1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kho tàng bói toán sư tầm đọc giải trí.(Bài mới- bói qua diện mạo, năm tuổi)

Chủ đề trong 'Tư vấn tình yêu' bởi antiboy, 06/11/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Nguồngốc Lịchsố
    Âmlịch (lunar calendar) hay việc soạnthảo lịchsố dựa vào vậnhành của mặttrăng khôngphải bắtđầu từ Trunghoa như nhiềungười lầmtưởng. Theo dữkiện cóđược từ các nhàkhảocổ với bằngchứng rõrệt, thì nền vănminh Sumerian, pháttriển bêncạnh consông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để saunày thành trungtâm của xứ ngànlẻmột đêm, hay ngàynay còn gọilà Baghdad, thủđô của Iraq) đã biết làmlịch dựavào vậnhành của mặttrăng. Ðếquốc Lamã ngay trong thời trước ****** Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âmlịch này. Chọn mặttrăng để làmlịch cóthể bởi hai lýdo: Dễnhìn vì ánhtrăng banđêm không nóng gaygắt và khó nhìn như mặttrời banngày. Thayđổi hìnhdạng thườngxuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơnlà mặttrời hầunhư ítkhi thayđổi. Tuynhiên, còn một lýdo khá quantrọng khác ít người nghĩđến, là do yếutố thiênnhiên. Xứ Aicập (Egypt) nằm ngay trên đường Phâncực Hoàngđạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xíchđạo) nên đasố nhiều người đã thấy được hiệntượng mặttrời chiếuthẳng trên đỉnhđầu. Nghĩalà trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhậptrùng ngay dướigốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhấtlà trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đườngxíchđạo và Bắc báncầu trong khoảng Vĩtuyến từ 0 - 23°27 mới thấyđược hiệntượng trên. Ngượclại, trong vùng NamBáncầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quansát hiệntượng đó, dân Aicập cáchđây khoảng hơn 4000 năm đã tínhra gần đúng số ngày trong năm (365 thayvì 355 như Âmlịch), và cũng chínhlà lýdo họ chọn làmlịch theo mặttrời, lưutruyền Dươnglịch chođến bâygiờ!
    Các thủđô của Trunghoa như TrườngAn hay Bắckinh, vì nằm trong vùng ônđới cáchxa trên đường Phâncực (Tropic of Cancer) nên không thấyđược hiệntượng nóitrên, cũngnhư khôngcó ấntượng nhiều về mặttrời, và cũnglà lýdo dểhiểu tạisao họ đã dùng mặttrăng để làm lịch.
    Theo đúngnhư trong sử Trunghoa ghilại thì khoa Lịchsố đãcó từ thời HoàngÐế, cáchđây hơn 4000 năm, do các chiêmtinhgia soạnra (nghĩa nguyênthuỷ là nhà thiênvăn hay chuyêngia coi sao trêntrời, khôngphải bị biếnnghĩa ra thành "thầybóitoán" như vềsaunày!) chiêmtinhgia biên soạn lịchsố để địnhchuẩn thờigian cho việc hànhchánh và caitrị của triềuđình Vuaquan, nhưng đồngthời cũng giúp rấtnhiều cho nghềnông trongviệc tiênđóan thờitiết hay thuhoạch mùamàng. Chắcchắn trong giaiđoạn đầu khi mớicó cho đến khoảng sau thời Hán Caotổ, âmlịch cũng không tránhkhỏi nhiều sailầm, nhấtlà rất đơnsơ và chưacó Thiêncan hay Ðịachi như saunày. Bằngchứng là trong thờikỳ phát triển của ChuDịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghenói đến. Phải đến thời "TamQuốc" của KhổngMinh (Giacát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mớicó văntự rõrệt nóivề các ThiênCan, đồngthời xuấthiện các khoalýsố như KỳMôn ÐộnGiáp, Tháiất Thầntoán, hay LụcNhâm ÐạiÐộn v.v. Hầuhết các sửgia Trungquốc đều côngnhận là chỉ vào thờikỳ của NhàHán, sau mấy trămnăm chiếntranh liênmiên từ thời Ðôngchu Liệtquốc, nền vănminh Trunghoa mới thậtsự khởisắc và đilên trong Thiênniênkỷ đầutiên (0 -1000 AD).
    Theo chínhsử ghilại, những nghiêncứu và phátminh của Trunghoa thậtsự đã bắtđầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàngđế tàigiỏi nhưng tànbạo này, cóthể độngviên hay chiêudụ được nhiều đạosĩ (coinhư là khoahọcgia theo tiêuchuẩn thờiđó), trongviệc thámhiểm, đi tìmkiếm các kỳhoa dượcthảo để luyệnthuốc trườngsinh bấttử cho ông. Dưới nhậnxét bìnhthường thì chorằng đólà việclàm xaxỉ, hoangtưởng và mêmuội. Nhưng trong lãnhvực nghiêncứu khoahọc ngàynay, Tần Thủy Hoàng rất xứngđáng được coinhư đã cócông sánglập một cơcấu kiểu Hànlâm Viện khoahọc đầutiên cho nhânlọai! Những chiphí trong việc chiêuđãi hay thưởngcông cho các đạosĩ thờiđó, dưới cáinhìn thiếu hiểubiết cholà phungphí, nhưng sovới tỷlệ ngânsách dànhriêng cho khảocứu khoahọc ngàynay thì chẳng có nghĩalý gìcả, dùlà của một nước đang pháttriển! Chính nhờ làmviệc và sốngchung tậpthể vớinhau đó, đã vôtình tạora môitrường tốtđẹp cho những sángkiến mới, thiđua họchỏi, traođổi kiếnthức giữa các đạosĩ với nhàvua, và cóthể đãlà cơsở đónggóp cho nhiều phátminh quantrọng về khoahọc và kỹthuật saunày của Trungquốc. Hoá chất Lưuhuỳnh dùng để làm thuốcsúng, thanđá, thủyngân, chì, namchâm có từtính, cách luyệnthép, bàntính (abacus), v.v. cóthể đã được bắtđầu nghiêncứu hay tìmra trong thờikỳ này. Thídụ về những huyềnthoại phùphép mà KhổngMinh xửdụng, là do những phảnứng đặcbiệt từ các hoáchất độchại như lưuhuỳnh, thuỷngân hay các loài dượcthảo trộnchung vớinhau khi bị đốtcháy. Kếtqủa là làmcho đốiphương bị gâymê, mấttrí hay mạngvong trong những vùng gọi là bátqúai trậnđồ. Nhưng một trong những thànhquả tốtđẹp hơnhết chínhlà bộmôn xem thiênvăn khítượng bắtđầu xuấthiện được nhiềungười biếtđến. Nhờvậy mà khoalịchsố đã được hiệuchỉnh, thayđổi đúnghơn chotới bâygiờ!
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  2. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Phươngpháp soạn Âmlịch
    Cóthể chiara làm hai giaiđọan pháttriển chính choviệc soạnthảo âmlịch.
    Giaiđoạn I: Kéodài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàngđế cho đến thời Khổngtử. Trong giaiđoạn này chỉcó ngày, tháng và năm. Chưacó chiara giờ cũng như chưacó thiêncan và địachi. Côngviệc soạnlịch vào thời sơkhai này rấtlà dễhiểu, khôngcógì phứctạp như nhiều người thường lầmtưởng. Những chiêmtinhgia thờiđó chỉ dựavào khoảngcách giữa hai tuầntrăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảngcách của một năm thì được định bằng thờiđiểm vào lúc Trăng trònnhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thànhra tết Trungthu), và mộtphần dựavào thờitiết thayđổi của 4 mùa.
    Khókhăn duynhất lúc banđầu là cứ cáchkhoảngchừng hai năm thì tháng có trăng trònnhất bị kéodài thêm một tháng. Ðólà những thángnhuận, và cáchgiảiquyết thựctế đơngiản lúcbấygiờ là thêm nguyên một tháng vào những nămnhuận. Còn làmsao họ biếtđược nămnào nhuận là do phỏngchừng và dựavào kinhnghiệm riêng của những đời trước theo kiểu chatruyền connối. Chính cáchlàm theolối thuậntiện nhưtrên, nên âmlịch thường bị thànhkiến cholà thiếu chínhxác! Cóthể trong thờikỳ này, thángnhuận chỉ được thêmvào trong tháng trước tháng có trăng trònnhất là tết Trungthu(?) Chỉ saunày khi bắtđầu ănmừng ngày tết Nguyênđán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhàsoạnlịch phải chiara cho đều, thêm thángnhuận vào các tháng khác.
    Ngoàira có vài chitiết cầnđược đểý là hệthống Âmlịch dựavào thiêncan và địachi chỉ có phânbiệt tốiđa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm caitrị của Vua hay triềuđại làmchuẩn. Thídụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nàođó gặp thiêntai bãolụt v.v. Lâudần trởthành thóiquen dùngluôn cho đến khi bị ảnhhưởng của nền vănminh Tâyphương thayđổi.
    Về giờgiấc, lịchsố ở thời kỳ đầu cũng chưa chiara 12 giờ như saunày. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏngchừng theo vịtrí của mặttrời, mà mãi cho đến bâygiờ, nôngdân ít học ở các vùngquê vẫncòn dùng, như khi nói mặttrời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùahạ), hay mặttrời đứngbóng giữatrưa khoảng 12 giờ v.v.
    Nhữnggì vừa trìnhbày cóthể kiểmchứng bằng bộsách Chudịch đã được soạnra khoảng từ thời nhàChu (1150 BC) chođến thời Khổngtử (550 BC). Cụthể là việc lậpquẻ Dịch. Trong bộ ChuDịch chínhbản chỉ ghi cách lậpquẻ duynhất là dùng cỏ Thi, còngọi là phépbói cỏ Thi, mà không dùngđến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấmđộn saunày. Các lờibàn của 64 quẻ trong bộ ChuDịch nguyênthuỷ hoàntoàn khôngcó nóirõ về giờgiấc.
    Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhàÐường khoảng chừng 1000 năm. Thờikỳ này vănminh TrungHoa bắtđầu khởisắc đilên. Các Ðạosĩ hay Chiêmtinhgia làmviệc có phươngpháp và khoahọc hơn. Nhờvậy, họ đã tìmra hay khámphá được chukỳ vậnchuyển của các hànhtinh trong TháiDươnghệ, và từđó âmlịch mới được thayđổi để thêmvào Thiêncan, Ðịachi, Lụctuần Hoagiáp (hay chukỳ 60 năm). Trướckhi đisâu vào chitiết, và để quý đọcgiả dễ theodõi vấnđề hơn, ngườiviết xin nhắclại mộtvài dữkiện cănbản nhưsau:
    Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắtthường chúngta cóthể đếm được cả vài trăm ngôisao là chuyệnthường. Tuynhiên, tấtcả đều thấy gầnnhư cốđịnh không thayđổi theo nămtháng, vì không phụthuộc vào một hệthống vệtinh như Tháidươnghệ, hoặcgiả có chukỳ dichuyển quálớn đến cả ngànvạn năm. Cònlại, trừ trườnghợp đặcbiệt như saochổi (Comet) và saobăng (Asteroid), chúngta chỉ thấy được những hànhtinh thuộc Tháidươnghệ dichuyển màthôi. Trong tám (8) hànhtinh chính, trừ mặttrời và mặttrăng, mắtthường của chúngta chỉ thấy được có năm(5) hànhtinh. Ðólà Thủytinh(Mercury), Kimtinh(Venus), Hỏatinh(Mars), Mộctinh(Jupiter), và chót là Thổtinh(Saturn). Ba(3) hànhtinh khôngthấy được bằng mắt thường là Diêmvươngtinh (Uranus), Hảivươngtinh (Neptune) và Thiênvươngtinh(Pluto). Khôngbiết cóphải là trùnghợp ngẫunhiên của tạohóa, hay sắpđặt khéoléo của conngười, trong 8 quái (Bátquái hay 8 hành?) của Dịchlý, các "Khoahọcgia" thờiđó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phátminh ra Ngũhành (Ngườiviết đã trìnhbày trong bài "Những khámphá mới về Dịchlý và Ngũhành" cáchđây hơn hai năm.)
    Ðể tìmhiểu về 5 hànhtinh thấyđược chuyểnđộng như thếnào, các Chiêmtinhgia thờiđó đã dùng một phươngpháp đơngiản nhưng rất khoahọc, là ghichép lại vịtrí của các hànhtinh sau một thời khoảng nhấtđịnh. Thờiđiểm tốtnhất để xem thiênvăn là mỗitháng mộtlần vào cuối hay đầutháng, lúc trăng hoàntoàn bị chemất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn địnhrõ vịtrí của cácsao, cólẽ họ cũng biết dùng theo phươngpháp chấm tọađộ, nhưng kém chínhxác rất nhiều. Dùng sao Bắcđẩu làmchuẩn và theo đồhình Bátquái, họ cóthể định phươngvị (hay khẩuđộ) của một sao, và kếđến là cũng theo lối ướcchừng độcao của mặttrời để định khoảngcách từ đườngchântrời. Thídụ như để địnhvị ngôisao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kimđồnghồ) và 25 độ cách chântrời nằm ngang, họ cóthể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chântrời khoảng một gangtay chẳnghạn. Vềsau đểđược chínhxác hơn, cóthể các chiêmtinhgia đã dùngđến các tên của quẻdịch để phânchia thành 64 cung trên vòngtròn. Ðó chínhlà lýdo tạisao các nhànghiêncứu vềsau cóthể hiểulầm vì bị nạn "tamsao thấtbổn", nên tưởng là môn lịchsố có nguồngốc từ Dịchlý màra.
    Dù bằng cáchnào thì cũng nhờ kháiniệm tuầnhoàn và chukỳ âmdương của Dịchlý, chiêmtinhgia thờiđó cóthể tinchắc là các vìsao đều chuyểnđộng theo một chukỳ nhấtđịnh nàođó. Nếukhông thì cólẽ họ khôngbỏ thìgiờ quálâu cho cả một đờingười để tìmra gầnđúng chukỳ của 5 hànhtinh trong Tháidươnghệ, trước Âuchâu cả hơn ngànnăm!
    Kếtquả côngtrình nghiêncứu và ghichép vịtrí sao của các Chiêmtinhgia Trunghoa nóitrên chothấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hànhtinh đều quaytrởvề lại gần vịtrí cũ! Ðặcbiệt hơnhết, là vào khoảng cuối năm QuýHợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hànhtinh đều hộitụ lại, và nằm sát vớinhau chung một hướng. Xin nhắclại đây để tránh hiểunhầm, nhờ tìnhcờ ngẫunhiên quansát thấy hiệntượng 5 sao tụhội về một chỗ trướckhi phântán ra, nên cóthể các nhàlịchsố chorằng đólà khởiđiểm đầutiên cho chukỳ 60 năm, và họ đặttên cho năm có hiệntượng đólà GiápTý, đứngđầu trong bảng lụctuần hoagiáp.
    Sauđây là bảng tómlược số vòng chukỳ quay quanh mặttrời của 5 hànhtinh, dựa theo thờigian một (1) năm của tráiđất làmchuẩn:
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  3. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Thờigian tínhtheo Tráiđất làmchuẩn Chukỳ 1 vòng Ngày (Năm ) Số Chukỳ trong 12 Năm Số Chukỳ trong 30 Năm Số Chukỳ trong 60 Năm
    TráiÐất-Earth 365.3 (1.00) 12.000 30.000 60.00
    ThủyTinh Mercury 88.0 (0.241) 49.814 124.534 249.06
    KimTinh
    Venus 224.7 (0.615) 19.508 48.772 97.54
    HỏaTinh
    Mars 687.0 (1.881) 6.381 15.951 31.90
    MộcTinh
    Jupiter 4331.8 (11.858) 1.012 2.530 5.060
    ThổTinh
    Saturn 10760.0 (29.455) 0.407 1.018 2.037
    Dựavào bảng tínhtoán chukỳ ởtrên chothấy có mộtvài chitiết cần chúý: Sau khoảngchừng 20 năm thì các sao tụvề tại một vịtrí khác, và phải sau gần 60 năm của tráiđất, thì cả bốn(4) sao Thủytinh, Hỏatinh, Mộctinh, và Thổtinh mới quayvề gần đúng vịtrí đầutiên hay xêxích mộtchút. Khoảngcách saisố sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các sốlẻ thứnhất của số chukỳ trong 60 năm đều nằm trong giớihạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòngtròn (360 độ) của mặttrời. Ðốivới người quansát các hànhtinh đứng từ vịtrí trên tráiđất và ở một gốcđộ chéo, thì chắc sẽ nhìnthấy khoảngcách hay độ xêxích nhỏ hơn rấtnhiều, hoặc cóthể không thấyđược độ saibiệt bằng mắtthường! Riêng trườnghợp của Kimtinh (Venus) tuy nằm gầnnhư đốidiện với vịtrí cũ (sốlẻ 0.54), nhưng chukỳ quay chungquanh mặttrời chỉcó chừnghơn 7 tháng, nên chỉ cầnthêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của tráiđất) là quayvòng trởlại để hộitụ cùng các sao.
    Nhưvậy, với mộtvài bằngchứng ởtrên cóthể tạm kếtluận rằng: Chuyện các chiêmtinhgia Trunghoa cách đây hơn 1000 năm đã tìmra chukỳ gầnđúng của 5 hànhtinh là sựthật hiểnnhiên rất dễhiểu theo khoahọc. Hìnhvẽ thứ hai sauđây cũng để minhchứng cụthể chothấy vịtrí của 5 hànhtinh vào tháng 2 năm 1984 (dươnglịch, âmlịch là 30 tháng Chạp năm QuýHợi, gần tết Nguyênđán) theo cáchtính đúng qũyđạo chínhxác của khoahọc ngàynay.
    Tuynhiên cũng xin lưuý và nhấnmạnh một lần nữa là do sựtrùnghợp ngẫunhiên đưađến, khôngphải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phươngvị giốngnhư vậy. Lýdo là vì các saisố khoảng 0.06 cho Mộctinh và 0.037 cho Thổtinh như đã nói, nên phươngvị của các sao tụhội lại cũng thayđổi xêxích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phươngvị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chukỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng màthôi. Nghĩalà trong thựctế khônghề có sựtrùngnhập lại giốngyhệt như cũ được!
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  4. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    có 1 cái ảnh nhưng ttvnol bị lỗi không post lên được
    (Chúthích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)
    Nhânđây cũng nên nhắc đến một sựkiện lịchsử có ảnhhưởng rấtnhiều đến vậnmệnh của cả nước Việtnam. Dobởi các vuachúa Trunghoa thời bấygiờ vì quátin vào lậpthuyết của các chiêmtinhgia, chorằng mộtkhi các tinhtú đều chầuvề một phương nào thì nơiđó tụhội được nhiều linhkhí, nghĩalà có "Thánnhnhân" hay bậc đếvương sinhra đời! Bởivậy nên tínhra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhàÐường, các Sao đều chầu về phươngNam (gần giốngnhư hìnhvẽ trên), làmcho họ phải losợ. Từ nguyênnhân đó, mới có việc saiphái đạosĩ Cao Biền làm Tháithú để tìmcách trấnyểm phươngNam. Ngoàira sau này họ cũng thường gởi các "Giánđiệp" giảdạng độilốt tusĩ hay thầyÐịalý và thầythuốcbắc để dòtìm nhântài của Việtnam. Mộtkhi pháthiệnđược nơi nào có "thầnđồng" hay thiếuniên giỏichữ là họ tìm đến để thửtài và tìmhiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụdỗ, muachuộc nếu chamẹ nghèo, xin cholàm connuôi để "dạydỗ và huấnluyện chữ nghĩa v.v. Ðólà lýdo tạisao trong những câuchuyện kể về các vị thầnđồng Nhohọc của Việtnam thờixưa, thường nói tới việc có những người "kháchlạ" tìmđến để ra câuđối và thửtài thôngminh!
    Nếu nhữnggì nóitrên đúngtheo thuyết của các chiêmtinhgia Trunghoa, thì trongsố những đứatrẻ sinh năm 1984-85 ở Việtnam sẽ chora nhiều thiêntài xuấtchúng ngoạihạng trong tươnglai (!?) Ðúng hay sai thì chưabiết, nhưng ứngnghiệm vào các quốcgia thuộc vùng ÐôngnamA¨ thịnhvượng giầucó hơn trong vòng 20 nămqua, và dĩnhiên kếtqủa là sẽ chora nhiều trẻem thầnđồng nhờ được nuôidưỡng huấnluyện và giáodục trong môitrường tốt hơn!
    Nóichung với cáchtính phỏngchừng và đơngiản dựavào ba sao là: Hỏatinh (Mars) có chukỳ gần 2 năm, Mộctinh (Jupiter) có chukỳ khoảng 12 năm, và Thổtinh có chukỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịchsố đã tìmra mẫusốchung gầnđúng là 60 năm để cả basao tụhội lại gầnnhau, và có cùngchung một cung, hay cùng phươngvị theo bátquái (mỗicung khoảng 45°.)
    Ðiều cầnbiết thêm ởđây chínhlà chukỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩalà cáchkhoảng một năm thì các chiêmtinhgia thấy saoHỏa nằm ở vịtrí hướng đốingược lại. Do hiệntượng trên trùnghợp với lýthuyết về Dịch hay luật âmdương, nên cóthể các nhàlịchsố tinrằng thờigian cũng giốngnhư vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thayđổi đềunhau!
    Mộctinh (Jupiter) là sao quantrọng nhất có chukỳ gần đúng 12 năm. Quantrọng theo các nhà Lịchsố thời bấygiờ cóthể từ hai lýdo. Thứnhất, đó là sao duynhất để phânbiệt và chuẩnđịnh sựkhácbiệt của các năm. Thổtinh (Saturn) vì xa và khóthấy hơn, nhấtlà chukỳ đầutiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chínhxác bằng Mộctinh. Riêng Hỏatinh thì lại càng không chínhxác vì chukỳ quá ngắn chỉcó khoảng gần 2 năm. Thứhai, dựa vào kinhnghiệm tíchlũy từ quansát và thựcnghịêm của các chiêmtinhgia theolối chatruyền connối cóthể đã kéodài trong vài trăm năm, sau Mặttrời và Mặttrăng, Mộctinh có ảnhhưởng nhiềunhất đốivới conngười và Tráiđất (sẽ giảithích thêm ở mục TửVi). Chínhvìvậy, họ đã dùng chukỳ 12 năm của Mộctinh để đặt tên cho 12 năm, còngọi là Thậpnhị Ðịachi. Dámchắc mớiđầu chỉ cótên bằng consố 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu đểý thì thấy các sốlẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phùhợp với Dịchlý đã nói ởtrên). Còn tạisao saunày lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc mộtvài lýdo khác không nằm trong phạmvi bàiviết này, nên xin miễnbàn ở đây. Nóichung, yếutố quantrọng là nhờvào quansát thựcnghịêm, một phươngpháp thôngdụng trong nghiêncứu khoahọc.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  5. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Saucùng, cólẽ các chiêmtinhgia cũng chỉ thấy có sao Thổtinh là có chukỳ lâunhất trong 5 hànhtinh, nên theo trìnhđộ hiểubiết thời bấygiờ, họ chorằng đó là vịthần chính của nhà Trời ảnhhưởng đến mọisự sắpđặt và thayđổi của "Thượngđế", nên gọi là ThiênCan (?). Nhưng tạisao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏivậy là xemthường khảnăng về Toán của chiêmtinhgia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiêncan ghép với 12 Ðịachi sẽ bị trởngại ngay, nhấtlà không giảiquyết được nguyên tắc ÂmDương, một năm Dương và một năm Âm điliền vớinhau như đã giảithích về chukỳ của saoHỏa ở trên. Ðể giảitỏa vấnnạn đó, các chiêmtinhgia buộc phảidùng gấpđôi consố 5 lên thành 10, tuy vẫn duytrì 5 đặctính Ngũhành của Thiêncan. Bởivậy chonên bâygiờ chúngta mới có hai Can đi liền với nhau có cùngchung một Hành (theo thuyết Ngũhành), và có một Dương và một Âm. Thídụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy).
    Ngoàira, do ảnhhưởng của thuyết Ngũhành, việc đặt hay gọitên 5 hànhtinh theo Ngũhành là hoàntòan dựavào màusắc khi nhìn bằng mắt thường, và khôngcó liênhệ gì với đặctính vậtlý. Theo lýthuyết của Ngũhành về màusắc, gọi là Mộctinh vì có sắc xanh. Hỏatinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổtinh vì có sắc vàng, Kimtinh (Venus) vì có sắc trắng do có độsáng mạnh, và Thủytinh (Mercury) có sắc đen vì quágần mặttrời nên không thấyđược sánglắm!
    Tómlại hệthống Âmlịch dựavào các hànhtinh chính sau: Mặttrời để định Giờ và Ngày, Mặttrăng dùng cho Tháng, Mộctinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịachi, và sau cùng Thổtinh (Saturn) và Hoảtinh (Mars) dùng để định Thiêncan (Âm hoặc Dương) và Ðại Chukỳ 60 năm hay LụcTuần HoaGiáp. Ghinhận thêm ởđây là theo ămlịch, mỗi tháng chiara làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Vềsaunày thì các nhàsoạnlịch tính và thêmvào các ngày đặcbiệt như Ðạihàn, Tiểuhàn, Lậpđông, Hạchí v.v
    Những Bíẩn của khoaTửvi
    Trong suốt hơn một ngàn năm, bộmôn Tửvi đượccoi nhưlà khoahọc huyềnbí bởi tấtcả các yếutố ansao và giảiđóan đều dựatheo một vài côngthức địnhtrước, mà khôngcó sựgiảithích hay chứngminh lýdo tạisao. Dù tin hay khôngtin, thựctế chothấy khoatửvi cũng đãđược lưutruyền trong dânchúng khálâu, và ítnhất cũng đãcó mộtsố người chấpnhận, nghĩrằng cóthể dùngđể đoánđược phầnnào vậnmệnh tươnglai của conngười! Ðiều đáng ngạcnhiên là nếu đúngtheo dữkiện chothấy, khoaTửvi hiệntại này chỉ còn có Việtnam là đất dụngvõ, dù có nguồngốc từ Trunghoa. Ngaycả các sách viếtvề Tửvi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ khôngthích xài Tửvi mà lại chọn các môn khác thôngdụng hơn như TửBình (gọitắt là Báttự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lýdo cóthể giảithích là vì saunày họ đã khámphá và thấyđược rằng, vậnhành của các sao khôngđược chínhxác như đã tintưởng lúcbanđầu!
    Những gì được ngườiviết pháthiện và trìnhbày sauđây chothấy vài đặctính khoahọc của bộmôn Tửvi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tửvi) hay các vị thầy tiềnbối của ông vào khoảng thời nhàÐường, cóthể đã tiếnxa hơn và biết khánhiều về vậnhành của các hànhtinh. Nhưng tiếcrằng vì các điềukiện thựctế chủquan về vănhóa xãhội thời bấygiờ, nên họ đã dấukín và giữkín bímật tốiđa, nhấtlà khôngmuốn giảithích hay viếtsách đểlại lưutruyền cho hậuthế.
    Cung Anmệnh. Theo quanniệm về triếtlý nhânsinh của Khổnggiáo chịu ảnhhưởng ítnhiều đạo Lão, mỗingười sinhra đềucó một sốphận được anbài trước gọilà thiênmệnh. Các nhàlýsố hay tửvigia Trunghoa dựavào lýthuyết trên nên tinrằng, khi một đứabé vừa sinhra đời là chịu ảnhhưởng địnhđoạt cho sốphận bởi các tinhtú hiệndiện trêntrời ngay thờiđiểm đó. Câuvăn nổitiếng thườngnghe là "...sinhra đời dưới một ngôisao..." phảnánh niềmtin trên. Nói cách khác, khi một đứatrẻ sinhra đời tại một địađiểm nào trên tráiđất, sẽ chịuảnhhưởng của tấtcả các tinhtú chiếuvào ngay tại thờiđiểm đó, và địnhđoạt sốmệnh luôn cả đời cho đứabé vừa sinh!
    Khôngphải tựnhiên mà các Tửvigia (TVG) bàyđặt ra cách anmệnh trong Tửvi nhưsau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiềuthuận (kimđồnghồ) đến thángsinh, rồi từđó lại đếm ngược chotới giờsinh để an cungmệnh. Dựavào triếtlý sốphận cùng cách an cungmệnh chothấy, các TVG thờiđó đã khámphá rađược hai đặctính vậnhành của tráiđất và mặttrời, một đúng và một sai!
    Thứnhất, đúng là họ đã biết tráiđất tự xoay vòngquanh lấy chínhnó theo chiềungược với kimđồnghồ! Tròchơi ***gđèn xoay (còn gọi là đènkéoquân hay đèncù) rất thịnhhành vào thời nhàÐường, chothấy các TVG lúc bấygiờ cóthể đã có kháiniệm về tráiđất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ởtrên, họ đã giữ làm bímật giatruyền, và nhấtlà sợ nguyhiểm cho chính bảnthân và giađình do quanniệm "Thiêncơ bất khảlậu" hoặc vì những người cầmquyền như VuaChúa khôngtin (giốngnhư trườnghợp của Gallileo). Một lýdo khác là ngaychính các TVG cũng không hiểu và không giảithích được hiệntượng tạisao conngười không bị rơi rangoài nếu tráiđất xoaytròn! Thêmvào, các hiệntượng thiênnhiên như nhậtthực hay nguyệtthực, đã tạo cơhội để các TVG hiểu ánhsáng từ mặttrăng là do từ ánhsáng mặttrời chiếuvào và thỉnhthoảng lại bị tráiđất che (cho trườnghợp nguyệtthực). Cóthể với cáchsuyluận tầmthường và đơngiản theo lối chứngminh "phảnđề" là: Nếu Tráiđất nằm yên không xoay, thì dựavào quansát hàngngày chothấy mặttrời, mặttrăng, năm (5) hànhtinh và đasố các tinhtú thấyđược, phải "chạy" xungquanh tráiđất mỗingày mộtlần! Ðiềunày chothấy hoàntòan vôlý vì nhờ các hiệntượng nhậtthực và nguyệtthực. Cụthể như nhờ có hiệntượng nhậtthực toànphần giữa banngày, các TVG đã thấy được các ngôisao và các hànhtinh hiệnra, dù trong chốclát. Nghĩalà không phải vào banngày, các tinhtú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiệnlên!
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  6. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Thứhai, các TVG đã hiểusai khi khámphá ra và tinrằng mặttrời quay chungquanh tráiđất mỗi năm mộtlần theo chiềuthuận kimđồnghồ! Nhưng thậtlà maymắn cho khoaTửvi, cái sai về lýthuyết lại trởthành đúng trên thựctế! Lýdo là nhờ luậttươngđối về chuyểnđộng. Nghĩalà nếu các TVG đang đứng trên tráiđất nhìn mặttrời, trongkhi tráiđất dichuyển xungquanh mặttrời theo chiều ngược kim đồnghồ, thì cũng giốngnhư các TVG đứng trên tráiđất nằm yên, và nhìn mặttrời dichuyển xungquanh tráiđất theo chiềuthuận kimđồnghồ!.
    Những bằngchứng trên chothấy khi an cungmệnh, các TVG đã theo gầnđúng nguyêntắc vậnhành của tráiđất và mặttrời, xácđịnh vịtrí tươngđối lúc đứabé sinhra đời trong tháidươnghệ. Tuynhiên, xin được nhấnmạnh và giảithích rõ ở đây thêm một chút để tránh sựhiểulầm. Ðúngra, phầnnào là do ảnhhưởng thểxác của ngườimẹ, do tính***ruyền hay phùhợp với môitrường vào thờiđiểm đó, nên "chuyểnbụng" mà sinhra đứabé, hơnlà do cơthể đứabé sinhra chịu ảnhhưởng của các hànhtinh!
    Vòng Tửvi và ThiênPhủ: Coinhư quantrọng nhất cho lásố tửvi nên dựavào tấtcả bốn yếutố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩalà chịuảnhhưởng của Mặttrời, Mặttrăng và năm hànhtinh. Theo nhậnxét của ngườiviết thì cóthể saukhi định vịtrí của đứatrẻ khi mớisinh rađời dựavào tháng và giờ, các TVG còn dựavào hai yếutố saucùng là vịtrí của các hànhtinh hay thiêncan, và vịtrí của Mặttrăng hay ngàysinh. Nhưng làmsao họ biết sao Tửvi phải được an ởđâu dựavào ngàysinh (?), và đây vẫncòn là một bíẩn cần được nghiêncứu thêm. Câutrảlời tạmthời là cóthể các TVG đã dựavào quansát thựcnghiệm hìnhdạng và khuônmặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứatrẻ trong một thờigian kéodài cả mấy trămnăm. KhoaTướngsố cũng cóthể nhờđó mà phátsinh ra. Nênnhớ là ngàynay các nhà coi Tửvi chuyênnghiệp cũng cần phải dựavào hìnhdạng hay tướngmạo để "điềuchỉnh" và kiểmchứng lại trướckhi bàntới lásố của ngườinào.
    Vòng Tháituế: Trongsố những người Việt nổitiếng mộtthời nghiêncứu về khoaTửvi, cóthể TVG Thiênlương (bút hiệu) là người đã khámphá ra những yếutố quantrọng đặcbiệt nhất về vòng an sao Tháituế. Vòng Tháituế theo quanniệm của nhóm nghiêncứu TVG ThiênLương, có ảnhhưởng nhiều đến tháiđộ sống và cách ứngxử của conngười đốivới xãhội. Tạisao vòng Tháituế lại đóng một vaitrò chính trong khoa Tửvi? Câu trảlời làvì đã dựavào sao Mộctinh (Jupiter). Các chiêmtinhgia từxưa đã quansát và biết chukỳ đặcbiệt duynhất gần 12 năm của Mộctinh trong Tháidươnghệ. Nhưng yếutố chính quantrọng ởđây là họ đã cảmnhận được ảnhhưởng của Mộctinh đốivới các sinhvật đang sống trên tráiđất, nhấtlà conngười theo từng năm (bởivậy nên SaoTháituế baogiờ cũng an theo nămsinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Tháituế ở ngay cung đó).
    Theo dữkiện khoahọc tìmthấy được, Mộctinh (Jupiter) hay saoTháituế có hai đặctính nổibật nhất trong Tháidươnghệ. Thứnhất là Hànhtinh lớn thứhai chỉ nhỏ hơn Mặttrời, với đườngbánkính trungbình khoảngchừng 70 ngàn câysố (km), gấp 11.2 lần Tráiđất. Dođó, lựchấpdẫn (gravity) của Mộctinh lên Tráiđất rấtlà đángkể (chỉ sau Mặttrăng quágần với Tráiđất). Thứhai, và đây mới chínhlà điều đángnói, ảnhhưởng từtrường của Mộctinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Tráiđất. Yếutố sóngtừtrường như các pháthiện gầnđây chothấy, ảnhhưởng rấtnhiều trên nãobộ của conngười nhất là cho các trẻem! Thídụ cụthể là cáchđây mấynăm, đã xảyra hiệntượng mộtsố các trẻem Nhật bị óimửa và bấttỉnh vì coi một chươngtrình truyềnhình! Hay giới yhọc càng ngày càng có khuynhướng tin và côngnhận các loạisóng từtrường, từ các dụngcụ điệntử hay các đườngdâyđiện caothế, cóthể gây nguyhại cho nãobộ conngười nếu hấpthu quánhiều!
    Trởlại chuyện tửvi, theo lýgiiải của phái TVG Thiênlương nếu ngườinào anmệnh tại cung có sao Tuếphá, xungchiếu với cung thiêndi có sao Tháituế, thì ngườiđó thườnghay bấtmãn chốngđối, sinhbất phùngthời, v.v. Ðể kiểmchứng hiệntượng trên, ngườiviết chọn một lásố thídụ đểcho cung mệnh cóđược sao tuếphá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vịtrí của các hànhtinh vào thờiđiểm nóitrên, thì thấy rằng vịtrí trên mặtđất vào giờ đó đốidiện thẳng với sao Mộctinh, và ở vịtrí gầnnhất
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  7. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều anmệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuếphá tại mệnh. Khácbiệt duy nhất của hai trườnghợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnhhưởng hoàntoàn của Tuếphá, trongkhi người sinh tháng 3 thì ngượclại không ảnhhưởng tínào vì nhờ mặttrời che hoàntòan! Một yếutố cóthể là do ảnhhưởng của sóngtừtrường quánhiều từ mộctinh, nên nãobộ của đứabé lớnlên sẽ có khuynhhướng pháttriển nhiều, thuộc loại thôngminhhơnngười, và thường đưađến trườnghợp chốngđối những chuyện chướngtai gaimắt, nên dễ đưađến bấtmãn vì không hùatheo với người được (trườnghợp của CaoBá Quát trong lịchsử). Mặtkhác cóthể do thiếu giáodục và hướngdẫn, dễ kết bèđảng với kẻxấu (Kiếp,Không, SátPhá Tham hãmđịa) thành tay đạotặc gianhùng v.v. Nênnhớ là những tay đạotặc gianhùng có tiếngtăm phầnđông đều thuộcloại thôngminh hơnngười rấtnhiều!
    Hai hànhtinh gần mặttrời nhất cũng cóthể làm cơsở để an một sốsao trong Tửvi. Kimtinh (Venus) có chukỳ 0.61 và quaytrởlại vịtrí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của tráiđất, nên có một sốsao trong Tửvi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu. Ðặcbiệt Thủytinh (Mercury) quay quanh mặttrời quá mau, cứ mỗi batháng làm 1 vòng, trongkhi tráiđất cứ ba tháng lại dichuyển một phầntư (1/4) vòng chungquanh mặttrời, nên theo vịtrí tươngđối của người đứng quansát từ mặtđất sẽ thấy như Thủytinh chỉ dichuyển trong 4 vịtrí chiađều trên vòngtròn (vì tầm nhìn quansát bị giánđoạn khôngliêntục do vịtrí của Thủytinh quágần mặttrời). Phảichăng vìvậy mà sao Thiên Mã và mộtsố sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên(?)
    Những gì vừađược trìnhbày chothấy mặcdù khoaTửvi đẩusố khôngđược hoànhảo và còn nhiều nghivấn theo tiêuchuẩn khoahọc hiệnđại, nhưng dámchắcrằng đó chínhlà biểutượng cho tinhhoa của nền vănminh Ðôngphương, một thời rạngrỡ đã qua trong thiênniênkỷ đầutiên của nhânloại, và hyvọng sẽ có ngàytrởlại trong vinhquang của thiênniênkỷ thứba này.
    Nguyễn Cường
    Sacto 1/ 2003
    Tham Khảo:
    1) Nguyễn Ðăng Thục, Lịch Sử Triết Học Ðông Phương, Xuân Thu,1990 Inlại.
    2) Encarta 98 Encyclopedia, Microsoft, 1998 E***ion
    3) Encyclopedia of History, Global Software Publishing, N. A., Inc., 1998
    4) Sào Nam Phan Bội Châu, Chu Dịch, Khai Trí, 1969.
    5) Ngô Tất Tố, Kinh Dịch Toàn Bộ, Ðại Nam, 1973.
    6) The World Almanac and Book of Facts, 1996.
    7) Thiên Lương, Tử vi NghiệmLý ToànThư, Ðại Nam inlại, 1985
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  8. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0

    KHẢ NĂNG DỰ ĐÓAN CỦA CHU DỊCH
    (Lược trích)

    Dịch hay Chu Dịch gồm hai phần: Dịch kinh và Dịch truyện. Dịch kinh là một cuốn sách bói, gồm 64 quẻ, xuất phát từ tám quẻ ( bát quái) , mỗi quẻ có 6 vạch. Dưới mỗi vạch có lời đoán theo các mục như hôn nhân, xuất hành...
    Lời đoán có thể kèm theo những lời khuyên đạo đức. Người đoán quẻ lập luận theo nguyên lý "âm dương giao cảm"
    Tương truyền bát quái do Phục Hy, một nhân vật thần thoại hàng vạn năm trước làm ra. Lời đoán gọi là Quái từ, Hào từ. Quái từ do vua Văn Vương nhà Chu (thế kỷ 12 trước Công nguyên), còn Hào từ do Chu Công, em Văn Vương làm ra. Dịch truyện gồm 10 thiên, gọi là "Thập dực ". Đó là một tác phẩm triết học, trong đó thiên "Hệ từ " có nội dung phong phú hơn cả.
    Nhiều người đã thảo luận xuất xứ của Dịch. Theo cố giáo sư Cao Xuân Huy, một học giả hàng đầu, Dịch Kinh là sách bói, ra đời sau Khổng Tử, còn Dịch truyện gồm nhiều tư tưởng hỗn hợp, mà ở Hệ từ nỗi bật tư tưởng Lão Trang, với bản thể luận và biện chứng pháp của Đạo gia. Vậy, Dịch chỉ có thể hình thành trong khoảng mấy trăm năm cuối đời Chu, thời Xuân thu - Chiến quốc.
    Đáng chú ý là khả năng dự báo của Dịch. Thiệu Vĩ Hoa, một "ngôi sao Dịch học", đã viết cuốn Chu Dịch với dự đoán học, với số lượng phát hành kỷ lục tại Trung Quốc. Sách đã được ra tiếng Việt. Tương truyền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đang đàm đạo về Dịch thì có tiếng gõ cửa, ông liền bấm một quẻ và đoán được người hàng xóm sang mượn búa. Mở cửa thì đúng như vậy! Ông được xem là người biết việc trước và sau 500 năm, trên cơ sở bốn câu sấm ký, đoán đúng 81 năm Pháp thuộc của đất nước: Cửu càn khôn dĩ định/Thanh minh thời tiết hoa tàn/Trực đáo dương đầu, mã vĩ. Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
    Nếu vậy thì câu xưng tụng của Thiệu Vĩ Hoa, xem Chu Dịch là (Đại số học vũ trụ), (Hòn ngọc của vương miện khoa học) không phải là quá lời. Vậy đâu là cơ sở khoa học cho những dự đoán thần diệu này? Có thật nếu nắm được những tinh diệu của Dịch, có thể đoán được tương lai? Có thể đặt ra câu hỏi có nhiều tính triết học hơn: Vũ trụ và sự sống, cũng như xã hội loài người là ngẫu nhiên hay nhất định? Trong bài này chúng tôi thử đưa ra một lời giải cho những câu hỏi đó.

    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  9. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Lôgic 64 quẻ Dịch
    Trong Hệ từ, viết: Dịch có Thái cực, sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái. Đây chính là cơ sở, là logic nội tại của Dịch. Vì vậy cần xem xét các khái niệm Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái và sự biến dịch giữa chúng.
    Thái cực chính là chữ Đạo của lão tử, là bản thể của vũ trụ, cơ sở của vạn vật, căn nguyên của vũ trụ, nên nó "vô thủy vô chung" (không có khởi đầu và kết cục), "bất sinh bất diệt", (tồn tại vĩnh hằng, không đổi không dời), bao trùm tất cả vạn vật, đồng thời có trong mỗi vật cá biệt. Quan niệm như thế về bản thể vũ trụ không phải là không có lý. Lưỡng nghi là âm dương, hai phương thức của Thái cực, tương phản, đối lập, mâu thuẫn và cũng thống nhất với nhau. Do sự đấu tranh của chúng mà hình thành sự đa hóa, phân hóa, phát triển. Lưỡng nghi cũng là trời và đất, lấy dương thay cho trời, lấy âm thay cho đất. Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tức là âm dương kết hợp, tương giao tạo nên bốn tượng: Hào dương hợp với hào dương là thái dương, hào dương hợp với hào âm là thái âm, hào âm hợp với hào dương là thiếu dương, hào âm với hào âm là thái âm. Nói cách khác, thuần dương là thái dương, thuần âm là thái âm, một âm trên một dương là thiếu âm, một dương trên một âm là thiếu dương. Người xưa lấy Tứ tượng tượng trưng cho bốn phương, cũng cho bốn mùa, tức tứ thời.
    Tứ tượng sinh ra Bát quái, vẫn là âm dương kết hợp mà thành. Hào dương kết hợp với thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm tạo thành bốn quẻ: Càn, Đoài, Ly, Chấn. Hào âm hợp với tứ tượng thành bốn quẻ: Tốn, Khảm, Cấn, Khôn tổng cộng là tám quẻ, tức bát quái. Đó cũng là tám phương tám tiết. Tám (tiểu thành quái) trên kết hợp với nhau, tạo thành 64 (đại thành quái), mỗi quẻ có 6 hào hay 3 tượng. Có thể tìm số quẻ theo cách khác: Vì mỗi quẻ có 3 trong tổng số 4 tượng, nên theo ngôn ngữ toán học, số chỉnh hợp 3 chập 4 là 43 = 64. Sự tương đương giữa 64 quẻ Dịch và 64 codon (mỗi codon gồm 3 trong số 4 nucleonit), mã di truyền xác định các axit amin trong sinh học chỉ mang tính hình thức trong toán học, chứ không có mối quan hệ biện chứng nào cả. Người xưa xem mọi biến dịch trong vũ trụ đều không ngoài 64 quẻ đó. Bậc trí giả với các học thuyết của thánh hiền, tự xem (ngồi trong nhà mà như đứng giữa ngã ba đường), cái gì cũng biết là vì vậy. Đó chính là logic nội tại của Dịch, một logic không dễ diễn giải dưới ngôn ngữ của khoa học.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  10. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Dịch theo khoa học hiện đại
    Theo chúng tôi, "Thái cực" chính là Big Bang, khởi thủy của vũ trụ; Lưỡng nghi là đối ngẫu sóng-hạt của các hạt cơ bản; Tứ tượng là 4 trường lực cơ bản điều khiển vũ trụ. Một số quẻ Dịch là những khái niệm, phạm trù, quy luật triết học duy vật biện chứng. Khi đó sẽ giải thích tính biện chứng của logic nội tại và khả năng dự báo của Dịch.
    Dù tự nhiên muôn hình vạn trạng, vật lý học xác định, vũ trụ chỉ do 4 trường lực-hấp dẫn, điện từ, yếu và mạnh-điều khiển. Hấp dẫn là tương tác giữa các vật có trọng lượng, điện từ-giữa các vật mang điện. Đây là hai lực tầm xa, không giới hạn khoảng cách. Yếu và mạnh là hai lực hạt nhân cường độ lớn nhưng tầm ngắn, chỉ trong phạm vi hạt nhân nguyên tử. Bốn trường lực trên cường độ rất khác nhau. Nếu tương tác mạnh có cường độ tương đối là 1, thì điện từ 10-2, yếu 10-5, điện từ 10-39 ! Lý thuyết trường lượng tử cho rằng, 4 lực trên do các lượng tử chuyển tải: gluon và meson chuyển tương tác mạnh, boson trung gian-yếu, photon-điện từ và graviton-hấp dẫn. Grsviton chưa được nhận cân bằng thực nghiệm vì cường độ lực hấp dẫn quá nhỏ. Khoa học chưa phát hiện loại trường nào khác. Trường sinh học chỉ là giả thuyết của số ít nhà khoa học.
    Vai trò của các tương tác trên trong vũ trụ khác nhau. Hai tương tác hạt nhân quy định cấu trúc hạt nhân nguyên tử. Tương tác điện từ quyết định cấu trúc nguyên-phân tử, chất rắn, chất lỏng, chất khí và quan trọng trong thiên văn. Hấp dẫn quyết định việc hình thành hành tinh, các sao và thiên hà. Chính vì vậy, sự sống, hình thức vận động mới của vật chất từ mức tế bào, được chi phối bởi tương tác điện từ là chính. Nối gót Einstein, vật lý đang thống nhất các trường lực cơ bản. Trường siêu thống nhất, Thái cực của Dịch, xuất hiện tại chính thời điểm khai sinh vũ trụ. Khoảng 1 tỷ năm trước, vũ trụ khởi đầu bằng vụ nổ dữ dội (Big Bang) tại một điểm kỳ dị trong không-thời gian, nơi mật độ năng lượng và sự cong không-thời gian là vô hạn. Đó là nơi ngự trị trường siêu thống nhất, hợp nhất 4 trường nói trên. Sau Big Bang, vũ trụ giãn nở và nguội dần. Từ khởi thủy đến 10-43 giây chưa biết diễn biến vũ trụ ra sao, vì vật lý chưa xây đựng được lý thuyết hấp dẫn lượng tử. Sau 10-43 giây, trường siêu thống nhất tách thành điện từ và đại thống nhất. Lúc này vũ trụ có nhiệt độ 1032 độ K, mật độ 10-94 g/cm3 và kích thước 10-33cm. Tới 10-35 giây, vũ trụ lạnh còn 1027 độ K, trường đại thống nhất tách thành tương tác mạnh và yếu. Từ 10-35 tới 10-32 giây, vũ trụ trải qua giai đoạn" lạm phát ", với kích thước hơn 1030 lần và đã bằng quả nho! Vũ trụ lúc này là món súp đậm đặc, gồm quark và lepton, do lực hấp dẫn, mạnh và điện yếu điều khiển. Đến 10-10 giây sau vụ nổ, tương tác điện yếu tách thành điện từ và yếu, hoàn tất việc biến trường siêu thống nhất thành 4 lực điều khiển như vũ trụ ngày nay.
    Về hình thức, logic của Dịch Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng phù hợp với vũ trụ luận trên. Có thể xem Thái cực là Big Bang, nơi vũ trụ là cái một, cái duy nhất. Lưỡng nghi là đối ngẫu sóng- hạt: Vật chất có đồng thời tính sóng và hạt, hai tính chất này mâu thuẫn và thống nhất nhau. Tứ tượng là bốn trường lực cơ bản. Tứ tượng không sinh đồng thời, mà (một sinh hai, hai sinh ba), (ba) sinh bốn, bốn sinh vô cùng. Lão tử tỏ ra chính xác.
    Phương Đông xem Thái cực vô thủy vô chung, nhưng khoa học thấy vũ trụ có khởi đầu và có kết thúc. Theo Einstein, nếu mật độ vật chất trung bình của vũ trụ nhỏ hơn giá trị 5,8 x 10-27 kg/ m3, tương đương 3,5 nguyên tử hydro và mọi chênh lệch năng lượng biến mất do sự giãn nở vô hạn. Nếu lớn hơn, lực hấp dẫn dần thắng sự giãn nở và vũ trụ bắt đầu co lại. Quá trình diễn biến ngược (vụ nổ lớn) và đạt tới (vụ co lớn) Big Crunch, khi các lực thống nhất lại. Vũ trụ quay về cái một, chuẩn bị bùng nổ tiếp. Trường hợp này thú vị, vì giải thích được nguyên nhân Big Bang của ta do Big Crunch trước mà không cần Thượng Đế.
    Theo giáo sư Cao Xuân Huy, trong 64 quẻ, ba quẻ Thái, Bĩ và Đồng nhân tiêu biểu cho quá trình biện chứng của Dịch. Chữ Thái nghĩa là thông, quẻ Thái (Càn hạ, Khôn thượng) nói lên sự hanh thông, thông lọt của người đi xem bói, vì rằng trong quẻ này, Càn (dương năng động, tích cực) ở dưới làm cơ sở cho Khôn (âm), do đó âm dương giao thông và hài hòa nhau. Tiếp theo là Bĩ, phản diện của Thái. Quẻ Bĩ (Khôn hạ, Càn thượng), cái âm, cái tiêu cực làm cơ sở cho cái dương, cái tích cực, thế không vững nên bế tắc, không lưu thông được.
    Quẻ Bĩ phủ định quẻ Thái, nhưng tiếp theo nó là quẻ Đồng nhân, phủ định quẻ Bĩ hay phủ định cái phủ định. Quẻ Đồng nhân (Ly hạ, Càn thượng): Ly tượng trưng cho lửa, Càn tượng trưng cho trời. Lửa bay trên vòm trời; lửa và vòm trời cảm ứng với nhau. Hào giữa của Ly là âm, hào giữa của Càn là dương, thế thì âm dương tương ứng , giao hòa. Nên quẻ Đồng nhân nói sự thông lọt cao hơn sự thông lọt của quẻ Thái. Quẻ Thái nói sự hanh thông của một cá thể, quẻ Đồng nhân là sự hanh thông của cá nhân trong sự giao hòa với người khác, với số đông. Văy quẻ Thái là chính đề; quẻ Bĩ là phản đề, là phủ định; quẻ Đồng nhân là hợp đề của chính đề, là phủ định của phủ định. Nói cách khác, một số quẻ Dịch chính là những phạm trù, quy luật triết học duy vật biện chứng. Xin nói thêm, do kiến thức hạn hẹp, chúng tôi chưa mối liên hệ giữa bát quái với một lĩnh vực khoa học nào. Nhưng có thể suy luận, chúng có thể gắn với sinh học, với sự sống để tạo bước chuyển giữa 4 trường lực cơ bản và quy luật triết học.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư

Chia sẻ trang này