1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kháng chiến chống Mỹ và những điều chưa biết

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dongadoan, 23/06/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Về cối thì bắn kô giá nhà mình còn dựa vào cái gì nó vững chắc 1 tí để còn sau đó chỉnh lại, chứ bắn bằng tay như bên kia là quá tài tử.
    Còn về pháo nhà bác hai hôm nay em đọc nhức hết cả đầu, mãi mới thấy là lặp hơi nhiều,
    Tiện đây cho em hỏi lun là hồi đó Mẽo gọi cả B-52 vào đánh hội đồng mà vẫn thua là thế nào vậy? Bác giải thích hộ em được kô?
  2. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    to P20, thế mất cái chân mà cần bắn thì làm thế nào.
    ------------------
    M109 được dùng trong chiến tranh Việt Nam. Thành tích của nó ở chiến trường thì chả có j` đáng nói, thậm chí tài liệu và sự tham chiến của nó rất ít, cái này thì lại hỏi bác Đoành
    Người Mỹ khi nói về 2S3 Akatsiya thường đế thêm một câu, rằng đó là câu trả lời của Liên Xô cho M109. Nguời Mỹ bao h cũng thế, trông trong môi trường dày đặc quảng cáo và phần đông, không ít thì nhiều đều ngộ độc. Chính sự quảng cáo dày đặc của các hãng làm vú khí Mỹ không được format bởi xcác nhà bác học hay các chiến binh, mà bởi hàng đống đàn bà trẻ em chứ từng biết đến chiến trận, nhưng suốt ngày xem phim truyền hình.
    M109 và 2S3 Akatsiya đều là các pháo tự hành đặt trên các xe bọc thép nhẹ. Tuy nhiên, chúng phát triển khác nhau và thiết kế với mục tiêu khác nhau. M109 tuy ra trước, nhưng là một thiết kế sai concept (nguyên lý chiến đấu), và chính nó được thực tế, cũng như 2S3 Akatsiya, cũng như các xe của chính các đồng minh Mỹ... chứng minh là sai, và phải sửa lại ở phiên bản M109A1. Cái sai nguyên lý ở các phiên bản M109 nguyên thuỷ chính là cỡ pháo, chúng trang bị loại pháo có CaL 19, là loại pháo chỉ có thể dùng ở tiền duyên bắn công sự vì tầm quá ngắn, trong khi đó giáp xe lại không cho phép ở tiền duyên. Làm j` với một con kỳ đà liều lính xông lên trận tiền trong khi đạn súng phòng không hạ nòng 37mm bắn liên thanh cũng xuyên. Cơ giới hoá pháo mà làm j` trong khi lại phải bố trí thêm lực lượng bảo vệ nó.
    Cái khó với Mỹ là họ luôn trốn tránh cuộc chiến với những nước mạnh, chỉ đuổi du kích, mà phầng lớn lại bị du kích phang lại chạy. Vì vậy, thật khó để người Mỹ nhìn thấy thất bại rõ ràng. Ngay cả trong chiến tranh Việt Nam, cũng không tìm đâu ra mặt trận chính quy để pháo M109 xông pha diệt công sự địch. Trong khi đó, đối phương rất nổi tiếng khả năng chống tăng.
    Đây là chú nòng tũn CaL 19. M109 nguyên thuỷ năm 1963, đây chính là loại được đem đến nhà Vịt. Khẩu súng M126 lắp trên giá súng M127. Trong cái trang oẹp này bọn chúng viết cũng bố láo
    "M126 gun mounted in a M127 howitzer mount." Gun mà lại thượng lên howitzer . Gun được hiểu là loại súng pháo bắn trực tiếp, howitzer được hiểu là loại lựu pháo bắn gián tiếp. Sau này hai khái niệm lẫn lộn nhưng không ai gọi pháo CaL 19 là gun hết, cũng như không ai lấy gun để lên howitzer. Thế nhưng cái câu trứ danh này được lặp lại khá nhiều ở thời buổi CTRL.
    M109 được chấp nhận trang bị năm 1963 từ dòng các mẫu thử T196, T196E1. Đến năm 1973 thì được thay bởi Phiên bản M109A1 có pháo nỏng nhỉnh hơn chút. Đến phiẩn bản M109A2 năm 1979 thì A2 lại kéo dài ra, rồi A3 A4 lại thay pháo. Đến tận những năm 199x thì Mỹ mới format lại concept cho xe, mới đạt yêu cầu và đổi tên là Paladin (A6). Từ phiên bản A5, A5, xe dùng pháo có chiều dài nòng trung bình CaL 39.
    Nhiều chú Mỹ nước quá yêu nước thì nói M109 là thuỷ tổ của pháo Anh Pháp Đức....... Trong khi đó, các nước thân Đức đã chuyển sang pháo nòng trung bình được 30-40 năm thì Mỹ vẫn còn viển vông với XM777. Những nước Châu Âu thân Đức đã sử dụng loại pháo PzH 2000 có nòng dài CaL trên 50, theo bước Msta đã lâu, nhưng mấy anh Mỹ vẫn nói PzH 2000 là bản sao của M109.
    So sánh. ML-20 đã dùng cỡ nòng trung bình từ lâu, đến những năm sau Thế Chiến thì Liên Xô cũng đã format cỡ nòng trung bình khá hơn ML-20 (CaL 3x), áp dụng trên cả các pháo kéo và pháo tự hành. Ngay cả phiên bản cải tiến M-55 Đ-20 cũng là cỡ nòng CaL 3x. Khi sử dụng pháo nỏng ngắn, thì Liên Xô cũng từ lâu dùng giáp dầy như SU. Các nước thân Đức cũng có thể dùng loại xe share phụ tùng với M109, nhung không ai dùng pháo nòng tũn như thế cả. Đến khi M109 có cỡ nòng trung bình (Paladin) 199x thì loại pháo tự hành giáp nhẹ nòng dài đã xuất hiện nhiều như Msta Liên Xô-Nga hay PzH-2000 Đức.
    Về máy súng, đến tận phiên bản hiện đại nhất A6 M109 vẫn dùng kiểu khoá nòng ren cắt thao tác thủ công hết sức lạc hậu, chỉ thích hợp cho pháo kéo. Trong khi đó, ngay cả pháo kéo M-55 Đ-20 đã dùng khoá nòng trượt đứng bán tự động. Phiên bản 2S3 nguyên thuỷ năm 1971 dùng một bản cải tiến của M-55 Đ-20 có mã Đ-22, khó nòng giống hệt, nhưng đến kiểu 2S3M nắm 1975 đã có trống nạp đạn băng bán tự động 12 viên. Các Msta và PzH-2000 đều có hệ thống chuển vận nạp đạn tự động hoàn toàn, ổn định bắn trong khi di chuyển và bắn theo chương trình.
    Kết quả duy nhất mà M109 thu được từ chiến trường là người Mỹ biết nó sai concept và kéo dài nòng. Tuy nhiên, phải phụ thuộc vào kỹ thuật nhập khẩu nên việc kéo dài nòng diễn ra lắt nhắt, chậm và chia thành nhiều bước.
    M109 155mm M126 cannon Turret - M127 mount; double baffle muzzle brake 28
    M109A1 155mm M126E1/M126A1 cannon Turret - double baffle muzzle brake 28
    M109A2/A3/A4 155mm M185 cannon Turret - M178 mount; double baffle muzzle brake 34
    M109A5 155mm, 39 caliber barrel length, M284 cannon Turret - M182 mount; double baffle muzzle brake 34
    M109A6 155mm, 39 caliber barrel length, M284 cannon Turret - M182A1 mount; double baffle muzzle brake; advanced bore evacuator 39
    All .50 Cal M2HB machine gun Turret top; flexible; belt-feed 500
    http://www.inetres.com/gp/military/cv/arty/M109.html
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 15:21 ngày 04/08/2008
  3. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    QGP nhà mình thì lột dép râu làm đế mà, dùng chạc cây, bờ đất làm càng.
  4. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Thật ra, khi đánh Chec 2 năm 1999, Nga sử dụng khá nhiều 2S3 chiến với concept pháo nòng ngắn tũn, lực pháo tiền duyên chống công sự, đúng hệt chức năng của công thành pháo cổ hay lựu pháo cổ. Dùng như thế vì du kích Chec cũng không phải là quân chính quy nên 2S3 hạ nòng ra trận tiền. M109 và 2S3 đứng cách mặt trận độ 3-4km mà nã công sự thì đỉnh. Hồi Kháng chiến đánh Tây nhà ta có độ ít khẩu này thì đồn Tây lạy như tế sao. Cứ đứng từ 3-4km mà nã bộc phá.
    Tuy vậy, không vì thế mà Nga chuyển pháo tũn cho 2S3 và các pháo khác như Msta. Đánh Chéc thắng hay thua không thể làm thay đổi các kế hoạch tích luỹ pháo đề phòng đánh lớn.
    Đây là cái khoá nòng ren cắt thao tác thủ công của M109
    [​IMG]
    Đây là chú tũn trên xứ sở của Vịt. So sánh với ảnh trên link tớ đưa trên thấy thực tế có một điểm khác biệt. Đó là trong cái ảnh này, M109 vẫn dùng kiểu đầu nòng chữ T. Đầu nòng là thiết bị phân tán luồng khí, tránh ánh chớp, tránh luồng khí tập trung thổi một lượng bụi lớn lộ hàng. Đầu nòng chữ T thổi hai luồng chụm sang hai bên, rất dễ giết chết người đứng gần.
    Trong tranh vẽ tớ bốt trước và link, thì M109 Vịt dùng đầu nòng V, đây còn được gọi là kiểu đầu nòng Đức, Liên Xô áp dụng trong Thế chiến II. Như vậy, hình vẽ đã cải tiến chút M109 cho đỡ quê, Thật ra thì trong chiến tranh Vịt, cả xe tăng Mỹ vẫn dùng đầu nòng T, nhưng chế Mỹ lạc hậu về súng pháo thì có mà chê rụt lưỡi không hết việc.
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 15:42 ngày 04/08/2008
  5. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Thật ra thì lựu pháo 152mm ML-20 (M1937) và Đ-20 (M1955) ít được dùng, quân ta nghèo mà, Liên Xô có viện trợ thả phanh cũng không kiếm ra đủ điều kiện để dùng.
    Lực lượng lựu pháo chủ yếu của quân ta là các khẩu 122mm. Hồi Kháng chiến đánh tây, quân ta chủ yếu là các khẩu sơn pháo cổ lỗ nhất quả đất. Cuối chiến tranh này mới có một vài khẩu lựu pháo 105mm M101 (M2) Mỹ viện trợ cho Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, ta dùng chủ yếu khẩu M-30, lựu pháo tiền duyên Liên Xô kiểu 1938.
    Tuy vậy, quân ta vẫn ưu thế hơn chán vạn Mỹ, lựu pháo chủ yếu của họ vẫn là M101 (M2) 105mm, thuộc loại pháo nhẹ. Mãi sau họ mới có M114 155mm, nhưng tiến trình thay đổi pháo rất chậm. Các khẩu pháo khác của Mỹ nguỵ đều sai concept-nguyên lý chiến đấu, dẫn đến chiến đấu rất tồi. Chỉ có 2 khẩu này nào tác chiến được ở tiền duyên.
    Lại phải hỏi bác Đoành, không hiểu các loại 122mm về ta như thế nào. 122mm Nga và Liên Xô cũng được format từ Hội Đồng Khoa Học Pháo Binh Thế Kỷ 18. Phần thân xe được hiện đại hoá năm 1909, 1910 giống như kiểu 152mm. Tuy vậy, Nga Hoàng cũ rất ít phát triển các phiên bản nòng dài. Đến Liên Xô, phiên bản nòng dài 122mm được thiết kế đầu thập niên 1930 (A-19) và hoàn thiện trong thập niên đó, làm cơ sở của phần xe lựu pháo nòng ngắn 152mm luôn. Phần thân xe và máy móc của các loại lựu pháo 122mm thì ít thay đổi, mặc dù tỷ lệ chiều dài nòng tăng dần.
    Trong Thế Kỷ 18-19 loại 122mm là loại lựu pháo dã chiến chủ yếu của người Nga. Các loại Lựu Pháo dã chiến Nga xuất hiện nhiều cuối Thế Kỷ 18, sử dụng loại xe có bánh xe bò và càng hai tấm phổ biến từ đầu Thế Kỷ này. Cuối Thế Kỷ 18, Nga format những khái niệm ngày nay vẫn dùng, bao gồm các loại lựu pháo của lục quân: loại nhẹ nhất là sơn pháo, rồi lựu pháo dã chiến dùng bộ binh đẩy theo trận đánh, loại lựu pháo trận địa nằm trong công sự, rồi các loịa lựu pháo trên tầu và pháo đài. Các khái niệm này sau đó lan truyền và trở thành các sơn pháo, dã pháo, lựu pháo... sau này.
    Sau Thế chiến, Liên Xô format 2 loại lựu pháo 122mm là khẩu Đ-74 và Đ-30. Theo kinh nghiệm của Thế chiến II, kiểu pháo nòng dài trung bình làm được nhiều việc và như vậy tăng số lượng đầu pháo làm được mỗi việc mà không tăng tổng số đầu pháo. Việc ta nhậu khẩu 2 loại pháo này thì lại phải hỏi bác Đoành. Bi h, 2 loại này có rất nhiều trong biên chế, nhưng hồi Kháng chiến chống Mỹ thì chắc M30 vẫn là chủ yếu.
    Cũng không nhầm kiểu lựu pháo M30, Đ-30 với kiểu pháo tăng Đ-30 122mm. Trong Pháo Binh Nga, M ký hiệu là Lựu Pháo bắn cầu vồng nòng ngắn, Đ là pháo bắn thẳng nòng dài. Nhưng thời gian phát triển làm thay đổi các khái niệm ngắn dài cong thẳng và chúng lễn vào nhau. Đ-30 lựu pháo là loại pháo đa năng, đúng hơn là lựu pháo hiện đại có tỷ lệ chiều dài nòng CaL 3x, gọi Đ chỉ theo truyuền thống, vì xưa kia, tỷ lệ đó là của Đ chứ không phải M. Còn Đ-30 122mm năm 1944 là một khẩu pháo xe tăng, được thiết kế như là một hiện đại hoá của Đ-25 dùng cho IS.
    Lựu pháo dã chiến của Lân Binh Nga kiểu 1805, 122mm
    [​IMG]
    Sơn pháo của Lân Binh Nga kiểu 1805, 122mm
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 03:41 ngày 05/08/2008
  6. SSX

    SSX Guest

    Bác Phúc xem không chỉ đạn AK, đạn pháo BMD-4 cũng vừa bay vừa ngoáy ngoáy này.
    Hay là nó bắn tên lửa?
    http://rutube.ru/tracks/563971.html?v=8ac009b8d38655412dbbec33e0d37918
    Cảnh anh lính Mỹ này bắn RPG thì không nhịn được cười
    http://rutube.ru/tracks/570122.html?v=a0a4af111580c5e54677be907f64694c
    http://rutube.ru/tracks/395379.html?related=1&v=a70812383d67750021919cf4f250d527
    Nhà em thấy pháo binh cọng hành dù sao vẫn còn ùng oàng được vài trận.
    Dở nhất có lẽ là hải quân. Năm 1975, suốt dọc bờ biển miền Trung, hình như
    chẳng bắn được trận nào ra hồn, lo mỗi việc di tản thì phải.
    Được SSX sửa chữa / chuyển vào 01:15 ngày 05/08/2008
  7. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    To SSX, kể cả đạn phản lực, tên lửa chống tăng hay đạn đạo, trái phá đạn pháo.... đều quay chứ.
    Về pháo binh, pháo binh Mỹ nguỵ hoạt động nhiều hơn ta, nhiều gấp hàng trăm lần chứ không phải chỉ một vài lần. Tuy nhiên, pháo định dùng bừa bãi mà lười thực hiện các thao tác chiến thuật, như bố trí lại, di chuyển, trinh sát... Đánh bừa thì nhiều, mỗi khi có chiến sự thật sự mà ta dùng đến pháo binh thì lại tịt ngóp.
    Hải quân kiêu hùng và không quân kiêu sa của nhà em út hàn triệu thì khỏi nói. Không quân còn chưa hề không chiến cơ. Hải quân thì chỉ dùng thuyền nhỏ bám đuôi Mỹ, đến khi Mỹ chạy thì bạn nói đúng đấy, có đánh đám j` đâu. CHở quân di tản cũng không xong. Số lượng quân di tản chở được không đáng kể. Ví dụ, lính sư đoàn thuỷ quân lục chiến phải giết đồng đội tranh nhau leo lên tầu, cả quân khu 1 chỉ một vài chuyến tầu thoát được, riêng sư thuỷ quân lục chiến chỉ còn đủ ngồi một chiếc tầu há mồm. Trận bắn giết đồng đội tranh tầu là chiến thắng lớn nhất của cái sư này.
    -----------------------------------------
    Kiểu lựu pháo 122mm Nga phát triển đầu Thế Kỷ 20 bắt đầu bằng hai kiểu M1909 và M1910. Đây là đêm trước của cách mạng, chính quyền thối nát đem các hợp đồng và cơ hội phát triển khoa học ra nước ngoài. Thât ra thì các công ty nước ngoài cũng nhận hợp đồng béo bở này, mà không cải tiến j` đáng kể mẫu pháo cũ Nga 1898. Các kiểu 1909 1910 vẫn có cỡ nòng rất ngắn, càng đơn hai tấm của Thế Kỷ 18. Kể cả những tiến bộ về nòng, giá, máng pháo vẫn là của đời 1898. Các loại lựu pháo dã chiến Nga rất nhẹ, thừa kế truyền thống từ thời Thế Kỷ 18.
    Kiểu 1909 được bán cho Krupp Đức, kiểu 1910 được bán cho Schneider (Pháp, cùng với kiểu 152mm). Chính sự lằng nhằng quan hệ đối ngoại, xuất phát từ các cuộc đấu tranh và tham nhũng bên trong, đã lôi kéo nước Nga vào cuộc Thế chiến I. Nhưng thôi, những thối nát của chính quyền Nga lúc đó đã được năm 1917 khẳng định rồi.
    Kiểu 1909 và 1910 đều không có sự thay đổi nhiều nào so với Kiểu 1898. Máy pháo na ná như kiểu 152mm Nga Hoàng mà ta đã nói đến, máng pháo kiểu ray trượt, máy lùi và đẩy về được che kím. Kiểu 1909 giữ nguyên nòng kha khá, CaL 14. Nhưng hãng Schneider cắt ngắn nòng thành CaL 12,6 như các pháo Pháp. (thông thường, pháo Nga-Đức dài hơn, nhất là sau thời kỳ cách mạng thuốc phóng đầu Thế Kỷ 20). Khoá nòng ren cắt kiểu Nga thông dụng.
    Ngay cả các công ty nhước ngoài cũng không đem lại những tiến bộ kỹ thuật đáng kể, những chi tiết cần cắt gọt nhiều vẫn làm bằng đồng thau và đồng điếu, vật liệu làm pháo cổ lỗ.
    Phiên bản nguyên thuỷ nặng 1340 kg (M1909) / 1330 kg (M1910)
    Góc ngẩn
    - 3 degrees, + 43 degrees (M1909)
    - 3 degrees, + 44,5 degrees (M1910)
    Góc quay ngang 2 độ (M1909), -2 đến +3 độ M1910
    Tầm bắn kiểu 1910 giảm, các đạn cũ của Nga Hoàng là 7,5km (21,7km). Sau này sử dụng các đạn của Hồng Quân đạt 8,9km (giữ nguyên khối lượng đầu đạn).
    Trong biển đề của Bảo Tàng Quân Sự Phần Lan, con số này ghi sai. Họ ghi là 7,8-7,9km cho H09 và H10. Sai thứ nhất là ở chỗ, phiên bản 1910 bắn gần hơn chứ không phải xa hơn. Sai thứ hai là các con số này lấy từ một loại đạn pháo nào đó của Đức chứ không phải pháo Nga Hoàng.
    Phiên bản 1910 Pháp về sau chỉ sản xuất ở Nga, còn Phiên bản 1909 tiếp tục được Đức sản xuất cho nhiều nước, kể cả Đức cũng dùng.
    Pháo được thiết kế để di chuyển bằng ngựa nên phần xe bánh gỗ yếu, không kéo được bằng xe có động cơ chạy nhanh.
    Trong khi kiểu 152mm công thành pháo kiểu 1910 có tỷ lệ nòng khá dài lúc đó, tận hưởng những ưu thế của thuật phóng mới, thì lựu pháo 122mm không để lại cho Hồng Quân thừa kế kỹ thuật nào đáng kể.
    Kiểu 1910/30
    góc đứng -3° - 45°
    Ngang 4,7°
    bắn đạn nặng 21,8kh sơ tốc 364m/s đi xa 8,910km
    pháo nặng 1,45 tấn
    http://www.fortification.ru/library/artmuseum/172_176.php
    Kiểu 1910 nguyên thuỷ (bảo tàng chú thích là 1910/30, nhầm lẫn). Các chi tiết làm bằng đồng cổ lỗ.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 13:02 ngày 05/08/2008
  8. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Khác với kiểu Công Thành Pháo 152mm M1904, kiểu lựu pháo M1910, M1909 không khác j` nhiều kiểu 1898 và không để lại j` nhiều cho Hồng Quân về tiến bộ kỹ thuật. Nhà cầm quyền bán các hợp đồng ra nước ngoài chỉ để thoả mãn những mỗi lợi rất nhỏ rơi vào túi họ, vì những mối lợi nhỏ đó mà cơ hội phát triển cũng như công nghiệp làm pháo đã bị đánh một đòn quỵ gối, trong khi những khẩu pháo ngoại nhập cổ lỗ tồi tệ hết mức mới các chi tiết đồng thau.
    Cùng thời kiểu đầu tiên của ML-20 xuất hiện năm 1934, Hồng Quân cũng thiết kế lại kiểu lựu pháo 122mm hoàn toàn mới, song song với việc sửa chữa tân trang các pháo cũ. Có nhiều việc để làm, ví dụ, chỉ cần thay các chi tiết đồng thau đã tốn khối giấy mực. Tuy nhiên, việc đầu tiên Hồng Quân nghĩ đến là format lại đường đại, cấu tạo nòng. Phiên bản thử nghiệm đầu tiên là kiểu lựu pháo 122mm kiểu 1934 Lubok. Pháo kéo dài nòng ra cỡ CaL 23. Thế nhưng góc ngang vẫn rất thấp, chỉ vài độ. Đến năm 1939, viện thiết kế pháo binh Fyodor Petrov thử nghiệm cải tiến mới U2 và cho ra kiểu "Lựu pháo cấp sư đoàn kiều 1939", chính là M30.
    Phần nòng được thay đổi nhưng khoá nòng giống kiểu 1934, phần xe khác hẳn. Góc quay ngang mở rộng 49 độ, góc đứng từ âm 3 đến 63,5 độ. Pháo có CaL 22. nặng 2,3 tấn. Máng pháo kiểu cũ nhưng khoẻ hơn, máy lùi đẩy về kiểu lựu pháo đơn giản được áp dụng, đặt trên nòng. Pháo bắn đạn cũ nhưng tầm tăng lên 11,8km. Càn chống góc rộng, vứt hẳn cái kiểu càng đơn 2 tấm từ Thế Kỷ 18, đồng thau cũng từ thế kỷ đó đã được thay bằng thép. Pháo cũng thừa kế các đặc tính pháo Nga là máy móc rất kín, làm việc tin cậy trong điều kiện dã chiến.
    Khác với khẩu ML-20 152mm, khẩu M30 rất rẻ. Đến năm 1947 đã có 19-20 ngàn khẩu được sản xuất. Pháo làm việc rất tin cậy, cân nặng nhỉnh hơn so với M2-M101 105mm thiết kế sau đó (nặng hơn cỡ tạ), khối lượng đầu đạn và tầm cũng chỉ hơn chút.
    Cân nặng 2,450 tấn
    góc đứng -3° to 63.5°
    góc ngang 49°
    tốc độ bắn 6 phát/phút
    tầm tối đa 11,8km (đầu đạn nặng 21,7kg)
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 08:18 ngày 05/08/2008
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 10:28 ngày 05/08/2008
  9. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Thật ra thì khẩu M2-M101 105mm cùng thời với M-30 122mm. Thậm chí, thực tế là khẩu M101 chính xác hơn là ra sau, nó bắt đầu được sản xuất năm 1941, trong thời điểm đó thì M-30 đã sản xuất được khá nhiều, ít ra nếu tính "tuổi tây", tức là tuổi khai sinh 1939, cũng đã lớn hơn chút. M101 đi trước trong việc sử dụng khoá nòng khối trượt, nhưng người Mỹ đã không tận dụng được kỹ thuật nhập khẩu này để hoàn thiện động tác bắn, nên không tăng được tốc độ bắn, mà động tác còn phức tạp hơn làm giảm tốc độ bắn. M101 dùng liều liền, điều đó tạo điều kiện năng cao tốc độ bắn, nhưng lại bị cái khoá nòng kéo lại, vậy nên tốc độ bắn hai pháo hoà. Tuy vậy, một nhược điểm của đạn liều liền là nó bắn gián tiếp gần rất tồi. Ở Điện Biên Phủ, quân ta biết điểm đó lên két thượng lên núi, chuyển bắn gián tiếp thành trực tiếp, (mấy lão già chưa từng nhìn thấy pháo bắn nhưng giỏi bốc phét khoác lác vụ này là ngắm qua nòng ). Một cách tăng tốc độ bắn của M-30 là thêm một chú nạp liều (hai nạp đạn). Khi hoạt động, M101 chỉ cần 3 mạng nhưng 3 mạng ấy sẽ đần thộn ra khi cần di chuyển pháo, vậy nên biên chế từ 5-8 người không kể xe kéo. Biên chế M-30 cũng vậy, nhưng khi chiến đấu cần 5 người nếu có thêm chú nạp đạn (hiệu chỉnh tầm hướng, nạo đạn và bắn). Trong thực tế, để pháo chiến đấu hiệu quả thường là bố trí tăng cường bộ binh hay các loại lính pháo khác, thay thế pháo thủ để giữ lâu tốc độ bắn.
    Về cơ cấu máng, máy lùi-đẩy về, thì M101 và M-30 khá giống nhau.
    M101 bắt đầu có mẫu thử đầu tiên năm 1920, trước 14 năm so với "Lựu pháo 122mm kiểu 1934" Lubok, phiên bản kéo dài nòng đầu diên của dòng lựu pháo 122mm Nga, trước 10 năm so với thời điểm Hồng Quân bắt đầu lên kế hoạch thiết kế pháo mới. Tuy vậy, do thiếu trình độ đánh giá và phải đợi nhiều tiến bộ kỹ thuật nhập khẩu, nên M101 tiến bộ rất chậm. Khi M-30 thai nghén, Hồng Quân cũng do dự rất nhiều khi chọn cỡ pháo 122 làm lựu pháo nhẹ chủ lực. Các phương án 105mm, 107mm đều đã được lựa, cuối cùng phương án 122mm cho phép với nỗ lực không lớn về kinh tế và khoa học, có thể đạt ưu thế, và thực tế đã xảy ra như vậy.
    Hồng Quân có lợi thế hơn các nhà thiết kế pháo Mỹ. Ở Nga và Đức, những phương pháp tính toán việc đẩy đạn trong nòng, hình dáng viên thuốc nổ đã được thực hiện từ đầu Thế Kỷ, trong khi đó ở Anh Mỹ Pháp Ý, việc đó chỉ bắt đầu vào thập niên 193x.
    Thật ra, pháo 122mm không cần tính toán j` nhiều, vì liều của nó có dạng như liều cối, tuy có vỏ kim loại. Nhưng các nhà thiết kế pháo Hồng Quân nhanh chóng đạt được những điểm chính về thiết kế nòng, chỉ 3-4 năm sau khi bắt đầu nỗ lực format loại pháo mới hoàn toàn, đó là phiên bản "Lựu pháo 122mm kiểu 1934" Lubok. Nhờ đạt được đường đạn, pháo được đánh giá luôn và nỗ lực hoàn thiện phần xe diễn ra nhanh chóng sau đó.
    Thời điểm M-30 ra đời là thời điểm kỹ thuật pháo của Hồng Quân tiến bộ vượt bậc, hầu hết các lựu pháo nòng ngắn và pháo lai nòng trung bình xuất hiện. Trong chiến tranh, các loại pháo nòng dài liên tiếp xuất hiện phục vụ pháo chống tăng và xe tăng.
    M-30 cũng được đặt trên xe tự hành bọc thép SU-122, thân xe T-34. Không như các pháo khác có riêng phiên bản trên xe, M-30 cơ giới hoá chả thay đổi j` ngoài việc bọc giáp dầy cái máy lùi và máng. Tổ chiến đấu chỉ 3 người, 2 nạp đạn và một pháo thủ, cộng thêm trưởng xe và lái xe. Pháo thủ kiêm chức năng bắn, tầm và hướng.
    Sau năm 1943, phiên bản SU-122M xuất hiện, thay M-30 bằng U-11, cùng đạn nhưng thích hợp với xe cơ giới hơn.
    Các lựu pháo lắp trên xe tự hành bọc thép dầy có tác dụng lớn khi tấn công công sự. Cúng rẻ hơn, nhiều đạn hơn và bắn đạn nặng hơn xe tăng cùng cỡ (đạn nặng gấp 2 lần T-34 76mm). Nhờ cơ giới và bọc thép, chúng cơ động theo trận đánh và bắn trực tiếp chính xác diệt mục tiêu theo yêu cầu trận đánh.
    http://www.battlefield.ru/index.php?option=com_content&task=view&id=60&Itemid=50&lang=en
    [​IMG]
  10. minh_mai

    minh_mai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/02/2003
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    72
    Trong các khẩu pháo quân ta dùng, khẩu A-19 là khẩu thiết kế sớm nhất của Hồng Quân. Việc sử dụng pháo này ở Vịt mình chỉ biết qua sách vở Mỹ, còn cụ thể thế nào lại phải hỏi cụ Đoành.
    Liên Xô kéo dài nòng cỡ 152mm thành nòng dài về sau này. Vào thời điểm các nhà bác học Xô-Viết thiết kế những loại pháo đầu tiên của Hồng Quân, năm 1930, họ đã thiết kế loại pháo nòng dài cỡ 122mm. Khẩu A-19 đã trở thành một trong những khẩu pháo đầu tiên do Hồng Quân thiết kế. A-19 122mm nòng dài phát triển song song với ML-20 152mm nòng ngắn, có phần xe chung và khoá nòng khá giống. (cỡ nòng đó hiện nay là ngắn, nhưng lúc đó là trung bình). Cỡ 122mm nòng dài về sau trở nên hết sức quan trọng, tạo điều kiện phát triển đường đạn cho loại xe tăng và pháo chống tăng lớn của Liên Xô. Ngay cả phiên bản A-19 cũng phải tham gia chiến đấu tích cực với tư cách là pháo chống tăng. Trong thời điểm Kursk, đây là một trong những vũ khí ít ỏi có thể đối đầu trực diện với Tiger I.
    A-19 thuộc loại pháo bắn trực tiếp thuần chủng (пf^ка). Kế thừa chức năng "pháo trận địa" thời cổ. Tức là loại pháo có khả năng du chuyển bằng xe tải, nhưng có tầm xa và chiến đấu trong công sự.
    A-19 là một trong những khẩu được phát triển sớm nhất của Hồng Quân, ngay từ 192x. Đến năm 1929, pháo đã có mẫu thử, được chấp nhận sử dụng năm 1936 như là pháo cấp quân đoàn, sửa lại thiết kế năm 1937 thành 122-мм пf^ка об?аз?а 1931/37 (A-19 31/37), cải tiến 1937 song song với những phát triển của ML-20. Các mẫu thử được chấp nhận năm 1931 còn tiền hành nhiều thử nghiệm và thay đổi, chủ yếu với nòng và đường đạn. Đây là khẩu đầu tiên của Nga dùng càng mở ra hai bên.
    Chức năng ban đầu của A-19 là lựu pháo tầm xa. Nhưng nó đã sớm phải đảm nhiệm chức năng chống tăng, và là pháo chống tăng oách nhất đầu chiến tranh, và đây mới là chức năng làm nó nổi tiếng nhất. Cúng như thế, pháo nòng dài 130mm trên xe tăng cũng lên hệ nhều với M-46, ngày nay, Nga đang format pháo tăng 152mm cũng có nhiều liên hệ với khẩu 152mm lựu pháo nòng dài Msta, 2A36 Giatsint-B/M1976.
    Số lượng sản xuất của cả hai loại A-19 1931 và 1931/37 không nhiều, cho đến khi nó dừng sản xuất trong Thế CHiến II chỉ đâu 2-3 ngàn khẩu. (Các con số này này nay được cung cấp rõ ràng thời kỳ sau 1937, khi lớp người tiên tiến của Stalin lên, còn trước đó mấy ông nông dân đánh địch bằng tin thần không thèm ghi chép số liệu, nhưng nhiều thống kê khác từ số pháo thực tế cho thấy, con số pháo trước đấy lưu lại không đáng kể).
    Ban đầu, pháo được dùng song song với loại pháo nòng trung bình 152mm ML-20 trong vai trò "pháo cấp chiến dịch" hay là "pháo cấp quân đoàn", thông thường, mỗi quân đoàn có 3-4 tiểu đoàn pháo, trong đó A-19 có thể không có, 1 hoặc 2 tiểu đoàn, bao h cũng ít hơn ML-20. Tổng số A-19 trong mỗi tiểu đoàn đoàn là 24 khẩu. Ngoài ra, A-19 cũng thường được thay thế bởi những loại pháo nòng dài yếu hơn.
    Pháo A-19 được sản xuất đến năm 1946, rồi M-46 xuất hiện và thay thế dần. M-46 phục vụ như là loại pháo tầm xa phổ biến bên cạnh những khẩu khác độc chiêu hơn, như khẩu 2S7 203mm nòng đài.
    Tuy số lượng pháo A-19 không nhiều, nhưng cái nòng và đường đạn của nó là thành phần của nhiều loại pháo chống tăng và pháo trên xe tăng khác, số lượng sản xuất vượt bản thân A-19 hàng chục lần.
    CŨng như ML-20, Đức rất thích pháo này, họ chiến được 400-500 khẩu và biên chế thành các đơn vị trong quân đức với mã hiệu K.390/1, K.390/2, rồi tự sản xuất đạn và phụ tùng. Phần Lan cũng cướp được một ít và được Đức viện trợ, sau này nhập khẩu. Phần Lan dùng pháo này rất lâu, đến 198x họ cải tiến rút ngắn nòng CaL 32 cỡ nòng 152mm, rồi trang bị như là lựu pháo nòng trung bình, lúc đó đang là thời trang. Đến năm 2001 Phần Lan mới quyết định thay khẩu này bằng vũ khí nhập từ Nga. Phần Lan tách ra khỏi Liên Xô sau Cách mạng Tháng 10, thuộc về bên trắng, thời trước Thế chiến II phải nhập khẩu vũ khí và tiêu chuẩn vũ khí phương Tây, nhưng điều đó chỉ làm họ nhớ vũ khí Nga thêm mà thôi. Sau Thế Chiến II, Phần lan là nước phương Tây duy nhất dùng đạn AK 7,62mm, thuê Thuỵ Sỹ làm súng.
    Sau Thế CHiến II, pháo được viện trợ đến một số nước. Ai Cập, Ba Lan, Tầu sản xuất đạn và pháo theo bản quyền. Ba Lan có một số cải tiến.
    Pháo nặng
    khi chiến đấu 71, tấn
    khi di chuyển 7,9 tấn
    Tầm bắn
    Đạn nguyên thuỷ bắn xa 20km, đầu đạn nặng 25kg. Đạn cải tiến sau Thế Chiến bắn xa 25km.
    Tốc độ bắn 3-4 phát/phút.
    Sơ tốc đạn nguyên thuỷ 780m/s, sau này tăng lên trên 800.
    Góc đứng kiểu 1931 từ -2 đến 45 độ, kiểu 1937 từ -2 đến 65 độ
    Góc ngang kiểu 1937 là 58 độ, kiểu 1931 chỉ bé hơn 2 độ.
    Khả năng xuyên thép
    Đạn 'Р-471', tầm 1000 mét
    góc 60 độ 120mm
    góc 90 độ 143mm
    Đạn 'Р-471', tầm 2000 mét : 100mm và 116mm
    Hồi Chiến Tranh Giữ Nước Vĩ Đại, hay dùng kiểu 'Р-471' có khả năng chống góc nghiêng tốt hơn 'Р-471.
    Đây là con số thử nghiệm kiểu Liên Xô, 80% số đạn đạt được. Phương Tây sẽ cho giá trị cao hơn vì khác nhau % số đạn đạt được.
    Chiều dài nòng tổng cộng 5,65 mét
    Phần đường đạn CaL 44 (Pháo trên tăng Đ-25 ngắn hơn tẹo CaL 43, cái này các miẹ trên nét thường nhầm là CaL 45 hay CaL 46,3)
    [​IMG]
    Thiết bị giảm giật, chỉnh ngang, đẩy về và máng pháo giống ML-20
    [​IMG]
    Tư thế hành quân
    [​IMG]
    Kiểu bánh M1931
    [​IMG]
    Kiểu bánh A-19 M1931/37
    [​IMG]
    Được minh_mai sửa chữa / chuyển vào 12:50 ngày 05/08/2008
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này