1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kho tàng bói toán sư tầm đọc giải trí.(Bài mới- bói qua diện mạo, năm tuổi)

Chủ đề trong 'Tư vấn tình yêu' bởi antiboy, 06/11/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0

    KHẢ NĂNG DỰ ĐÓAN CỦA CHU DỊCH
    (Lược trích)

    Dịch hay Chu Dịch gồm hai phần: Dịch kinh và Dịch truyện. Dịch kinh là một cuốn sách bói, gồm 64 quẻ, xuất phát từ tám quẻ ( bát quái) , mỗi quẻ có 6 vạch. Dưới mỗi vạch có lời đoán theo các mục như hôn nhân, xuất hành...
    Lời đoán có thể kèm theo những lời khuyên đạo đức. Người đoán quẻ lập luận theo nguyên lý "âm dương giao cảm"
    Tương truyền bát quái do Phục Hy, một nhân vật thần thoại hàng vạn năm trước làm ra. Lời đoán gọi là Quái từ, Hào từ. Quái từ do vua Văn Vương nhà Chu (thế kỷ 12 trước Công nguyên), còn Hào từ do Chu Công, em Văn Vương làm ra. Dịch truyện gồm 10 thiên, gọi là "Thập dực ". Đó là một tác phẩm triết học, trong đó thiên "Hệ từ " có nội dung phong phú hơn cả.
    Nhiều người đã thảo luận xuất xứ của Dịch. Theo cố giáo sư Cao Xuân Huy, một học giả hàng đầu, Dịch Kinh là sách bói, ra đời sau Khổng Tử, còn Dịch truyện gồm nhiều tư tưởng hỗn hợp, mà ở Hệ từ nỗi bật tư tưởng Lão Trang, với bản thể luận và biện chứng pháp của Đạo gia. Vậy, Dịch chỉ có thể hình thành trong khoảng mấy trăm năm cuối đời Chu, thời Xuân thu - Chiến quốc.
    Đáng chú ý là khả năng dự báo của Dịch. Thiệu Vĩ Hoa, một "ngôi sao Dịch học", đã viết cuốn Chu Dịch với dự đoán học, với số lượng phát hành kỷ lục tại Trung Quốc. Sách đã được ra tiếng Việt. Tương truyền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đang đàm đạo về Dịch thì có tiếng gõ cửa, ông liền bấm một quẻ và đoán được người hàng xóm sang mượn búa. Mở cửa thì đúng như vậy! Ông được xem là người biết việc trước và sau 500 năm, trên cơ sở bốn câu sấm ký, đoán đúng 81 năm Pháp thuộc của đất nước: Cửu càn khôn dĩ định/Thanh minh thời tiết hoa tàn/Trực đáo dương đầu, mã vĩ. Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
    Nếu vậy thì câu xưng tụng của Thiệu Vĩ Hoa, xem Chu Dịch là (Đại số học vũ trụ), (Hòn ngọc của vương miện khoa học) không phải là quá lời. Vậy đâu là cơ sở khoa học cho những dự đoán thần diệu này? Có thật nếu nắm được những tinh diệu của Dịch, có thể đoán được tương lai? Có thể đặt ra câu hỏi có nhiều tính triết học hơn: Vũ trụ và sự sống, cũng như xã hội loài người là ngẫu nhiên hay nhất định? Trong bài này chúng tôi thử đưa ra một lời giải cho những câu hỏi đó.
    Lôgic 64 quẻ Dịch
    Trong Hệ từ, viết: Dịch có Thái cực, sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái. Đây chính là cơ sở, là logic nội tại của Dịch. Vì vậy cần xem xét các khái niệm Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái và sự biến dịch giữa chúng.
    Thái cực chính là chữ Đạo của lão tử, là bản thể của vũ trụ, cơ sở của vạn vật, căn nguyên của vũ trụ, nên nó "vô thủy vô chung" (không có khởi đầu và kết cục), "bất sinh bất diệt", (tồn tại vĩnh hằng, không đổi không dời), bao trùm tất cả vạn vật, đồng thời có trong mỗi vật cá biệt. Quan niệm như thế về bản thể vũ trụ không phải là không có lý. Lưỡng nghi là âm dương, hai phương thức của Thái cực, tương phản, đối lập, mâu thuẫn và cũng thống nhất với nhau. Do sự đấu tranh của chúng mà hình thành sự đa hóa, phân hóa, phát triển. Lưỡng nghi cũng là trời và đất, lấy dương thay cho trời, lấy âm thay cho đất. Lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tức là âm dương kết hợp, tương giao tạo nên bốn tượng: Hào dương hợp với hào dương là thái dương, hào dương hợp với hào âm là thái âm, hào âm hợp với hào dương là thiếu dương, hào âm với hào âm là thái âm. Nói cách khác, thuần dương là thái dương, thuần âm là thái âm, một âm trên một dương là thiếu âm, một dương trên một âm là thiếu dương. Người xưa lấy Tứ tượng tượng trưng cho bốn phương, cũng cho bốn mùa, tức tứ thời.
    Tứ tượng sinh ra Bát quái, vẫn là âm dương kết hợp mà thành. Hào dương kết hợp với thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm tạo thành bốn quẻ: Càn, Đoài, Ly, Chấn. Hào âm hợp với tứ tượng thành bốn quẻ: Tốn, Khảm, Cấn, Khôn tổng cộng là tám quẻ, tức bát quái. Đó cũng là tám phương tám tiết. Tám (tiểu thành quái) trên kết hợp với nhau, tạo thành 64 (đại thành quái), mỗi quẻ có 6 hào hay 3 tượng. Có thể tìm số quẻ theo cách khác: Vì mỗi quẻ có 3 trong tổng số 4 tượng, nên theo ngôn ngữ toán học, số chỉnh hợp 3 chập 4 là 43 = 64. Sự tương đương giữa 64 quẻ Dịch và 64 codon (mỗi codon gồm 3 trong số 4 nucleonit), mã di truyền xác định các axit amin trong sinh học chỉ mang tính hình thức trong toán học, chứ không có mối quan hệ biện chứng nào cả. Người xưa xem mọi biến dịch trong vũ trụ đều không ngoài 64 quẻ đó. Bậc trí giả với các học thuyết của thánh hiền, tự xem (ngồi trong nhà mà như đứng giữa ngã ba đường), cái gì cũng biết là vì vậy. Đó chính là logic nội tại của Dịch, một logic không dễ diễn giải dưới ngôn ngữ của khoa học.
    Dịch theo khoa học hiện đại
    Theo chúng tôi, "Thái cực" chính là Big Bang, khởi thủy của vũ trụ; Lưỡng nghi là đối ngẫu sóng-hạt của các hạt cơ bản; Tứ tượng là 4 trường lực cơ bản điều khiển vũ trụ. Một số quẻ Dịch là những khái niệm, phạm trù, quy luật triết học duy vật biện chứng. Khi đó sẽ giải thích tính biện chứng của logic nội tại và khả năng dự báo của Dịch.
    Dù tự nhiên muôn hình vạn trạng, vật lý học xác định, vũ trụ chỉ do 4 trường lực-hấp dẫn, điện từ, yếu và mạnh-điều khiển. Hấp dẫn là tương tác giữa các vật có trọng lượng, điện từ-giữa các vật mang điện. Đây là hai lực tầm xa, không giới hạn khoảng cách. Yếu và mạnh là hai lực hạt nhân cường độ lớn nhưng tầm ngắn, chỉ trong phạm vi hạt nhân nguyên tử. Bốn trường lực trên cường độ rất khác nhau. Nếu tương tác mạnh có cường độ tương đối là 1, thì điện từ 10-2, yếu 10-5, điện từ 10-39 ! Lý thuyết trường lượng tử cho rằng, 4 lực trên do các lượng tử chuyển tải: gluon và meson chuyển tương tác mạnh, boson trung gian-yếu, photon-điện từ và graviton-hấp dẫn. Grsviton chưa được nhận cân bằng thực nghiệm vì cường độ lực hấp dẫn quá nhỏ. Khoa học chưa phát hiện loại trường nào khác. Trường sinh học chỉ là giả thuyết của số ít nhà khoa học.
    Vai trò của các tương tác trên trong vũ trụ khác nhau. Hai tương tác hạt nhân quy định cấu trúc hạt nhân nguyên tử. Tương tác điện từ quyết định cấu trúc nguyên-phân tử, chất rắn, chất lỏng, chất khí và quan trọng trong thiên văn. Hấp dẫn quyết định việc hình thành hành tinh, các sao và thiên hà. Chính vì vậy, sự sống, hình thức vận động mới của vật chất từ mức tế bào, được chi phối bởi tương tác điện từ là chính. Nối gót Einstein, vật lý đang thống nhất các trường lực cơ bản. Trường siêu thống nhất, Thái cực của Dịch, xuất hiện tại chính thời điểm khai sinh vũ trụ. Khoảng 1 tỷ năm trước, vũ trụ khởi đầu bằng vụ nổ dữ dội (Big Bang) tại một điểm kỳ dị trong không-thời gian, nơi mật độ năng lượng và sự cong không-thời gian là vô hạn. Đó là nơi ngự trị trường siêu thống nhất, hợp nhất 4 trường nói trên. Sau Big Bang, vũ trụ giãn nở và nguội dần. Từ khởi thủy đến 10-43 giây chưa biết diễn biến vũ trụ ra sao, vì vật lý chưa xây đựng được lý thuyết hấp dẫn lượng tử. Sau 10-43 giây, trường siêu thống nhất tách thành điện từ và đại thống nhất. Lúc này vũ trụ có nhiệt độ 1032 độ K, mật độ 10-94 g/cm3 và kích thước 10-33cm. Tới 10-35 giây, vũ trụ lạnh còn 1027 độ K, trường đại thống nhất tách thành tương tác mạnh và yếu. Từ 10-35 tới 10-32 giây, vũ trụ trải qua giai đoạn" lạm phát ", với kích thước hơn 1030 lần và đã bằng quả nho! Vũ trụ lúc này là món súp đậm đặc, gồm quark và lepton, do lực hấp dẫn, mạnh và điện yếu điều khiển. Đến 10-10 giây sau vụ nổ, tương tác điện yếu tách thành điện từ và yếu, hoàn tất việc biến trường siêu thống nhất thành 4 lực điều khiển như vũ trụ ngày nay.
    Về hình thức, logic của Dịch Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng phù hợp với vũ trụ luận trên. Có thể xem Thái cực là Big Bang, nơi vũ trụ là cái một, cái duy nhất. Lưỡng nghi là đối ngẫu sóng- hạt: Vật chất có đồng thời tính sóng và hạt, hai tính chất này mâu thuẫn và thống nhất nhau. Tứ tượng là bốn trường lực cơ bản. Tứ tượng không sinh đồng thời, mà (một sinh hai, hai sinh ba), (ba) sinh bốn, bốn sinh vô cùng. Lão tử tỏ ra chính xác.
    Phương Đông xem Thái cực vô thủy vô chung, nhưng khoa học thấy vũ trụ có khởi đầu và có kết thúc. Theo Einstein, nếu mật độ vật chất trung bình của vũ trụ nhỏ hơn giá trị 5,8 x 10-27 kg/ m3, tương đương 3,5 nguyên tử hydro và mọi chênh lệch năng lượng biến mất do sự giãn nở vô hạn. Nếu lớn hơn, lực hấp dẫn dần thắng sự giãn nở và vũ trụ bắt đầu co lại. Quá trình diễn biến ngược (vụ nổ lớn) và đạt tới (vụ co lớn) Big Crunch, khi các lực thống nhất lại. Vũ trụ quay về cái một, chuẩn bị bùng nổ tiếp. Trường hợp này thú vị, vì giải thích được nguyên nhân Big Bang của ta do Big Crunch trước mà không cần Thượng Đế.
    Theo giáo sư Cao Xuân Huy, trong 64 quẻ, ba quẻ Thái, Bĩ và Đồng nhân tiêu biểu cho quá trình biện chứng của Dịch. Chữ Thái nghĩa là thông, quẻ Thái (Càn hạ, Khôn thượng) nói lên sự hanh thông, thông lọt của người đi xem bói, vì rằng trong quẻ này, Càn (dương năng động, tích cực) ở dưới làm cơ sở cho Khôn (âm), do đó âm dương giao thông và hài hòa nhau. Tiếp theo là Bĩ, phản diện của Thái. Quẻ Bĩ (Khôn hạ, Càn thượng), cái âm, cái tiêu cực làm cơ sở cho cái dương, cái tích cực, thế không vững nên bế tắc, không lưu thông được.
    Quẻ Bĩ phủ định quẻ Thái, nhưng tiếp theo nó là quẻ Đồng nhân, phủ định quẻ Bĩ hay phủ định cái phủ định. Quẻ Đồng nhân (Ly hạ, Càn thượng): Ly tượng trưng cho lửa, Càn tượng trưng cho trời. Lửa bay trên vòm trời; lửa và vòm trời cảm ứng với nhau. Hào giữa của Ly là âm, hào giữa của Càn là dương, thế thì âm dương tương ứng , giao hòa. Nên quẻ Đồng nhân nói sự thông lọt cao hơn sự thông lọt của quẻ Thái. Quẻ Thái nói sự hanh thông của một cá thể, quẻ Đồng nhân là sự hanh thông của cá nhân trong sự giao hòa với người khác, với số đông. Văy quẻ Thái là chính đề; quẻ Bĩ là phản đề, là phủ định; quẻ Đồng nhân là hợp đề của chính đề, là phủ định của phủ định. Nói cách khác, một số quẻ Dịch chính là những phạm trù, quy luật triết học duy vật biện chứng. Xin nói thêm, do kiến thức hạn hẹp, chúng tôi chưa mối liên hệ giữa bát quái với một lĩnh vực khoa học nào. Nhưng có thể suy luận, chúng có thể gắn với sinh học, với sự sống để tạo bước chuyển giữa 4 trường lực cơ bản và quy luật triết học.
    Khả năng dự báo của chu dịch
    Có thể xem Chu Dịch là một ngôn ngữ, một hệ quan điểm, một thuật toán, một triết học về vũ trụ, về những biến dịch trong vũ trụ. Vì logic hình thức có phần đúng, nên xem 64 quẻ Dịch bao trùm vũ trụ cũng không phải là vô lý. Vấn đề là khả năng thực đạt đến mức độ nào. Nói cách khác, có thể lượng hóa khả năng dự báo của Dịch hay không?
    Từ những điều đã nói, chúng tôi cho rằng, logic của Dịch đúng khoảng 60 - 80%, một tỷ lệ rất cao cho một lý thuyết đã có từ ngàn năm trước. Tuy nhiên đó là do mới chỉ xét tính tất yếu của các quy luật phát triển mà chưa xét vai trò của ngẫu nhiên, điều triết học duy vật biện chứng đã nói từ lâu và khoa học đang quan tâm nguyên cứu. Vũ trụ diễn biến ngẫu nhiên hay nhất định? Nếu hoàn toàn nhất định, có thể dự đoán chính xác tương lai xa tùy ý, miễn là xây dựng được một lý thuyết tốt. Nếu hoàn toàn ngẫu nhiên, dự báo là không thể. Nếu vừa nhất định vừa ngẫu nhiên, có thể dự báo phương hướng mà không biết những thông tin cụ thể. Nói một người sẽ chết là tuyệt đối đúng, nhưng không thể nói khi nào chết dựa vào ngày sinh tháng đẻ.
    Thế kỷ 19, do những tiên đoán chính xác của cơ học Newton đối với chuyển động các thiên thể, điển hình là sao chổi Halley, nhà khoa học Laplace đề xuất quyết định luận: Nếu biết chính xác các phương trình và điều kiện ban đầu của vũ trụ, có thể xác định xác định mọi biến cố quá khứ và tương lai. Trước đó, Triết gia Descartes cũng nêu cứu cánh tính (finalism), xem mọi hệ thống trong vũ trụ đều có tính hướng đích, các biến dịch là trung gian để đạt cái đích cuối cùng, tất định đó. Nói cách khác vũ trụ là (tiền định). Khi Marx và Engel xây dựng triết học duy học biện chứng, với cặp phạm trù ngẫu nhiên-tất yếu, những tư tưởng trên không được ủng hộ nữa. Quyết định luận Laplace dựa trên cơ học Newton, nó không còn đúng khi xét các kích thước nhỏ như nguyên tử và hạt cơ bản, cũng như các chuyển động gần tốc độ ánh sáng hay sự biến gần các thiên thể nặng. Khi đó, phải dùng cơ học lượng tử hay thuyết tương đối. Trong cơ học lượng tử, không thể tiên đoán hành vi của một hệ trong những giới hạn của nguyên lý bất định Heisenberg. Khi đó, quyết định luận Laplace tự nhiên mất ý nghĩa.
    Hơn 20 năm nay, một lĩnh vực nằm giữa toán và vật lý ra đời, đó là tất loạn (chaos). Chaos cho thấy, các phương trình tất định, chảng hạn định luật Newton, cũng có thể cho kết quả không tất định. Trong sinh học, cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm , sự sống là (tiền định) hay ngẫu nhiên cũng cho kết quả hòa. Vì thế, giáo sư Gell-Mann, bộ óc vật lý siêu việt nhất nửa cuối thế kỷ XX, giải Nobel về mô hình quark của hạt cơ bản, cho rằng: "Các ngẫu nhiên và các quark giải thích được vũ trụ, sự sống và mọi thứ khác" (The Sunday Times).
    Nói cách khác, biến dịch vũ trụ vừa có tính tất yếu của quy luật khách quan, vừa có tính ngẫu nhiên do bản chất thống kê của tương tác giữa vô số các hợp phần. Kết quả là dự báo của Chu Dịch chỉ đúng 30-40%, tương tự như các dự báo khác, kể cả dự báo ngẫu nhiên! Trạng Trình độn đúng việc mượn búa của hàng xóm nên được giải thích đơn giản bằng thống kê: Do kinh nghiệm quá khứ, biến cố đố có xác suất lớn nhất! Không đủ chứng lý để nói 500 năm trước, ông đã dự báo đúng 81 năm Pháp thuộc, vì các con số là sản phẩm của bộ óc con người.
    Kết luận:
    Về mặt nhận thức luận, hiểu biết con người từ thấp tới cao, từ ít tới nhiều, từ đơn giản tới phức tạp trên cơ sở trình độ khoa học của xã hội đương thời. Quá trình nhận thức càng ngày càng gần, nhưng không bao giờ đạt tới hiểu biết cuối cùng. Một lý thuyết từ hàng năm trước, khi khoa học còn khá sơ khai, không thể phản ánh tốt hiện thực khách quan. Trực giác người xưa là đáng khâm phục, nhưng tâm lý học nhân thức cho thấy, trực giác chỉ có ý nghĩa khi đủ thông tin. Theo thiển ý, Dịch dự đoán được 1/3 các biến cố, tương đương như chiêm tinh học. Có thể vì thế chưa một nhà Dịch học nào đưa ra con số thống kê so sánh tỉ lệ dự báo đúng và sai. Thiếu những thống kê khoa học như vậy, khả năng dư báo của Dịch còn chưa đủ sức thuyết phục. Tất nhiên đây chỉ là ý kiến cá nhân, và chúng tôi sẽ rất biết ơn, nếu được bạn đọc xa gần chỉ giáo.
    Đ.K.C
    (VNI News Online)

    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  2. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    NHÂN TƯỚNG HỌC
    Tác giả: Hy Trương
    "Tướng tùy tâm sinh
    Tướng tùy tâm diệt "
    Phát hành ngày 21 - 10- 1974
    - Giá: $ 27.00/cuốn
    TỬ VI TỔNG HỢP
    Tác giả: Nguyễn Phát Lộc
    Xuất bản năm 1974
    - Giá: $ 30.00/cuốn
    TỬ VI GIẢNG MINH
    Tác giả: Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc
    Phát hành năm 1974
    - Giá: $ 25.00/cuốn
    TỬ VI ÁO BÍ BIỆN CHỨNG HỌC
    Tác giả: Hà-Lạc Dã-Phu Việt Viêm Tử
    Phát hành năm 1972
    - Giá: $ 32.00/cuốn
    TỬ VI HÀM SỐ
    Tác giả: Nguyễn Phát Lộc
    Xuất bản năm Nhâm Tý
    - Giá: $ 27.00/cuốn
    MUỐN LUẬN ĐÓAN ĐÚNG SỐ TỬ VI
    Tác giả: Huyền Vi
    Xuất bản năm 1972
    - Giá: $ 25.00/cuốn
    TỬ VI BỔ TÚC
    Tác giả: Nguyễn Mạnh Bảo
    Xuất bản năm 1958
    - Giá: $ 12.00/cuốn
    TỬ VI ĐẨU SỐ
    Tác giả: Lý Học - Nguyễn Mạnh Bảo
    Xuất bản năm 1951
    - Giá: $ 12.00/cuốn
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  3. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    PHONG THUỶ

    Với mục đích giới thiệu về bộ môn phong thủy như một nghệ thuật về sắp xếp nơi chúng ta sống và làm việc hàng ngày, chúng tôi xin trình bày những nguyên tắc căn bản nhất trong phong thủy. Những nguyên tắc này nên được áp dụng một cách khoa học và thẩm mỹ, tránh áp đặt máy móc gây nhiều phiền hà trong cuộc sống đô thị hiện đại
    Đạo và thuyết âm dương.
    Khí, nguồn năng lượng trong phong thủy.
    Ngũ hành trong phong thủy.
    Giải pháp khắc phục nhược điểm của nhà và đất.
    Chín Cách Chữa Căn Bản.
    Định vị nhà trên một vùng đất.
    Đường sá.
    Lối ra vào.
    Cây cối.
    Ao hồ.
    Cửa ngõ, nẻo dẫn khí và đón vận may.
    Cửa thông luôn.
    Cửa sổ.
    Độ xéo.
    Cầu thang.
    Trần nhà.

    Góc.
    Cột.
    Sắp xếp phòng.
    Phòng ngủ.
    Nhà bếp.
    Phòng ăn.
    Phòng khách.
    Phòng tắm.
    Ánh sáng.
    Tường và màu đồ đạc.
    Cửa hàng và văn phòng.
    Vách xiên.
    Phong thủy và dòng đời.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  4. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Đạo và Thuyết âm dương
    Đạo là nguyên lý và tiến trình kết hợp con người và vũ trụ. Đạo được dịch là ?ocon đường? hay ?olối đi?. Về nguyên lý, Đạo phát sinh từ sự quân bình, sự hài hoà, hợp nhất của các động lực đối nghịch và bổ sung cho nhau. Qua sự hiểu biết về Đạo, các nhà phong thủy đi tìm sự quân bình để đạt tới hài hoà trong môi trường sống.
    Lý thuyết về âm dương là một tên gọi của Đạo. Hai lực này đối nghịch nhau và cùng nhau tạo nên mọi hình thái của đời sống. Âm thì mờ tối , Dương thì sáng sủa, Âm thụ động, Dương tích cực. Quan niệm Âm- Dương xem con người và môi trường làm một. Đó là nhà ở, chỗ làm việc, núi đồi, sông suối, quả đất và không gian. Nếu bạn hiểu được những gì phong thuỷ trình bày, thì bạn có thể gìn giữ được sự quân bình bên trong, để được may mắn và cải thiện số mệnh của mình.
    Môn Phong thuỷ có nhiệm vụ tìm kiếm để tạo ra một nơi cho việc sinh sống được quân bình, hài hoà, người ngụ cư được sức khoẻ dồi dào. Ý nghĩa của sự cân bằng không thuần ở sự đối xứng bên ngoài. Nó sắp xếp nhà cửa và con người với các yếu tố thiên nhiên và nhân tạo để có được sự hài hoà và yên lành trong môi trường chung quanh.
    Khí, nguồn năng lượng trong phong thủy
    Khí được dịch là hơi thở hay năng lượng là ý niệm quan trọng nhất trong thuật phong thuỷ. Khí là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến đời sống loài người. Khí là năng lượng hay lực tạo nên núi, điều hướng sông suối, màu sắc, hình dạng cây cỏ. Năng lượng này người ta gọi là ?olong điểm?. Trong thuật Phong thuỷ, các chuyên gia thăm dò mạch tốt hay ?odưỡng? khí và rồi khơi hướng, thanh lọc khí để bồi dưỡng sự sống và người ngụ cư.
    Từ xa xưa, người Hoa cho rằng khí ảnh hưởng đến vận mạng và các liên hệ xã hội của một người. Dù sao cũng có giới hạn của nó. Tuy nhiên, dưỡng khí làm vận may khá hơn; khác với người có sẵn dịp may mà không luyện khí. Làm thế nào để cân bằng khí vận hành trong môi trường giúp tăng và hài hoà với năng lượng chúng ta. Khí của người và cả ngôi nhà giống nhau, cả hai phải vận chuyển điều hoà. Khí của một ngôi nhà ảnh hưởng đến bầu không khí và người ở nơi ấy. Có một vài nơi chúng ta cảm thấy thích thú dễ chịu, có nơi ta cảm thấy bứt rứt khó chịu: Có chỗ thì sinh động sáng sủa, có chỗ lại lạnh lẽo, âm u, nặng nề.
    Điều hoà và tăng vận khí là mục đích căn bản của phong thủy. Vượng khí vào nhà làm vượng khí cho người ngụ cư. Ý niệm về khí là điều cốt tủy trong việc đánh giá nhà cửa, văn phòng, đất đai cũng như các yếu tố bên trong và bên ngoài.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  5. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Ngũ hành trong phong thủy
    Cùng với Âm- Dương, ngũ hành là một phương thức bổ sung để phân tích và hòa điệu khí của người và ngôi nhà. Khí chia thành 5 nguyên tố sau: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Những hành này là tính chất tinh tuý của mọi sự, mọi vật. Các hành này cùng kết hợp với các màu sắc, mùa màng, phương hướng, tinh tú, các phủ tạng trong người v.v?Phong thủy dùng chu kỳ của các màu sắc để điều chỉnh khí.
    Trong chu kỳ sáng tạo (tương sinh), Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy,Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa. Trong chu kỳ hủy diệt (tương khắc), Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
    Giải pháp khắc phục nhược điểm của nhà và đất
    Có hai cách giải quyết các khó khăn trở ngại là: nhập thế và xuất thế.Cánh nhập thế là giải pháp hợp lý theo kinh nghiệm và hiểu biết của chúng ta. Nhưng quan trọng không kém là cách chữa xuất thế, không hiểu được bằng lý luận thông thường và rất bí mật. Cách chữa nhập thế trên các bình diện của nó song hành với các tư tưởng hiện đại của vật lý, y khoa và trang trí. Cách chữa xuất thế thì cách xa tầm hiểu biết, khám phá nó như nằm trong tiềm thức của chúng ta vậy.
    Kết quả mỹ mãn cách chữa xuất thế của môn Phong thủy là làm tăng luồng vận khí. Đặc tính phổ biến của thuật xuất thế được thực hành qua 3 kỹ thuật căn bản sau đây:
    1. Phương pháp tiếp khí: bằng cách tháp khí từ một nơi hay từ dưới lòng đất cách xa đó.
    2. Phương pháp bình khí: để làm môi trường xung quanh hoà nhập vào nhau. Nếu căn nhà có hình thù kỳ dị thì hãy tạo ra phong cảnh hay kiến trúc phụ thuộc để tạo quân bình.
    3. Phương pháp nổi bật: để gia tăng và bổ sung khí vận - bằng cách trang bị thêm một bóng đèn sáng, vòi phun nước, bể nuôi cá làm sinh động không khí yếu và tù hãm cũng như làm khí vận chuyển khắp nhà. Mặt khác, ta dùng vật có thanh nhạc như quạt gió, khánh hay chuông.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  6. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Chín Cách Chữa Căn Bản
    1. Những đồ vật phản quang: gương soi, thủy tinh cầu, đèn.
    2. Âm thanh: khánh, chuông
    3. Sinh vật: cây kiểng, bonsai, hoa, cá cảnh.
    4. Vật di động: quạt gió, vòi phun nước, con quay.
    5. Vật nặng: đá tảng, pho tượng.
    6. Đồ điện: tivi, dàn máy nhạc, máy điều hòa.
    7. Ống sáo tre
    8. Màu sắc.
    9. Những thứ khác.
    Vật phản quang
    Gương soi:
    Gương soi chữa buồn phiền cho gia chủ - dùng cả trong lẫn ngoài. Dùng ở ngoài, nó làm hung khí lệch hướng từ ngoài đường nhắm vào, từ tòa cao ốc hay từ đám tang bên cạnh.
    Gương vừa phản hồi vừa bảo vệ người ta tránh được các luồng tà khí. Nếu có một con đường chạy thẳng vào cửa ngõ, treo gương trên cửa ra vào.
    Gương có nhiều công dụng khi dùng trong nhà và văn phòng. Trong nhà, dùng loại càng lớn càng tốt. Nên treo gương vừa tầm, nếu thấp quá nó gây nhức đầu và giáng khí người nhà, nếu cao quá nó làm mọi người khó chịu. Ở nơi chật hẹp, gương giúp dễ vận khí, tạo cảm giác rộng và sáng.
    Quả cầu thủy tinh(có nhiều góc cạnh nhỏ):
    Được dùng để điều chỉnh khí trong nhà và trong văn phòng, giải trừ thiết kế lệch lạc, làm tốt hơn các cung trong Bát quái. Làm tán hung khí trong nội thất vá ngoại biên. Thủy tinh cầu dùng tăng vượng khí vận trong nhà để giúp người cư ngụ cải thiện cuộc đời.
    Ánh sáng giúp đỡ rất đắc lực trong thuật phong thủy. Bản thân ánh sáng là điều quan trọng trong bất cứ môi trường nào. Hãy đặt ngọn đèn pha bên ngoài một căn nhà hình chữ L, nó sửa lại được cho góc ấy vuông vắn. Ở trong nhà đèn tượng trưng cho mặt trời ban phát sức lực từ đó- làm vượg khí trong nhà.
    Âm thanh
    Khánh được sử dụng để điều hòa vận khí. Nó làm tán tà khí trong và ngoài nhà, làm dịu hòa và tái định hướng khí của con đường hay khí ở đồi núi được lợi ích và cân bằng hơn. Khánh hay chuông có thể dùng để chiêu khí lành và tiền bạc hay thương vụ vào nhà. Treo gần lối ra vào để cảnh giác kẻ xâm nhập.
    Sinh vật
    Cây cối và bông hoa: có thể thật hay giả không chỉ tượng trưng cho cuộc sống, tư nhiên và sự tăng trưởng mà còn dẫn dưỡng khí đều khắp nhà. Đặt cây cảnh ở hai bên lối vào nhà để thu hút khí tốt.
    Hồ cá kiểng: cũng giống cây cối, nó là tiểu vũ trụ trong thiên nhiên. nước, cốt tủy để nuôi cây là biểu tượng cho tiền bạc. Khi quang cảnh thiếu chất tươi nhuận người ta dùng hồ cá kiểng nhằm gửi sự sống động dưỡng khí để tạo của cải. Tại văn phòng người ta dùng cá để thu hút tai họa và vận xấu nói chung khi có con nào chết phải lập tức thay con khác.
    Vật di động
    Sức gió hay sức của điện từ như cối xay gió, chong chóng và đồ đo thời tiết cũng kích thích cho khí vận hành và làm lệch hướng các lực lón mạnh của đường lộ và hành lang dài chĩa vào nhà.
    Bồn phun nước, suối nước nhân tạo ở ngoài hay trong nhà nó vận khí tạo ra tiền. Chúng dùng để bảo vệ sức nước làm tán tử khí hay con đường hình mũi tên đâm tới. Bồn phun nước tạo ra khí lành, trong thương mại người ta dùng nó để chiêu lợi
    Vật nặng
    Đá tảng hay pho tượng: có khi tảng đá hay pho tượng được đặt đúng chỗ có thể ổn định một vị trí phức tạp, giữ được chỗ làm hay cầm chân vợ hoặc chồng (không chia ly).
    Đồ điện
    Những máy móc chạy điện dùng để kích thích môi trường xung quanh.
    Sáo
    Ống sáo tre dùng diễn tả sự thái bình và báo tinh lành. Sự hiện diện của ống sáo đem lại sự bình an ổn định nhà cửa và công việc thương mại. Sáo dùng vào việc vệ khí. Âm thanh trỗi lên của sáo gíup cho khí trong nhà linh hoạt hơn.
    Màu sắc
    Màu sắc sử dụng trong phòng ốc làm tăng sinh khí con người.
    Đen là màu của nước, nước lại là yếu tố thu hút tiền bạc; tuy nhiên, màu đen là màu giảm ánh sáng và tránh dùng.
    Đỏ màu hưng phấn dùng trong đám cưới và các dịp lễ tết.
    Trắng là màu tang chế, tránh dùng.
    Màu vàng, màu của ánh dương biểu thị tuổi thọ. Màu xanh (lá cây) của mùa xuân biểu thị sức tăng trưởng, tươi mát và yên tịnh.
    Xanh da trời màu nhạt sắc của bầu trời. Nó tạo may mắn, tuy thế nó là màu lạnh, lợt lạt.
    Những cái khác
    Thuật Phong thủy cũng dùng các cáh chữa rộng rãi tùy trường hợp mà áp dụng:
    - Giải lụa đỏ cột trên khoen gõ cửa
    - Viền giải lụa dọc theo và để che hướng lệch
    - Phấn để dưới giường chữa đau lưng
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  7. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Định vị nhà trên một vùng đất
    Theo thuật Phong thủy, vị trí của ta trong vũ trụ ảnh hưởng đến ta. Sự liên hệ của một nhà cao tầng với con đường tạo ra những dịp may, thịnh vượng và sức khỏe đem vào nhà. Khoảng cách từ nhà đến con đường ít nhất bằng nửa chiều sâu toà nhà đó.
    Cách chữa: dùng đèn chiếu sáng hay một dòng nước ngăn giữa căn nhà và con đường, như thế dòng khí sẽ được nâng lên cao. Cách nữa là đặt trên mái nhà một cái giỏ nhỏ hay treo khánh hoặc gương ở trong nhà, nhưng biện pháp này ít hiệu nghiệm.
    Trong miếng đất chia ra làm 3 phần ta đặt nhà ở phần giữa là cân bằng nhất. Kế đến đặt trên phần cuối tốt hơn phần đầu.
    Cách chữa: nếu căn nhà không nằm ở phần giữa lô đất ta hãy trồng cây, trụ đèn hay tảng đá lớn ở cuối lô đất để làm cho vị trí căn nhà được cân đối.
    Hình dáng của lô đất là:
    1. Mảnh đất tròn hứa hẹn nhiều cơ may phát triển trong nghề nghiệp. Nếu căn nhà xây theo hình vuông ngay trọng tâm lỗ đất thì vấn đề tài chính của người ngụ cư rất dồi dào.
    2. Thông thường thì miếng đất hình vuông là tốt. Khi nhà nằm tại phía trước của nửa lô đất, người ngụ cư, đất phát tốt trong lúc đầu nhưng về sau lại gặp điều thất bại chua xót. Tốt hơn là xây nhà ngay trong trung tâm để tạo sự cân bằng trong đời sống, sự nghiệp thành công và tiền của dồi dào. Cách chữa nếu nhà bạn đã xây nhà tại phía trước của nửa lô đất đặt một trụ đèn chiếu ở giữa đường ranh đất sau nhà và hai đèn ở hai bên góc trước nhà, các đèn đều chiếu vào mái nhà.
    3. Hình chữ nhật: Nếu đã xây nhà ở phía trước của lô đất thì dùng cách chữa như ở lô dất hình vuông.
    4. Lô đất với đường vòng cung ở mặt tiền hiển nhiên có vẻ mạnh mẽ, nó sẽ thu hút tiền bạc và thành công trong sự nghiệp cho người ngụ cư. Nếu mảnh đất có hình vòng cung ở sau nhà mà nhà ở giữa trung tâm hoặc nằm ở phía sau của lô đất thì người ngụ cư sống yên lành. Nếu căn nhà lại nằm phía trước lô đất thì nhà này không ổn định trong nghề nghiệp và thường bệnh hoạn ốm đau.
    5. Lô đất hình thoi là tốt. Xây nhà tại trung tâm lô đất hay là phần phía trước sẽ giúp cho sự nghiệp phát đạt mau chóng. Nếu nhà nằm ở phần đất phía sau thì nghề nghiệp của người ngụ cư sẽ chắc chắn nhưng không phát triển mau lẹ.
    6. Nhà làm trên lô đất có góc cạnh như viên kim cương thì rất tốt nếu có đường song song với cạnh lô đất và cổng vào nhà không mở ra phía góc.
    Cách chữa: nếu nhà đã xây hướng vào một góc nào của lô đất thì hãy đổi lại bằng cách trồng cây to cao, cột cờ hay đèn pha ở phía sau nhà.
    7. Làm nhà trên lô đất hình tam giác có cửa ra vào nhìn ra góc thì không ổn mà nên quay ra phía bên cạnh. Nên xây nhà vào xế của góc như mảnh đất hình con sò thì giữ được tiền bạc. Còn nếu nhà nằm chính giữa lô đất, cửa đối với góc đất thì nguồn thu nhập của người trong nhà sẽ kém.
    Cách chữa: hãy trồng trụ cờ hay cây để che gió ấy đi.
    8. Lô đất hình bán nguyệt rất tốt, thông thường xây nhà ở giữa lô đất nhái hình nữa đồng tiền cổ.
    9. Với một lô đất có dạng như lưng lạc đà thì căn nhà nên xây tại trung tâm lô đất nếu đủ chỗ (phía trước lô đất phải rộng gấp hai chiều cao căn nhà). Vị trí xấu là ở hai cái bứu lạc đà. Nếu căn nhà xây nơi bứu trái thì gia đình sẽ gặp nhiều đau thương và nếu bên phải thì con cái gặp trở ngại trong đời sống.
    Cách chữa: xây thêm phần phụ cho gia đình ( cách giải cho bứu trái) và phần phụ cho con cái và ?o tử tức? (cách giải cho bứu phải) phần của chủ phòng ?" phòng ở của chủ gia đình.
    10. Lô đất chữ L hay lô không có góc cạnh có thể kém may mắn cũng như một phần đời của người ngụ cư đã đánh mất.
    Cách chữa: Nếu nhà chưa xây hãy xây nhà ở vị trí nhìn ra góc chính của mảnh đất, và phải cách xa góc ấy ít nhất bảy mét. Trồng cây to sau nhà hay đèn trụ và trồng thêm dọc theo đất thiếu góc cạnh vài bụi cây. Theo cách chữa này thì sự thành công có thể đạt được dù đó là một dạng thất cách.
    12. Đối với lô đất chữ T hãy xem đường vào lô đất ở đâu ở đâu. Nếu đường vào ở đáy chữ thì thăng tiền nghề nghiệp nhưng kém về đường học vấn và không có quý nhân phù trợ. Nếu đường và mảnh đất ở phía trên chữ T thì người ngụ cư đau khổ về đường hôn nhân và tiền bạc.
    Cách chữa: hãy trồng loại cây leo dọc cánh dưới chữ T
    Đường sá
    Đường sá cũng giống như sông ngòi, nó là phương tiện để chuyển khí. Những đường cong và đường viền theo tự nhiên rất phù hợp cho việc vận tải đường khí. Còn những đường lộ thẳng tắp lại vân khí quá mau và trở nên nguy hiểm. Nó giống như mũi tên gọi là ?otử? khí.
    Cách chữa: Treo gương trên cửa ra vào hướng ra đường, làm một lạch nước, một cái cánh gió hình mũi tên ở khoảng cách giữa đường và nhà.
    Đường lộ cho xe chạy cũng là đường khí vận hành, nó nối liền căn nhà với mạch chính của con đường. Đường này nên làm bằng phẳng, lượn khúc và tương đối cao bằng đường cái thì tốt hơn cả thêm nữa để loại trừ trọc khí bên ngoài.
    Con đường giống như chĩa ba ở trước cửa nhà là ý nghĩa tình cha con thường xô xát và gia đình bất hoà, mỗi ngưới đi mỗi ngã.
    Cách chữa: Sơn chấm đỏ hay xây gạch thành chấm gạch ngang đường đi, đường xe.
    Một hình bát quái xây ở trước nhà làm tổn thương tình họ hàng giữa các dòng tộc con cháu (cửa ra vào là vị trí ?othủy? của nhà còn ở cuối đường là cung ?ohoả? khiến nó khắc chế và hủy hoại liên hệ của nhau.
    Cách chữa: đặt đèn trụ, trồng cây, vòi phun nước, hoa lá hay quạt gió trong giữa hình bát quái.
    Đường lộ hẹp lại ở đoạn cuối có nghĩa là nghề nghiệp và tiền bạc bị hao mòn dần đi. Đường có chỗ tệ hại nhất là độ dốc của nó bị chìm mất, không thể nhìn thấy đoạn cuối của nó.
    Cách chữa: đặt trụ đèn pha ở chỗ hẹp nhất cho chiếu lên chóp mái nhà để làm những cơ may quay vòng lại về nhà. Nếu đường lộ dốc xuống thì hãy xây lại trụ gạch ở gần cuối đường để chuyển khí về. Nếu đường lộ dốc vào nhà hãy đặt đèn đằng sau nhà để vận khí lên chỗ cao nhất của mái nhà.
    Nếu đường nhỏ hơn bề ngang cửa chính thì khí dẫn vào nhà bị thiếu, dịp may của người ngụ cư sẽ bị nghẽn lại.
    Cách chữa: mở rộng con đường dẫn khí.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  8. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Lối ra vào
    Lối ra vào có thể ảnh hưởng đến gnười ngụ cư. Ngõ vào phải thoáng, dễ đi lại và lối ra phải sáng sủa. Dẹp bỏ những thứ cản trở gần lối ra vào như cây cối, cột, vách tường? làm cản trở khí vận, cản trở dịp may kiếm tài lộc và sức khoẻ. Tuy nhiên cây cối ở khoảng cách an toàn với ngỏ vào lại thuận tiện trong việc bảo vệ nhà cửa.
    Những lối đi cũng có ảnh hưởng tương tự. Nếu lối đi gần bên nhà cừa rất hẹp nhỏ thì khí người ngụ cưsẽ bị tù túng và mất quân bình.
    Cách chữa: hoặc mở rộng lối đi hoặc tránh trồng cây lớn, cây rậm và bụi cây gần nó. Treo khánh trước cửa.
    Sau đây là một số ví dụ:
    1-2. Theo thông lệ, lối đi vào tốt tạo cảm giác thoáng, thênh thang. Lối đi tới cao ốc phải rộng.
    3. Lối đi hẹp sẽ giới hạn nghề nghiệp và cả triểnvọng tài chính. Nếu nhà nằm trên triền dốc thì ngõ vào nhìn xuống đồi tốt hơn là cửa ra vào nhìn lên đồi.
    4-5. Nếu có bậc cấp thì nó phải lên xuống dần chứ không quá dốc. Cửa ra vào phải mở ra trên thềm rộng. Bậc cấp hẹp và dốc không giữ được tiền bạc. Bậc thang từ trên đu xuống nhà thì xấu, làm người ngụ cư phải tanh đấu vất vả trong nghề nghiệp. Để giải quyết trường hợp xấu, người ta đặt đèn pha chiếu từ sau nhà chiếu lên mái.
    6. Bụi cây trồng làm vinh không khí trong nhà, cây côi tươi tốt và lối đi cần thông thoáng, nếu cây mọc râm quá thì phải cắt xén.
    7. Cổng ngỏ (mặt tiền) tạo cho nhà một vẻ thoáng và nối vào nhà, để ý đến cột chống mái. Cột chống không quá lớn và gần sát cửa ra vào. Cột tròn tốt hơn vuông, vì vuuông có thể là nguyên do gây bại sản. Để giải quyết cho cột vuông, trồng nho leo cột. Đối với cột to lớn sừng sững ta treo gương ngang tầm mắt hay hàng chữ ?oxuất nhập an bình? trên cột đó.
    8. Lối đi dẫn đến cửa ra vào có tể cong vòng nhu cánh cung và có cây trồng gần đó đều được cả.
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  9. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    KINH DỊCH
    KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN
    Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003
    Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam)
    MỤC LỤC
    PHẦN A : ỨNG DỤNG
    CHƯƠNG 1 : SỬ DỤNG TÊN - HỌ
    Bài 1 : Xác định Tính Cách ?" Hành Vi
    Bài 2 : Cách giáo dục khiến trẻ rối loạn tâm thần.
    Bài 3 : Xác định Lời Nói Dối
    Bài 4 : Các danh nhân. Những người nổi tiếng.
    Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ (Vua Quang Trung)
    Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Trịnh Công Sơn
    Bác Sĩ Tôn Thất Tùng
    Bill Clinton, Monica Lewinsky
    Tần Thuỷ Hoàng 秦 Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư
  10. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Bảng so sánh các phương pháp xác định
    Tính Cách ?" Hành Vi - Số Phận con người
    KINH DỊCH

    Tên Họ Ngày Sinh Tứ trụ Tử Vi
    Lý thuyết cơ bản Có Có Có Không
    Lối Trình bày Đơn giản Đơn giản Rất đơn giản Phức tạp
    Phương pháp luận Đơn giản Đơn giản Phức tạp Rất phức tạp
    Kinh nghiệm Không cần Không cần Cần kinh nghiệm Cần kinh nghiệm
    Khả năng hiểu
    tâm lý Tối thiểu Tối thiểu Rành tâm lý Phải biếtcoi tướng
    Phân đinh Thành /
    Bại Sự Nghiệp Rõ ràng Không rõ ràng Không rõ ràng Không rõ ràng
    Khả năng điều chỉnh
    Số Phận* Có Không Không Không
    Thể hiện tính cách Hậu Thiên* Hậu Thiên* Tiên Thiên Tiên Thiên
    * Tiên Thiên : Bẩm sinh. Tính cách được tạo nên & định hình sẵn trước khi ra đời.
    * Hậu Thiên : Tính Cách Nổi Trội được định hình dần theo thời gian, sau khi chào đời.
    * Số Phận : Được hiểu ở 2 yếu tố : Thành Đạt Sự Nghiệp & Hạnh Phúc Gia Đình
    Sông phù du chảy vào dòng thiên cổ
    Tình bất tử chảy trong nỗi tương tư

Chia sẻ trang này