1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kho tàng bói toán sư tầm đọc giải trí.(Bài mới- bói qua diện mạo, năm tuổi)

Chủ đề trong 'Tư vấn tình yêu' bởi antiboy, 06/11/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Bài 2: CÁCH GIÁO DỤC KHIẾN TRẺ BỊ RỐI LOẠN TÂM THẦN
    Theo Phương Pháp Xác Định Tính Cách Nổi Trội (Tên Họ) thì một đứa trẻ, một người khoẻ mạnh bình thường sẽ bị trầm cảm, rối loạn tâm thần khi suy nghĩ, lời nói, thái độ và hành vi của họ luôn trong trạng thái Biến Tính Cực Đoan một thời gian dài trước đó.
    Cách giáo dục khiến trẻ rối loạn tâm thần :
    Theo số liệu của một cơ quan nghiên cứu nước ngoài thì 1/3 nữ sinh Saigon bị trầm cảm. Không rõ cách đánh giá này có chính xác ? Tuy nhiên, theo báo cáo của 1 cơ quan y tế trong nước thì 15% dân số Việt Nam có biểu hiện tâm thần (Báo Tuổi Trẻ. Số liệu đầu năm 2003) Con số này quá lớn ! .... Một số ý kiến cho rằng do áp lực của chương trình học đã khiến các em bị stress liên tục dễ dẫn đến nguy cơ trầm cảm. Tôi cho rằng không hẳn như vậy. Lịch sử danh nhân thế giới cho thấy học nhiều thì giỏi, tài năng, thiên tài chứ có thấy ai điên loạn ! Vấn đề là chỗ này : Học nhiều không điên, nhưng nếu ép các em học với nhiều mộng ước chủ quan lớn lao của các bậc cha mẹ, là vô tình đẩy các em vào trạng thái không còn là chính các em nữa. Nghĩa là các em bị biến tính liên tục ! Mang trạng thái Biến Tính, không phải bản tính & khả năng thực của các em, trong trường và ở nhà 1 thời gian (thái quá), sẽ khiến 1 số em trở nên Biến Tính Cực Đoan (Nhóm F). Với trạng thái tâm tính này, các em ấy dễ bị trầm cảm, rối loạn tính cách dẫn đến nguy cơ rối loạn tâm thần. Đây là cách lý giải và đánh giá của phương pháp xác định Tính Cách Nổi Trội qua Tên-Họ (Tôi chỉ xem xét trong phạm vi học hành. Rối loạn tâm thần còn do các nguyên nhân khác).
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  2. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Bài 3 : XÁC ĐỊNH LỜI NÓI DỐI
    Phương pháp xem xét tính cách qua Tên - Họ có khả năng phát hiện lời nói dối. Thẩm định 1 số trường hợp, kết quả thực tế hoàn toàn phù hợp với lý thuyết.
    Sống không đúng với bản chất thật của mình, chính khi ấy con người rất dễ dàng nói dối. Nếu biết được bản chất, ta có thể xác định được khi ấy họ có nói dối không. Qua Tên - Họ, ta xác định được 1 Tính Cách Nổi Trội. Vậy khi, 1 người bày tỏ, kể chuyện.... trong tâm thái không đúng với Tính Cách Nổi Trội, tức là họ đang hoặc chuẩn bị nói dối.
    Tôi lấy ví dụ : 1 người có Tính Cách Nổi Trội là Lãnh Đạm, Lạnh Lùng nhưng thái độ rất tình cảm (Biến tính) khi bày tỏ, tâm sự. Chính khi đó họ bắt đầu nói dối.

    Bài 4 : CÁC DANH NHÂN - NHỮNG NGƯỜI NỔI TIẾNG
    Theo bảng Định Vị Thành Phần Xã Hội, những người nổi tiếng luôn bày tỏ Tính Cách Nổi Trội (Sở trường) Tức là, họ nhất quán với tính cách sở trường trong suy nghĩ, lời nói, thái độ và hành vi. Tính cách sở đoản chỉ tồn tại trong họ như 1 dạng tính cách phụ trợ.
    VÍ DỤ 1 : 3 nhân vật chủ chốt cuộc khởi nghĩa Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
    Tra bảng xác định Tính Cách Nổi Trội :
    Nguyễn Nhạc : Sơn Phong Cổ
    - Tính Cách Nổi Trội : Nệ cổ, bảo thủ (1)
    - Biến Tính : Cách Tân (Sở đoản)
    Nguyễn Nhạc thuộc Nhóm A người làm nên sự nghiệp lớn. Khi giao quyền hành lại cho Nguyễn Huệ, chuyển qua nhóm C, Ông trở về với con người bình thường.
    Nguyễn Lữ : Sơn Hoả Bí
    - Tính Cách Nổi Trội: Bề ngoài, khách sáo (1)
    - Biến Tính: Thân thiện (Sở đoản)
    Nguyễn Huệ : Sơn Lôi Di
    - Tính Cách Nổi Trội: Trông cậy, dùng người (Sở trường)
    - Biến Tính: Tự lập, Tự chủ (Sở đoản)
    Nguyễn Huệ thuộc nhóm A người làm nên nghiệp lớn. Khi lên ngôi, trong công việc triều chính Ông vừa nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, biết dùng người tài triều Lê và kỹ thuật của người Phương Tây.
    Sử sách có ghi : Do không hài lòng với tầm nhìn và cách cầm quân của anh mình là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem quân đến dựng trại dưới chân thành người anh. Nguyễn Nhạc đã bật câu nói nổi tiếng : ?oNồi da sáo thịt sao em nỡ !? Nguyễn Huệ nghe xong bèn rút quân. Nhân vật Nguyễn Lữ, sử sách ghi không nhiều về người anh thứ hai của Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, có ghi nhận rằng cụôc tranh giành quyền cầm quân chỉ diễn ra giữa người anh Cả Nguyễn Nhạc và người em út Nguyễn Huệ. Sau này, Nguyễn Nhạc đã giao toàn bộ quyền bính cho em là Nguyễn Huệ (Cách Tân)... Nêu rõ tinh thần độc lập tự chủ, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế lấy niên hiệu Quang Trung. Trong công cuộc thống nhất đất nước, ông biết dùng người tài của Triều Lê, vời được La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.... Về đối nội, ông lấy chữ Nôm làm Quốc ngữ (Tự chủ). Đối ngoại, Quang Trung mở cửa đón nhận tinh hoa kỹ thuật phương Tây (Dùng người). Tiếc rằng ông đã mất sớm khi chưa qua 40 tuổi.
    VÍ DỤ 2 : Đại Thi Hào Nguyễn Du mang hình thái Sơn Trạch Tổn
    - Tính Cách Nổi Trội : Nóng nảy, Bất bình (Sở trường)
    - Biến Tính: Hoà hoãn (Sở đoản)
    Nguyễn Du tỏ thái độ bất bình ?oGiùm? cho thân phận phụ nữ xã hội đương thời qua nhân vật Thuý Kiều (Truyện Kiều) Tôi nói như thế không rõ có đúng không ?
    VÍ DỤ 3 : Hàn Mặc Tử (Biệt danh) mang hình thái Lôi Sơn Tiểu Quá
    - Tính Cách Nổi Trội : Hơi quá, hoa mỹ (Sở trường)
    - Biến Tính: Đơn giản. (Sở đoản)
    Tôi chưa nhìn thấy chân dung nhà thơ nổi tiếng này. Nhưng qua cái biệt danh mà nhà thơ tự đặt cho mình, thấy rằng : Hàn Mặc Tử rất xem trọng cái đẹp bên ngoài. Ở phụ nữ, nhà thơ cũng thế, rất tôn sùng vẻ đẹp bên ngoài. Một con người thích cái đẹp bề ngoài, một nhà thơ tôn sùng và biết thưởng thức cái đẹp bên ngoài của phụ nữ, chắc rằng ông phải rất đẹp trai !
    VÍ DỤ 4 : Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn mang hình thái Thuỷ Sơn Kiển
    - Tính Cách Đặc Trưng Nổi Trội : Siêng năng (Sở trường)
    - Biến tính : Biếng nhác (Sở đoản)
    Ông là nhân vật nổi tiếng. Trong nhà siêng viết, khoảng 600 bài hát chưa nói đến vẽ. Ra ngoài thì siêng đi (Du Ca)
    VÍ DỤ 5 : Bác sỹ Tôn Thất Tùng mang hình thái Hoả Trạch Khuê
    - Tính Cách Nổi Trội : Đa nghi, Chống lại, phản biện (Sở trường)
    - Biến Tính: Chấp Nhận (Sở đoản)
    Vị Bác Sỹ tạo ra phương pháp cắt gan được giới y khoa thế giới gọi tên ?oPhương Pháp Cắt Gan Tôn Thất Tùng? Với cá tính như thế chả trách vị Bác Sỹ nổi tiếng nóng tính và đa nghi khai sinh ra được cái phương pháp chưa nơi nào có.
    VÍ DỤ 6 : Bill Clinton. Tổng Thống Hoa Kỳ mang hình thái Lôi Sơn Tiểu Quá
    Tính Cách Nổi Trội : Hơi quá, hoa mỹ (Sở trường)
    - Biến Tính: Đơn giản. (Sở đoản)
    Ta hãy xem cái cách vị Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ này giải quyết, sau khi vụng trộm nhẹ nhàng (Hơi quá) với cô thư ký tập sự Monica ở Whitehouse như sau : Bị tố cáo (Bị sốc) vị Tổng Thống đã đưa ra 1 giải pháp rất ngắn gọn là gật đầu chịu tội, xin lỗi với dân & vợ con (rất đơn giản).
    Vị Tổng Thống này quả thật rất đẹp trai ! Tài hùng biện thì không phải bàn. Nhưng cái cách ông ta nói chuỵện mới hấp dẫn và duyên dáng làm sao (Hoa mỹ) Và tôi tin chắc 1 điều rằng : Trước khi xảy ra vụ Monica, vị Tổng Thống rất giỏi nịnh vợ, và sau vụ Monica ông sẽ thương vợ đơn giản hơn. Ít dám nịnh đầm với vợ nữa (Đơn giản) Coi cho vị Tổng Thống này không thể không nhắc đến nhân vật có liên quan Monica Lewinsky.VÍ DỤ 7 : Cô thư ký tập sự của White House, Monica Lewinsky có hình thái Thuỷ Địa Tỉ
    - Tính Cách Nổi Trội : Dễ làm thân. (Sở trường)
    - Biến Tính : Xa lánh. (Sở đoản)
    Vị Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton hào hoa phong nhã quả là khó cưỡng lại trước của cô thực tập sinh Monica đầy sức quyến rủ. Ở đây tôi không phân định lỗi phải của bên nào. Nhưng việc sắp xếp cô thực tập sinh Monica có tính Cách Nổi Trội Dễ làm thân gần bên Vị Tổng Thống đẹp trai và hào hoa sẽ như ông bà ta thường nói : ?oLửa gần rơm lâu ngày cũng bén.?
    VÍ DỤ 8 : Một nhân vật gây nên nhiều tranh cãi, tốn hao biết bao công sức của nhiều thế hệ các nhà sử học Trung Hoa, Tần Thuỷ Hoàng mang hình thái Trạch Thiên Quải
    Tần Thuỷ Hoàng viết theo chữ Hán 秦 Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  3. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    PHẦN B: HỌC THUẬT - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
    Kinh Dịch với nền văn minh Trung Hoa Cổ Đại
    - Kinh Dịch có ứng dụng đặc thù gì ?
    Kinh Dịch mang tính năng Phát Hiện & Chứng Minh sự tồn tại của các hiện tượng, sự việc, vật thể dựa trên 64 qui luật (64 quẻ) Đi sâu vào bản chất (Sinh lý, sinh học phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản) không phải là khả năng của Kinh Dịch.
    - Kinh Dịch được xây dựng trên cơ sở khoa học nào ?
    Cơ sở khoa học nêu lên được hiểu là nền tảng khoa học chính thống hiện nay đã và đang tạo ra các thành tựu kỹ thuật mà chúng ta nhìn thấy xung quanh & sống trong nó?. Giới khoa học ngày nay nhận thấy rằng thế giới còn tồn tại những hiện tượng rất khó lý giải, nếu căn cứ vào cơ sở khoa học hiện có. Vì thế, khoa học hiện nay chấp nhận cách phân định như sau: Ngành khoa học chính xác (1) và Ngành khoa học chưa thể giải thích, chứng minh bằng các công cụ chính xác (2) . Cách phân định này làm nảy sinh 1 câu hỏi: Làm thế nào có thể xác định được điều nào đó thuộc ngành khoa học thứ hai (2) ? Phân định như sau:
    - Khi ứng dụng vào thực tiễn mang lại lượng kết quả đúng đáng kể, thì sẽ được coi là đối tượng nghiên cứu. Kinh Dịch là 1 ví dụ. Một số trường đại học trong nước đã đi những bước đầu tiên đưa Kinh Dịch vào như 1 môn học bắt buộc. Trên thế giới, điều này đã không còn xa lạ.
    - Kinh Dịch theo nhận định hiện nay, nó bắt nguồn từ học thuyết Âm Dương. Học thuyết này, nay đã không còn bị coi là hoang đường. Nó có 1 cơ sở hệ thống lý luận riêng, hợp lý, lo-gic không ai phủ nhận được. Tuy vậy, cho đến nay chưa ai lý giải được người xưa đã lý luận như thế nào để tạo nên Kinh Dịch.
    - Để lý giải cách tạo nên Kinh Dịch phải làm được 3 điều sau:
    Việc thứ nhất: Giải thích được sự hình thành của 2 đồ hình Tiên Thiên & Hậu Thiên Bát Quái.
    Việc thứ hai: Giải thích được cách sắp xếp thứ tự của 64 quẻ dịch.
    Việc thứ ba: Tìm ra được nguyên tắc tạo nên 386 hào từ.
    - Kinh Dịch là của ai ?
    Tính khái quát rất cao trong các lời thoán từ & hào từ khiến người viết có nhận định rằng Kinh Dịch không thể nào là sản phẩm của xã hội mà trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém cách đây trên 3200 năm. Ngay như các nhà sử học Trung Quốc ngày nay đã thống nhất cho rằng 12 vị vua thời nhà Chu, trùng với thời gian xuất hiện Kinh Dịch, chỉ là đặt nền tảng cơ bản cho nền văn minh Trung Hoa sau này.
    Người viết mặc dù đã tìm ra được các nguyên tắc chuẩn hình thành nên 386 hào từ. Nhưng từ nguyên tắc đến việc viết nên lời hào như Kinh Dịch là 1 khoảng cách lớn, rất lớn! Bởi chỉ có nguyên tắc thôi thì không đủ mà cần phải có 1 lượng tri thức ở trình độ phát triển cao tương ứng kèm theo mới có thể viết nên Kinh Dịch. Một hay 2 bộ óc siêu việt ở trình độ cách đây 3200 năm không thể làm nổi !
    Kinh Dịch mô tả 3 giác quan: Thứ 6, Thứ 7, Thứ 8 rất rõ (Xem bài Kinh Dịch Với Khả Năng Ngoại Cảm 2) Quẻ Thuần Khôn có 1 đoạn mô tả từ điểm thụ cảm của Tái Tạo giác có con đường đi về phía bộ phận thụ cảm Vị giác (cái lưỡi) Con đường ấy đi gần tới cái lưỡi thì ngừng lại. Bên châm cứu Mạch Nhâm, Mạch Đốc xuất phát từ huyệt Hội Âm đi đến huyệt Ngân Giao & Thừa tương thì ngừng. Huyệt Hội Âm nằm ngay bộ phận Tái Tạo giác (phía sau bộ phận sinh dục) còn Ngân Giao ở bờ trên của răng cửa trên, Thừa Tương nằm ngay dưới môi dưới. Nghĩa là cũng chưa đến lưỡi!
    Việc Kinh Dịch mô tả chính xác đường đi của 2 kinh mạch quan trọng nhất của cơ thể là điều đáng phải đặt câu hỏi: Liệu người Trung Hoa xưa kia đã căn cứ vào Kinh Dịch để tìm ra gần 1000 huyệt đạo nằm trên cơ thể con người? Nhìn trên tổng thể Kinh Dịch, tôi nhận định rằng không thể có điều này. Đây chỉ là sự trùng hợp tất nhiên của 1 nền văn minh thuần nhất, như khi định luật bảo toàn năng lượng bên vật lý cổ điển cũng phù hợp với trên nhiều lãnh vực khoa học khác. Người Trung Hoa đã tìm ra gần 1000 huyệt đạo từ đâu, mà với trình độ khoa học kỹ thuật hiện nay vẫn chưa đủ khả năng tìm ra được ngần ấy huyệt như thế, và khi môn châm cứu cũng được ghi nhận sự ra đời của nó khoảng gần gần với Kinh Dịch? Kinh Dịch không tạo ra môn châm cứu, vậy thì cái gì đã tạo nên 2 quyển sách siêu đẳng này?
    64 thoán từ & 386 hào từ được trình bày theo lối tả vật, tả người, tả cảnh. Nghĩa là: Hoặc như khi ta nhìn vào các hình vẽ mà mô phỏng chép lại ?
    Hoặc người tạo nên Kinh Dịch khái quát các qui luật bằng hình tượng ?
    Khả năng thứ hai là không thể có như tôi đã trình bày ở trên. Như vậy, chỉ có thể cho rằng Kinh Dịch là bản chép lại từ 1 bản khác. Tức là nền văn minh Trung Hoa Cổ được thừa hưởng từ 1 nền văn minh đã phát triển cao!
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  4. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    - Kinh Dịch trình bày 1 hệ thống triết học !
    Điều đáng kinh ngạc là Kinh Dịch không đơn thuần trình bày 64 Hình Thái Vận Động mà nó còn trình bày một Hệ thống triết học. Hệ thống triết học ấy đã tạo dựng nên một nền văn minh Văn hoá - Kỹ Thuật Trung Hoa Cổ cực thịnh. Nền văn minh Cổ ấy vẫn tiếp tục tác động đến xã hội Trung Hoa đương đại theo cái cách xuyên suốt không đứt đoạn, một nền văn minh cổ duy nhất trên thế giới còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
    Nếu chúng ta chỉ nhìn vào quá khứ của nền văn minh Trung Hoa Cổ ấy mà cho rằng Kinh Dịch chỉ là tác phẩm cổ là một điều không công tâm ! Bởi nó nhìn thấy những điều mà cho đến ngày hôm nay chúng ta mới thấy, và nó nhìn thấy những điều ngày hôm nay chúng ta vẫn chưa rõ, vậy thì phải nhìn nó như 1 sản phẩm của một nền văn minh đã phát triển cao hơn chúng ta hiện nay, mà người Trung Hoa xưa được thừa hưởng.
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  5. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Kinh Dịch với môn học Chu Dịch Dự Đoán
    Người có công đầu chuyên biệt hoá khả năng dự đoán của Kinh Dịch, giúp Kinh Dịch áp dụng vào công việc dự đoán trong thực tiễn dễ dàng hơn. Đó là Nhà Triết học Thiệu Khang Tiết đời Tống. Ông đã đưa Hệ thông Thiên Can Địa Chi và mã hoá chúng thành các con số nhằm xác định thời điểm vận hành của các qui luật. Từ đó hình thành nên môn học Chu Dịch Dự Đoán.
    (Hệ thống Thiên Can Địa Chi nằm trong Hệ Lịch Cổ Trung Hoa. Hệ Lịch này lấy Mặt Trăng làm điểm qui chiếu. Ta thường gọi là Âm lịch)
    Kinh Dịch & Chu Dịch Dự Đoán Học liên hệ với nhau như thế nào trong dự đoán ?
    Mối liên hệ giữa chúng như sau :
    (Tôi mượn 1 số thuật ngữ bên Tin Học để mô tả mối liên hệ)
    Kinh Dịch là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp.
    Chu Dịch Dự Đoán là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao.
    Bậc Thấp & Bậc Cao diễn tả mối quan hệ bậc thang.
    - Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp là cái nền. Cái nền được sử dụng đề dự đoán các sự vật & hiện tượng trong phạm vi không hạn định. Cái nền ấy xác lập dự đoán: Sự Vật & Hiện Tượng trong 1 Không Gian & Thời Gian không xác định.
    Ví dụ : Khi Hitler đưa ra chủ thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng. Căn cứ vào Hình Thái Phong Thuỷ Hoán, chúng ta có thể xác quyết được rằng: nhà độc tài này có ý muốn thống trị thế giới, sẽ có những hành động cực đoan với các dân tộc khác, sẽ lôi kéo cả dân tộc chuẩn bị lực lượng cho 1 cuộc chiến tranh tổng lực. Biết được hậu quả của cuộc chiến tranh, và cái kết của cuộc chiến ấy.
    - Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao là ngôn ngữ dự đoán đã được chuyên biệt hoá. Sự chuyên biệt hoá được sử dụng để dự đoán các sự vật & hiện tượng trong phạm vi không hạn định. Sự chuyên biệt hoá này xác lập dự đoán: Sự Vật & Hiện Tượng trong 1 Không Gian & Thời Gian được xác định.
    Ví dụ : Khi xác định được thời điểm Hitler công bố chủ thuyết ấy, ta có thể biết được suy nghĩ, thái độ, hành động & bước đi tiếp theo của ông ta.
    Điều này lý giải vì sao tồn tại những người có khả năng ngoại cảm rất tốt. Họ nhìn thấy các sự kiện đã diễn ra, biết trước diễn tiến các sự việc trong tương lai mà bản thân họ không cần phải trông thấy trực tiếp. Trong vô thức, họ đã nắm được những qui luật bất biến của con người & vũ trụ.
    Nhà Ngoại cảm nghe qua sự kiện, có thể đưa ra lời dự đoán.
    Nhà Dự Đoán Học Trung Hoa cũng chỉ cần như vậy.
    Dự Đoán theo Kinh Dịch & môn học Chu Dịch Dự Đoán, tôi gọi là Dự Đoán Học Trung Hoa.
    Kinh Dịch với Thiên Văn
    Theo tính toán của các nhà Vật lý Thiên Văn, Mặt Trời chúng ta đang ở độ tuổi trung niên. Khi về già, Mặt Trời sẽ tăng dần thể tích lên cho đến khi nuốt trọn trái đất. Đó là thời điểm đi dần đến sự kết thúc Thái Dương Hệ của chúng ta.
    Khi nhìn vào hình thái Thuần Ly (quẻ thứ 30) hình thái Sáng - Lồi, chúng ta có được sự trùng hợp rất lý thú ! Quẻ số 30 mô tả diễn tiến rất đúng trạng thái Mặt trời ở hào thứ 6 _ Nuốt trọn Trái Đất !
    Ta hãy xem :
    Hào 1 : Dẫm đạp lung tung
    Giai đoạn hoạt động ban sơ của Mặt trời
    Hào 2 : Sắc vàng phụ vào giữa
    Giai đoạn Mặt trời hoạt động mạnh mẽ nhất
    Hào 3 : Mặt trời xế chiều gần lặn
    Giai đoạn Mặt trời hoạt động đi dần đễn mức tiêu hao hết năng lượng của nó.
    Hào 4 : Thình lình chạy tới như muốn đốt người ta vậy
    Giai đoạn Mặt trời phình to
    Hào 5 : Nước mắt ròng ròng
    Sự phình to bắt đầu tác động đến những hành tinh, thiên thể gần nó.
    Hào 6 : Giết đầu đãng mà bắt kẻ sống, kẻ khác phải theo mình
    Giai đoạn Mặt trời nuốt các hành tinh ở gần nó. Những hành tinh ở xa không bị nuốt, nhưng phải chịu chung số phận trở thành các khối thiên thạch quay quanh ngôi sao lùn (Mặt trời lúc này).
    Trong Kinh Dịch, đối nghịch với Thuần Ly ta có hình thái Thuần Khảm. Nghĩa là có Mặt trời tất phải có 1 hình thể vật chất mang tính chất & dạng thức vận động ngược lại với Mặt trời. Khoa học hiện nay đã xác định được 1 cấu trúc hoạt động rất đặc biệt tồn tại trong vũ trụ của chúng ta, đó là Hố Đen. Hố Đen không phát tán vật chất như Mặt trời. Nó hút ánh sáng, hút vật chất. Có những Hố Đen chỉ to bằng trái banh nhưng có thể hút được những khối vật thể to như Mặt trời. Suy diễn theo lối thông thường thì trọng lượng của Hố Đen to bằng trái banh ấy phải nặng gấp nhiều lần Mặt trời (!?) Ta hãy xem hình thái Thuần Khảm của Kinh Dịch mô tả cái hố đen ấy như thế nào.
    Hào 1 : Hai lần hiểm, sụp vào hố sâu
    Vật chất bị hố đen hút vào. Hố Đen ấy có 2 chỗ hiểm, tức có 2 ?oCửa?
    Hào 2 : Ở chỗ hiểm lại có hiểm
    Khối vật chất bị hút vào. Qua được 1 ?oCửa? thì rơi vào sự tác động của cái ?oCửa? thứ hai
    Hào 3 : Tới lui đều bị hãm.
    Khối vật chất chịu sự tác động giam hãm của 2 cái ?oCửa?
    Hào 4 : Như thể chỉ dâng lên 1 chén rượu, 1 quỹ thức ăn thêm 1 vài thứ khác nữa, có thể tuỳ cơ ứng biến, đút khế ước qua cửa sổ.
    Khối vật chất xoay vần trong khoảng giữa 2 cái ?oCửa? cố thoát ra. Khối vật chất bị biến hình.
    Hào 5 : Nước hiểm chưa đầy, nhưng khi đầy rồi thì thoát hiểm.
    Không thể thoát được khi Hố Đen chưa đầy (vật chất) Chỉ khi Hố Đen hút thêm các khối vật chất khác nữa, và khả năng chứa của Hố Đen đã tới giới hạn (đây rồi) thì khối vật chất bị hút trước đó sẽ được Hố Đen tống ra. Tống ra ở ?oCửa? nào ? Hố Đen vừa hút vừa đẩy 2 khối vật chất qua cùng 1 ?oCửa? chăng ?
    Hào 6 : Đã trói bằng dây thừng to, lại đặt vào bụi gai, 3 năm không ra được.
    Hào 6 đã cho chúng ta câu trả lời: Khối vật chất sau khi bị hút vào qua ?oCửa? thứ nhất sẽ bị Hố Đen tống ra bằng ?oCửa? thứ hai (Bị nhốt) Đằng sau cánh cửa thứ hai là vũ trụ của chúng ta chăng ? Không phải ? Hào 6 nói rằng khối vật chất ấy bị nhốt chưa ra được. Như vậy, đằng sau cánh cửa thứ hai của Hố Đen phải là ?oMột Cái Khác? Cái khác ấy không thể là vũ trụ của chúng ta.
    Tôi không phải là nhà Vật lý Thiên Văn nên chỉ có thể giải thích cái Hố Đen theo Kinh Dịch đã mô tả trong giới hạn kiến thức không chuyên. Tuy vậy, hình thái Thuần Khảm của Kinh Dịch Trung Hoa đã xác lập rằng ngoài cái vũ trụ của chúng ta còn tồn tại ít nhất 1 vũ trụ khác.
    Theo các giả định hiện có, Hố Đen có dạng hình phểu với 2 miệng phểu ở 2 đầu. Vật chất bị Hố Đen hút vào miệng phểu bên này và bị tống ra qua miệng phểu bên kia. Ở miệng phểu bên kia, các nhà khoa học cho rằng đó là 1 vũ trụ khác.
    Lưu ý : Ngôn ngữ sử dụng trong các lời hào của Kinh Dịch chỉ là công cụ dùng để mô tả các hình thái & qui luật vận động của các hình thái ấy.
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  6. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Kinh Dịch Với Cơ Đốc Giáo
    Kinh Dịch ra đời trước sự kiện Jesus xuất hiện được ghi trong Tân Ước khoảng hơn 1000 năm. Với khoảng cách thời gian như thế ta có thể dễ dàng chấp nhận tính khách quan của Kinh Dịch đối với Đạo Giáo Cơ Đốc. Vậy Kinh Dịch nói gì về câu chuyện Jesus ? Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo nằm trong hình thái nào của Kinh Dịch ? Hình thái ấy nói gì ?
    Kinh Dịch nói gì về Jesus ?
    Theo Tân Ước, Jesus đi truyền đạo không câu nệ phân biệt người giàu kẻ khó. Ngài tiếp xúc với tất cả loại người, gần gũi va chạm không e ngại cả những kẻ tật nguyền cùi hủi. Cách Ngài thể hiện với mọi người tương ứng với hình thái Thuỷ Địa Tỉ (Gần gũi). Hình thái ấy nói gì ?
    Hào 1 : Mới đầu có lòng thành tín mà đến với nhau.
    Đến với mọi người, được mọi người tin yêu.
    Hào 2 : Tự trong mà gần gủi với ngoài.
    Gần gủi thân thiết với mọi người.
    Hào 3 : Gần gủi người không xứng đáng.
    Đến và gần gủi với những người bị xã hội xa lánh ruồng bỏ.
    Hào 4 : Gần gủi với bên trên
    Tiếp cận và gần gủi với những bậc trên.
    Hào 5 : Như khi săn thú, vua chỉ vây 3 mặt còn mặt trước bỏ ngỏ cho cầm thú thoát ra phía đó. Người trong ấp được cảm hoá không phải răn đe.
    Tỏ rõ thái độ cao thượng của người được kính trọng. Sự ngưỡng mộ có được là từ tấm lòng thiện tâm.
    Hào 6 : Không có đầu mối để gần gũi
    Khúc bi tráng của người dành cả đời mình vì người khác.
    Hình thái Thuỷ Địa Tỉ mô tả cuộc đời con người mang tính cách gần gũi chẳng khác với những gì Kinh Tân Ước đã ghi về Jesus. Kinh Dịch không dừng lại ở đây. Nó còn có 1 hình thái khác mô tả hiện tượng bất thường rất giống với câu chuyện kể về hiện tượng sáng loà ?oSống Lại? của Jesus được ghi trong Tân Ước. Trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ kỳ ! Vì đây là một hình thái rất khó trình bày bằng ngôn từ không chuyên môn, nên tôi xin dành cho dịp khác.
    Tinh thần Bác Ái của Cơ Đốc Giáo. Kinh Dịch nói gì ?
    Bác ái là khoan dung, là độ lượng. Tinh thần này tương ứng với hình thái Phong Hoả Gia Nhân (Khoan dung). Hào cuối cùng của hình thái này nói gì ?
    Có lòng chí thành và uy nghiêm.
    Kinh Dịch cho rằng : Tinh thần Bác Ái sẽ tồn tại với niềm thán phục và nể trọng của loài người. Tôi không rõ lắm về cơ cấu và cơ chế hoạt động của Cơ Đốc Giáo, nhưng với cung cách hoạt động tổ chức rất hiệu quả trong công việc truyền đạo, cứu bần, làm việc thiện thông suốt từ trên xuống đến giáo dân thì thật khó lòng cho rằng họ không đáng nể.
    Kinh Dịch Với Phật Giáo
    Kinh Dịch nói gì về Phật Tổ ? Tinh thần Từ Bi của Phật Giáo nằm trong hình thái nào của Kinh Dịch ? Hình thái ấy nói gì ?
    Kinh Dịch nói gì về Phật Tổ ?
    Sách sử có chép lại rằng Đức Phật vốn là Thái Tử đã có gia thất trước khi xa lánh chốn trần tục lên đường tu đạo và thành Phật. Cách Ngài thể hiện trong cuộc đời tu hành cùng với Đạo Ngài sáng lập tương ứng với hình thái Thiên Sơn Độn (Lánh đi) của Kinh Dịch. Hình thái này nói gì ?
    Hào 1 : Lánh sau cùng, như cái đuôi.
    Ngài muốn lánh ngay từ đầu (thuở bé)
    Hào 2 : Hai bên khăng khít nhau như buộc nhau bằng dây bò vàng. Không thể cởi được.
    Vị Quân Vương, cha Ngài ràng buộc Ngài mang trách nhiệm đối với thần dân. Ngài lên ngôi Thái Tử.
    Hào 3 : Lúc phải lánh mà bịn rịn tư tình.
    Ngài lập gia thất.
    Hào 4 : Có hệ luỵ với người, nhưng lánh được.
    Ngài quyết lánh khỏi thế gian trần tục, mặc dù còn mang hệ luỵ với người vợ trẻ.
    Hào 5 : Lánh đi theo điều chính.
    Ngài lánh đi để tu Đạo
    Hào 6 : Lánh mà ung dung đường hoàng.
    Lánh đấy nhưng là sự lánh đi ung dung mà đường hoàng. Ngài lánh đi không mang sắc thái tự tư, ích kỷ, bị chê cười (Vì thế mới đường hoàng). Thực tế Ngài đã dùng hình thức lánh đi để lên đường thuyết giảng Phật Pháp.
    Thật lạ lùng cho cái hình thức Lánh Đi ! Tưởng rằng lánh đi luôn sẽ là điều tệ hại ích kỷ. Cái lánh đi đến giai đoạn cuối cùng của Đức Phật được Kinh Dịch mô tả là cái lánh đi cao cả của 1 người hướng thiện. Thật hay !!! Kinh Dịch tài tình thật ! Cái lánh đi trong Phật Giới cũng thật tài tình !
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  7. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Tinh thần Từ Bi của Phật Giáo. Kinh Dịch nói gì ?
    Đế đạt được cái tâm Từ Bi Hỉ Xả Phật Pháp hướng chúng sinh đến chữ Tịnh. Chữ Tịnh tương ứng với hình thái Thuỷ Phong Tĩnh trong Kinh Dịch. Hào thứ 6 (Hào cuối cùng) của hình thái này mô tả cái kết cục của tinh thần Từ Bi Hỉ Xả như sau:
    Là Giếng Nước Sạch Sẽ Để Mọi Người Đến Múc Mà Uống. Tồn Tại Mãi Mãi.
    Thật kinh khủng cho cả hai, Phật Pháp và Kinh Dịch !!! Đã quá rõ, tôi không thể nói điều gì hơn.
    KINH DỊCH NÓI VỀ ?oĐẤNG TỐI CAO?
    - Cấu trúc Kinh Dịch được hình thành nên từ 1 số nguyên tắc. Những nguyên tắc này xuất phát từ 1 số học thuyết. Trong đó học thuyết Âm Dương là chủ đạo. Điều đó có nghĩa là bộ Kinh Dịch được tạo nên từ thuyết Nhị Nguyên (Âm & Dương). Triết học Nhị Nguyên vẫn tồn tại trong Kinh Dịch, nhưng chỉ còn là 1 dạng nguyên lý nằm trong 1 Hệ Thống Triết Học mới của Kinh Dịch. Hệ Thống triết học mới này được những người đời sau làm sáng tỏ dần và đặt cho nó cái tên Hệ Thống Triết Học Kinh Dịch _ Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh.
    - Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh kết thúc ở 2 quẻ Ký Tế: Đã xong (63), Vị Tế: Chưa xong (64) Nghĩa là kết thúc rồi đó, nhưng kết thúc ở chỗ chưa xong (Còn nữa). ?oCòn Nữa? là cái gì ? Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh không cho câu trả lời. Vì thế tôi gọi thuyết này là Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Hẹp. Căn cứ vào nguyên lý Âm Dương, tất phải có 1 thuyết khác khả dĩ giảI thích được ?oCòn Nữa? là gì. Tôi gọI là Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Rộng.
    - Cái ?oCòn Nữa? là cái gì ? Theo Nhị Nguyên: Con người cùng với những gì con người cảm nhận được, thấy được, hiểu được bằng cảm xúc, bằng trực quan, bằng tư duy cụ thể được goị là Vũ Trụ Hữu Hình. Có Dương tất phải có Âm, vì thế, hữu hình tất phải có vô hình. Vũ Trụ Vô Hình đứng bên cạnh Vũ Trụ Hữu Hình. Vũ Trụ Vô Hình là như thế nào ? Đặt câu hỏi như thế tức là đã bước vào Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Rộng, là đi tìm hiểu cái ?oCòn Nữa?. Nghĩa là cái ?oCòn Nữa? chính là Vũ Trụ Vô Hình.
    - Vũ Trụ Vô Hình có hình dáng ra sao ? Theo thuyết Nhất Nguyên Hoàn chỉnh Hẹp: Khi vũ trụ được hình thành, Dương & Âm cùng xuất hiện, Vũ Trụ Hữu Hình & Vũ Trụ Vô Hình cùng khởi sinh, không có cái nào có trước cái nào. Để các bạn hình dung được hình dáng của Vũ Trụ Vô Hình, tôi xin đưa ra 1 ví dụ : Khi bạn đào đất, cái đống đất trên bờ là hữu hình, còn cái hố là vô hình, nghĩa là cứ sau 1 động tác đào đất, bạn đã tạo ra không chỉ 1 mà là 2 trạng thái.
    - Vũ Trụ Vô Hình có cái gì trong ấy ? Câu hỏi không nằm trong đề tài này. Điêù ta muốn biết ở đây ?oAi? là người đào đất ? Kinh Dịch cung cấp câu trả lời rất rõ ! Tôi sẽ trình bày điều này trong 1 dịp khác.
    DỰ BÁO HỌC TRUNG HOA VỚI THỂ THAO
    Thiệu Vĩ Hoa, Dịch Sư số 1 của Trung Quốc có giới thiệu 2 phương pháp dự đoán: Dự đoán theo Tượng- Hào & Dự đoán Sáu Hào. So với các phương pháp dự đoán theo Kinh Dịch hiện có tại Việt Nam, 2 phương pháp này tỏ ra vượt trội về mặt lý luận.
    Xem xét 2 phương pháp của Ông, tôi đưa ra vài nhận xét sau :
    1. Ngoài dự đoán về con người và sự việc, ông đã cố gắng nhằm đưa khả năng ứng dụng của 2 phương pháp này vào các lãnh vực khác: Thời tiết, Thể thao, Y Học, Thiên Văn, Địa Chất.
    2. Tác giả áp dụng các nguyên lý Âm Dương Ngũ Hành vào 2 phương pháp này khá thành thục và hợp lý.
    3. Tác giả hiểu các nguyên lý Âm Dương Ngũ Hành theo lối cổ xưa, vì vậy, khi đưa ra các kết quả dự đoán, tác giả thường phải sử dụng đến kinh nghiệm dự đoán của bản thân. Rõ nhất là ở phương pháp dự đoán theo Tượng- Hào. Tác giả dùng nhiều đến các biểu tượng của Bát Quái. Khi dự đoán các trận đấu thể thao phức tạp như đá banh trên sân trung lập, tác giả phải đặt ra các qui tắc ngoại lệ.
    4. Phương pháp Dự Đoán Sáu Hào được tác giả giới thiệu rất công phu, chi tiết và tỉ mỉ. Tuy vậy, nó vẫn tỏ ra phức tạp quá ! Quá nhiều các khái niệm và nguyên lý ! Các nguyên lý và khái niệm này thường chồng chéo và phủ định lẫn nhau khi lập luận dự đoán, khiến cho nhà dự đoán phải có kinh nghiệm để biết chọn nguyên lý nào cho từng trường hợp dự đoán cụ thể. Giống như phương pháp Tượng ?"Hào, phương pháp Dự Đoán Sáu Hào cũng đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm.
    Liệu có phương pháp nào khác không buộc người học phải có kinh nghiệm dự đoán ?
    Bằng việc sử dụng Hệ Thống Lý Luận Trung Y hiện đại, tôi thiết lập 1 phương pháp dự đoán mới. Phương pháp này được phát triển từ phương pháp dự đoán theo Tượng-Hào.
    Phương pháp mới có 2 lợi điểm như sau :
    1. Nó không đòi hỏi người dự đoán phải có kinh nghiệm.
    2. Về mặt ứng dụng, nó dễ sử dụng như khi ta giải phương trình bậc 2 có 1 ẩn số. Nghĩa là, đã có sẵn công thức, chỉ cần áp dữ liệu vào là có ngay kết quả.
    Để có thể áp dụng phương pháp này vào thực tế, bộ Kinh Dịch phải được mã hoá thành 2 ký hiệu (+) & (-). Về lý thuyết, công việc này thực hiện được.
    Vòng chung kết bóng đá tháng 6-2002 tại Hàn Quốc, tôi đem phương pháp ra thử nghiệm. Kết quả dự đoán như sau: Đúng 63 trận, sai 1 trận ( Hàn Quốc >< Hoa Kỳ)
    Tôi chưa tìm ra và chưa lý giải được vì sao phương pháp mới cho kết quả dự đoán sai trận Hàn Quốc >< Hoa Kỳ, nên cần phải có thêm thời gian để xem xét lại.
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  8. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    Nhận xét:
    1. Để kiểm nghiệm khả năng dự đoán của phương pháp mới, tôi chọn 64 trận bóng đá vòng chung kết vì nó mang tính hệ thống, thể thức thi đấu chặt chẽ.
    2. Tuy nhiên, do số lượng thử nghiệm nhỏ, 64 trận, nên con số 99,4% dự đoán đúng không mang giá trị thống kê.
    3. Không mang giá trị thống kê, nhưng phương pháp đã gợi mở rằng: Phương pháp được xây dựng đúng & kết quả dự đoán xác định được giá trị của từng đối tượng.
    4. Giá trị của từng đối tượng được xác định theo giá trị cặp: Đúng-Sai, Phải-Trái, Có-Không.... Vì thế, phương pháp mới còn có thể áp dụng rộng rãi trong các lãnh vực khác.
    5. Khi ứng dụng vào các lãnh vực chuyên biệt khác, người dự đoán phải có trình độ với những hiểu biết nhất định trên lãnh vực ấy nhằm chọn các thông số phù hợp cho việc lập bài toán dự đoán.
    Kinh Dịch với Kỹ Thuật Nhân Bản con người
    Vấn đề nhân bản con người được các quốc gia có nền khoa học tiên tiến hiện nay xem xét nghiêm túc. Căn cứ vào khuyến cáo của đa số các nhà khoa học, 1 số chính phủ đã đưa vào luật các điều khoản chi tiết nghiêm cấm việc nhân bản con người. Đúng hay sai, chúng ta để các nhà làm luật, chính trị gia phân định. Ở đây, tôi xin đặt vấn đề như sau: Khả năng nhân bản con người là có thật, vấn đề còn lại chỉ là thời gian. Vậy, nếu có những bản sao con người xuất hiện thì điều gì sẽ xảy ra cho loài người chúng ta ?
    Kinh Dịch cung cấp cho chúng ta hình thái Thuần Khôn. Hình thái mô tả tiến trình của sự SAO CHÉP. Hình thái ấy cho chúng ta những thông tin sau :
    Hào 1 : Cẩn trọng ngay từ những bước đầu.
    Hệ quả vật sao chép được cân nhắc rất kỹ lưỡng.
    Hào 2 : Đức của mình thẳng, vuông, lớn.
    Những người thực hiện kỹ thuật nhân bản cho rằng họ chỉ đơn thuần vì mục đích khoa học. Vì thế, họ sẽ thực hiện kỹ thuật này trên con người.
    Hào 3 : Ngậm chứa không lộ ra. Đi theo người trên.
    Có sự bảo lãnh của tổ chức hoặc quốc gia thực hiện kỹ thuật nhân bản con người. Công việc tiến hành này hoàn toàn bí mật.
    Hoà 4 : Như cái túi thắt miệng lại.
    Bị cáo giác. Nhưng họ vẫn không từ bỏ ý định. Công việc vẫn tiến hành và được giữ bí mật ở mức độ cao nhất.
    Hào 5 : Được cái xiêm màu vàng.
    Họ nhân bản thành công. Sau nhiều lần điều chỉnh, con người nhân bản đã có được khả năng tồn tại gần giống với con người.
    Hào 6 : Đánh nhau ở đồng nội. Đổ máu đen, máu vàng.
    Con người nhân bản tranh đấu cho quyền được làm con người như chúng ta.
    Hoà 7 : Lâu dài. (6 hào âm biến sang 6 hào dương, Thuần Càn)
    Những người nhân bản tăng thêm số lượng đến 1 thời điểm họ sẽ quay lại đòi làm chủ. Và họ sẽ tạo lập cho họ 1 thế giới riêng (Biến sang THUẦN CÀN. Khởi đầu cho 1 tiến trình 64 quẻ)
    Yếu tố xã hội, tôi sẽ không đề cập. Dưới góc nhìn lịch sử loài người, căn cứ vào các thông tin từ diễn trình của Kinh Dịch, tôi ghi 3 nhận xét sau :
    @ Thứ nhất: Kết quả của kỹ thuật nhân bản sẽ tạo ra những con người nhân bản hoàn hảo tương đối so với con người chúng ta. Vì thế, con người nhân bản vẫn có khả năng tiếp thu kỹ thuật ấy từ chính chúng ta. Hoặc họ có thể tự tạo ra kỹ thuật ấy, một khi thế giới của họ có đủ điều kiện và thời gian cho sự phát triển nền văn minh của riêng họ.
    Như vậy, Kinh Dịch xác nhận kỹ thuật nhân bản là khả năng có thật trong tương lai.
    @ Thứ hai: Trong tương lai, kỹ thuật nhân bản vẫn có thể xảy ra vào những thời điểm, ở những không gian khác do con người, hoặc người nhân bản thực hiện. Vậy, chúng ta không thể đoan chắc rằng kỹ thuật này chưa từng được thực hiện trong quá khứ. Vì vậy, tôi đặt vấn đề như sau: Ngoài thuyết tiến sinh tự nhiên đã được nền khoa học hiện nay chấp nhận, vẫn tồn tại 1 thuyết khác mà chúng ta cần phải xem xét đến : Loài người chúng ta hiện nay là nhân bản của 1 giống loài ?oNGƯỜI? tương tự khác. Vì thế, câu hỏi tiếp theo được đặt ra : Kinh Dịch nhìn nhận ra sao thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản ? _ Kinh Dịch nhìn nhận sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản qua tiến trình từ quẻ thứ nhất Thuần Càn đến quẻ thứ 13 Thiên Hoả Đồng Nhân.
    Như vậy, Kinh Dịch khẳng định sự tồn tại của thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản.
    @ Thứ ba : Kinh Dịch xác định rằng: Ở thời gian đầu khi xuất hiện, khả năng tồn tại của người nhân bản không bằng con người. Nhưng với thời gian, người nhân bản sẽ tự hoàn thiện. Đến 1 thời điểm, khả năng tồn tại của người nhân bản sẽ tương tự như con người. Loài người chúng ta hiện nay, theo thuyết Nguồn Gốc Nhân Bản, đã có khả năng tồn tại tương tự như loài ?oNGƯƠI? đã tạo ra chúng ta chưa ? Và nếu đi dần lên, chúng ta sẽ gặp 2 câu hỏi :
    1. Liệu có ?oĐấng Tối Cao? ?
    2. Hoặc thuyết tiến sinh theo Nguồn Gốc Nhân Bản đi theo qui luật vòng tròn khép kín. Tức là không có ?oĐấng Tối Cao? ?
    Câu hỏi thứ hai, Kinh Dịch không xác nhận tính hợp lý. Vũ trụ của Kinh Dịch là vũ trụ mở.
    Như vậy, Kinh Dịch cho rằng có sự tồn tại của Đấng Tối Cao.
    KINH DỊCH VỚI NGÔN NGỮ & CHỮ VIẾT
    Theo thuyết Nhất Nguyên, năng lượng khi phát sinh luôn tạo ra đồng thời 2 dạng vật chất Dương & Âm. Căn cứ vào thuyết này, luồng suy nghĩ của con người khi phát sinh, luôn tạo ra đồng thời 2 dạng thức tồn tại chứ không phải là 1. Ta tạm gọi chúng là : Luồng Suy Nghĩ Dương & Luồng Suy Nghĩ Âm. Chúng là 1 cặp.
    Khoa học ngày nay đã làm rõ sự hiện diện đồng thời của cả hai luồng nhận thức trong hoạt động của bộ não của con người: Ý Thức & Vô Thức (Có khi còn gọi là Tiềm thức) Chúng là 1 cặp.
    Theo nguyên lý Âm Dương, Dương thể hiện tính Hữu Hình, Âm thể hiện tính Vô Hình. Vậy ta có : Luồng Suy Nghĩ Hữu Hình & Luồng Suy Nghĩ Vô Hình. Ta thấy, chúng khác quan điểm hiện nay Ý Thức & Vô Thức chỉ ở cái tên..
    Con người suy nghĩ, trình bày ra thành lời. Lời nói được thể hiện bằng chữ viết. Chữ viết là 1 dạng ký tự dùng để mã hoá suy nghĩ của con người. Tức là chữ viết chứa đựng thông tin suy nghĩ của con người. Thông tin này chứa đựng Luồng Suy Nghĩ Hữu Hình (Ý Thức. Suy nghĩ của con người được thể hiện trực tiếp trên văn bản) Còn Luồng Suy Nghĩ Vô Hình, nó có hiện diện trong chữ viết không ?
    Đã có 1 cách tính toán rất ư lạ lùng ở môn Chu Dịch Dự Đoán Học ! Bằng việc phân số lượng chữ & số lượng ký tự có trong văn bản (text), phương pháp này đã tìm ra được 1 dạng thông tin khác nằm ẩn trong các văn bản (text) Tôi lấy 1 số ví dụ :
    1. Người Việt chúng ta khi tỏ tình thường nói :
    a. ?oAnh yêu em? có phân lượng ký tự là 3/ 5, tương ứng với hình thái Hoả Phong Đỉnh. Hình thái này mô tả sự Kết hợp.
    b. ?oAnh thương em? có phân lượng ký tự 3/8, tương ứng với hình thái Hoả Địa Tấn. Hình thái này mô tả sự Dấn bước, Bước tới, Tiến tới (Không có lùi) Câu tỏ tình này thường thấy ở miền Trung & miền Nam. Rõ ràng cá tính của con người sống trong khu vực này ảnh hưởng rõ nét lên câu tỏ tình.
    Ngược lại, nếu :
    a. ?oEm yêu anh? mang hình thái Trạch Thuỷ Khốn. Quả là Khốn thật cho cô gái nào mở lời trước chàng trai với câu tỏ tình này! Có vẻ như người Việt chúng ta không có thói quen dành cho các cô gái mở lời trước với câu tỏ tình này.
    b. ?oEm thương anh? mang hình thái Trạch Thiên Quải. Hình thái này mô tả sự Quyết liệt. Kể cũng lạ ! Trong thực tế, ở miền Nam (hay miền Trung) câu này lại dễ chấp nhận hơn ?oEm yêu anh? Nhưng hãy để ý : Cô gái khi mở lời câu này thì tình yêu của họ với người con trai là quyết liệt lắm. Để họ quên là điều rất khó. Và có muốn trốn họ đi tu cũng không dễ.
    2. ?oWò ai Nìa?, ?oAnh yêu em? Wò & Nìa là từ trung tính. Trong tiếng Hoa phổ thông, câu này được dùng chung cho cả 2 phái (như tiếng Anh) Đứng về phương diện ngôn ngữ học điều này là đúng. Nhưng khi phát âm ?o Wò ai Nìa? có vẻ như âm ?o Wò? ở đàn ông dễ phát âm hơn so với phái nữ. Chữ ?oTôi? phát âm theo tiếng Hoa phổ thông mang đậm nét cái uy lực của người phát âm. Trong thực tế, câu tỏ tình này phù hợp hơn cho cánh đàn ông Trung Quốc so với phái nữ.
    Tính số nét, ta có phân lượng ký tự 7/20, tương ứng với hình thái Sơn Lôi Di. Hình thái này mô tả sự Nâng đỡ, chở che. Thông tin nằm ẩn trong câu tỏ tình này phản ánh thật đúng với phong tục, tập quán văn hoá của đất nước mang nguồn gốc Nho Giáo (Trọng nam khinh nữ).
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  9. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    3. ?oI love you? mang hình thái Thiên Sơn Độn. Thật lý thú khi kiến giải hình thái này! Về phương diện ngôn ngữ học, nền văn hoá con người phương Tây sử dụng ngôn ngữ mang tính ?oTĩnh? khác với người phương Đông dùng ngôn ngữ ?oĐộng? Vắt giò lên cổ mà chạy, người Anh-Mỹ chỉ có thể hiểu đây là 1 động tác làm xiếc chứ không thể hiểu như chúng ta, có nghĩa là chạy rất nhanh. Trong ngôn ngữ giao tiếp, người Anh-Mỹ cũng bộc lộ sự rõ ràng & chính xác trong câu nói, khác với ngôn từ nhiều ẩn ý của người Phương Đông. Hình thái Thiên Sơn Độn mô tả rất rõ cử chỉ mời gọi dứt khoát :? Em (anh) hãy từ bỏ tất cả để đi theo anh (em) !? Độn có nghĩa là Lánh đi. Ở các nước có nền văn hoá gốc Anglo-saxon, cô gái lập gia đình phải đổi họ theo họ của chồng. Và họ cũng không có tập quán làm dâu hay giúp đỡ cha mẹ, anh em như bên phương đông chúng ta. Vì thế, khi chàng trai ?oYes? cho câu ?oI love you? của cô gái thì điều đó có nghĩa là dù sống trong ngôi nhà của gia đình anh, tôi sẽ là 1 thành viên thể hiện trách nhiệm chung trong ngôi nhà đó, chứ không hề có chuyện tôi phải có trách nhiệm thực hiện vai trò làm việc giúp đỡ ?oKhông công? cho gia đình bên chồng. Ở họ rất rõ ràng !
    Ta thấy rằng cùng 1 cách biểu lộ tình cảm, khác nhau ký hiệu (ngôn ngữ) lại ẩn chứa dưới lời nói ấy là những thông tin khác nhau (tôi tạm gọi là thông tin chìm). Phải chăng thông tin chìm là ngôn ngữ vô thức? Ở trên ta xét câu tỏ tình theo nghĩa người bày tỏ nói trọn câu. Trên thực tế, cách biểu lộ câu tỏ tình cũng khác nhau, có khi nói trọn câu ?oAnh yêu em? có khi câu tỏ tình bị ngắt từ hoặc không trọn câu, ví dụ: ?oAnh thương....?, ?oEm thương...? Trong các trường hợp này các thông tin chìm ấy cũng khác nhau. Chu Dịch Dự Đoán Học còn đi xa hơn khi cho rằng cùng câu nói ấy nhưng ở những thời điểm khác nhau sẽ cho kết quả thông tin chìm khác nhau. Vấn đề này tôi sẽ bàn sâu hơn vào dịp khác.
    Để kết luận, tôi ghi nhận rằng, lời nói, ngoài ý nghĩ được trình bày trực tiếp trên nó, còn tồn tại 1 thông tin chìm nằm trong nó. Để xác định thông tin chìm đó có phải là Luồng Suy Nghĩ Vô Hình (ý nghĩ Vô Thức) chúng ta cần phải có cách lý giải khác hợp lý hơn.
    KINH DỊCH VỚI CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
    Kinh Dịch với kinh doanh đã có nhiều sách bàn đến. Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày 1 phương pháp khả dĩ nắm bắt chính xác ý đồ kinh doanh ban đầu của các doanh nghiệp. Phương pháp này khá đơn giản trong khâu tính toán & trình bày kết quả. Để hỗ trợ cho phương pháp, tôi đã viết lại 64 thoán từ của Kinh Dịch cho phù hợp với lãnh vực kinh doanh.
    Hoạt động doanh nghiệp thể hiện ý chí của người chủ nhằm đạt được mục tiêu thành công trên thương trường. Để đạt được điều ấy, ý đồ kinh doanh phải được thể hiện đúng và cho kết quả tốt. Trong các doanh nghiệp lớn, ý đồ kinh doanh được thể hiện ở chiến lược kinh doanh. Thông thường, chiến lược kinh doanh chỉ được hình thành sau khi tên doanh nghiệp đã có. Thông tin chìm trong tên doanh nghiệp có mối liên hệ gì với chiến lược kinh doanh? Ta hãy xem Chu Dịch Dự Đoán nhìn nhận vấn đề này ra sao.
    1. Café Trung Nguyên mang hình thái Phong Thuỷ Hoán. Hoán là Tách bạch, rạch ròi. Trung Nguyên khi mở rộng địa bàn hoạt động đã thể hiện phong cách: Không ai giống Trung Nguyên. Một Menu không ai có. Một kiểu uống chỉ có ở Trung Nguyên
    .
    2. Nệm mouse Kymdan mang hình thái Thuần Ly. Ly là Trung tâm, trực tính, cho trước khi nhận (Có hàm ý giá cả phải chăng) Kymdan luôn thể hiện là 1 doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam (Trung Tâm) Giá cả phải chăng, không làm giá khi thị trường hút hàng. Có những đối sách tiếp thị như đổi nệm cũ lấy nệm mới, tặng số lượng lớn nệm mouse cho 1 số cơ quan bệnh viện.
    3. Bánh kẹo Kinh Đô mang hình thái Lôi Trạch Qui Muội. Qui Muội là Còn non, trẻ thơ, vô tư. Các chương trình tiếp thị quảng cáo của Kinh Đô đa phần nhắm vào trẻ thơ. Mặc dù bánh kẹo của họ không chỉ dành cho trẻ con.
    4. Bia Sài Gòn mang hình thái Hoả Địa Tấn. Tấn là Chỉ có tiến, không nhận nhượng ai. Chúng ta hãy xem các màn quảng cáo của Bia Sài Gòn trên tivi. Họ không hề ngán ai, kể cả Heneiken. Và có vẻ như trong đầu của các vị trong ban lãnh đạo công ty này không có khái niệm xuống giá hay giảm giá. Bia ngoại lên giá, họ cũng lên. Bia ngoại, bia nội khuyến mãi. Họ chỉ khoanh tay đứng nhìn.
    5. Điện tử Tiến Đạt mang hình thái Phong Lôi Ích. Ích là Giá rẻ, nhiều tiện ích, có chất lượng. Các sản phẩm của Tiến Đạt luôn có giả rẻ hơn nhiều so với các sản phẩm ngoại cùng loại có trên thị trường.
    6. Nước uống Tribeco mang hình thái Hoả Lôi Phệ Hạp. Phệ Hạp là Khắt Khe. Cung cách đầu tư, sản xuất, chủng loại mặt hàng, chất lượng sản phẩm của Tribeco luôn đi theo hướng này.
    7. Honda mang hình thái Hoả Trạch Khuê. Khuê là Đa nghi, thăm dò, ngược ngạo, ngược đời. Cái cách tuồn hàng bằng mọi phương tiện cho xài trước. Thấy được mới chuyển giao công nghệ, nhượng bản quyền, liên doanh, đầu tư trực tiếp 100%. Không chỉ ở ta, ở Mỹ Honda cũng làm thế.
    Các ví dụ trên cho thấy: Thông tin chìm có trong tên của doanh nghiệp thể hiện ý đồ kinh doanh ban đầu.
    Trong hầu hết các trường hợp, tên doanh nghiệp chỉ thể hiện ý nghĩa bên ngoài: Đặc tính nghề nghiệp, ước mong, tên viết tắt?hơn là trình bày ý đồ kinh doanh. Ý đồ kinh doanh là bí mật của doanh nghiệp, nó chỉ được thể hiện trong chiến lược kinh doanh. Chiến lược kinh doanh có thể thay đổi, linh hoạt, mềm dẻo theo thị trường, nhưng ý đồ kinh doanh thì không. Như vậy, ý đồ kinh doanh ban đầu chính là Tư Duy Định Hướng cho việc xác lập chiến lược kinh doanh. Tôi nhận định Tư Duy Định Hướng được thể hiện trong tên của Doanh Nghiệp. Để chứng minh điều này, ta hãy xem vài ví dụ sau:
    1. Doanh nghiệp Vĩnh Tiến sản xuất tập vở, mang Tư Duy Định Hướng Thuần Tốn. Tốn là thuận theo. Vĩnh Tiến tung ra thị trường loại tập thông minh, tập giấy màu cùng chiến dịch tiếp thị quảng cáo rầm rộ với ý định cung cấp cho thị trường những sản phẩm mới lần đầu tiên có tại Việt Nam. Điều này đã đi ngược hẳn với Tư Duy Định Hướng Thuận theo. Thực tế thị trường đã không tiếp nhận tốt những sản phẩm mới này.
    Một chiến thuật tiếp thị khác khả dĩ tốt hơn: Lặng lẽ sản xuất, âm thầm đưa 1 số lượng nhỏ ra ngoài thị trường theo các kênh tiêu thụ sản phẩm cao. Nếu thị trường chấp nhận, sẽ tung số lượng lớn. Điều này phù hợp với Tư Duy Định Hướng thuận theo. Nếu thị trường không có nhu cầu tiêu thụ lớn, có ngưng lại cũng không muộn.
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     
  10. antiboy

    antiboy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/11/2001
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    0
    2. Pepsi mang tư duy định hướng Trạch Hoả Cách. Cách là đổi mới Phong cách tiếp thị quảng cáo của Pepsi rất sôi động, mới mẽ và trẻ trung. Có 1 lần, Pepsi tung ra thị trường 1 loại sản phẩm có mùi vị tương tự như sản phẩm truyền thống của Coca Cola. Pepsi đã phải ghi nhận 1 thất bại nặng nề. Chiến lược sản phẩm mới của Pepsi đi theo lối mòn của địch thủ, ngược hẳn với tư duy định hướng đổi mới của Pepsi.
    3. Biti?Ts mang tư duy định hướng Thuần Ly. Ly là trực tính, trung tâm, cho trước khi nhận (Giá phải chăng). Biti?Ts đã thành công trong việc thiết kế slogan (khẩu hiệu quảng cáo) ?oNâng niu bàn chân Việt? với những bước chân của Long Quân, Âu Cơ, quân Tây Sơn, bộ đội Trường Sơn đi thẳng vào lòng người. Chiến lược quảng cáo của Biti?Ts phù hợp với tư duy định hướng Trực tính nên rất thành công. Tuy nhiên, ở chiến lược bán sản phẩm Biti?Ts đã đi theo công thức ?oChất lượng tốt nhất cho mọi sản phẩm? và cơ chế ?o Một giá? Chiến lược này ngược hẳn với tư duy định hướng Trung tâm là đa dạng chất lượng, đa dạng giá cả. Do chất lượng tốt nhất nên giá bán lẻ trung bình ở tất cả các mặt hàng là khá cao so với nhu cầu chung của mọi người. Điều này cũng đi ngược lại với tư duy định hướng Giá phải chăng. Kết quả là số lượng các đại lý bán lẻ của Biti?Ts đã thu hẹp dần so với trước kia.
    Một chiến lược sản xuất & bán sản phẩm mềm dẻo, đa dạng hơn về giá sẽ phù hợp với tư duy định hướng Thuần Ly.
    4. Café Trung Nguyên mang tư duy định hướng Phong Thuỷ Hoán. Hoán là Tách bạch, rạch ròi. Khi Trung Nguyên đạt được thành công mở hàng trăm quán Café Trung Nguyên tại Saigon trong 1 thời gian ngắn kỷ lục, thì liền xuất hiện các quán nhại theo: Nam Nguyên, Phúc Nguyên, Cao Nguyên? Chiến thuật nhại theo phong cách phục vụ của Trung Nguyên đã khiến doanh nghiệp này thật sự lao đao. Đây là đòn phản công của các doanh nghiệp cùng ngành vô hình trung đẩy Trung Nguyên vào thế đi ngược với tư duy định hướng. Trung Nguyên đã không còn Tách bạch, rạch ròi so với các doanh nghiệp khác. Một quyết định sai vào thời điểm này sẽ có thể đưa doanh nghiệp vào thế phá sản. Trung Nguyên đã không tiếp tục phiêu lưu nâng cấp hàng trăm quán ấy theo kế hoạch đã định ra ban đầu, mà tự thu hẹp, nâng cấp 1 số quán có diện tích và vị trí thuận lợi. Phương sách này xem ra chưa đủ. Chuyên biệt hoá là điều Trung Nguyên nên nghĩ đến.
    5. Năm 1997, tôi có mua 1 chiếc xe đạp 650 hiệu Martin 107 loại trung bình khá (theo giá biểu). Sau 4 tháng sử dụng, tôi cất chiếc xe ấy vào góc bếp. Bốn năm sau, vội lấy chiếc xe cũ kỹ mốc meo ấy ra, bơm hơi lên và đạp đi ngay 10 cây số. Nó chạy ngon lành ! Thật ấn tượng ! Sau 8 tháng sử dụng liên tục trung bình 1 ngày 3 cây số, 1 người đề nghị mua lại chiếc xe ấy cho con đi học. Đến lúc ấy, chỉ phải thay miếng chắn xích bằng nhựa do tôi va phải chiếc xe khác.
    Cơ sở Martin 107 đến năm 2001 đứng trong Top 81 doanh nghiệp 5 năm liền đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao. Qua năm 2002 thì không có tên trong danh sách hàng chất lượng cao. Vì sao ?
    Martin 107 mang tư duy định hướng Thuỷ Hoả Ký Tế. Ký Tế là Cầu toàn, hoàn hảo. Tư duy định hướng này còn chứa 1 thông tin khác: Đỉnh điểm của sự hoàn hảo là khởi điểm của sự rối loạn (Thất bại) Điều này không hàm ý cơ sở sẽ thất bại, mà nó cho rằng khi sản phẩm của cơ sở đã đạt đến thành công nhất định, cơ sở nên chuyển hướng đầu tư tập trung cho 1 loại sản phẩm khác hoặc 1 lãnh vực kinh doanh khác. Lúc này đây, uy tín về sự hoàn hảo sẽ giúp cho doanh nghiệp rất nhiều so với việc khởi nghiệp chiếc xe đạp Martin 107. Nếu ngược lại, doanh nghiệp vẫn tiếp tục nỗ lực với các loại sản phẩm đã từng đưa Martin 107 đạt đỉnh cao thì đó là sự gắng gượng không có hy vọng.
    Như vậy, tên doanh nghiệp ngoài thông tin thể hiện trực tiếp trên văn bản (text) còn chứa đựng trong nó 1 thông tin khác. Thông tin ấy được Kinh Dịch xác định là Tư duy định hướng. Nó có 2 đặc điểm:
    1. Hoạt động doanh nghiệp phù hợp với tư duy định hướng thì dễ đạt được sự thành công. Ngược lại là thua thiệt, thất bại.
    2. Con người có thể thay thế, nhưng tư duy định hướng thì không đổi.
    Tôi xin chuyển qua 1 đề tài khác, trong các tài liệu kinh điển giảng dạy, hướng dẫn hoạt động kinh doanh thường nhấn mạnh đến 4 yếu tố quan trọng để doanh nghiệp có thể hoạt động, hoạt động tốt & hoạt động có hiệu quả:
    1. Hoạt động tài chính điều tiết điều hoà.
    2. Nguồn nhân lực đầy đủ.
    3. Thời điểm kinh doanh phù hợp.
    4. Khả năng tri thức & vận dụng tri thức hợp lý.
    Bốn yếu tố trên không lý giải được trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, vẫn tồn tại những con người có tri thức hạn chế nhưng kinh doanh rất hiệu quả, thành công, và ở 1 số người đạt được sự thành công rất lớn. Thời xưa có nhiều, ngày nay cũng không ít. Thương nhân người Nhật kinh doanh rất giỏi. Tất cả họ là do may mắn ? Cộng đồng thương nhân Quảng Châu (Trung Hoa) rất tháo vát kinh doanh và kinh doanh rất tài. Tất cả họ được thiên phú ? Cho rằng đó là do khả năng thiên phú hay may mắn đi nữa thì thật là mù mờ ! Vậy thì do điều gì mà rất nhiều những ông chủ Hoa Kiều tiếng bản xứ bẻ đôi có khi chưa rành lại kinh doanh thành công ? Nhờ thông dịch ? Công việc ấy chỉ để truyền đạt mệnh lệnh là chính.
    Ta thấy: Thương nhân Nhật Bản trung thực, bền bỉ, Cộng đồng thương nhân Quảng Châu trọng chữ Tín. Tính cách có khác nhau nhưng cùng giống nhau ở 1 điểm, Tính Nhất Quán của họ trong hoạt động kinh doanh?. Chữ Tín chưa chắc khiến họ luôn thành công, nhưng chữ Tín đã giúp họ giữ chắc ý đồ kinh doanh ban đầu (Tư duy định hướng). Trung thực dễ khiến bị gạt, nhưng sự bền bĩ đã giúp họ không lơi lỏng trong việc thực hiện ý đồ. Vì vậy, 4 yếu tố trên cần bổ sung như sau:
    1. Hoạt động tài chính điều tiết điều hoà.
    2. Nguồn nhân lực đầy đủ.
    3. Thời điểm kinh doanh phù hợp.
    4. Khả năng tri thức & vận dụng tri thức hợp lý.
    5. Tính nhất quán trong việc thực thi Tư Duy Định Hướng.
    Trong thực tiễn kinh doanh, chủ doanh nghiệp giữ vai trò điều phối, điều hành guồng máy. Người chủ doanh nghiệp thể hiện vai trò người điều hành tốt, khi chọn các chiến lược kinh doanh ngoài yếu tố mang lại lợi ích theo dự toán, chiến lược kinh doanh còn phải thể hiện ăn khớp với ý đồ kinh doanh ban đầu, tư duy định hướng, xuyên suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Yếu tố thứ 5 cũng giải thích được vì sao số thương nhân bị hạn chế ở yếu tố số 4, nhưng vẫn thành công & thành công vượt bực trên thương trường. Với các doanh nghiệp nhỏ như nhà hàng, quán, shop, dịch vụ?. Tên cửa hiệu cũng cho thông tin Tư Duy Định Hướng tương tự. Thật thú vị khi thấy sự thành bại của các cửa hiệu thể hiện rất rõ. Doanh nghiệp lớn thua keo này còn cơ hội và vốn liếng để tính hướng khác, doanh nghiệp nhỏ thua là thấy ngay. Trong thực tiễn, thường chỉ cần nhìn vào ngành nghề, cách bố trí, phong cách tiếp cận khách hàng đem so sánh với thông tin có trên tên bảng hiệu, là có thể tiên liệu được ngay sự thành bại của doanh nghiệp nhỏ.
    Rồi cuối cùng trời cũng ngớt mưa
       Anh tìm quên bên người con gái khác
    Tháng năm theo dòng trôi qua mải miết
    Những cuộc tình cứ đến rồi đi
    Rồi cuối cùng qua hết những đam mê
    Những nước mắt khổ đau , những nụ cười hạnh phúc ...
     

Chia sẻ trang này