 13h30; dùng bữa ăn nhẹ trước khi tập luyện lúc 15h; tập luyện đến 18h; 18h30 dùng bữa tối. Sau đó các học viên phải học thêm với các giáo sư được mời đến để giúp họ vượt qua sự trậm trễ trong học vấn. Họ sẽ đi ngủ lúc 10h.
    Về tổ chức giải trí cho học viên, người ta thường gọi trung tâm này là ?ochiếc ***g mạ vàng? vì học viên được hưởng nhiều sự tự do. Họ cần biết đời sống bên ngoài diễn ra như thế nào, đó không đơn thuần là để giải trí, nó giúp các cầu thủ trẻ có được sự thăng bằng. Ở Milan hầu như không có trường hợp các cầu thủ sa ngã, nghiện ngập vì họ được giáo dục tốt và được đặt trong một môi trường mà cha mẹ họ hoàn toàn có thể yên tâm. Đôi khi sau các trận đấu, một vài học viên ở không xa trung tâm có thể về thăm gia đình, số khác thì cơ hội đó có thể ít hơn. Những người có trách nhiệm ở trung tâm cho rằng việc các học viên có thể thường xuyên trở về với gia đình là rất quan trọng, điều này giúp cho việc giáo dục học viên toàn diện hơn và học viên sẽ ít bị căng thẳng hơn. Các cầu thủ trẻ phần lớn sẽ được đem đi cho mượn khi chưa thực sự chứng tỏ được mình. Điểm đến của họ thường là Monza ở Serie C, cũng thuộc sở hữu của ngài Berlusconi, đây cũng là một trung tâm tập luyện rất tốt và đặc biệt là rất gần trường đua Công Thức I nổi tiếng ?" trường đua Monza. Họ cũng có thể sẽ được cho các CLB hạng thấp mượn hoặc được đưa đi nước ngoài theo các chương trình hợp tác quốc tế của CLB AC Milan.
    Khi 18 tuổi, họ được ký hợp đồng với thời hạn 1 năm. Họ được hưởng 4000 franc do Milan trả kể cả với các cầu thủ đang đá cho CLB khác, điều quan trọng nhất là họ được giữ ở trạng thái hoạt động ?" được chơi bóng. Kế tiếp họ ký hợp đồng với một CLB khác với mức lương 17.250 franc mỗi tháng, nhưng trung tâm vẫn giữ quyền ưu tiên với các cầu thủ này. Trong một hay hai năm, họ vẫn thuộc tài sản của AC Milan. Ngày nay, điều này rất phổ biến tại các đội bóng lớn ở Ý, Juventus là CLB thường xuyên sử dụng và sử dụng rất thành công hình thức ?ođồng sở hữu cầu thủ?.
    Tất cả quy trình trên đây thể hiện tính chọn lọc rất tàn nhẫn của bóng đá chuyên nghiệp nói riêng và cuộc sống nói chung: hoặc là sống sót để trở thành ngôi sao, hoặc không là gì cả. Theo những người quản lý Milanello, họ luôn nhắc nhở các học viên về điều này. Khi các học viên bắt đầu nhập học, người ta nói ngay: ?oCc cậu đang ở Milan, nhưng không phải đã đến đích, tất cả mới chỉ bắt đầu mà thôi?. Chỉ có khoảng 1% học viên có thể trở thành cầu thủ hay (tức là có thể thi đấu và trụ vững tại Serie A). Nếu cứ hai năm có một cầu thủ được một đội bóng nhà nghề tuyển dụng thì các nhà quản lý trung tâm đã có thể coi đó là một con số chấp nhận được. Và rất ít trong số này sẽ trở thành cầu thủ ở đội I Milan, nhất là kể từ khi điều luật Bosman có hiệu lực. Trong đội hình hiện tại của Milan, cầu thủ gần đây nhất trưởng thành từ Milanello là Marco Borriello, hy vọng anh sẽ thể hiện được tài năng và gắn bó lâu dài với Milan. Tất nhiên, đối với mọi học viên luôn hiện hữu một ?otinh thần Milan?. Họ đá bóng cùng một cách như đội I của Milan. Ông Berlusconi yêu cầu các đội bóng phải thi đấu cùng với một tinh thần như nhau: cống hiến và quyết tâm; không bao giờ lùi bước. Họ cũng được truyền lại phong thái của đội bóng nằm tại kinh đô thời trang; luôn mặc áo sơ mi, thắt cà vạt khi phải di chuyển tới đâu đó. Hẳn là với bất cứ cầu thủ nào từng có cơ hội tập luyện tại trung tâm, họ không chỉ biết cách phải xử lý ra sao với trái bóng trên sân mà còn biết cách làm thế nào để trở thành một người đàn ông đứng đắn và hào hoa.
  4. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Hệ thống giáo dục Italia
    Hiện Italia có khoảng 76 trường ĐH, trong đó có 51 trường ĐH quốc lập phân bố trên toàn quốc. Các trường ĐH sẽ chứng nhận cho SV theo chương trình học đa dạng mà SV lựa chọn như GD phổ thông và GD bậc cao ở Italia đang trong thời kỳ thay đổi nhằm thoát khỏi sự quá tải của hệ thống. Những thay đổi này không chỉ nhằm đưa nền GD Italia sánh cùng với các nước trong cộng đồng châu Âu mà còn tạo ra một hệ thống GD linh hoạt hơn cho HS nước này.
    Trường mẫu giáo dành cho trẻ em từ 3 đến 6 tuổi. Tuy các trường này không bắt buộc đối với tất cả HS nhưng nó được coi là bước đầu tiên trong hệ thống GD. Số trẻ em Italia học mẫu giáo đang tăng và hiện nay có khoảng 96% trẻ em từ độ tuổi 3-5 đang học tại các trường mẫu giáo quốc lập và dân lập. Trong thời gian này, GV có nhiệm vụ cải thiện các kỹ năng cho trẻ em về tính sáng tạo, giao tiếp xã hội, tính tự lập và phương pháp học tập. Mỗi trường mẫu giáo được chia làm 3 nhóm, trẻ em ở cùng độ tuổi với nhau sẽ được học cùng một nhóm và mỗi nhóm không được quá 25 em.
    Do chính sách đổi mới, kể từ năm 2000, các bậc phụ huynh có thể lựa chọn chương trình học và thời gian học cho con em mình.
    Bậc tiểu học (bắt buộc) dành cho trẻ em từ 6 đến 11 tuổi. Tuy nhiên, hệ thống GD Italia đang có sự cải cách và có thể độ tuổi học TH của HS là từ 6 đến 13 tuổi. Hoạt động của các trường TH quốc lập phải tuân theo các điều lệ chung và được áp dụng trên toàn quốc.
    Tuy vậy, sự khác biệt giữa các trường lại được xác định bằng số HS, số lớp học và thời gian giảng dạy, ví dụ như modun dạy 27 giờ hoặc 30 giờ một tuần, hoặc thậm chí 40 giờ một tuần. Italia có cả trường TH quốc lập và dân lập.
    Các môn học được dạy trong trường TH là: tiếng Italia, ngoại ngữ, toán, khoa học, lịch sử, địa lý, các môn xã hội, mỹ thuật, nhạc, thể dục, tôn giáo (đây là môn lựa chọn và các gia đình có quyền quyết định có đưa nó vào chương trình học cho con mình không). Cuối lớp 5, HS sẽ tham dự kỳ thi tốt nghiệp TH (esami di licenza elementare) - kỳ thi gồm bài thi viết và thi vấn đáp - để đủ tiêu chuẩn tiếp tục học tại các trường THCS.
    Trường trung học của Italia được chia thành trường THCS và THPT. Bậc THCS gồm các trường chia thành 4 lĩnh vực: cổ điển, khoa học, công nghệ kỹ thuật và nghệ thuật. Trung bình, thời gian giảng dạy cho HS ở đây là 30 giờ một tuần. Vào lớp cuối cấp THCS, HS sẽ tham dự kỳ thi tốt nghiệp bao gồm 3 môn thi viết: tiếng Italia, Toán, một ngoại ngữ và một bài thi vấn đáp về nhiều môn học khác.
    Sau khi tốt nghiệp THCS, HS sẽ được vào học ở bậc THPT, HS có thể tham dự chương trình học kéo dài 3, 4 hoặc 5 năm tuỳ theo ngành học mình lựa chọn. Tuy nhiên, ở bậc THPT này, chỉ có năm thứ nhất là bắt buộc đối với mọi HS. Hoặc một HS cũng được coi là hoàn thành chương trình phổ thông bắt buộc nếu HS đó đủ 15 tuổi và đã đi học được ít nhất 9 năm phổ thông.
    Chương trình học của bậc THPT được chia làm 4 nhóm ngành: Ngành thứ nhất quan tâm tới các môn học cổ điển khoa học và sư phạm; ngành thứ hai về nghệ thuật; ngành thứ 3 là kỹ thuật và cuối cùng là học nghề. Sau khi vượt qua kỳ thi tốt nghiệp PTTH mang tên esame di stato bao gồm 3 bài thi viết và 1 bài thi vấn đáp, tất cả HS sẽ được nhận bằng tốt nghiệp.
    Sau khi hoàn thành bậc PTTH, HS có thể lựa chọn các con đường sau:
    Tham dự các khoá học nghề: Các nơi trong cả nước đều tổ chức các khoá học nghề cho HS tốt nghiệp PTTH với mục đích giúp HS ứng dụng những gì đã học vào thực tế, theo yêu cầu của thị trường lao động. Kết thúc các khoá học, HS cũng phải qua các bài kiểm tra về những kỹ năng đã đạt được và nhận chứng chỉ để xin việc.
    Theo học tại các trường kỹ thuật: Các trường này thu nhận cả HS tốt nghiệp PTTH và những người lớn đang đi làm với mục đích đào tạo nghề một cách chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất, cung cấp nguồn nhân lực cho các công ty vừa và nhỏ. Sau khi hoàn thành chương trình học, học viên được nhận các tín chỉ có giá trị trên toàn quốc.
    Học tại các học viện: Đây thường là các học viện nghệ thuật như học viện âm nhạc, khiêu vũ? mỗi học viện có cấu trúc riêng theo chuyên ngành mà mình đào tạo.
    Vào đại học: Hiện Italia có khoảng 76 trường ĐH, trong đó có 51 trường ĐH quốc lập phân bố trên toàn quốc. Các trường ĐH sẽ chứng nhận cho SV theo chương trình học mà SV lựa chọn như: SV sau khi hoàn thành khoá học dài từ 2 đến 3 năm sẽ nhận được bằng Diploma Universitario. Đây là loại văn bằng bắt đầu được đưa ra năm 1990 với mục đích giúp các trường ĐH Italia theo kịp các khoá học ngắn hạn của cộng đồng chung châu Âu; Bằng Diploma di Laurea dành cho khoá học kéo dài từ 4 đến 6 năm; Bằng chuyên sâu Diplopma di Specialista cho khoá học kéo dài ít nhất 2 năm với mục đích đào tạo các chuyên gia cho các lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu; Những nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ nghiên cứu ít nhất 3 năm sẽ nhận được bằng Dottorato di Ricerca.
    Để có đủ điều kiện vào học ở các chương trình trên, SV phải đáp ứng được một số yêu cầu như vượt qua các kỳ thi và có những khả năng được các tổ chức uy tín công nhận.
    Các trường ĐH ở Italia cung cấp các khoá học theo 5 lĩnh vực chính là: y tế; khoa học kỹ thuật; nhân văn; luật pháp, chính trị, khoa học xã hội, kinh tế và lĩnh vực xây dựng kiến trúc.
  5. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Milan - Lazio: 2-1
    Ra sân với đội hình 4-3-1-2 quen thuộc, với cặp tấn công Gila và Pippo, Milan vào cuộc khá chậm rãi, chính điều đó đã khiến cho thế trận những phút ban đầu có vẻ nghiêng về Lazio với một số pha tấn công khá nguy hiểm. Tuy nhiên Pandev và Rocchi đã không tận dụng được những pha bóng khá hớ hênh của hàng phòng ngự Milan, với cặp trung vệ mới trở lại từ chấn thương Nesta và Maldini. Milan có vẻ như muốn đá chậm để bắt nhịp dần dần trận đấu, và những phút ban đầu của hiệp 1, những đường tấn công của Milan đều là bóng dài, tận dụng tối đa sự lên bóng của Serginho và Cafu ở hai cánh để tạt bóng, tuy nhiên lối chơi ấy tỏ ra không có hiệu quả ngoài vài pha uy hiếp khung thành Peruzzi.
    Tuy nhiên diễn biến khá buồn tẻ của trận đấu đã thay đổi ở phút thứ 27, trong một tình huống tấn công trung lộ, Kaka chuyền bóng cho Pippo ở vòng cấm và anh xoay trở khá thoải mái tung cú sút chéo góc hạ Peruzzi mở tỉ số cho trận đấu. Nhiệt huyết, khát khao của Pippo vẫn còn nguyên vẹn ở tuổi 33 và sự xông xáo của anh đã giúp Milan có được bàn thắng đầu tiên của mùa bóng mới. Mặc dù dẫn trước nhưng Milan dường như không có ý định đẩy cao tốc độ trận đấu trong thời điểm đang "khởi động" và việc tấn công có vẻ hời hợt đã không giúp Milan có thêm được bàn thắng. Trong hiệp đấu này Lazio có một số thời điểm chơi lấn lướt Milan nhưng họ không dám và không đủ lực để dố toàn lực tấn công và việc để Milan ghi bàn dẫn trước đã khiến việc triển khai ý đồ chiến thuật của Delio Rossi càng khó khăn hơn.
    Hiệp 2 của trận đấu đã diễn ra sôi nổi hơn rất nhiều, khi Milan bắt đầu tăng tốc. Những pha tấn công trực diện và biến hoá từ phía cánh trái đã khiến cho khung thành của Peruzzi luôn ở trong tình trạng báo động, và cơ hội rõ ràng nhất của Milan ngay ở những phút đầu tiên ở hiệp 2(phút 47) khi Pirlo phá bẫy việt vị đối mặt với Peruzzi nhưng anh đã kết thúc không thành công. Thế trận hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của Milan nhờ hàng tiền vệ cơ động và kỹ thuật hơn, gồm Brocchi, Seedorf, Pirlo, Kaka, trong khi cả Ledesma và Mudingayi của Lazio chỉ biết chăm chăm phòng ngự cản phá lối chơi của Milan.
    Những diễn biến hay nhất của trận đấu là khi Oliveira vào sân thay Gilardino, người đã có một trận đấu tồi tệ, không một lần sút bóng vào cầu môn, vật vờ như một bóng ma. Ngay ở pha chạm bóng đầu tiên, Oliveira đã phối hợp với Kaka xé toang hàng phòng ngự của Lazio, nhưng tiếc là cú sút của Kaka bị hậu vệ Siviglia cản phá. Phút 70, chỉ sau 8 phút có mặt trên sân Oliveira đã khiến cả San Siro vỡ oà với pha đánh đầu hạ gục Peruzzi từ quả phạt góc của Seedorf, một màn ra mắt quá ấn tượng. Không những thế nếu như may mắn hơn Oliveira đã có thể có hattrick ngay ở trận đầu tiên, phút thứ 81 pha độc diễn của anh qua cả cặp trung vệ Cribari và Siviglia đã giúp anh có cơ hội đối mặt với Peruzzi nhưng pha xỉa bóng đã không thành bàn thắng, tuy nhiên bấy nhiêu đó cũng đã chứng tỏ khả năng kỹ thuật tuyệt vời của tân binh này.
    Lazio đã rút ngắn cách biệt 1-2 ở phút thứ 73 do sự mất tập trung trong hàng phòng ngự của Milan, khi để Rocchi thoải mái thoát xuống căng ngang để Makinwa(vào sân thay Pandev ở hiệp 2) ghi bàn. Trong trận đấu này, hàng phòng ngự của Milan đã thi đấu không thành công, khi liên tục mắc lỗi vị trí để cho các cầu thủ Lazio sút bóng, may mắn là những tình huống ấy không quá nguy hiểm. Nếu những phút cuối không có tình huống Cafu phá bóng ngay trong chân của Rocchi đang đối mặt với Dida, không biết điều gì sẽ xảy ra. Đây chính là nỗi lo lớn nhất của Milan sau trận đấu này, vẫn biết Nesta và Maldini chỉ mới trở lại với chấn thương và chưa bắt kịp được nhịp độ trận đấu, hi vọng sự trở lại của Kaladze trong thời gian tới sẽ qiải quyết được.
    Milan đã có một chiến thắng sít sao, một thứ thuốc bổ sau cơn khủng hoảng. Oliviera đã có một sự khởi đầu tuyệt vời và hi vọng anh sẽ tiếp tục duy trì phong độ cao này trong chặng đường hứa hẹn còn nhiều chông gai phía trước, dù sao ẩn số bây giờ đã có lời giải, và các hậu vệ ở Serie A sẽ để mắt tới anh nhiều hơn. Điểm số giờ là -5 và hi vọng chiếc Ferrari- Milan, sẽ tăng tốc và vượt qua Inter...
  6. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Cố cung và Tân cung của Firenze
    Cố cung là tượng trưng của toà thị chính Firenze. Cố cung được xây dựng vào năm 1299, vào thế kỉ 16, cố cung là hoàng cung của Medici I. Sau khi xây xong tân cung, Medici I mới chuyển hoàng cung về tân cung. Sang TK 19, cố cung là hội trường quốc hội Ý, hiện nay là toà thị chính Firenze.
    Bước vào cung điện đầy màu sắc trung thế kỉ của Ý, đầu tiên, người ta nhìn thấy đài phun nước ở giữa sân hình vuông do Verrocchio thiết kế và xây dựng năm 1476, một em bé ôm con cá trên một trụ cao ba tầng bằng đá trông rất hoạt bát. Bốn góc sân có những cột to bằng đá cẩm thạch,trên cột là những phù điêu tinh xảo. Các cây cỏ được trồng theo bảng vẽ, các bức tranh sơn dầu ở tường bao quanh khiến cái sân được tô đẹp đẽ trân trọng.
    Bước qua bật thềm từ sân, người ta có thể vào đại sảnh của cố cung. Đại sảnh do Cronaca thiết kế xây dựng năm 1495 có sức chứa 500 người, ở đây người ta có thể nhìn thấy bức tranh lớn về chiến tranh, bức phù điêu "Thần phù hộ thắng lợi" của Michelangelo. Đại sảnh cố cung được trang hoàng bằng hội hoạ và điêu khắc đã trở thành một cung điện nghệ thuật, các cửa kính vòm, các bức điêu khắc sinh động, các bức tranh sơn dầu trên trần ở đây đều hiện ra rất cao quý đẹp đẽ.
    Trên tầng 2, có phòng ở của vợ vua Medici I, có đại sảnh được điểm trang bằng ngọc, có đại sảnh để bản đồ và bản đồ hàng hải. Ra khỏi cố cung, ta thấy tháp và cố cung hiên ngang trong nắng chiều ở Firenze và ý tưởng sáng tạo đầu tiên của Arnof sống mãi với Firenze.
    Tân cung còn gọi là cung Pitti ở bên bờ nam sông Arno là một công trình kiến trúc có vườn hoa mô phỏng kiểu La Mã cổ. Tân cung do Pitti, một doanh nhân lớn ngành ngân hàng TK 15 ở Firenze xây dựng. Lúc đó, Pitti xây cung điện kiểu vườn hoa này để chứng tỏ sự giàu có tiền bạc của mình ngang ngửa với gia tộc Medici. Nhà thiết kế đầu tiên là Brunelleschi, đang xây phải bỏ dở vì Pitti bị phá sản. Sau 1 thế kỷ, Medici I mua lại và cho xây mở rộng. Năm 1550 Medici và vợ dọn về Tân cung - Cung Pitti
    So với các cung điện khác của Ý, cung Pitti có ma lực độc đáo. Dưới ánh nắng cảu các đường viền lồi lõm,cấc nét dọc ngang nhẹ nhàng của cung điện hiện ra rất tao nhã,hoành tráng.Vườn hoa phía sau cũng đặc biết,hàng rào bằng thép trổ hoa, tượng cẩm thạch, chậu cảnh lớn, bể nước... đã tạo nên cảnh hài hoà thơ mộng đẹp như tranh vẽ.
    Đến TK 18, cung Pitti lại được tu sửa, các tác phẩm nghệ thuật gia đình Medici sưu tầm được đem ra cho mọi ngwưòi chiêm ngưỡng, viện mĩ thuật Paratina nổi danh thế giới được đạt trong cung Pitti. Người ta có thể thưởng thức các kiệt tác mà gia đình Medici đã lưu giữ như bức tranh Raphael vẽ năm 1516 ở Roma: "Đúc thánh mẫu ngồi ghế tựa", "Phụ nữ che mạng", "Đức thánh mẫu công tước".
    Cung Pitti có nhiều đại sảnh nghệ thuật đặc sắc. Trong đại sảnh bệ ngọc có bệ ngọc mà Medici I đã ngồi.Trong đại sảnh Satuno có thảm treo tường hoa lệ, có đèn treo tinh xảo, có rèm che sang trọng, có bình phong chạm trổ.
  7. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Marco Polo và con đường tơ lụa
    Trong thời Trung Cổ, không một người châu Âu nào đã đi du lịch qua phía đông quá xa như Marco Polo và đã mang về các tin tức của một xứ sở xa lạ là nước Trung Hoa. Cuộc viễn du của Marco Polo đã đóng góp vào sự hiểu biết của người tây phương về châu Á, mở ra các đối thoại và mậu dịch với châu Á, giúp công vào việc làm giầu cho xứ Venice cùng các thành phố khác của nước Ý nhờ đó Thời Phục Hưng đã phát triển.
    Marco Polo không phải là người châu Âu đầu tiên tới được Bắc Kinh nhưng là người đầu tiên mô tả từng chi tiết về các cung điện, lối sống và triều đình của Đại Hãn nhà Nguyên tại Bắc Kinh, người đầu tiên nói về các miền đất Java, Sumatra, Thái Lan và Miến Điện. Sự giàu có của nước Trung Hoa vào thế kỷ 14 đã là điều nghi ngờ và mơ ước của các người tây phương, họ hỏi làm sao tới được miền đất trù phú đó, nếu không bằng đường bộ thì bằng đường biển. Marco Polo đã trải qua 24 năm tại một thế giới xa lạ và còn bí ẩn đối với người châu Âu, sự bí ẩn giống như của các hành tinh đối với chúng ta ngày nay. Câu chuyện kể của Marco Polo về nước Trung Hoa được coi là một loại huyền thoại và trong 200 năm, cuốn sách "Mô tả về Thế Giới" của ông đã là nguồn tin tức chính về một xứ phương đông chưa được biết tới.
    1/ Chuyến đi buôn của người cha, Nicolo Polo.
    Vào thế kỷ 13, châu Âu đã trải qua Thời Kỳ Đen Tối (the Dark Ages) và cô lập, chuyển sang giai đoạn phát triển về thương mại và chiến tranh với vùng Cận Đông. Dân chúng của châu Âu gia tăng, các thành phố bắt đầu mở rộng khiến cho có nhu cầu về hàng hóa. Vào thời đại đó, các nhà quý tộc thường khinh rẻ ngành buôn bán nên đã xuất hiện một tầng lớp trung lưu gồm các thương nhân tại một số thành phố lớn nhỏ. Trong các địa điểm đông dân cư đang phát triển, không nơi nào thích hợp với công việc mậu dịch hơn thành phố Venice của nước Ý. Đây là nơi lý tưởng, nằm trên biển Adriatic và hướng về phương Đông.
    Năm 1254, ông Nicolo Polo cùng người em trai tên là Maffeo, là hai thương nhân về nữ trang, đã thực hiện một chuyến đi xa, tới thành phố Constantinople, rồi cũng do công việc thương mại, hai người này đã đi khá xa về phía đông, tới tận Bukhara, sâu vào bên trong miền đất thời bấy giờ thuộc quyền kiểm soát của quân Mông Cổ. Người Mông Cổ đã từ phần đất phía bắc của nước Trung Hoa, tràn qua đánh chiếm châu Âu và lập nên các lãnh thổ mới do các Khả Hãn cai trị. Tại nước Nga, người Mông Cổ được gọi là rợ Thát Đát (Tartars).
    Hai anh em thương nhân này đã bị mắc kẹt trong xứ của người Thát Đát trong 3 năm vì các trận chiến quanh vùng, vì các bọn cướp đe dọa đường về. Cuối cùng, nhân một chuyến về thăm triều đình Đại Hãn tại Trung Hoa của một vương hầu Thát Đát, hai anh em Polo được mời đi theo. Đây là cơ hội rời khỏi miền Bukhara một cách an toàn, nên hai thương nhân này đã nhận lời theo đoàn sứ quân ra đi.
    Năm 1265, sau hơn một năm trời gian nan trên đường trường, hai anh em Nicolo và Maffeo đã tới được Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) và được Đại Hãn Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) đón tiếp niềm nở. Đại Hãn là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, vị hoàng đế đã lập nên đế quốc Mông Cổ rất rộng lớn, trải dài từ miền bắc châu Á tới tận các phần đất phía đông của châu Âu.
    20 năm về trước, đã có vài người châu Âu là các thương nhân hay các tu sĩ tới được nước Trung Hoa và xứ Mông Cổ, nhưng Nicolo và Maffeo là hai người châu Âu đầu tiên được trình diện trước triều đình của Đại Hãn. Hai thương nhân miền Venice khi tới Yên Kinh, đã rất ngạc nhiên về nhiều điều mới lạ.
    Kinh đô này có các bức tường thành cao bao vây chung quanh và phần bên trong tường thành được phân chia thành nhiều vùng với lâu đài hoàng gia ở giữa. Anh em nhà Polo cũng rất cảm kích trước lòng hiếu khách của Đại Hãn và sự xuất hiện của những người xa lạ, từ một xứ chưa được biết tới, đã khiến cho Đại Hãn Hốt Tất Liệt phải quan tâm. Đại Hãn cũng thắc mắc về đạo Thiên Chúa nên khi anh em Polo rời khỏi Trung Hoa, nhà vua đã yêu cầu họ mang một bức thư gửi cho Giáo Hoàng, yêu cầu phái đến triều đình Mông Cổ 100 tu sĩ học giả. Đại Hãn cũng chân thành mời anh em Polo trở lại Trung Hoa đồng thời cấp cho họ một giấy phép có đóng mộc vàng, để bảo đảm an toàn lúc đi đường.
    Năm 1269, hai anh em Polo đã về tới Venice thì được biết bà vợ của Nicolo đã qua đời sau lần sinh hạ một cậu con trai đặt tên là Marco Polo và cậu này được một người trong gia đình nuôi dưỡng. Lúc này, cậu Marco Polo đã là một thiếu niên 15 tuổi, lanh lẹ, tháo vát, thường lân la chơi đùa tại bến tầu và quen biết với khá nhiều thủy thủ.
    2/ Chuyến đi xa của Marco Polo.
    Hai năm sau ngày trở về, ông Nicolo lại cùng với người em trai xuống tầu từ Venice và trong lần viễn du này, có dẫn theo cậu con trai Marco. Khi đến Jerusalem thì vị Giáo Hoàng quen biết khi trước đã qua đời trong khi đó các hồng y chưa bầu ra được một Giáo Hoàng mới. Anh em nhà Polo đành quyết định vẫn ra đi với 2 tu sĩ và một số dầu thánh (holy oil). Đường đi gian truân đã làm cho 2 tu sĩ nản lòng rồi vì lo sợ cho sự an toàn, họ đã giả vờ bệnh nặng và trở về, còn các thương nhân Venice vẫn tiếp tục lên đường. Marco Polo lúc này là cậu thanh niên yêu thích thiên nhiên, có đầu óc thực tế, biết nhận xét những điều xa lạ, nên đã giữ sổ nhật ký, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc hành trình.
    Rời Jerusalem bằng thuyền, hai thương nhân tới thị trấn Acre rồi thị trấn Ayas. Tại nơi này họ lên bờ, đi theo đoàn lạc đà. Khi hai thương nhân đã rời khỏi Jerusalem thì được tin Theobald of Piacenza được bầu làm Giáo Hoàng Gregori X. Để tránh nơi giao tranh giữa hai lực lượng Thập Tự Chinh (Crusaders) và các quân Hồi Giáo, họ đã đi về phía bắc, hướng tới Hắc Hải rồi vòng qua hướng đông, tới gần núi Ararat, nơi mà nhiều người tin rằng con thuyền lớn của ông Noah đã được kéo lên bờ. Đoàn lữ hành cũng đã đi qua các ngọn đồi của miền nam xứ Georgia thuộc nước Nga ngày nay. Các vùng đất này đều quen thuộc với các thương nhân châu Aâu nhưng riêng với Marco Polo, cậu rất ngạc nhiên trước các loài chim lạ, loại đá muối, các loại hồng ngọc và các giếng dầu. Loại dầu này không dùng để ăn mà được người dân địa phương chữa các bệnh ngoài da cho người và lạc đà, và dùng để đốt đèn vào ban đêm.
    Khi vào xứ Iran, anh em nhà Polo đã dừng chân tại Saba, nơi mà theo chuyện kể, 3 tu sĩ Magi đã mang quà tặng, theo chỉ hướng của các vì sao tới thăm viếng Chúa Hài Đồng tại Bethlehem. Tới lúc này, đoàn thương nhân đã đi quá xa, tới vùng xa lạ và nguy hiểm, đi rất chậm với tốc độ từ 10 tới 20 dậm một ngày, qua các thung lũng lạnh lẽo, các xa mạc nóng bỏng và toàn sỏi đá, không còn thấy các cây cối xanh tươi. Khi đến thị trấn Kerman, anh em Polo cho rằng nên dùng đường biển để tới Trung Hoa, họ đã đổi hướng về phía nam, tiến tới hải cảng Hormuz nằm trong vịnh Ba Tư. Trên đường đi, họ đã thấy các làng mạc ẩn hiện sau các bức tường thành cao đắp bằng đất để ngăn cản loại quân chuyên cướp bóc Karaunas. Bỗng nhiên, bầu trời tối sầm lại và trong trận bão cát, đoàn thương nhân bị quân cướp kể trên ập tới đánh phá. Marco Polo đã kể lại rằng người Karaunas biết dùng phép phù thủy khiến cho trời quang trở thành tối tăm, mọi người khó nhìn thấy mặt nhau trừ khi đứng rất gần nhau. Trong trận đánh cướp này, cha và chú Polo cũng như Marco đã thoát nạn nhờ may mắn, một số người cùng đi đường bị bắt, nhiều kẻ bị giết. Cuối cùng, đoàn lữ hành cũng tới được hải cảng Hormuz. Tại nơi này, khi nhìn thấy các con thuyền đi biển mỏng manh, may bằng sợi dây dừa, các kẻ viễn du đã phải đổi ý, quay trở lại thị trấn Kerman, theo Con Đường Tơ Lụa hướng lên phía bắc rồi đi về phía đông, tới thành phố Balkh tại mạn bắc của xứ Afghanistan.
    Balkh 50 năm về trước là một thành phố với các lâu đài tráng lệ xây bằng đá hoa trắng, là kinh đô của xứ Bactria và cũng chính tại nơi đây, Đại Đế Alexander đã cưới công chúa của vua Ba Tư Davis. Nhưng vào lúc này, Marco Polo thấy thành phố đã bị cháy rụi, trở thành bình địa, tàn phá do đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn. Sau khi rời khỏi Balkh, gia đình Polo đã đi về hướng Badakhshan là một tỉnh nằm về phía bắc của rặng núi Hindu Kush và cũng là nơi có nhiều mỏ đá màu xanh da trời, gọi tên là ?olapis lazuli?. Marco Polo cũng ghi nhận rằng nơi này sản xuất ra các loại hồng ngọc rất quý và đây cũng là nơi có khí hậu rất tốt, sớm làm phục hồi sức khỏe của bệnh nhân. Từ Badakhshan, đoàn lữ hành đi qua cao nguyên Pamir, một vùng mà Marco Polo đã thấy có rất nhiều loại hươu sừng rất dài. Rồi đoàn người leo lên trên một cao nguyên 12,000 bộ, được gọi là "Mái nhà của thế giới" (the Roof of the World). Marco Polo đã ghi trong sổ rằng: "không thấy có chim muông nào trên miền núi" và "lửa không còn cho cùng sức nóng như ở các mạn dưới thấp".
    Từ miền núi cao, đoàn lữ hành xuống thấp dần, lọt vào vùng Tân Cương, một vùng có các ốc đảo xanh tươi và bờ sông đầy loại đá hoa cương. Khi tới thị trấn Lop, đoàn lữ hành chuẩn bị băng qua phần phía nam của Sa Mạc Takla Makan. Theo lời ghi chép của Marco Polo thì ?onhững người sửa soạn vượt qua sa mạc đã nghỉ ngơi tại thị trấn này một tuần lễ để phục hồi người và vật, rồi họ lo một tháng thực phẩm cho cuộc hành trình. Khi rời thị trấn này, họ đi vào sa mạc. Chiều dài của sa mạc lớn tới độ người ta nói rằng phải mất một năm hay hơn để đi từ đầu này tới đầu kia, và đi theo chiều ngang ngắn nhất cũng phải mất một tháng?. Người dân địa phương tin rằng sa mạc Takla Makan có các loại ma quỷ, gọi tên người, giả làm kẻ đồng hành và đưa các kẻ lữ hành tới chỗ chết. Vì vậy anh em nhà Polo đã phải rất cẩn thận trước sa mạc cát nóng, tạo ra các ảo ảnh. Trong nhiều tuần lễ, họ đã đi men theo phía nam của sa mạc Gobi, tới được thị trấn Kumul rồi vào xứ Mông Cổ. Đây là phần đất có giống người Thát Đát cư ngụ. Marco Polo đã thấy tận mắt loại thạch miên (asbetos), nhìn thấy bức tượng Phật nằm rất lớn và đã ghi chép các nhận xét chính xác về người Mông Cổ : "các người Thát Đát giàu có mặc y phục bằng lụa và vàng, bằng da và lông của các thú vật với các kiểu cách sang trọng. Người Thát Đát rất gan dạ trong trận chiến, tới độ cực đoan. Họ có thể chịu đựng mọi loại thiếu thốn và khi cần, có thể sống cả tháng bằng sữa của lừa ngựa hoang mà họ săn bắt được. Các người đàn ông Thát Đát được huấn luyện sống trên lưng ngựa hai ngày mà không xuống đất, ngủ trên lưng ngựa khi ngựa ăn cỏ. Không một giống dân nào trên trái đất vượt hơn họ về cách chịu đựng các khó khăn và kiên nhẫn. Nếu hoàn cảnh cần đến, họ có thể đi bộ 10 ngày mà không đốt lửa hay dùng bữa. Trong thời gian này, ho sống bằng máu ngựa".
    Sau khi rời thành phố Venice trong 3 năm rưỡi, anh em Polo đã vượt qua 8,000 dậm đường, băng qua các miền đất rất khó đi và nguy hiểm. Sự việc đoàn lữ hành tới đất Mông Cổ đã được báo về cho Đại Hãn rõ và nhà vua đã cho người đón trước ở khoảng cách 40 ngày đường, ra lệnh cho mỗi nơi dừng chân dành cho họ các tiện nghi tối đa.
    Mùa hè năm 1275, đoàn lữ hành tiến vào cung thành Mông Cổ là Thượng Đô (Shangtu), nơi có các lâu đài mùa hè rất lớn bằng đá hoa rực rỡ, tọa lạc trên vùng đất rộng 16 dậm vuông, với các suối nước và thật nhiều hươu nai cùng các con thú khác mà Đại Hãn đã săn bắt được bằng các con báo rừng hay diều hâu. Vào thời kỳ này, đế quốc Mông Cổ là miền đất rộng lớn nhất chưa từng thấy, trải dài từ bờ biển Trung Hoa ở phía đông tới tận xứ Hungari ở phía tây. Hai ông Polo và cậu Marco được dẫn tới một đại sảnh có dát vàng rực rỡ. Ở giữa cung điện và ngồi trên ngai vàng là ĐaÏi Hãn Hốt Tất Liệt mặc áo lụa thêu chỉ vàng, vào cỡ tuổi 60, là một nhân vật oai vệ, có chiều cao trung bình nhưng vạm vỡ, với đôi má hồng và "đôi mắt đẹp màu đen". Sau khi quỳ lậy, ông Nicolo trình diện cậu Marco là "kẻ hầu của nhà vua và cũng là con trai của tôi" thì được ĐaÏi Hãn trả lời là rất vui mừng đón tiếp, rồi nhà vua hạ lệnh tổ chức tiệc rượu.
    Thượng Đô là nơi nghỉ mùa hè của Đại Hãn, tọa lạc về phía bắc 200 dậm và không xa Vạn Lý Trường Thành. Tới cuối tháng 8, nhà vua lại dọn về sống tại Yên Kinh (ngày nay là Bắc Kinh), một nơi có các cung điện rực rỡ hơn. Marco Polo dần dần trở nên một trong các cận thần của vua Mông Cổ nên chàng thanh niên xứ Venice này đã có nhiều cơ hội quan sát và ghi chép về lối sinh hoạt tại triều đình. Đại Hãn Hốt Tất Liệt tuy bản chất là người Mông Cổ nhưng đã chấp nhận nhiều lối sống văn minh của người Hán. Nhà vua có 4 hoàng hậu với cả ngàn người hầu cận. Trong các buổi thiết triều, một trong các hoàng hậu cũng được ngồi vào ghế danh dự, ngang hàng với nhà vua. Đại Hãn còn có hàng trăm cung tần và mỗi hai năm, từ 30 tới 40 thiếu nữ mới được tuyển lựa cẩn thận vào cung theo các tiêu chuẩn về nhan sắc và các đặc điểm khác như khi ngủ không ngáy to, thân thể không tiết ra thứ mùi khó chịu. Cha mẹ của các cung tần này thường hãnh diện khi có con gái được tuyển mộ vào cung cấm và sau vài năm sống tại hậu cung, các cung tần được nhà vua gả cho các quan trong triều. Đại Hãn là một con người nhân từ, thường ra lệnh cấp ngũ cốc và gia súc cho những miền đất bị thiên tai, hạn hán.
    Đại Hãn còn có một đội ngũ các chiêm tinh gia, đúng hơn là các thầy phù thủy và Marco Polo đã mô tả họ là loại người thô lỗ, dơ bẩn, thường khoe khoang kiểm soát được gió mưa và có các khả năng huyền bí. Chung quanh Đại Hãn có các võ tướng người Mông Cổ, một số học giả người Trung Hoa và nhà vua còn dùng vài người ngoại quốc trong việc cai trị xứ sở. Đế quốc Mông Cổ vào thời kỳ này rất rộng lớn, gồm 34 tỉnh do 12 vương hầu cai trị và chịu trách nhiệm trước Đại Hãn. Tuy là một miền đất bao la nhưng người Mông Cổ đã tổ chức được một mạng lưới thông tin hữu hiệu với khoảng cách 25 dậm có một trạm liên lạc, với ngựa khỏe và thông tin viên sẵn sàng mang các văn thư, hiệu lệnh của Đại Hãn tới các nơi xa xôi trong một thời gian kỷ lục. Marco Polo đã kể lại rằng một kỵ mã thông tin có thể vượt 250 dậm trong một ngày nhờ đó vào mùa hè, trái cây được hái buổi sáng tại Yên Kinh, đã được đưa đến Thượng Đô vào buổi chiều ngày hôm sau, trên một hành trình mà bình thường cần tới 10 ngày đi đường. Marco Polo còn mô tả về tiền giấy, một thứ tiền được chấp nhận tại mọi nơi trong đế quốc Mông Cổ, nhờ đó các lái buôn, các kẻ lữ hành đã không gặp khó khăn khi phải mang tiền đi xa. Người Trung Hoa đã dùng vỏ cây dâu, đâm vụn thành một thứ bột giấy giống như bông gòn và làm ra một loại giấy màu đen rồi trên đó có đóng triện đỏ của nhà vua. Việc làm bạc giả bị trừng phạt bằng tội tử hình.
  8. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Marco Polo và con đường tơ lụa (tiếp)
    Trong vài năm sống tại triều đình của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, Marco Polo đã quan sát và học hỏi được nhiều phong tục, tập quán của các người Á châu, lại nói được ít nhất bốn ngôn ngữ địa phương của đế quốc Mông Cổ, khiến cho Đại Hãn rất khâm phục trí thông minh của cậu và đã nhờ chàng thanh niên này thi hành các sứ mạng tại miền nam Trung Hoa, tại các xứ Bengal và Miến Điện. Do Đại Hãn ưa thích nghe kể về những gì chưa được biết tới, Marco Polo đã ghi chép nhiều chi tiết về những miền đất đã đi qua. Trong 17 năm trường phục vụ cho Đại Hãn, Marco Polo đã đặt chân tới từ miền bắc xứ Mông Cổ tới tận miền nam là Vân Nam, từ các tỉnh bờ biển phía đông tới xứ Tây Tạng về phía tây và còn được bổ nhiệm làm quan tại Hàng Châu (Hangchow). Marco Polo đã mô tả thành phố này giống như Venice của xứ Ý, được xây dựng trên các giòng sông với chu vi vào khoảng 100 dậm. Nơi này có hai ngàn cây cầu bắc qua sông và con đường lớn của thành phố rộng tới 40 bộ theo chiều ngang. Trên đại lộ chính này, có tới 10 trung tâm thương mại với các cửa tiệm bán thực phẩm, rượu, gia vị, và cả các nữ trang như ngọc trai. Mỗi tuần, người dân tại nơi đây họp chợ 2 hay 3 kỳ và Marco Polo đã mô tả cảnh phồn thịnh của sinh hoạt tại Hàng Châu. Nơi chợ có đủ mặt hàng, từ các thú vật như hươu, nai, công, trĩ, tới bò, heo, gà, vịt, các loại lá cây và trái cây, mùa nào thức nấy không thiếu chi. Trong khi cha Nicolo và chú Maffeo mải lo buôn bán nữ trang thì Marco Polo đã đi công tác qua nhiều địa phương, biết rõ về đất nước Trung Hoa hơn phần lớn các người Mông Cổ và người Hán. Các lần đi công tác xa xôi không phải là an toàn vì dọc đường thường có các trộm cướp, các dã thú, các thác ghềnh... Các đoàn lữ hành thường phải đóng trại vào ban đêm, đốt lửa để xua đuổi mãnh thú. Marco Polo đã có dịp tới Tứ Xuyên, Vân Nam và Tây Tạng, một nơi đặc biệt tiêu xài bằng thứ tiền muối. Nơi đây có các suối muối và người dân đun muối trong các chảo nóng. Khi đã sôi trong một giờ, muối được cô đọng lại thành một loại bánh nặng chừng 3 gam, mặt dưới phẳng, mặt trên cong trên đó có đóng triện của nhà vua, để trở thành một thứ tiền tệ lưu hành trong dân chúng.
    17 năm sống tại Trung Hoa, một thời gian quá lâu, đã làm cho các thương nhân này nhớ nhà, mong đợi được trở về thành phố Venice thân yêu. Marco Polo đã ghi lại rằng càng ngày, gia đình Polo càng quyết tâm quay về vì Đại Hãn càng già, nếu qua đời bất ngờ thì khó lòng xin được các ân sủng để trở về xứ sở. Rồi vào một ngày đẹp trời, Marco Polo chờ lúc Đại Hãn vui vẻ, đã sụp lậy dưới chân để xin cho mình và gia đình được phép ra đi. Vào lúc này, Đại Hãn đã tỏ ra bất bình. Nhà vua có quyền tuyệt đối, việc từ chối thường xẩy ra và ba người Ý sẽ trở thành các người tù mãn đời trên đất Trung Hoa, và châu Âu sẽ không có cơ may được nghe kể về một xứ sở giàu sang, rực rỡ nhất vào thời đại đó.
    3/ Cuộc trở về của Marco Polo.
    Vào khoảng năm 1286, một thân nhân của Đại Hãn là Khả Hãn Tốc Bất Đài (Arghyn Khan) hiện đang cai trị xứ Ba Tư, đã phái sứ giả về Trung Hoa yêu cầu Đại Hãn kén chọn cho một cô vợ mới. Một thiếu nữ 17 tuổi, đầy đủ tài sắc, đã được tuyển lựa và phái đoàn này đã lên đường về Ba Tư theo đường bộ. Nhưng sau một năm, đoàn lữ hành đã phải quay lại Yên Kinh vì chiến tranh giữa các bộ lạc địa phương. Chính vào thời gian này, Marco Polo cũng mới trở về sau một chuyến đi công tác xa và đã được phái đoàn Mông Cổ tại xứ Ba Tư yêu cầu hướng dẫn họ bằng đường biển. Chương trình cuộc trở về châu Au được trình lên Đại Hãn và nhà vua bất đắc dĩ phải nhận lời, bằng lòng để Marco Polo với cha và chú ra đi, đồng thời Đại Hãn cũng gửi theo đoàn vài bức thư viết cho các nhà vua của châu Âu.
    Năm 1292, một đoàn thuyền gồm 14 chiếc với hàng trăm người hộ tống, gồm có đoàn sứ giả Mông Cổ từ Ba Tư với cô dâu mới, gia đình Polo, đã ra khơi từ Hàng Châu, xuôi về phía nam, qua gần bờ biển Việt Nam, tới Singapore, Sumatra, ghé Ấn Độ, Tích Lan rồi men theo mỏm cực nam của lục địa Ấn Độ và tới hải cảng Hormuz. Cuộc hành trình này kéo dài mất hai năm và trên đường đi, Marco Polo đã ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe về đất đai, con người, sinh vật... mà người châu Âu chưa từng biết tới. Marco Polo đã mô tả con tê giác là loại thú có một sừng, kể chuyện về cướp biển... Các gian nguy trên đường về đã cướp đi nhiều mạng sống. Cuối cùng, đoàn sứ giả cũng tới được nước Ba Tư và cô dâu được giao cho triều đình Mông Cổ địa phương nhưng Khả Hãn Tốc Bất Đài đã qua đời và cô dâu được gả cho người con của Khả Hãn. Đường về từ xứ Ba Tư tới thành phố Venice còn khá xa. Marco Polo đã theo đường bộ, băng qua xứ Ba Tư, tới thành phố Trebizond bên bờ Hắc Hải rồi dùng thuyền, qua Constantinople. Trong cuộc hành trình, Marco Polo nghe tin báo rằng Đại Hãn đã qua đời năm 1294.
    Cuối cùng vào năm 1295, hai ông Nicolo và Maffeo cùng với Marco Polo đã cập bến cảng Venice, sau 24 năm vắng mặt và cuộc hành trình đi và về dài 15,000 dậm hay 24,000 cây số. Dân địa phương và các người họ hàng đã không nhận ra và nhớ được ba kẻ lữ hành này vì họ đã vắng mặt quá lâu, tiếng nói pha lẫn giọng phát âm Mông Cổ. Ông Nicolo đã tổ chức một bữa tiệc khoản đãi các người trong giòng họ và bạn thân rồi sau bữa ăn, ba thương nhân Polo đã dùng dao, rạch các chiếc áo mà họ đã mặc trên đường trở về từ xứ Trung Hoa, đổ lên bàn nào là vàng bạc, ngọc trai, kim cương, hồng ngọc và các loại đá quý khác. Vào lúc này, Marco Polo ở vào tuổi trên 40 và không còn nghĩ tới chuyện đi xa nữa.
    Đã từ lâu, Genoa và Venice là hai thành phố thù nghịch nhau. Năm 1296, quân lính Genoa đã đánh chiếm Venice và Marco Polo bị bắt. Không có sử gia nào cho biết về các lý do bị cầm tù này. Khi nằm trong nhà tù, Marco Polo đã kể lại các lần đi xa của mình và trong số các bạn tù ngồi nghe, có một văn sĩ chuyên nghiệp từ miền Pisa, tên là Rustichello. Vì bị hấp dẫn bởi cuộc hành trình, Rustichello đã yêu cầu Marco Polo cho mượn cuốn sổ ghi chép. Từ các câu chuyện kể lại và cuốn nhật ký, Rustichello đã dùng lối viết văn của minh, mô tả lại chuyến viễn du của Marco Polo và cuốn truyện được hoàn tất một năm trước khi Marco Polo được thả ra khỏi nhà tù vào năm 1299.
    Cuốn truyện có tên là "Mô tả về Thế Giới" (Description of the World) được Rustichello viết bằng tiếng Pháp cổ, là ngôn ngữ văn chương của nước Ý vào thời kỳ đó. Cuốn truyện cho biết các tin tức đầu tiên về nước Trung Hoa mà vào thời đó còn được gọi là "Cathay" và Marco Polo đã kể về sự giàu sang của Đại Hãn Hốt Tất Liệt, về cách khai mỏ và dùng than đá, một loại nhiên liệu mà người châu Âu chưa được biết tới. Marco Polo cũng mô tả cách dùng tiền giấy trên đó có dấu ấn của nhà vua, các phong tục của xứ Trung Hoa, các lâu đài tráng lệ, cùng nhiều sự việc mà người châu Âu thời đó đã không tin, một phần cũng do Marco Polo nói quá sự thật.
    Vào đầu thế kỷ 14, ngành ấn loát chưa được phát minh ra tại châu Âu. Cuốn truyện "Mô tả về Thế Giới" của Marco Polo đã được một số học giả chép tay và phổ biến, gợi trí tò mò, gây ảnh hưởng tới các nhà thám hiểm. Sau khi hai xứ Genoa và Venice tái lập hòa bình năm 1299, Marco Polo được thả ra khỏi tù. Ông lập gia đình và đã có ba con gái nhưng không giàu có lúc qua đời vào năm 1324 mặc dù các vàng ngọc mang về từ xứ Trung Hoa. Marco Polo trở nên nổi tiếng tại địa phương nhờ các câu chuyện hấp dẫn, khó tin và khi đó nhiều người bạn hỏi nhà thám hiểm có muốn bỏ bớt những phần nói quá sự thật không, thì ông đã trả lời " tôi mới chỉ kể ra một nửa những gì trông thấy".
    Các điều quan sát và tường thuật của Marco Polo đã gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ, tới các học giả, các nhà địa dư, các thợ vẽ bản đồ và các nhà thám hiểm. Một trong các nhầm lẫn của Marco Polo là đã đặt xứ Nhật Bản giữa Trung Hoa và châu Âu. Sự giàu sang của châu Á đã hấp dẫn các nhà thám hiểm như Christopher Columbus. Họ tin tưởng rằng con người nếu không dùng đường bộ, thì có thể dùng đường biển để tới được xứ Trung Hoa.
    Trong thời Trung Cổ tại châu Âu, chưa có nhà thám hiểm nào đi xa về phía đông như Marco Polo, một nhân vật đã kể về các nền văn hóa khác, xa lạ với những điều hiểu biết của người đương thời, đã đóng góp vào việc mở ra các liên lạc đông tây về mậu dịch và kiến thức.
  9. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Milan - AEK Athens: 3-0
    Milan xuất phát với đội hình có nhiều sự thay đổi khi HLV Ancelotti không đưa Pirlo, Nesta, Serginho vì muốn số cột này thực sự được nghỉ ngơi. Thay vào đó ông tạo cơ hội ra sân cho Brocchi, Simic và Favalli. Seedorf cũng ngồi ghế dự bị nhường suất đá chính cho tân binh 20 tuổi Gourcuff. Trên hàng công, Oliveira lần đầu tiên có tên trong đội hình xuất phát sau khi chơi rất thuyết phục hôm cuối tuần.
    Đang đà hứng khởi nhờ bước khởi đầ tuyệt vời ở sân chơi quốc nội và hiểu rằng đối thủ cũng không thực sự mạnh, Milan vào cuộc rất hưng phấn bằng lối chơi pressing trên toàn sân với tốc độ cao. Một số cơ hội ăn bàn đã các cầu thủ chủ nhà được tạo ra về phía khung thành AEK, nhưng đều không tận dụng thành công. Đáng tiếc nhất là cú sút chéo góc của Gattusso bị thủ môn Sorentino, từng ngồi dự bị ở Juve mùa 1997-1998, tung người hết cỡ cản phá.
    Tuy nhiên, sau nhiều tình huống hỏng ăn, rút cuộc Milan cũng làm được cái điều mà đám đông khán giả nhà mong đợi ở phút 17. Nỗ lực đi bóng và đường chuyền thuận lợi của thủ quân Maldini được Inzaghi kết thúc chuẩn xác bằng cú đánh đầu tung lưới đội khách, mở tỷ số cho đội bóng áo sọc đỏ đen. Có lợi thế dẫn bàn, Milan chủ động hạ nhịp độ trận đầu và hạn chế tối đa sức kháng cự của đối phương nhờ sự năng nỗ của bộ đội Brocchi - Gattuso ở giữa sân. Chơi chậm nhưng các học trò của HLV Ancelotti vẫn rất nguy hiểm trong những tình huống lên bóng. Sau vài cơ hội lần lượt trôi qua chân cặp Oliveira - Inzaghi, đội chủ nhà đã có bàn nhân đôi tỷ số 4 phút trước giờ nghỉ giải lao. Cũng bằng một cú đánh đầu, tân binh Gourcuff đã ghi bàn thắng đầu tiên cho Milan sau quả tạt cực kỳ chính xác của Kaka từ cánh phải.
    Sang hiệp hai, AEK vùng lên quyết liệt những mong tìm bàn gỡ và họ cũng đôi lần khiến Milan phải thót tim bởi những pha dứt điểm của Lyberopoulos và Lagos. Do mãi miết dâng cao đội hình, á quân Hy Lạp suýt chịu đòn hồi mã thương nếu thủ môn Sorrentino không cảnh giác đẩy được cú vôlê cực kỳ nhạy cảm của Kaka ở phút 56. Không thành công trong tình huống trên nhưng siêu sao người Brazil cũng ghi tên mình vào danh sách các cầu thủ ghi bàn ở trận này với quả phạt đền ở phút 77 sau khi Inzaghi bị đốn ngã trong vòng cấm. Kaka không mắc sai lầm nào khi đối mặt với Sorrentino trên chấm 11 mét, ấn định thắng lợi 3-0 cho đội chủ sân San Siro.
  10. milanista_81

    milanista_81 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/04/2006
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Columbus - Nhân vật bí ẩn
    Rất ít nhân vật lịch sử vẫn còn đang bao phủ trong huyền bí như Christopher Columbus, nhà thám hiểm vĩ đại đã phát hiện ra châu Mỹ vào năm 1492.
    Nguồn gốc bí ẩn
    Cho đến tận bây giờ, các chuyên gia vẫn đang phải ?ođánh vật? để tìm hiểu tại sao con trai của một người thợ dệt len bình thường lại có được kiến thức, hoài bão và các kỹ năng ngoại giao cần thiết để thực hiện được một trong những hành trình táo bạo nhất trong lịch sử.
    Từ lâu đã được coi là một người hùng, có tầm nhìn xa trông rộng và đầy dũng khí, nhưng hiện nay vẫn có nhiều người gièm pha Columbus, họ coi ông là người tham lam và cuồng tín tôn giáo, người phải có trách nhiệm đối với nạn nô dịch hoá và diệt chủng người dân bản địa ở châu Mỹ.
    Các quan điểm bất đồng càng như ?ođổ thêm dầu vào lửa? khi những chứng cứ từ khoa học lịch sử lại đang khiếm khuyết nhiều khía cạnh về cuộc đờI của nhà hàng hải này. Hầu hết các sử gia đều nhất trí, Columbus sinh vào khoảng tháng 8 đến tháng 10 năm 1451 tại thành phố cảng Genoa, Italia hiện nay.
    Tuy nhiên, việc xác định được đâu là nơi sinh của ông, Italia, Pháp hay Tây Ban Nha, và di hài ông được chôn cất ở đâu, miền Nam Tây Ban Nha hay ở bên kia Đại Tây Dương, hiện vẫn đang là những câu hỏi hóc búa đối với các chuyên gia.
    Nhằm cố gắng giải mã những câu hỏi này, nhiều nhà khoa học đang bận rộn thu thập các mẫu AND từ những người cháu trai nối dõi của Columbus. Thông tin về những năm đầu đời của Columbus không có nhiều nhưng các viện sĩ cũng thống nhất rằng Columbus trở thành nhà vẽ bản đồ bằng cách tự học và gần như chẳng được học hành nghiêm chỉnh trước khi trở thành một thuỷ thủ.
    Ở tuổi ngoài 30, bằng cách này hay cách khác, Columbus đã tự nhắc nhở mình rằng: phải tìm ra được đường hàng hải trực tiếp hướng theo phía Tây tới châu Á và đó là động lực để ông bắt đầu tìm kiếm nhà tài trợ cho sự táo bạo của mình.
    Giống như Columbus, nhiều nhà thám hiểm đồng nghiệp của ông không tin trái đất bằng phẳng; họ cho rằng trái đất hình cầu, tuy nhiên họ không nhất trí với nhau về chu vi của trái đất.
    Sau khi bị triều đình Bồ Đào Nha bác bỏ bởI các chuyên gia nghi ngờ rằng lộ trình chuyến đi dài hơn so với ước tính của Columbus, ông trở về Tây Ban Nha và cuối cùng đã thuyết phục được họ sau nhiều năm cố gắng vận động hành lang một cách mạnh mẽ.
    Nhưng làm sao một thuỷ thủ bình thường từ thành phố Genoa lại có thể thuyết phục được một trong những hoàng gia quan trọng nhất châu Âu thờI bấy giờ? Trong cuốn sách mới xuất bản mang tiêu đề Columbus: The Last Of The Templars, chuyên gia Italia Ruggero Marino giải thích rằng: "Columbus là người có văn hóa cao, ông thường trao đổi thư từ với giới trí thức cùng thời, kết hôn với một nữ quý tộc Bồ Đào Nha và được một trong những triều đình quan trọng nhất châu Âu ủng hộ nhiệt tình. Ông không thể làm được tất cả những điều đó nếu sinh ra trong một gia đình nghèo.
    Là con trai bất hợp pháp của Giáo Hoàng?
    Sở dĩ ông Ruggero đưa ra nhận định như vậy vì ông cho rằng, thực tế Columbus là con trai bất hợp pháp của Giáo hoàng Innocent VIII. Mặc dù có rất ít bằng chứng khoa học để ủng hộ cho giả thuyết của Ruggero, nhưng ít nhất nó cũng giải thích tại sao Columbus lại cương quyết giữ im lặng về quá khứ của mình.
    Thậm chí Ruggero còn cho rằng, Columbus từng là một hiệp sĩ dòng Đền, thành viên của một đội quân tôn giáo đầy thanh thế và huyền bí được thiết lập vào năm 1118 nhằm bảo vệ người hành hương và mộ chúa Jesus từng được nhắc đến trong tiểu thuyết ăn khách The Da Vinci Code. "Columbus là người bí ẩn ngoan cường, ông biết rõ rằng mình có sứ mệnh làm thay đổi thế giới", Ruggero nói.
    Người thay đổi thế giới
    Columbus rời khỏi cảng Palos ở Tây Ban Nha vào chiều ngày 3-8-1492 với 3 chiếc tàu có tên là Nina, Pinta và Santa Maria. ÔNg dừng lại ở đảo Canary để lấy đồ tiếp tế và sửa chữa tàu rồi vào ngày 6-9, nhổ neo tiếp tục cuộc hành trình đã trở thành một trong những chuyến đi đậm chất sử thi nhất trong lịch sử.
    Tương truyền rằng, thời gian cuối trong chuyến đi kéo dài 5 tuần này, đội ngũ thủy thủ của ông trở nên sợ hãi đến nỗi họ đe dọa nổi dậy chống đối ông. Nhưng theo Ruggero, Columbus chắc chắn việc mình làm đến mức ông nói với các thủy thủ rằng, họ có thể tống khứ ông "theo bất cứ cách nào mà họ cảm thấy hài lòng", nếu như họ không tới được điểm đến trong vòng 3 ngày.
    Cuối cùng vào 2 giờ sáng ngày 12-10, một thủy thủ trên con tàu Pinta đã nhìn thấy đất liền mà đó là Bahamas hiện nay, nhưng Columbus đặt tên là San Salvador.
    Columbus mong muốn cải tạo những người dân bản địa mà ông gặp trong các cuộc thám hiểm, nhưng ông ra lệnh không được gây đổ máu và tin rằng, giáo lý Cơ đốc sẽ thu phục được các linh hồn thông qua tình yêu. Nhà thám hiểm trở về Tây Ban Nha vào tháng 3-1943 và được chào đón như một người hùng khi tin tức về phát hiện của ông được lan truyền khắp châu Âu.
    Ông có thêm 3 chuyến đi nữa tới "Tân Thế giới" và sau một số chuyến mạo hiểm khác, trong đó có cả thời gian phải ngồi tù vì bị buộc tội quản lý tồi, ông ngày càng trở nên mộ đạo và qua đời vào ngày 20-5-1506 tại thành phố Valladolid ở Tây Ban Nha.
    Người ta không biết rõ rằng, khi qua đời Columbus vẫn tin rằng mình đã tìm ra được đường đi mới tới châu Á hay đã phát hiện ra một thế giới mới. Mặc dù ông không phải là người châu Âu đầu tiên đặt chân tới châu Mỹ, nhưng các cuộc thám hiểm của ông đã mãi làm thay đổi thế giới.

Chia sẻ trang này