1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kháng chiến chống Mỹ và những điều chưa biết

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dongadoan, 23/06/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Cái hạt kê ấy cũng bằng từng này rồi
  2. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Sau khi Đức bại trận thì pháo phiếc phương tây theo các tiêu chuẩn cũ của Anh Pháp và cứ thế tutu hậu, vì những thiết kế đó của Anh Pháp chẳng hay ho j` so với các nước phát triển, thường dẫn đầu bởi Nga-Đức. Trước Thế chiến I thì Đức dẫn đầu, vượt khá xa Nga về pháo, nhưng từ khi có các khẩu 152mm và 122mm thì Nga dần vượt lên trong khoảng Thế Chiến I. Đức mải mê với con đường cụt là các khẩu siêu pháo, phương Tây cũng vậy nhưng không bằng siêu pháo Đức. Vậy nên Nga có điều kiện vươn lân vị trí dẫn đầu. Vào Thế chiến II, Đức đã chịu thua súng cầm tay bằng cách sao chép AVD và PPSh-41, về pháo, Đức chỉ còn giữ được vị trí số một với một vài loại pháo đơn lẻ chống tăng.
    Các mẫu pháo trên của Mỹ có cuộc sống ngắn tũn, chúng chỉ ra đời trong và sau Thế chiến, và tịt ngóp sau Chiến Tranh Việt Nam. Trong khi đó, các kiểu pháo 122mm và 152mm Nga vẫn sống mãi mặc dù già cốc đế. Những nhược điểm lớn nhất thì trên đã nói rồi. Trong chiến tranh Việt Nam, vai trò là lựu pháo nòng ngắn Mỹ chỉ có khẩu Pack Gun 105mm yếu đuối, ngoài ra, trong suốt thời gian chiến tranh, khẩu M114 155mm tăng dần số lượng, đây là khẩu pháo đúng concept duy nhất của Mỹ, mặc dù cái concept này bắt chước không đúng lắm của ML-25 152mm.
    M114 phát triển trong Thế chiến II từ những nghiên cứu cái tiến mẫu pháo Pháp "Canon de 155 C modèle 1917 Schneider", mẫu thử đầu tiên là năm 1941, nhưng tiến trình thay thế M1 M2 chỉ đẩy mạnh sau Thế Chiến. Tỷ lệ chiều dài nòng 23, lớn hơn M109 (19) và gần ngang ML-25 (là 25 luôn). Pháo cũng dùng máy hãm thẳng như ML-20 (o>-20), một thay đổi khá mãnh liệt so với các khẩu pháo kể trên, tuy nhiên, lò xo đẩy về vẫn nghiêng ép nòng pháo vào máng pháo hình dáng đặc Mỹ. Máy lùi và đẩy về có cải tiến nhưng vẫn là loại lực hãm không đều. Tuy nhiên, các máy này chỉ có nhược điểm lớn là lộ quá nhiều, việc ảnh hưởng đến độ chính xác không được quan tâm nhiều ở lựu pháo nòng ngắn.
    Tầm bắn của pháo 14km, khối lượng đầu đạn 44kg, vận tốc đầu nòng 564m/s. Pháo bắn đạn liều rời tốc độ tối đa 4 phát/phút/. Như vậy, vận tốc "sản xuất" đạn theo khối lượng qua đầu nòng vẫn ngang so với M46, tuy rằng đây là pháo nòng ngắn tầm ngắn, điều đó cho thấy nếu lấy M46 làm "trái việc" là pháo tiền duyên thì cũng ngăng hiệu quả với M114. Khối lượng pháo nòng ngắn dĩ nhiên nhẹ hơn, 5,8 tấn. M46 là 6 tấn, tối đa 8,5 tấn (triển khai tối đa là lúc lắp đủ xe chẩn bị kéo).
    Trơng thời điểm M114 ra đời thi Liên Xô phát triển các pháo kiểu mới, cỡ nòng trung bình, lai chức năng bắn đạn xuyên và bắn trái phá, như D-30 122mm, M1955 D-20 152mm.
    M114 được thay bởi M198 howitzer nặng 7154 kg . Nòng dài hơn một chút, bắn đạn xa 22km.
    Trong thập niên 197x Đức vẫn còn lép vế hợp tác với Tây Âu cho ra con FH-70 cỡ nòng trung bình, CaL 39. Bofors chế con Field Howitzer 77 FH77 cho Thuỵ Điển. Anh tiếp bước với khẩu M777 howitzer siêu nhẹ (3 tấn) do nhiều bộ phận làm bằng titan. Trước đây Liên Xô độc quyền sản xuất titan, họ không có nhiều nguyên liệu làm thứ này nhưng lại có công nghệ luyện kim bột, sau khi Liên Xô tan vỡ thì phương Tây mới được hưởng thành quả này. Khác với Nga, Mỹ muốn thay M777 cho cả pháo nòng trung bình và nòng ngắn. Tuy nhiên, chương trình này mang nhiều viển vông đội giá thành lên rất cao.
    Tiến trình thiết kế pháo cỡ nòng trung bình phương Tây vướng phải những tiêu chuẩn Anh-Mỹ-Pháp mà Đức tuy thông minh nhưng lại phải cúi đầu theo thằng ngu. Với chiều dài nòng lớn, cỡ 155mm làm pháo quá nặng khó bắn đạn chống tăng, do đó, các pháo cỡ nòng trung bình này cũng chỉ bắn đạn trái phá, loại pháo nhỏ hơn thiếu. Riêng ở Mỹ, quyết tâm thay pháo nòng ngắn hoàn toàn bằng nòng trung bình vướng phải cản trở của những viển vông trong chương trình XM777.
    Trong thời điểm phương Tây bắt đầu format các pháo lai cỡ nòng trung bình thì Liên Xô bắt dầu một bước mới, đó là các pháo nòng dài hạng nặng, như 2A36 152 mm cỡ nòng CaL 54, những năm 197x. Cấu tạo pháo có nhiều điểm giống M46 nhưng cỡ nòng to hơn. Đây là bước đệm cho cuộc cách mạng mới về pháo binh.
    Chưa nói đến cuộc cách mạng đó vội, hết thời gian chiến tranh Việt Nam rồi. Nhưng khẩu 2A36 đã có nhiều tiến bộ vượt bậc so với các pháo khác. Cũng chưa nói về cỡ nòng và chiều dài, pháo có khả năng dùng năng lượng lùi để nhồi đạn, liều và khoá nòng bán tự động, vậy nên tuy đạn nặng, nhưng vẫn giữ đều tốc độ 6 phát phút. Một số bộ phận cơ khí phức tạp cũng được thể hiện, như cân chỉnh giá pháo 2 tốc độ thuỷ lực. Pháo có quá trìn làm việc tin cậy và cũng như các khẩu khác của Nga, máy pháo được che chắn kín đáo. Hiện được đánh giá là khẩu pháo kéo tốt nhất thế giới.
    Cái cuộc cách mạng mà nó dẫn đến làn phiên bản bọc thép tự hành, xuất phát từ 2S5 Giatsint-S anh em gần và sau này là Msta. Phiên bản Msta là loại pháo tự hành, ổn định, bắn khi di chuyển, tính toán hiệu chỉnh tự động, nạp đạn tự động, bắn theo chương trình. Cuộc cách mạng này đảm bảo ưu thế tuyệt đối khi bắn chế áp (nhiệm vụ trợ chiến bộ binh) cúng như đấu pháo tầm xa. Nhờ có giáp, khi đấu pháo đạn địch phải rơi trúng đầu ta mới có tác dụng, điều đó là bất khả với đạn tầm xa không điều khiển. Nhờ bắn trong khi di chuyển, bắn theo chương trình, địch tính xong toạ độ ta thì ta đã đi tít đâu rồi, đấu vào mắt. Msta cũng là loại pháo đầu tiên bắn đạn có điều khiển diệt cơ giới tầm xa. Hiện này chương trình thử nghiệm Mỹ chỉ mới dùng GPS chống công sự. Sau Msta 20 năm, Mỹ cho ra chương trình Crusader, nhưng giá kỹ thuật nhập khẩu đẩy lên quá cao và cả Crusader lẫn XM-777 đều đắp chiếu. Năm nay khi Bush sắp xuống, Bush có gắng đưa ra một bản thay thế Crusader trước khi về vườn, thử nghiệm tháng trước như là đột phá đầu tiên của FCS. Tuy nhiên, chương trình không có j` mới cả so với Crusader và chỉ là đoạn phim quảng cáo rẻ tiền.
    Đức bỏ xa Mỹ cho ra PzH-2000. Bi h thì Đức không còn là thằng tù binh cúi đầu nữa nên nó chả vội j` bán cho Mỹ.
    ------------
    M114 155mm nòng ngắn CaL 23. Pháo nặng 5800kg, nhẹ hơn rất nhiều so với ML-20 kiểu 1934 (7,1 tấn) nhưng lại quá nặng so với kiểu M1955 D-20 nặng 5700 (nhưng là pháo nòng trung bình). Một nhược điểm dễ thấy là máy móc quá lộ, dễ tổn thương, nếu đem so với ML-20.
    Thậm chí nhà thiết kế không hiểu do bớt khối lượng hay quên mà không làm cái lá chắn. Lựu pháo nòng ngắn có vai trò quan trọng trong tấn công tiền duyên, dùng bắn trực tiếp chính xác vào công sự, vậy nên giáp diếc quan trọng.
    Đây là loại pháo thiết kế đúng nguyên lý chiến đấu duy nhất của Mỹ dùng trong chiến tranh. Tuy nhiên, ở chiến tranh kỳ quặc này lại không có chiến tuyến, để mà tấn công tiền duyên. Thực ra là khả năng chiến đấu của quân nguỵ quá kém để khi quân ta bắt đầu đánh chính quy thì quân nguỵ có khả năng tổ chức chiến tranh quy ước, có chiến tuyến và do đó có tiền duyên.
    [​IMG]
    [​IMG]
  3. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    fddinh hoành tráng nhẩy.
    Ông tổ của 152mm nòng ngắn Nga, 152mm công thành pháo kiểu 1904 M1904.
    Các khẩu công thành pháo Nga xuất hiện từ cuối Thế Kỷ 18 bởi Hội Đồng Khoa Học Pháo Binh, một tổ chức thiết kế vũ khí công cộng của Quốc Gia đầu tiên trên thế giới, tạo ra những "vũ khí phục vụ" đầu tiên, đưa pháo binh Nga lên dẫn đầu Thế Giới đầu Thế Kỷ 19. Tuy vậy, khẩu liền trước của M1910 không thay đổi j` nhiều so với khẩu Pháo Hội Đồng cuối Thế Kỷ 19 cả. Nửa sau Thế Kỷ 19 xã hội Nga suy đồi làm chậm phát triển mọi mặt.
    Khẩu liền trước của M1910 là khẩu Công thành pháo kiểu 1904. Nó dùng hãm tầm, giá pháo cổ lỗ của Thế Kỷ 18, chỉ khác ở gia công cắt gọt một số nơi, nòng xoắn, khoá nòng, thép. Kiểu pháo này là lớp kỹ thuật của thời điểm giữa Thế Kỷ 19.
    Pháo có các bộ phận rất cổ lỗ, nhưng cái nòng lại được các nhà toán học thiết kế rất tiên tiến. Pháo bắn xa 14,5km, 623 m/s, Cal 30 (khá lớn, có thể coi là loại nòng trung bình). Được sản xuất ở Quân Xưởng Perm với số lượng rất ít, 200 khẩu, sau được dùng đến thời Hồng Quân.
    http://www.jaegerplatoon.net/ARTILLERY1.htm
    Khẩu kiểu 1877 cũng 152mm có tỷ lệ chiều dài nòng CaL là 21, đạn nhỏ hơn chút, đây là kiểu cổ dùng thuốc cháy nhanh. Có thể nói, kiểu M1904 là loại nòng đặc trưng đầu tiên của pháo nòng ngắn Nga, có chiều dài nòng nình hơn phương Tây. Vào thời điểm năm 1904, tỷ lệ chiều dài nòng pháo chung còn rất thấp, CaL 30-31 của M1904 là loại pháo nòng trung bình khá rồi.
    Cuộc cách mạng thuốc phóng đẩy pháo diễn ra khoảng năm 188x. Anh-Pháp-Ý-Mỹ tìm ra và sử dụng những loại thuốc năng lượng cao không khói. Tuy nhiên, chỉ Đức mới chỉ ra ứng dụng của TNT, Nitro Xelluloz với thuốc viên rắn hình trụ rỗng có độ bền cao, phản ứng cháy điều khiển được và nòng dài. Cũng phải đến 1903 Đức mới thể hiện được phát minh của mình trong pháo. Phiên bản M1904 là câu trả lời trong sự ganh đua của các nhà bác học Nga. Đáng tiếc, khẩu pháo chỉ có cái nòng hiện đại, đặt trên thên pháo cổ lỗ.
    Các nước phương tây khác chỉ áp dụng kỹ thuật điều khiển phản ứng cháy vào những năm 193x trong súng lớn, còn súng nhỏ là sau Thế Chiến II. Tuy nhiên, thiếu các thuật giải bí truyền, phương Tây chỉ bắt chước hình dáng thuốc viên na ná Nga và Đức nên súng pháo đi sau rất nhiều.
    Sau Thế chiến II là thời kỳ phương Tây có điều kiện trội lên so với Đức bại trận, nhưng người Đức tuy có phận tù binh vẫn nhất định không chịu truyền kỹ thuật. Chỉ đến khi vai trò của Đức trong NATO khá mạnh, thì Đức mới format lại súng pháo phương Tây với các tiêu chuẩn điển hình như pháo tăng 120mm L44, L55 hay súng trường M16A2.
    Những lần thay đổi thiết kế tiêu chuẩn pháo nòng ngắn 152mm phương Tây và sự thay thế của nó thế chỗ các phiên bản pháo Mỹ M1 M2 M115, M107, M109... có nguyên nhân sâu xa là sự tăng cường vai trò của Đức trong NATO. Một phần không nhỏ là sự đóng góp của kỹ thuật Nga qua Đông Đức.
    Kiểu M1910 thừa kế kiểu M1904 thuật phóng trong và cái nòng, hãng Pháp sửa lại thiết kiế kiểu 1909 Nga rồi cung cấp lại các thiết kế về khoá nòng cho đến thân xe... coi như toàn bộ pháo M1910 thay đổi so với M1904, trừ mỗi cái nòng. Đặc trưng của cái nòng này truyền lại cho các thế hệ sau. Trong Tiếng Nga, người ta không gọi là Lựu pháo (Ray By Sa) mà gọi là loại pháo lai nòng trung bình "ray-by-Sa pu-s-ka" (гаfби?а-пf^ка=howitzer-gun). Đây là ***** của cỡ nòng trung bình sau này.
    http://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Collections_of_the_Military-historical_Museum_of_Artillery%2C_Engineer_and_Signal_Corps
    http://commons.wikimedia.org/wiki/Image:1-%D0%BF%D1%83%D0%B4%D0%BE%D0%B2%D1%8B%D0%B9_%D0%BE%D1%81%D0%B0%D0%B4%D0%BD%D1%8B%D0%B9_%D0%B5%D0%B4%D0%B8%D0%BD%D0%BE%D1%80%D0%BE%D0%B3_%D0%BE%D0%B1%D1%80%D0%B0%D0%B7%D1%86%D0%B0_1838_%D0%B3%D0%BE%D0%B4%D0%B0_%28%D0%BB%D0%B0%D1%84%D0%B5%D1%82%29.jpg
    http://commons.wikimedia.org/wiki/Image:1-%D0%BF%D1%83%D0%B4%D0%BE%D0%B2%D1%8B%D0%B9_%D0%BE%D1%81%D0%B0%D0%B4%D0%BD%D1%8B%D0%B9_%D0%B5%D0%B4%D0%B8%D0%BD%D0%BE%D1%80%D0%BE%D0%B3_%D0%BE%D0%B1%D1%80%D0%B0%D0%B7%D1%86%D0%B0_1838_%D0%B3%D0%BE%D0%B4%D0%B0.jpg
    Đây là khẩu công thành pháo 152mm kiểu 1904
    [​IMG]
    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/c/c8/6inch_200pood_siege_gun_hameenlinna_2.jpg

    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 21:26 ngày 03/08/2008
  4. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Kiểu Cồng thành pháo 152mm nòng ngắn M1910.
    152-мм осадная пf^ка об?аз?а 1910 года
    Các kiểu pháo nòng ngắn Nga và Liên Xô sau này phát triển từ khẩu Công thành pháo M1910. Lúc này, kỹ thuật khoa học và công nghiệp Nga còn kém, đặc biệt là giới chức cầm quyền dốt nát tham lam chỉ muốn mua hợp đồng bên ngoài cho gọn việc, không lo phát triển nội lực.
    Khẩu pháo do chính quyền Nga thuê Schneider (Pháp) thiết kế và sản xuất. Như vậy, khẩu nòng ngắn 152mm Liên Xô và khẩu nòng ngắn Mỹ chung một tổ tiên. Nhưng sau đó, cách phát triển hoàn toàn khác nhau. Công ty Pháp không thay đổi nhiều thiết kế Nga.
    Thực tế mà nói, kiểu Pháo này của Nga xuất phát từ cái nòng của kiểu M1904 và cái thân của kiểu M1909, kiểu M1909 152mm là kiểu pháo pháo đài, kém cơ động. Nhưng người Nga không phát triển tiền năng trong nước, mà thuê hãng nước ngoài, đây là hiện tượng thường thấy của những đêm trước cách mạng, những nhà cầm quyền thối nát thường bán rẻ cơ hội phát triển lớn của đất nước cho người nước ngoài để đổi lấy số tiền nhỏ bé cho riêng mình. Người Pháp đã cơ động hoá kiểu M1909 mà không thay đổi j` nhiều thành M1910.
    Pháo cũng không sản xuất nhiều, được dùng đến thời Hồng Quân, được Hồng Quân phát triển thành các kiểu 1934 và 1930. Sau này, phát triển thành một số loại pháo như M10, M10T (của KV), ML-20 lừng danh và một số loại khác. Tuy rằng, cấu tạo pháo thay đổi hoàn toàn. Phần máy lùi và đẩy về, cũng như càng giá sau này là phát minh xuất sắc của Hồng Quân. Quan trọng hơn chút là Hồng Quân đã format concept đúng cho pháo.
    Đây là kiểu lựu pháo nòng ngắn M1910, lắp cái nòng Cong thành pháo M1904 vào là ra cái Công thành pháo M1910.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Đây là M1909
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 23:58 ngày 03/08/2008
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Là cỡ thằng ku ôm viên đạn kìa cô ngực nhảy à.
    Giáo sư thì RPG, cô thì pháo, nhưng mà sao nghe giọng văn cứ như là 1 người vậy.
    Nào cố lên 2 mà 1, tích cực phổ biến kiến thức nào!
    Được fddinh sửa chữa / chuyển vào 21:01 ngày 03/08/2008
  6. daisycutter

    daisycutter Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/07/2007
    Bài viết:
    184
    Đã được thích:
    0
    Nếu là vợ chồng thì ai nói cũng đươc, giọng văn giống nhau giữa vợ chồng thì cũng là thường. Ít ra thì "cô vợ" này cũng giống "ông chồng" là cung cấp nhiều kiến thức cho người đọc. Còn bác thì xin lỗi, chỉ giỏi chọc ngoáy mà chẳng đưa được cái gì cho ra hồn.
    @mod: có quá lời thì mod để cho fddinh đọc xong thì xóa hộ mình.
  7. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Mod xóa đc rồi, còn bạn bom chùm, chỉ ra cái tôi chọc ngoáy bạn coi!
    Trong sự mênh mông ở đây, cái gì ra hồn thì chưa biết à nha, với bạn chả ra hồn, với người khác thì có hồn, vậy nên bạn nên rút kinh nghiệm, cũng nên xem lại ai đang chọc ngoáy ai nhé!
    Được fddinh sửa chữa / chuyển vào 21:54 ngày 03/08/2008
  8. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Các kiểu pháo nòng ngắn 152mm Xô Viết trueowcs Thế Chiến III và khẩu ML-20.
    Mục tiêu của chúng ta là khẩu ML-20, nhưng để hiểu rõ về nó, chúng ta cần xem nó đã ra đời như thế nào, những dòng pháo nào gần giống nó và tại sao có dòng phát triển, có dòng không.
    Kiểu M1910 trở thành cơ sở cho những phát triển lựu pháo Liên Xô. Đúng ra là 3 kiểu pháo, kiểu Công thành nòng dài 1910, kiểu lựu pháo nòng ngắn 1909 và 1910. Hồng Quân mất hơn 10 năm cho nội chiến và hồi sức. Phần Lan có được một lượng kha khá pháo khi tách khỏi Liên Xô. Trong gian đoạn giữa hai Thế Chiến, Phần Lan cũng tách một số lượng nhỏ chủng loại vũ khí ra các dòng khác, sau Thế Chiến II Phần Lan lại quay lại dùng vũ khí tiêu chuẩn Liên Xô, nhưng nhiều loại thuê phương Tây làm.
    Các cải tiến đầu tiên của Hồng Quân là thiết kế lại các khẩu M1909 và M1910, bản thiết kế được thể hiện cả ở việc hoán cải, sửa chữa pháo cũ và chế tạo pháo mới. Các bản M1909 và M1910 đều có hai bản, bản nòng rất ngắn (ảnh trên) là lựu pháo Howitzer, bản nòng dài là pháo lai, tuy rằng ngoài cái nòng ra thì thân xe lựu pháo thuần chủng và lai chả khác j` nhau. Các cải tiến này đều có tên 30, M1909/30 và M1910/30. Phiên bản M1910/30 chỉ có thêm chụp đầu nòng. Một số kiểu chụp đầu nòng cũng được thử nghiệm, kiểu khoan lỗ nhỏ lúc đó cũng được thử nghiệm nhưng không hiểu vì sao mãi gần đây mới dừng lại. Kiểu chữ V và chữ V nhiều tầng là học của Đức gần Thế Chiến II, trong chiến tranh gọi là chụp đầu nòng kiểu Đức. Đặc biệt, lựu pháo nòng ngắn và trung bình không dùng kiểu chữ T rất nguy hiểm, kiểu chữ T này xe tăng Mỹ vẫn còn dùng trong Chiến tranh Việt Nam.
    Cũng như M1910, kiểu M1910/30 vận chuyển cái nòng trên xe ngựa rời. Thời gian tháo nòng là 23 phút, lắp nòng là 15 phút. Pháo có máy hãm lùi và đẩy về, máng pháo từ kiểu M1909, được che kín. Một số cải tiến nhỏ là giảm chiều dài lùi (1000mm còn 950mm), hay di chuyển đai nòng pháo, thay đổi chiều dài càng và thân. Việc hoán cải pháo diễn ra đến năm 1935.
    Pháo M1910/30 được gọi là pháo bắn thẳng (пf^ка) chứ không phải lựu pháo.
    [​IMG]
    Kiểu pháo nòng ngắn M1909/30
    [​IMG]
    Cải tiến tiếp theo là phiên bản nòng trung bình 152 mm gun M1910/34, thể hiện ở việc chế tạo pháo mới. Lúc đó so với Anh Pháp Mỹ thì đây là loại nòng dài, còn Nga Đức là nòng trung bình, CaL 28 (chỉ tính phần đường đạn, các CaL ở đây đều như vậy). Đây là mẫu đầu tiên của ML-20 với các đặc tính điển hình, có thể nhìn thấy hai càng cân ngang rất đặc trưng của ML-20. Pháo có phần thân xe cải tiến lấy từ kiểu D-122mm, mnág pháo nhỏ gọn hơn. M1932 M1910/34 đuợc sản xuất hạn chế ở Quân xưởng Perm. Pháo là loịa pháo lai.
    Nhiều nhược điểm được phát hiện, trong đó có việc góc ngổng cao tối đa 45 độ không đủ để làm lựu pháo.
    [​IMG]
    Kiểu lựu pháo thuần chủng M1910 được cải tiến năm 1937 thành kiểu lựu pháo гаfби?а-howitzer M1910/37. Kiểu này chỉ nặng 2,7 tấn, CaL có 12 bắn xa 8km. Vào thời điểm này, việc tăng chiều dài pháo đẩy nhanh tốc độ, do xuất hiện các công sự kiên cố và xe tăng, гаfби?а-howitzer M1910/37 tuy rẻ nhưng không đáp ứng được yêu cầu. Kể từ đây, ở Liên Xô, các khẩu công thành pháo cũ có cỡ CaL 2x được gọi dần là гаfби?а-howitzer thay cho pháo lai.
    [​IMG]
    ML-20 do Fyodor Petrov lãnh đạo thiết kế là kiểu pháo lai xuất phát từ Công thành pháo kiểu 1910, cải tiến qua đời M1910/34. Vẫn đề ở đây chỉ là thừa kế tên gọi, thực chất, kiểu pháo lai M1910/34 khác biệt rất xa Công thành pháo M1910 và là nguyên mẫu ML-20 đầu tiên.
    ML-20 ban đàu nặng 7,3 tấn, nòng CaL 27,9. Pháo bắn đạn 43,6kg đi xa 17,23 km. Loại đạn nặng nhất đến 56kg. Quay ngang 58 độ và quay đứng từ -2 đến +65 độ.
    Pháo ML-20 có các chức năng: bắn gián tiếp trái phá sát thương, bắn trực tiếp trái phá sát thương và chống công sự, bắt trực tiếp chống tăng. Đạn xuyên động năng xuyên xe tăng 100mm ở xa 2km, quá tốt nhưng bắn mục tiêu di động không tốt.
    Đặc trưng lớn của pháo là bộ giá phức tạp nhưng rất khoẻ và tin cậy. Máy lùi và đẩy về đặt dưới máng pháo được che kín, hai bên là hai trụ đỡ chiều đứng dễ dàng cân chỉnh ngang. Máy lùi có chức năng tránh hãm ngay hỗ trợ việc chống tăng. Nhờ đó, pháo vừa có thể dùng như pháo cấp chiến dịch bắn trái phá tầm xa, vừa dùng như pháo chống tăng. Khả năng nổi trội của pháo là thừa kế khả năng công thành, pháo bắn chính xác công sự kiên cố, nhét vaò đấy trái phá rất lớn, các bộ phận của pháo được che chắn tốt để chiến đấu trên tiền duyên.
    Ngày mới ra đời, ML-20 được gọi là pháo lai, (152-мм гаfби?а-пf^ка o>-20 ), nhưng dần người ta gọi nó là lựu pháo. Điều này phù hợp với xu thế tăng chiều dài nòng của tất cả các loại pháo, theo những tiến bộ của cơ giới và thuật phóng trong.
    [​IMG]
    Dễ dàng so sánh pháo với kiểu 155mm M114 ra sau hơn nhiều, cơ cấu máy móc của M114 to lớn cồng kềnh và hoàn toàn lộ thiên. Nếu bạn nào có điều kiện quan sát bản vẽ cơ cấu M114 155mm dùng trong Chiến Tranh Việt Nam sẽ thấy cái máy lùi-đẩy về bằng piston trôi hết sức đơn giản, tin cậy, nhưng lực lùi không đều và không chính xác khi chống tăng. Tất cả các pháo Nga đều có cơ cấu cân bằng, lùi-đẩy về rất phức tạp-tuân thepo những yêu cầu nghiêm ngặt của chiến thuật, nhưng máy móc lại tin cậy và kín đáo.
    [​IMG]
    Chúng ta so ML-20 mới một số pháo khác
    M-10 và M-10T
    Đây là loại pháo danh tiếng, M10 là loại lựu pháo thuần chủng 152mm, nòng dài hơn loại M1909 CaL 12, M-10 có CaL 22. M-10T là pháo của xe tăng KV. Pháo được sản xuất trong chiến tranh với số lượng ít ỏi do khó khăn, nhưng được cả hai bên Đức Nga rất chuộng, được phục vụ trong quân Nga đến 2000. Khả năng dùng đạn rất rộng, từ đạn 152mm phương Tây cho đến các loại đạn Liên Xô.
    Pháo nhẹ hơn ML-20 nhiều, nặng 4,1 tấn. Đổi lại tầm chỉ còn 12,4km. Quay đứng như ML-20, ngang được 50 dộ.
    Pháo nhẹ do cấu tạo nòng, sau này được copy trong khẩu M1943 Đ-1 (152-мм гаfби?а об?аз?а 1943 года "-1).
    M10 được Hồng Quân phát triển từ năm 1930, đến năm 1931 đã có 8 mẫu thử. Pháo được phát triển theo yêu cầu ban đầu là kéo dài nòng của lưuh pháo M1909, M1910. Tuy nhiên, chương trình bị đình trệ vì kém cơ động và những người thiết kế chuyển sang chwưong trình khác. Fyodor Petrov nhận lại chương trình này và coi như làm lại toàn bộ năm 1937, 1938. Phần nòng của ông được thử nghiệm chọn phương án 18-25/10/1938.
    [​IMG]
    152 mm M1943 (D-1), đây là khẩu lựu pháo nòng ngắn (гаfби?а, howitzer), phiên bản tiếp theo của M-10. M-10 gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất nên chỉ Liên Xô, Đức và Phần Lan dùng. Phần Lan không nhập khẩu mà trong thời kỳ "triến tranh tiếp diễn", họ theo đuôi Đức chiếm được pháo. D-1 có phần thân của lựu pháo 122mm kiểu 1938 (M30) lắp nòng của M10, Fyodor Petrov chủ nhiệm thiết kế. Pháo tăng khả năng cơ động. Pháo nhỏ gọn nhẹ hơn M-10 (nặng có 3 tấn 7), được trang bị cho các đơn vị cơ giới và xe tăng.
    Khả năng quay ngang giảm xuống còn 35 độ.
    Kiểu xe của loại pháo này còn được lắp nòng chống tăng thành Đ-15 M1943 85mm.
    [​IMG]
    152-мм пf^ка M1935 (Br-2) , pháo nòng dài hạng nặng. Pháo hoàn toàn khác kiểu nòng ngắn và pháo lai trên. Tỷ lệ chiều dài nòng rát lớn lúc đó, đạt 7 mét/CaL 45,9 . Pháo có những phiên bản gắn động cơ đưa nòng lên thân xe T-28 và cả phiên bản pháo tự hành có giáp trên thân xe T-35.
    Phiên bản 1938 tăng chiều dài nòng lên CaL 55, phiên bản Br-19 và Br-21 180mm là những cải tiến sau đó. Pháo vấp phải vấn đề tuổi thọ nòng như là một số các pháo nòng dài khác của Liên Xô thời đó, phiên bản Br-19 nỗ lực dùng rãnh xoắn sâu ơn để khắc phục, nhưng thử nghiệm kiểu nòng xẻ rãnh sâu bắn yếu.
    Pháo được sản xuất ở Leningrad trước chiến tranh, trang bị ít. Tầm bắn đạn 49kg với kiểu rãnh nghiêng là 27km, rãnh sâu là 25km. Pháo nặng 18 tấn.
    Máy pháo có hiệu chỉnh cân bằng ngang, một máy kiêm chức lùi-đẩy về thẳng. Theo truyền thống Liên Xô, máy pháo được bọc kín.
    Đây là phiên bản pháo tương đương M1 M2 Longtom, có thể Br-19 dừng sản xuất do chiến tranh, nhưng bất kể lỹ do nào, thì Hồng Quân đã thay thế loại này trước Lòng Tôm 30-50 năm.
    [​IMG]
    ISU 152mm
    Hồi Kháng chiến, Mỹ đưa vào sử dụng kiểu M109. Quân ta cũng được viện trợ khẩu tự hành nòng dài ISU-85mm, không hiểu có dùng trong kháng chiến không. Ở đây nói đến cỡ nòng 152mm nên nói đến ISU, SU-152mm. Cả hai đều là pháo ML-20s đặt trên xe bọc thép, ML-20s là phiên bản có nòng ML-20 nhưng đặt trên xe. ISU là thân xe IS, SU là thân xe KV. Cả hai đều là dạng pháo tự hành, không có tháp pháo quay, góc quay ngang khi xích đứng yên.
    Bản thân xe tăng KV-2 gọi theo định nghĩa đúng cũng là khẩu pháo tự hành.
    ML-20 có khả năng chống tăng tốt, nó có sơ tốc thấp nên khó bắn mục tiêu di động hơn. Nhưng bù lại, đạn rất nặng, ít bị giảm sức xuyên theo tầm hơn là Đ-44 85mm và các pháo nòng dài khác, ở 2km nó xuyên 100mm. Khả năng cơ động của pháo tự hành dĩ nhiên là thấp hơn xe tăng, nhưng khả năng phục kích thì không thua.
    Vào giữa chiến tranh, đạn pháo của ML-20 nhiều khi đập vào thế không xuyên được, nhưng phát nổ thổi lật tháp pháo Tiger. Đến cuối chiến tranh, Đức khan hiếm Mangan, chuyển sang sử dụng loại hợp kim carbon cao-nicken, hợp kim này cứng, chịu áp lực tốt nhưng qúa giòn. Với hợp kim này đạn ML-20 thường gây một vết vỡ to như thuỷ tinh vỡ. Trong thời điểm trận đánh Kursk thì xe pháo Liên Xô tụt hậu trước giáp Tiger, ML-20 là một trong số ít loại pháo trụ được, tuy nhiên, cỡ nòng 152mm lúc đó tỷ lệ quá ít.
    Công dụng đắc lực nhất của pháo tự hành bọc thép là tấn công tiền duyên, còn gọi là pháo tấn công. SU có vỏ trước 75mm, ISU 90mm, chống được phần lớn các pháo Đức ngoài tầm 1km, ví dụ PaK 40 75mm chống tăng. Chỉ có một số loại pháo Đức thiết kế sau, số lượng ít mới đối kháng được.
    Trong khi đó, pháo bắn rất chính xác vào các công sự từ tầm bắn 4km
    Ta có thể so sánh với M109. M109 hiện đại hơn có tháp pháo quay. Nhưng M109 bọc thép nhẹ, quá yếu để ra tiền duyên. Pháo CaL 19 lại quá ngắn để ở hậu duyên. Người Mỹ thì luôn luôn sai concept. Sau này, khi Msta rồi PzH 2000 xuất hiện thì Mỹ cũng cải tiến cải lui M109 theo hướng kéo dài nòng. Nhưng cho đến nay các khẩu Paladin vẫn chỉ có cỡ nòng trung binh CaL 3x.
    Người Mỹ tính rằng cái giáp mỏng tang của M109 hơn cái lá chắn của ML-20. Họ tính thiếu một điều là các ĐKZ, B40, B41 đầy toét và tiền để làm một cái xe giáp mỏng thà làm một đống pháo. Gọi là ở tiền duyên nhưng ML-20 ở các địch đến 3-4km tối thiểu. Còn đã bọc giáp vào mà ở tầm đó thì 10 khẩu 155mm nòng ngắn hơn đứt một chú M109.
    Nếu để ISU-152mm và M107 Vua chiến trường đối kháng. Điều này là cập cợi, vì M107 là pháo bắn diện tích, ISU là pháo bắn chính xác. Tuy nhiên, nếu có cuộc đấu tay đôi như vậy thì M107x vẫn chạy toé khói. ISU tầm ngắn hơn cữ ủi đến gần, xác xuất bắn trúng nóc của M107 không đáng kể. Đến gần rồi thì ISU bắn cách M107 100 mét cũng làm liệt địch.
    http://www.battlefield.ru/index.php?option=com_content&task=view&id=61&Itemid=45
    http://www.onwar.com/tanks/ussr/fsu152.htm
    Tóm lại, Liên Xô đi trước quá nhiều Mỹ về cỡ pháo nòng trung bình và kiểu pháo nòng ngắn tiền duyên. Kiểu pháo nòng ngắn tiền duyên tự hành về sau Liên Xô và Nga sản xuất rất nhiều. Đến Chéc 2 1999 thì họ huy động một lượng lớn các xe như vậy tham chiến. Khả năng chống công sự các loại, tức là chức năng "pháo tấn công" vẫn luôn nổi trội 60 năm qua.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 08:08 ngày 04/08/2008
  9. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Vụ cối 60 em nghĩ là kô sao vì tay mẽo kia chắc là Special Force có lẽ nó cũng phải có gì hơn người!
    Cũng có thể nó cần bắn nhanh kô thì Charly vọt mất
  10. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Chỉ bắn doạ được thôi, vì cầm tay độ chính xác không đáng kể. Trong chiến tranh quân ta bắn cối 60 không giá nhiều chứ.
    --------------------
    Quay lại với pháo.
    ML-20 được dùng khá nhiều trong chiến tranh. Tóm tắt lại, nó ban đầu là khẩu pháo bắn trực tiếp (Công thành pháo kiểu 1904), tuy nhiên, do xu thế kéo dài nòng của tất cả các loại pháo mà ML-20 dần chuyển thành lựu pháo, còn tỷ lệ cỡ nòng 12 của khẩu lựu pháo cùng thời M1909 thì sau chuyển thành sơn pháo rồi súng cối. Đến thời điểm nó ra đời thì ML-20 vẫn là pháo lai, гаfби?а-пf^ка, chức năng bắn điểm chính xác (пf^ка-gun-bắn trực tiếp) đến 1999 tỏ ra cực kỳ cần thiết, tuy nhiên người ta ít làm các khẩu ngắn hơn nó và như vậy, ML-20 có tỷ lệ nòng thấp nhất thời hiện đại và là гаfби?а (howitzer, lựu pháo bắn gián tiếp), các gọi chỉ là theo hình thức truyền thống thôi, chứ nội dung lệch nhiều. Đối diện với ML-20 trong Kháng Chiến chống Mỹ là M114 155mm nòng ngắn.
    Mỹ đi sau VC một bậc về pháo, VC tuy là em út Liên Xô nhưng Mỹ lại tụt quá xa nên em út Liên Xô vẫn cứ hơn Mỹ, đó là nghịch lý. Mỹ chỉ có thể hơn pháo về số lượng, về trận địa cố định, cơ giới... còn chất lượng và cơ cấu chủng loại thì kém xa.
    Riêng về lựu pháo nòng ngắn, M114 thay thế M1 105mm (pack gun) rất chậm. Lực lượng pháo nòng trung bình và ngắn của Mỹ vẫn chủ yếu là Longtom, thứ pháo đã quá lạc hậu mà Liên Xô đã bỏ từ Br. Mà M114 cũng có tỷ lệ CaL khá cổ, loại tương tự mà M-10 Liên Xô đã ngừng sản xuất từ lâu. Tuy Liên Xô và VC gọi ML-20 là nòng ngắn nhưng nó lại là loại nòng trung bình của Mỹ, mặc dù tuổi thọ của ML-20 hồi Kháng CHiến cũng không còn là nhi đồng nữa.
    Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ mới bắt đầu tiến trình hiện đại hoá pháo. Nhưng phải do nhập khẩu kỹ thuật nên tốc độ này rất chậm, chủ yếu là đợi các tiến bộ đạn đạo từ Đức, sau đó các công ty châu Âu thiết kế các kiểu pháo cụ thể. Hậu duệ của Longtom M115 chỉ bắt đầu thay vào thập niên 199x. Mặt khác, format kiểu nòng trung bình Đức lại bị BAE của Anh ném xiền vào dự án viển vông XM777, nên ngày nay Mỹ vẫn chủ yếu là M114 nòng ngắn tũn và vẫn còn chú su mô Longtom. Trong khí đó một số nước Bắc Âu thân Đức đã có cỡ nòng trung bình từ 197x.
    Vào 197x thì cỡ nòng trung bình dưới ở Liên Xô như ML-20 đã khá lão làng, kiểu mới Đ-30 có tỷ lệ chiều dài nòng lớn hơn cũng đã trang bị rộng. Liên Xô cũng đã bắt đầu trang bị kiểu pháo tầm xa mới 2S36 (1971).
    Vì là pháo lai nên đặt ML-20 lên pháo tự hành bọc thép nhẹ để làm lựu pháo tầm xa hay đặt trên xe bọc thép nặng làm pháo tấn công đều được. Các xe bọc thép nhẹ có đặt ML-20 rẻ hơn nhiều so với pháo tầm xa nòng dài như Msta. Tuy vậy, ngoài ưu thế là nhẹ và rẻ thì các xe bọc thép nhẹ như 2S3 không có j` nổi trội. 2S3 dùng khá nhiều trong chiến tranh Chec 2 1999 và rất đắc dụng. Để chống chiến tranh đường phố, nói chung là đánh công trình của du kích, một khẩu pháo tự hành có bọc thép nhẹ là hiệu quả nhất, tuy nhiên, không vì thế mà Nga tăng số lượng 2S3, vì loại xe như vậy quá yếu trong chiến tranh thật.
    Theo lời bác Đoành thì pháo trong Kháng Chiến Chống Mỹ của ta chủ yếu là ML-20. Rất có thể như thế. ML-20 thật ra cũng không sản xuất nhiều, đâu như 8-9-10 ngàn khẩu. Sau Thế Chiến II, viện thiết kế pháo Fyodor Petrov đưa ra cải tiến mới, thường được gọi là Đ-20 (phương Tây gọi là M1955, M55), đây mới là phiên bản sản xuất nhiều của ML-20.
    Đ-20 kép dài nòng ra một chút, nhưng phần nòng có rãnh xoắn lại ngắn lại. Tổng chiều dài nòng là 5.195mm (ML-20 là 4.405 mm). Phần rãnh xoắn dài 3.800mm, trong khi ML-20 là 4.240mm . Cải tiên lớn là khoá nòng trượt đứng bán tự động, dùng năng lượng khối lùi. Nhờ đó, đỡ mất sức pháo thủ và tốc độ bắn đều hơn. Kiểu khoá nòng của ML-20 là khoá nòng ren cắt truyền thống. Tốc độ bắn của Đ-20 tăng lên một chút xấp xỉ tốc độ bắn của M46. Nếu thay nạp đạn liên tục thì tốc độ bắn ngang với M46.
    Kiểu khoá nòng trượt đứng các loại lúc đó được áp dụng vào pháo rất nhiều và áp dụng được ưu tiên trên xe hơn. Tuy nhiên, người Mỹ sau lúc đó làm M109 vẫn là ren cắt, Mỹ chỉ nhập khẩu được kỹ thuật này và thay thế súng pháo rất chậm từ cuối 197x. Khoá nòng trượt đứng tin cậy, bền và dễ dàng cơ khí hoá-nạp đạn tự động. Khoá nòng ren cắt có ưu thế là có thể làm phần nòng bằng thép yếu dễ kiếm, khoá nòng ren cắt làm súng pháo nhẹ đi một chút, nhưng với xu thế tăng chiều dài nòng thì tỷ lệ khối lượng phần ổ đạn và khoá nòng giảm khồng còn quan trọng nữa.
    Phần xe giống như của Đ-74 122mm, phần máy lùi và đẩy về đã thoát khỏi cái máng pháo cổ điển từ M1909. Đ-20 sử dụng kiểu máng pháo hình ống, thay cho kiểu máng pháo ray trượt. Cái cột trụ cân bằng ngang cũng biến mất, chức năng cân bằng ngang thực hiện trên ngần ngáng giá. Máy lùi và đẩy vê fsử dụng kiểu phổ biến của Liên Xô cho lựu pháo thời đó, vẫn phổ biến đấy nay, gồm hai máy lùi và đẩy về rời nhau. Máy lùi có điểu chỉnh tiết lưu, qua đò làm đều lực hãm và giảm chiều dài lùi, máy đẩy về khí nén đơn giản.
    Nhìn chung, phần giá pháo và khoá nòng hoand toàn khác, phần buồng đốt kéo dài cho đạn mới, thay máy lùi và đẩy về. Giữ lại càng, bánh, trục ngang. Một thay đổi lớn nữa là hệ thống quang.
    Một loại đạn mới cho phép bắn đến 24km, trong khi các loại đạn cũ bắn 17,4km vẫn dùng. Việc tăng chiều dài nòng chủ yếu phục vụ các loại đạn mới dài hơn và tăng độ bền nòng. Pháo bắn được đạn tự hành có điều khiển, cả hai loại dùng GPS chống công trình và chính xác cao chống xe cộ.
    Kiểu Đ-20 rất phổ biến, thấy bảo cũng có đến Vịt, không hiểu nó và ML-20 số lượng bao nhiêu. Kiểu "66 thức" của Tầu thay đổi một chút thiết kế, giảm góc quay đứng xuống +45/-5 , (so với -5° to 63°) , góc quay đứng của Tầu là kiểu của M-1910/34, phiên bản nguyên thuỷ nhất của ML-20.
    http://www.sinodefence.com/army/artillery/type66_152mm.asp
    Chuyện ML-20 và Đ-20 pháo nào vào ta lúc nào bao nhiêu thì chịu, phải hỏi bác đoành.
    Trong Bảo tàng Pháo binh Xanh-Pertecbur còn trung bầy đủ tất cả các đời pháo. Từ khi chưa format loại "công thành pháo dã chiến", cho đến phiên bản công thành pháo M1838 192mm của Hội Đồng Khoa Học Pháo Binh, rồi phiên bản M1877 cả hai loại Công Thành Pháo và Lựu Pháo, Rồi phiên bản M1904, M1909 và M1910, M1910/34, M1910/37 (ML-20)... Một số version được trung bầy ở Bảo tàng Quân sự Phần Lan. Vùng Phần Lan thời Nga Hoàng vẫn là tiền duyên đối phó với Thuỵ Điển, một kẻ thù lâu đời, nên có lực lượng pháo binh khá mạnh, sau này Phần Lan tách ra quân đỏ đánh không được, nhưng vẫn tự hào với truyền thống súng ống Nga, thậm chí nó vẫn đùn đạn AK.
    Lựu pháo và Công thành pháo đều bắn đạn đường kính lớn nên phát triển song song, phiên bản Lựu pháo nòng ngắn 1x sau cải tiến lần cuối 1937 đã không còn sản xuất nữa, nhập chức năng vào ML-20.
    Nhìn lại suốt lịch sử phát triển của ML-20, thấy nhiều chiện. Ví dụ, khi mà đất nước huy động nội lực phát triển, thì nhanh chóng cường thịnh, Hội Đồng Khoa Học Pháo Binh, nới format thủy tổ của lựu pháo và lựu pháo công thành, tồn tại cùng thời với các chiến thắng trươcvs Nã Phá Luân và Thổ. Thời kỳ mạt là M1910, những người cầm quyền bán các cơ hội phát triển khoa học và các hợp đồng béo bở cho ngoại bang, đấy là điềm báo trước của cách mạng.
    Câu chiện xuyên suốt trong lịch sử ML-20, Đ-20 là pháo binh Nga dù mạt hay phát, đều đứng đầu pháo binh thế giới. Kể cả khi mạt nhất không làm được khẩu pháo họ cũng thiết kế được cái nòng tiên tiến nhất thế giới.
    Ganh đua chủ yếu với Nga là nước Đức, tuy nhiên, thế mạnh của Đức lại là pháo nòng dài, còn Lựu pháo ML-20 là đặc sản của Nga. Một số nước Bắc Trung Âu thân Đức như Áo, Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan, sau này có Bỉ thường dược tiếp cận với súng pháo Đức sớm hơn. Còn Anh-Pháp-Mỹ-Ý thường tụt hậu quá xa. Riêng về pháo cỡ nòng trung bình thì đến nay, sau M1910/34, hay là Ml-20 1937... đã được 70 năm, Mỹ vẫn còn viển vông đợi khẩu XM777 làm bằng titan.
    Lại nói đến titan. Ngày xưa Liên Xô và Đông Đức nắm nhiều bí quyết công nghệ luyện kim bột, nên giá titan ở XHCN rẻ hơn, trong khi đó nguồn nguyên liệu làm ra cái này chủ yếu ở Mỹ, Nam Phi và Úc, thức ra phần lớn nhất của titan là ở đáy biển chung. Sau khi Liên Xô đổ thì các chuyên gia Ucraina bán tống bán tháo cả tintan thành phẩm lẫn công nghệ. Điều đó làm giá titan rẻ đi nhanh ở phần còn lại của thế giới. Lúc đó, một số người viển vông đã nghĩ titan về sau này rẻ như bèo, nên mới có chú XM777. Tóm lại là sau khi Đức và Thuỵ Điển có pháo nòng trung bình 155mm được 30 năm thì anh Mỹ vẫn ngồi mơ hoang.
    Đánh đến cả anh Vịt mà vẫn phải đem lòng tôm ra chiến với ML-20 thì nhất Mỹ.
    [​IMG]
    VC ????
    [​IMG]
    Tuy vậy, pháo cấp quân khu quân đoàn VC lại dùng 122mm phổ biến hơn. Đây là loại pháo lai có CaL cao hơn ML-20. Đạn pháo nhẹ hơn nhưng chống tăng tốt hơn, tốc độ bắn cao và pháo rất cơ động.
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 10:21 ngày 04/08/2008
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này