1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kho tàng bói toán sư tầm đọc giải trí.(Bài mới- bói qua diện mạo, năm tuổi)

Chủ đề trong 'Tư vấn tình yêu' bởi antiboy, 06/11/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    đành dùng nick này vậy
    Học thuyết Âm Dương Tổng Luận
    Học thuyết âm dương la? học thuyết quan trọng nhất cu?a văn hoá thâ?n bí Trung Hoa. Ngươ?i xưa qua quan sát các sự vật hiện tượng ma? chia mọi vật trong vuf trụ tha?nh hai loại la? âm va? dương. Tư? đó xây dựng nên tư tươ?ng duy vật biện chứng đơn gia?n.
    Học thuyết âm dương cho ră?ng mọi vật tô?n tại va? phát triê?n được đê?u do hai khí âm dương vận động ma? tạo tha?nh. Âm dương la? hai mặt thống nhất đối lập cu?a một sự vật hiện tượng, cu?ng mâu thuâfn va? chuyê?n hoá lâfn nhau không thê? tách rơ?i. Đặc tính của Âm Dương luôn đối lập nhau, như của Dương là cứng, mạnh, quả quyết, màu sáng, hướng lên. Đặc tính của âm là nhu thuận, mềm yếu, màu tối, hướng xuống.
    · Trong tự nhiên, mọi vật đê?u tô?n tại hai trạng thái đối lập nhau, đó la? hai mặt âm dương như nóng với lạnh, đen với trắng, nga?y với đêm. Tuy mâu thuâfn nhưng lại có sự thống nhất tư? đâ?u đến cuối, dựa va?o nhau đê? tô?n tại. Âm dương cái na?y du?ng cái kia la?m tiê?n đê? tô?n tại cho mi?nh.
    · Âm dương luôn vận động, cái na?y yếu thi? cái kia mạnh lên. Âm suy thi? dương mạnh lên, đến cực điê?m thi? dương lại suy va? âm lại mạnh lên. Hết nga?y rô?i đến đêm va? ngược lại. Âm dương cân bă?ng la? thế tối ưu cu?a sự vật, giúp cho sự vật phát triê?n ơ? mức độ tốt nhất.
    · Âm dương chuyê?n hoá lâfn nhau. Trong âm có dương va? ngược lại. Không có âm dương tuyệt đối. Vi? vậy trong mọi sự vật không có gi? tô?n tại tuyệt đối. Ngay ca? trong lifnh vực cuộc sống, ?oHoạ la? đâ?u mối cu?a phúc, phúc lại â?n chứa họa? la? như thế.
    Nắm vưfng được học thuyết na?y, ứng dụng va?o cuộc sống sef đem lại nhiê?u kết qua? tốt đẹp !
    Ứng dụng học thuyết Âm Dương
    Việc nắm vững học thuyết Âm Dương, đem ứng dụng vào thực tế mang lại những ý nghĩa hết sức lớn lao. Học thuyết Âm Dương cho rằng sự vật đạt đến trạng thái cân bằng động lý tưởng khi Âm Dương cân bằng. Thực tế trong cuộc sống, tất cả mọi điều không hay xảy đến đều do mất cân bằng Âm Dương mà ra. Nếu biết khéo léo áp dụng học thuyết Âm Dương, rèn luyện thế cân bằng sẽ dễ thành công trong mọi việc. Có thể kể ra đây rất nhiều tác dụng của nguyên lý cân bằng Âm Dương.
    Trong tính cách, nếu Dương tính quá nhiều dễ sinh ra manh động, liều lĩnh, nóng vội và thường khó thành công trong mọi việc. Nếu Âm tính quá nhiều sẽ uỷ mị, không quyết đoán làm lỡ mất thời cơ. Cần rèn luyện để đạt đến trạng thái cân bằng, bình tĩnh, khoan hoà để giải quyết mọi việc, khi thời cơ đến cần quyết đoán để không bỏ lỡ thời cơ
    Trong sức khoẻ nhất là vấn đề ăn uống cần giữ cân bằng Âm Dương, tránh ăn quá nhiều thức ăn Âm tính sẽ làm yếu mềm cá tính, hại cho nội quan. Tránh ăn quá nhiều thức ăn Dương tính sẽ làm hại tỳ vị, sinh ra nhiều bệnh tật. Cần ăn cân bằng cả chất rau, hoa quả và các chất đạm, chất béo.
    Trong việc dùng người, những việc cần nhanh nhạy, quả quyết, tận dụng thời cơ cần sức mạnh nên dùng nam giới. Những việc cần bền bỉ, khéo léo, cẩn thận, nhỏ nhặt thì nên dùng phụ nữ. Trong một tổ chức nên có số nam nữ cân bằng nhau.
    Trong tình yêu, đời sống hạnh phúc gia đình cũng rất cần quán triệt nguyên lý này. Người chồng phải quyết đoán, tiêu biểu cho sức mạnh của cả gia đình. Người vợ nên nhu thuận, lấy đức làm đầu. Tránh quan điểm quá gia trưởng, tất cả đều do người chồng quyết định hoặc tất cả đều do người vợ quyết định. Cần tôn trọng ý kiến của nhau trên cơ sở người chồng đưa ra quyết định và được người vợ tán thành. Có như thế đời sống hạnh phúc gia đình mới bền chặt, tránh được nhiều hậu quả đáng tiếc.
    Còn rất nhiều ứng dụng nữa mà không thể kể hết ra đây, quý vị sau khi tìm hiểu sẽ tự tìm cho mình những bài học bổ ích, ứng dụng nó trong cuốc sống thiết nghĩ sẽ mang lại nhiều tốt lành cho bản thân và gia đình.
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  2. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Học thuyết Can Chi Tổng Luận
    Ngươ?i xưa cho ră?ng mọi vật la? do hai khí âm dương vận động ma? tạo tha?nh. Lại có 5 loại vật chất cơ ba?n la? mộc, hoa?, thô?, kim, thuy? luôn tương hôf tác động chuyê?n hoá lâfn nhau. Đó la? vê? mặt định tính.
    Đê? đo đạc định lượng chính xác thơ?i gian va? không gian, ngoa?i đo đạc bă?ng năm, tháng, nga?y giơ? ra. Ngươ?i xưa du?ng can, chi đê? đo đạc thơ?i gian, đó la? mặt định lượng.
    Thập thiên can (10 can) : Giáp, ất, bính, đinh, mậu, ky?, canh, tân, nhâm, quý.
    · Nguf ha?nh cu?a thiên can : Môfi thiên can thuộc một ha?nh nhất định.
    Can Dương Can Âm Ngũ hành
    Giáp
    Ất
    Mộc

    Bính
    Đinh
    Hoả

    Mậu
    Kỷ
    Thổ

    Canh
    Tân
    Kim

    Nhâm
    Quý
    Thuỷ

    Nhưfng can có số le? la? dương, số chăfn la? âm. Bơ?i nhưfng số le? được coi la? số sinh tức dương, nhưfng số chăfn được coi la? số tha?nh tức âm. Ngươ?i xưa thươ?ng du?ng số le? vi? số na?y la? dương, la? số sinh sef may mắn hơn số âm.
    · Phương vị cu?a thiên can :
    Can Dương Can Âm Phương vị
    Giáp Ất
    Đông

    Bính
    Đinh
    Nam

    Mậu
    Kỷ
    Trung tâm

    Canh
    Tân
    Tây

    Nhâm
    Quý
    Bắc


    · Thập can tương hợp :
    Can Dương Can Âm Hợp Hoá
    Giáp
    Kỷ
    Thổ

    Ất
    Canh
    Kim

    Bính
    Tân
    Thuỷ

    Đinh
    Nhâm
    Mộc

    Mậu
    Quý
    Hoả

    · Thập can tương khắc :
    Can Khắc Can
    Giáp
    Mậu

    Ất
    Kỷ

    Bính
    Canh

    Đinh
    Tân

    Mậu
    Nhâm

    Kỷ Quý
    Canh Giáp
    Tân Ất
    Nhâm Bính
    Quý Đinh
    Thập nhị địa chi : Tí, sư?u, dâ?n, mafo, thi?n, tỵ, ngọ, mu?i, thân, dậu, tuất, hợi.
    · Địa chi thuộc nguf ha?nh :
    Chi Dương Chi Âm Ngũ hành
    GipaTí Sửu
    Thuỷ

    Dần
    Mão
    Mộc

    Tỵ
    Ngọ
    Hoả

    Thân
    Dậu
    Kim

    Thìn Tuất
    Sửu Mùi
    Thổ

    · Địa chi nhị hợp :

    Chi Dương Chi Âm Hợp Hoá

    Sửu
    Thổ

    Mão
    Tuất
    Hoả

    Tỵ
    Thân
    Thuỷ

    Dần
    Hợi
    Mộc

    Ngọ
    Mùi
    Hoả

    · Địa chi tam hợp :
    Tam hợp Hợp Hoá
    Tỵ - Dậu - Sửu
    Kim

    Thân - Tí - Thìn
    Thuỷ

    Hợi - Mão - Mùi
    Mộc

    Dần - Ngọ - Tuất
    Hoả

    · Địa chi tam hội :

    Tam hội Hội Hoá
    Thân - Dậu - Tuất
    Kim

    Hợi - Tí - Sửu
    Thuỷ

    Dần - Mão - Thìn
    Mộc

    Tỵ - Ngọ - Mùi
    Hoả

    Thìn - Tuất - Sửu - Mùi
    Thổ

    · Địa chi lục xung :
    Chi Xung

    Ngọ

    Sửu
    Mùi

    Dần
    Thân

    Mão
    Dậu

    Thìn
    Tuất

    Tỵ Hợi
    · Địa chi tương hi?nh :
    Địa chi tương hình Loại hình
    Dần hình Tỵ, Tỵ hình Thân, Thân hình Dậu
    Vô ơn

    Mùi hìnhSửu, Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi
    Dựa thế

    Tí hình Mão, Mão hình Tí
    Vô lể

    Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi
    Tự hình

    · Địa chi tương phá :
    Chi Phá

    Dậu

    Ngọ
    Mão

    Thân
    Tỵ

    Dần
    Hợi

    Thìn
    Sửu

    Tuất Mùi
    · Địa chi tương hại :
    Chi Hại

    Mùi

    Sửu
    Ngọ

    Dần
    Tỵ

    Mão
    Thìn

    Thân
    Hợi

    Dậu Tuất
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  3. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Kinh Dịch Tổng Luận

    Theo cổ nhân Trung Hoa, lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng rõ ràng được gọi là thời hỗn mang. Trong sự hỗn mạng đó, bàng bạc cái lẽ vô linh linh diệu gọi là Thái cực. (Sở dĩ gọi là Thái cực vì nó huyền bí và vô tận nên không thể xác định rõ trạng thái cuả nó ra sao).
    Tuy nhiên, dẫu không biết được chân tính và chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vi song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hoá của vạn vật mà suy ra được cái đông thể của Thái cực. Căn bản của sự chuyển biến hoá được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh. Động gọi là Dương, tĩnh gọi là Âm. Âm lên đến cực độ thì lại biến ra Dương và ngược lại . Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất ( Thái cực ) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hoá không ngừng mà sinh ra Trời, Đất, Người cùng vạn vật . Vì Âm Dương phối hợp, đùn đẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển. Sự biến chuyển chính là nền tảng của Dịch. Do đó, trong phần chú giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói ?oÂm nhu Dương cương , Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hoá ?o (Nghĩa là Âm thì mềm, Dương thì cứng, cứng mềm đùn đẩy lẫn nhau chuyển hoá thành thiên hình vạn trạng).
    Theo cổ nhân , mỗi chu trình gồm bốn giai đoạn :
    a ) Nguyên : Khởi đầu của sự biến hoá
    b ) Hanh : Sự thông đạt , hội hợp các thành tố
    c ) Lợi : Sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng
    d ) Trinh : Sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật
    Biến hoá là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hoá của vũ trụ và vạn vật. Do đó, Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hoá (Dịch) một cách khái quát như sau :
    ?oDịch hữu Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh Bát quái , Bát quái sinh Ngũ hành : Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực, Thái cực sinh ra hai Nghi (Âm và Dương ) hai Nghi sinh ra bốn Tượng ( bốn trạng thái tượng trưng bằng bốn mùa Xuân , Hạ , Thu , Đông ) bốn tượng sinh ra tám Quẻ ( Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ) tượng trưng cho Trời , Đầm , Lửa , Sấm , Gió , Núi , Nước , Đất ) tám Quẻ sinh ra năm Hành ( năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ).
    Khởi đầu của sự biến hoá rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hoá dần dần để thành ra phồn tạp. Vì Âm Dương là hai thành tố đầu tiên của vũ trụ, nên được Kinh Dịch chọn là biểu tượng căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản :
    Vạch liên tục ( - ) tượng trưng cho Dương
    Vạch gián đoạn ( - - ) tượng trưng cho Âm
    Trong phép biến hoá để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Âm Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây :
    1 - Kiền tượng trưng cho Trời
    2 - Đoài tượng trưng cho Đầm , Ao
    3 - Ly tượng trưng cho Lửa
    4 - Chấn tượng trưng cho Sấm
    5 - Tốn tượng trưng cho Gió
    6 - Cấn tượng trưng cho Núi
    7 - Khảm tượng trưng cho Nước
    8 - Khôn tượng trưng cho Đất
    Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là ?o Tiên thiên Bát quái ?o do vua Phục Hy ( 4477 - 4363 ) trước Tây lịch vạch ra để giải thích cái lẽ Âm Dương biến hoá của Thái cực. Về sau vua Hạ Vũ ( 2205 - 2163 trước Tây lịch) đặt ra Cửu trù ( chín pháp lớn ) phối hợp với Bát quái và tính số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hoá của vũ trụ và vạn vật .
    Tới đời Tây Chu , vua Văn Vương , trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ , Bát quái mới gọi là hậu thiên Bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc người . Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ, chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt tâm truyền mới hiểu được. Tình trạng của Dịch lý từ thượng cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi .
    Đến đời Đông Chu, Khổng Tử ( 511 - 478 trước Tây lịch ) đem kiến giải của mình bổ sung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành Kinh Dịch trong đó bao gồm cả Âm Dương, Bát quái và Ngũ hành .
    Căn cứ theo ý nghĩa thông thường , cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ hành, các ý nghĩa tượng trưng sau đây :
    + Dương : Tượng trưng cho mặt trời , lửa , ánh sáng , sinh động , cứng cát , ban ngày , đàn ông ?..
    + Âm : Tượng trưng cho mặt trăng , tối tăm , nguội lạnh , bất động , mềm nhão , ban đêm , đàn bà ?.
    + Kim : Vàng , bạc , hiểu rộng ra là tất cả các chất kim thuộc
    + Mộc : Cây trong rừng , nói tổg quát ra là mọi thực vật trên mặt đất
    + Thủy : Nước và nói rộng ra là các chất lỏng
    + Hỏa : Lửa , hơi ấm
    + Thổ : Đất đá, nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại
    Về phương diện siêu hình, Âm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình hữu thể mà chỉ là biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối , cứng với mềm, sinh với diệt, khoẻ với yếu ?.
    Về phương diện ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành, ta cũng đi đến kết quả tương tự Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ ngoài tính cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa tượng trưng có tính cách tương sinh tương khắc trong sự biến hoá của muôn vật diễn ra hàng ngày trước mắt.
    Kinh Dịch là lý thuyết vĩ đại hình thành cơ sở tất cho các môn thuật số khác.
    Kinh Dịch là bộ sách lâu đời nhất và nổi tiếng nhất của Trung Quốc, nó là sự kết tinh trí tuệ, nhân sinh quan, vũ trụ quan của dân tộc Trung Hoa. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nó luôn tự khẳng định và đứng vững, trường tồn đóng góp cho nền văn hoá Trung Hoa nói riêng và nhân loại nói chung.
    Vấn đề cốt yếu của Kinh Dịch là dùng phương pháp luận đối lập thống nhất, biện chứng để lý giải quy luật tự nhiên cũng như tiến trình biến hoá của sự vật và hiện tượng. Trên thì bàn đến thiên văn vũ trụ, dưới bàn đến địa lý, ở giữa bàn về đời sống xã hội và con người. Bao trùm mọi lĩnh vực khoa học tư nhiên và khoa học xã hội, từ bậc trịc quốc cho đến những người dân tầm thường, tất cả đều được bàn luận một cách tỉ mỉ.
    Người xưa coi thế giới hình thành nên từ trạng thái vật chất dưới dạng trường gọi là "khí". Khái niệm khí tuy mơ hồ nhưng nó hình thành nên tất thảy vạn vật, một trạng thái dạng vô hình của vật chất. Khí tụ lại đến một dộ nhất định nào đó thì hành thành nên "hình" tức là vật chất quan sát được. Khí hình thành nên chủ yếu do hai nhân tố thống nhất và đối lập nhau tạo thành. Đó là hai khí âm và dương, thời kỳ vũ trụ chưa hình thành, hai khí âm dương chưa phân thì toàn bộ khí chỉ là trạng thái hỗn mang. Sau đó hình thành hai khí âm dương gọi là lưỡng nghi, hia khí này lại hình thành bốn trạng thái tiếp theo của âm dương gọi là tứ tượng. Tứ tượng sinh ra bôn trạng thái nữa gọi là bát quái tức tám trạng thái khác nhau của âm dương. Hình thành nên hệ quy chiếu phản ảnhs toàn bộ quy luật vận động và phát triển cuả sự vật hiện tượng. Vận dụng bát quái dự đoán thông tin về tự nhiên, xã hội và tư duy trong phạm vi rất rộng lớn. Xa thì bao trùm cả vũ trụ, gần thì dự đoán những việc rất nhỏ như đời sống con người.
    Trạng thái đâ?u tiên cu?a vuf trụ la? trạng thái hôfn độn, âm dương chưa phân chia (có thê? coi la? trước thơ?i ky? vụ nô? lớn Big Bang cu?a vuf trụ học hiện đại) gọi la? Thái cực. Thái cực tức vuf trụ bao la vô cu?ng vô tận. Đến cực điê?m tất thay đô?i tha?nh âm dương, hi?nh tha?nh trơ?i đất (thơ?i ky? sau vụ nô? lớn). Âm dương la? hai cặp phạm tru? song song tô?n tại va? chuyê?n hoá lâfn nhau. Âm dương co?n gọi la? lươfng nghi tức trơ?i va? đất. Dương ký hiệu vạch liê?n ?", Âm ký hiệu vạch đứt - -, âm dương giao nhau, chuyê?n hoá lâfn nhau ma? sinh ra tứ tượng, tức bốn trạng thái khác nhau cu?a âm dương la?:
    Thái dương

    Thiếu âm :

    Thiếu dương :

    Thái âm :

    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  4. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Ngươ?i xưa lấy tứ tượng đê? tượng trưng cho 4 mu?a Xuân, Hạ, Thu, Đông va? 4 phương Đông , Nam, Tây, Bắc.
    Tứ tượng vận động va? hi?nh tha?nh 8 trạng thái chi tiết hơn, đó la? bát quái tức tám que? đơn, tám trạng thái cu?a âm dương.
    1. Ca?n :
    Đặc tính : Vi? toa?n ha?o dương nên toa?n la? khí dương, la? trơ?i. Có tính chất cương quyết, ban phát, hướng lên trên.
    2. Đoa?i :
    Đặc tính : Một âm ơ? trên, hai dương ơ? dưới đang hướng lên trên nên vui ve?, hoa? duyệt. Hi?nh dạng như cái ao.
    3. Ly :
    Đặc tính : Có một âm ơ? giưfa, hai dương bao bọc bên ngoa?i nên như ngọn lư?a cháy. Tính sáng láng va? bám dính.
    4. Chấn :
    Đặc tính : Có một dương la? ánh sáng ơ? dưới bốc lên, hai âm ơ? trên như đám mây. Vi? vậy la? sấm sét, có tính kích động, thay đô?i.
    5. Tốn :
    Đặc tính : Hai dương ơ? trên, một âm ơ? dưới nên có tính khuất phục, tượng như cơn gió thô?i. Tính thuận theo va? hoa? nhập.
    6. Kha?m :
    Đặc tính : Trong la? một dương nóng, ơ? ngoa?i hai âm lạnh bao bọc nên la? nước. Có tính chất bế tắc hafm kẹp, hiê?m trơ?.
    7. Cấn :
    Đặc tính : Dưới la? hai dương lạnh hafm, trên la? một dương nóng sáng như trái núi úp xuống. Tính chất ngăn chặn, ngưng nghi?.
    8. Khôn :
    Đặc tính : Toa?n la? ha?o âm nên la? đất, tính chất nhu thuận mê?m yếu.
    8 que? đơn xếp chô?ng lên nhau tô? hợp tha?nh 64 que? kép, môfi que? kép có 6 ha?o. Môfi que? kép đê?u có tượng que? tức la? hi?nh tượng cu?a que? va? chiêm cu?a que? đê? ngươ?i xem biết việc la?nh dưf ra sao.

    Nguồn gốc hình thành Kinh Dịch
    Theo các sách Hán cổ, Kinh Dịch được ra đời từ thời Ngũ Đế trong lịch sử Trung Quốc. Vua Phục Hy trong một lần đi trị thuỷ trên sông Hoàng Hà thấy một con Long Mã nổi lên. Trên lưng con Long Mã xuất hiện 9 vân, Vua Phục Hy căn cứ vào đó vạch ra một vạch liền gọi là Dương, một vạch đứt gọi là âm. Hai vạch này gọi là lưỡng nghi.
    Trên mỗi nghi lần lượt thêm một vạch được tứ tượng, trên tứ tượng vạch thêm một vạch nữa sinh ra bát quái tức tám quẻ đơn.
    Vua Phục Hy lại đem 8 quẻ đơn này xếp chồng lên nhau hoàn vị và hình thành nên 64 quẻ kép. 64 quẻ này chưa có tên và chưa có lời gì cả. Đến đời nhà Chu, vua Văn Vương đặt tên cho 64 quẻ kép là Càn, Khôn, Truân,... đến Vị Tế. Sau đó ông đặt lời cho từng hào trong mỗi quẻ gọi là lời quẻ. Mỗi quẻ có tượng quẻ và chiêm của quẻ mục đích là để bói xem việc lành dữ ra sao.
    Đến Chu Công là con trai của Văn Vương gọi 6 vạch là 6 hào, thứ tự các hào trong quẻ gọi là ngôi của hào đại diện cho các giai tầng trong xã hội như: hào đầu là thứ dân, hào hai là tư mục, hào ba là quan khanh đại phu, hào bốn là ngôi vị đại thần trong triều đình, hào năm là ngôi vua, hào sáu đại diện cho các bô lão. Chu Công cũng đặt lời cho 6 hào gọi là hào từ. Mỗi hào từ cũng có tượng hào và chiêm của hào để người xem biết việc lành dữ ra sao.
    Kinh Dịch chỉ thực sự được hoàn thiên cho đến thời Xuân Thu. Khổng Tử là người kế thừa và phát triển Kinh Dịch một cách đầy đủ nhất. Ông bổ sung ?oThập dực? để giải thích và phát triển thêm những lời thoán của Văn Vương và hào từ của Chu Công. Thập Dực bao gồm Thoán Truyện, Tượng Truyện, Hệ từ và Văn Ngôn.
    Đến đời Hán, các nhà Dịch học đem Thoán truyện , Tượng truyện, Hệ từ, Văn Ngôn hợp vào Kinh Dịch nguyên thuỷ của Văn Vương và Chu Công gọi là Chu Dịch.
    Tóm lại Kinh dịch bao gồm các quẻ của Phục Hy, lời quẻ của Văn Vương, lời hào của Chu Công và Thập Dực của Khổng Tử.
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  5. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    ng dụng của Dịch Học
    Trong quân sự : Từ xưa đến nay việc ứng dụng Kinh dịch, cụ thể là bát quái vào vấn đề quân sự quốc phòng luôn được chú trọng. Quân sự có vai trò vô cùng quan trọng với sự tồn tại của bất kể quốc gia nào nhất là thời kỳ phong kiến, cho đến nay quốc phòng vẫn luôn được đặt lên hàng đầu với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Vì vậy người ta luôn tìm ra những học thuyết tốt nhất áp dụng cho việc xây dựng quân đội.
    Các nhà quân sự cổ đại Trung Hoa như Tôn Tẫn, Gia Cát Lượng đều vận dụng bát quái vào xây dựng quân đội và chiến tranh, vì vậy đều thu được những kết quả to lớn. Đỗ Hiến trước thời Gia Cát Khổng Minh dùng Bát trận pháp đánh tan quân hung nô xâm lược Trung Quốc. Điêu Ung Thanh đời Bắc Nguỵ vận dụng Bát trận pháp của Gia cát Lượng đánh lại Nhu Nhiên. Bát trận pháp chính là sự vận dụng Bát quái vào các trường hợp quân sự.
    Ngày nay nước Mỹ cũng vận dụng bát quái vào chiến lược tên lửa hạt nhân, lợi dụng quẻ "sư" xây dựng kỷ luật quân sự,...Tóm lại Kinh dịch đã là một phân không thể thiếu được của việc củng cố và xây dựng quân sự mọi thời đại.
    Trong sức khoẻ : Kinh dịch bát quái có vai trò sống còn trong y học và các môn tập khí công. Nó là nền tảng lý thuyết của y học Phương Đông và các môn khí công. Người xưa cho rằng con người chính là sản phẩm hoàn chỉnh nhất của tạo hoá, là sản phẩm thu nhỏ của vũ trụ. Vì vậy sự vận động của vũ trụ cũng thấy được qua sự vận động của các nội quan trong cơ thể. Khí trong con người có khí âm và khí dương cùng vận động chuyển hoá lẫn nhau. Nếu khí dừng cũng có nghĩa là sự sống kết thúc. Chẳng hạn khí âm bao giờ cũng hướng xuống, khí dương nhẹ hướng lên trên. Cơ thể như một cục nam châm phần trên mát phần dưới ấm để phù hợp với quy luật âm dương của vũ trụ. Khi điều này bị đảo lộn có nghĩa là sức khoẻ có vấn đề. Việc dùng các bài thuốc hoặc tập luyện khí công chính là quá trình dùng nội lực hoặc dùng các tác nhân bên ngoài tác động vào cơ thể để lấy lại thế quan bình âm dương. Luyện khí để cân bằng âm dương vừa có tác dụng kéo dài tuổi thọ, lại phòng bệnh rất hiệu quả. Nhiều khi có thể có những công năng đặc biệt khi đạt đến một trình độ cao.
    Trong triết học : Triết học có nguồn gốc bắt nguồn từ Dịch học. Lý luận uyên thâm của nó mặc dù đơn giản nhưng lại là một cơ sở triết học hết sức sâu sắc và kinh điển. Các trạng thái âm dương, sự thống nhất hai mặt đối lập cũng chính là các phạm trù của triết học hiện đại. Phương pháp luận duy vật biện chứng cũng xuất phát từ phương pháp tư duy của Dịch học. Ngay cả luận thuyết tương đối của AnhStanh cũng rất gần gũi với Dịch học.
    Trong khoa học : Rất nhiều ngành khoa học có mối liên hệ gần gũi với Dịch học. Ngôn ngữ của máy tính điện tử với các dữ liệu nhị phân 0,1 cũng là hai hào âm dương của bát quái. Điều đáng ngạc nhiên là Kinh dịch được phát minh ra đã hàng ngàn năm trước đây từ khi chữ viết chưa hình thành và ngôn ngữ máy tính hiện đại chỉ là một sự mô phỏng lại ngôn ngữ Dịch học từ thuở sơ khai nhất đó.
    64 quẻ trong Kinh dịch cũng thống nhất với cấu tạo gen di truyền. Hai loại mật mã di truyền là DNA và DRN, mỗi nhóm này có gốc Acit Photphoric và gốc kiềm cầu thành. Nhưng gốc kiềm có hai loại khác nhau, mỗi loại này nối với bốn loại gốc kiềm khác thành tám loại, tổ hợp của tám loại này hình thành nên 64 loại.
    Trong khoa học dự đoán khí tượng thuỷ văn thì Dịch học có vai trò rất to lớn, nhất là những năm trước đây khi khoa học hiện đại còn chưa hình thành. Người xưa đã dùng Dịch học để dự đoán những thiên tai, hạn hán, lụt lội và tránh được nhiều hậu quả lớn lao của thiên nhiên. Ngày nay vai trò dự đoán những biến động thời tiết vẫn còn rất nhiều giá trị thực tiễn cần phát huy
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  6. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Những quan điểm của các triết gia trung hoa về số mệnh
    Trong lịch sử hình thành nên 3 luồng tư tưởng chính của các triết gia Trung Hoa về số mệnh, đó là :



    1 Tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử :

    Hai người cho rằng có mệnh trời và đó là điều vô hình, huyền diệu của tạo hoá, của trời đất. Con người có thể hiểu được cũng có thể không. Tuy nhiên họ không cho đó là kịch bản cố định mà con người phải tuân thủ hoàn toàn mà hoàn toàn bằng nhân lực của mình, con người có thể cải sửa số mệnh. Khuyên bảo người đời ?oTận nhân lực, tri thiên mệnh? nghĩa là hãy cố gắng làm hết sức mình rồi thành bại thế nào mới biết được mệnh trời.

    2 Tư tưởng của Trang Tử, Vương Sung :

    Ông cho rằng con người quá nhỏ bé trong vũ trụ và chịu sự cho phối hoàn toàn vào định mệnh. Họ đều cho rằng con người thành bại, nghèo hèn hay giầu sang đều do định mệnh, ngay cả vận nước cũng do thiên mệnh chi phối không thể thay đổi. Cả hai người có phần bi quan, quá tin vào số mệnh và khuyên con người nên an phận.

    3. Tư tưởng của Tuân Tử, Mặc Tử :

    Hai vị này phủ nhận sự tồn tại của số mệnh và cho rằng tất cả hoạ phúc con người đều do chính hành động của họ tạo thành. Họ khuyên con người nên gắng sức làm mọi việc, nếu việc chưa thành là do chưa gắng hết sức chứ không phải do số mạng. Con người có thể thắng số và việc tìm hiểu Thiên mạng là điều không cần thiết. Đây là tư tưởng lạc quan đầy niềm tin vào sức mạnh con người.
    Trong 3 tư tưởng trên chúng ta thấy tư tưởng Khổng Mạnh ở vị trí trung dung rất có sức thuyết phục. Biết số để cải số, để sống và làm việc cho hợp với vận mệnh của chính mình để cải biến nó, vận dụng linh hoạt điều đó tuỳ theo từng cá nhân, từng hoàn cảnh, từng thời điểm thiết nghĩ là bí quyết huyền diệu của thuật Nhân Sinh.
    Từ khi Trần Đoàn đời nhà Tống phát minh ra môn Tử Vi, khoa này xuất phát từ trung Hoa nhưng lại được nhân dân Việt Nam ta kế thừa và phát huy thành môn sở trường, ngày nay càng ngày càng thịnh vượng và thu được nhiều thành tựu. Biết mình để sửa mình, biết người để xử thế, để sửa người cả hai đều mang lại hạnh phúc cho cá nhân và xã hội.
    Cái biết trước bao giờ cũng làm cho con người ta tự tin hơn, mạnh mẽ và chủ động hơn trong cuộc sống, chủ động đón nhận những khó khăn mất mát. Cá nhân dùng cái biết đó để cải tạo tâm lý, hướng thiện, tích đức sẽ tạo thêm điều kiện thành công trong cuộc sống, mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh. Lúc đó con người không còn bị tri phối hoàn toàn vào số mệnh mà làm chủ được số mệnh, tự mình xây dựng nên chính mình. Triết lý của Tử Vi thật vĩ đại ở điều đó.

    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  7. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Nguồn gốc khoa Tử Vi
    Toàn bộ mệnh học Phương Đông đều lấy âm dương, ngũ hành và Dịch học làm cơ bản. Có nhiều học thuật về mệnh học khác nhau là :
    - Sơn : Các phép tu tiên
    - Y : Chữa bệnh, đó là Đông Y ngày nay
    - Mệnh : Gồm các môn đoán giải mệnh vận là Tử Bình và Tử Vi
    - Bốc : Bói toán, hỏi vũ trụ thiên nhiên gồm bốc dịch, lục nhâm, kỳ môn, thái ất
    - Tướng : Phép xem hình thế gồm phép xem vân tay, xem tướng người, xem tướng nhà, âm phần tức Phong Thuỷ và xem Thiên Văn.
    Thiên Văn và Thái Ất Thần Kinh thường xem vận nước và những biến cố lịch sử lớn lao nay đã thất truyền. Phong Thuỷ xem hoạ phúc cho cả dòng họ, Y đứng riêng ra một ngành. Còn lại chỉ có các môn Nhân Tướng học, Tử Bình và Tử Vi là phổ biến nhất hiện nay. Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng như Nhật Bản, Hàn Quốc đều dùng Tử Bình. Duy nhất tại Việt Nam khoa Tử Vi được ứng dụng và phát triển mạnh.
    Trước đây khoa Tử Vi chỉ là khoa mệnh học dành riêng cho tầng lớp vua chúa, quan lại nên khoa này không được phổ biến ra ngoài dân gian. Khi có biến động chính trị, một số bậc vua chúa chạy nạn sang nước ta mà truyền sang nước ta.
    Tử Vi có nghĩa là một loài hoa tường vi màu đỏ sẫm, xuất phát từ việc người xưa thường dùng loài hoa này vào việc chiêm bốc. Giống như việc thầy Quỷ Cốc trước khi từ giã hai học trò là Tôn Tẫn và Bàng Quyên xuống núi bảo mỗi người ngắt một cành hoa tường vi rồi đưa thầy xem. Qua đó thầy Quỷ Cốc đã đoán được Tôn Tẫn phải mất nhiều năm vất vả chạy nạn vì bị Bàng Quyên hãm hại.
    Khoa Tử Vi không rõ hình thành từ bao giờ, nó bắt đầu được biết đến từ thời Minh có lưu truyền cuốn Tử Vi Đẩu số Toàn Thư của la Hồng Tiên biên soạn, còn nguyên tác là của Hi Di Trần Đoàn trên núi Hoa Sơn truyền lại. Tử Vi hình thành từ năm tháng ngày giờ sinh của đương số rồi lập thành lá số gồm 12 cung và hơn 100 vì sao an vào các cung trong lá số. Từ lá số người giải đoán kết hợp luận đoán về bản mệnh, hoạ phúc, vận hạn tất cả năm tháng thậm chí ngày, giờ và tất cả các yếu tố chi phối khác nhau của cuộc đời đương số như cha mẹ, anh em, gia đình, con cái,...
    Mặc dù Tử Vi từ Trung Quốc truyền sang nhưng trải qua bao nhiêu thế hệ, Tử Vi đã được tiền nhân ta kế thừa phát huy khiến nó trở thành một học thuật gần như là của riêng Việt Nam mà không có một nước nào khác biết đến.
    Số người nghiên cứu, xem Tử Vi và số người tin vào khoa này ngày càng đông đảo. Một môn khoa học chỉ tồn tại được nếu nó khẳng định được tính đúng đắn của mình trong thực tiễn. Khoa Tử Vi trải qua nhiều triều đại, từ thời nhà Trần nó đã rất được hình hành trong tầng lớp vua chúa, quan lại. Đến nay Tử Vi luôn khẳng định được vai trò độc tôn trong việc giải đoán số mệnh một cách đúng đắn, đầy đủ, chi tiết. Áp dụng cho mọi người từ những bậc lãnh đạo muốn tìm quyết định trước khi hành động, cho các thương gia trước khi đầu tư, ... Hầu như ai cũng muốn tìm lời giải bài toán số mệnh của mình qua Tử Vi.
    Khoa Tử Vi mang lại nhiều giá trị, nó làm phong phú hiểu biết của người đời. Đánh giá đúng người tốt kẻ xấu, biết mình biết người từ đó tìm ra con đường nhân sinh hợp với cá tính và hoàn cảnh. Rèn luyện đức tính tốt, từ bỏ những thói xấu phát huy sở trường, sở đoản nhằm cải thiện đời sống và bản thân ngày một hoàn thiện.
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  8. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Những quan niệm sai lầm về Tử Vi

    Hiện nay có rất nhiều người nhìn nhận Tử Vi là một học thuật giải đáp mọi bí ẩn về số phận con người, tiên liệu được mọi biến cố, đề ra các kết luận chính xác về cốt cách, nhân phẩm, tâm tính, gia đình, bè bạn, quan trường, tài sản,...gói ghém mọi thiên định của Trời Đất dành cho một cá nhân. Chung quy coi Tử Vi như một thuật duy tâm huyền bí, Tử Vi chỉ cần mở lá số ra là có thể biết tất cả mọi việc từ quá khứ đến tương lai chính xac tuyệt đối: bao giờ phát tài, lên chức, bao giờ cưới vợ, sinh con, làm nhà,...Quan niệm này đề cao quá đáng vai trò của Tử Vi, cho nó một giá trị huyền bí quá lớn. Các vì sao được xem như một vị thần hộ mệnh hay án mệnh mà không ai có thể cưỡng lại nổi. Và con người không thề chủ động tạo được tương lai của mình, mà phải chịu phó mặc cho Thiên Mệnh.
    Trái lại có người cho rằng Tử Vi là một dị đoan, mê tín, thậm chí là một tà thuật của những nhà bói toán nhằm trục lợi trên tín ngưỡng của thiên hạ. Mọi luận đoán của Tử Vi đều là sai, không đáng tin cậy.

    Hai ý kiến trên đều là những ý kiến không chính xác, thể hiện quan điểm nhìn nhận phiến diện. Tử Vi thật sự không có một giá trị huyền bí nào, các vì sao trong Tử Vi không phải là những vị thần linh giám sát điều khiển vận mệnh con người gì cả. Đó chỉ là yếu tố có ảnh hưởng đến con người. Chứ không hề có sự điều khiển của đấng chí tôn nào cả. Các sao trong Tử Vi chỉ là các tên gọi tượng trưng, mượn tên một vật thể để mệnh danh một yếu tố trong con người. Các sao trong Tử Vi là những danh từ chỉ mức năng lượng (*) trong cơ thể con người và chu kỳ họat động của nó, qua đó phân tích con người thành những yếu tố nhỏ rồi hợp lại.
    Giá trị của khoa Tử Vi mang tính chất nhân văn nhiều hơn, thông qua dự đoán để định hướng con người nhằm đóng góp tốt hơn khả năng bản thân cho gia đình và xã hội, nó không phải mê tín mà là một khoa học nhân văn chân chính phục vụ cho chính bản thân con người.
    Đối tượng nghiên cứu của Tử Vi

    Khoa Tử Vi chỉ nhằm vào một đối đối tượng duy nhất đó là tìm hiểu về cuộc sống con người.
    Cuộc sống con người bao gồm rất nhiều khía cạnh khác nhau, vì con người có mối liên hệ chặt chẽ với xã hội, là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu về cuộc sống con người đồng nghĩa với việc nghiên cứu hết các lĩnh vực khác nhau chi phối đời sống con người.
    Tác giả Khoa Tử Vi là đạo sĩ Trần Đoàn, sinh dưới thời nhà Tống. Ông này đã dựa vào Kinh Dịch cùng những khai triển về lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Đổng Trọng Thư, một triết gia thời Hán, để lập ra khoa Tử Vi.Theo nguyên ngữ, danh từ Tử Vi không nói lên đối tượng khảo cứu, Tử là màu Tím, Vi là từ của vi diệu. Nhưng mục đích của Tử Vi là tìm hiểu con người và số phận con người, dựa trên hệ thống quy luật biến hóa của triết thuyết về Vũ Trụ thời đó. Dù căn bản triết lý của Tử Vi cao siêu, nhưng đối tượng chỉ nhắm vào con người mà thôi.
    Trong việc tìm hiểu này, Tử Vi có tham vọng khảo sát cả con người lẫn đời người, tức các chi tiết sau:
    1. Đặc tính cá nhân của mỗi người, bao hàm các yếu tố :
    - Cơ thể
    - Tướng mạo
    - Tính tình
    - Bệnh tật
    2. Đặc tính gia đình :
    - Cha mẹ
    - Anh chị em
    - Vợ chồng
    - Con cái
    - Đời sông ngoại hôn
    3. Đặc tính kinh tế :
    - Nghề nghiệp
    - Tài lộc
    - Điền sản
    4. Đặc tính xã hội :
    - Môi trường sinh sống
    - Những mối giao thiệp
    5. Đặc tính dòng họ :
    - Phúc Đức
    - Ảnh hưởng của Phúc Đức
    6. Đặc tính vận số :
    - Các giai đọan của đời người.
    - Các biết cố lớn trong một khoảng thời gian như hàng năm, hàng tháng.
    Tử Vi là một hệ thống tương quan giữa các yếu tố phức tạp, và khi đưa ra không thể lý giải một cách máy móc hay bằng một ước đoán cụ thể nào. Công dụng của nó chỉ nêu lên một ý niệm tương quan, phân tích những yếu tố tương quan .
    Tử Vi nhắc nhở người xem số về sự kiện liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố. Đều này tránh những ngộ nhận vội vàng hay phiến diện. Người giải đoán, nhờ nhãn quan tổng hợp của Tử Vi, phải gom góp, đối chiếu, cân nhắc, ngõ hầu có thể kết luận trên sự tổng hợp các nhận định cục bộ.
    Tử Vi quan niệm con người một cách toàn diện, bao hàm cả thể chất lẫn tinh thần, cả di truyền lẫn bản tính cá nhân, cả môi trường gia đình và xã hội, cả công danh lẫn tài lộc. Khoa Tử Vi không tách rời các phương diện của con ngưuời. Con người trong Tử Vi được xem là một tổng hợp các phương diện chớ không phải là một phương diện riêng biệt nào.
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  9. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Phong Thuỷ là gì ?
    Phong Thuy? có một vai tro? rất quan trọng trong cuộc sống. Nó chi phối a?nh hươ?ng đến hoạ phúc cát hung cu?a ca? một do?ng họ. Vi? vậy Phong Thuy? thuộc va?o "Tứ Đại Thiên Vương" tức 4 học thuyết lớn nhất cu?a nê?n văn hoá Trung Hoa, đó la? Dịch học, Phong Thuy? học, Tướng Pháp va? Bát Tự Pháp.
    Vậy Phong Thuy? la? gi? ?
    Phong Thuy? tức la? Nước va? Gió, la? học thuyết chuyên nghiên cứu sự a?nh hươ?ng cu?a Địa lý đến đơ?i sống hoạ phúc cu?a con ngươ?i. Cụ thê? la? sự a?nh hươ?ng cu?a hướng gió, hướng khí, mạch nước đến môfi cá nhân. Vi? ngươ?i xưa quan niệm nước va? khí có quan hệ mật thiết đến sức khoe? va? đơ?i sống con ngươ?i. Trong thực tế diêfn ra, nếu ta sống ơ? một môi trươ?ng địa lý thuận lợi, thoáng mát thi? sức khoe? tốt, dâfn đến tha?nh công. Co?n nếu cư trú ơ? nơi â?m thấp tất sinh bệnh tật, thất bại.
    Phong Thuy? chia la?m hai lifnh vực :
    - Âm phâ?n : Nghiên cứu các huyệt vị đê? chôn thi ha?i ngươ?i chết. Ngươ?i xưa quan niệm khi ngươ?i ta chết đi, phâ?n hô?n vâfn co?n va? chi phối hoạ phúc cu?a con cháu. Vi? vậy nếu được chôn va?o các huyệt vị tốt thi? đơ?i sau sef phát, công danh, ta?i lộc hiê?n đạt.
    - Dương phâ?n : Nghiên cứu các huyệt vị đê? la?m nha?, cách thức xây dựng, kiến trúc công tri?nh xây dựng, nội thất nha? ơ?. Nhưfng điê?u đó cufng chi phối đến hoạ phúc cát hung cu?a gia chu?.
    Ngươ?i xưa quan niệm : Số mệnh cu?a một con ngươ?i không chi? phụ thuộc va?o ba?n thân ngươ?i đó (tức Nga?y, giơ? sinh) ma? co?n chịu a?nh hươ?ng cu?a Âm phâ?n va? Dương phâ?n: ?oNhất mộ, nhi? pho?ng, tam bát tự?
    Vi? vậy, Phong Thuy? có vai tro? rất to lớn, tuy nhiên nó chi? hôf trợ chứ không thê? la?m thay đô?i hoa?n toa?n mệnh vận. La? nhân tố quyết định sự tha?nh bại ma? thôi va? biến đô?i một cách ngấm ngâ?m, tư? tư?.
    Vê? Dương trạch tức phong thuy? cu?a nha? ơ?, nhưfng vấn đê? câ?n xét có rất nhiê?u như huyệt vị, la?m nha?, hướng nha?, cấu trúc nha?, nội thất, ... Câ?n pha?i xét tất ca? các yếu tố mới la?m tha?nh Phong Thuy? tốt cho ngôi nha?.
    Hiện tại người ta không ngừng tranh luận về tính đúng đắn, sự khen chê tất cả đều có. Nhưng cho dù có nhiều quan niệm đối nghịch thì Phong Thuỷ tự nó vẫn tồn tại trải qua hàng nghìn năm phát triển, hiên ngang thách thức khoa học hiện đại. Một khoa học chỉ tồn tại và trường tồn được với thời gian nếu nó khẳng định được tính đúng đắn của mình trong thực tế. Và Phong Thuỷ đã đạt được điều đó, nếu không chắc hẳn nó đã không thể trải qua một thời kỳ tồn tại và phát triển lâu đến như vậy.
    Phương Tây hay Phương Đông khi xây dựng nhà ở đều phải chọn những vị trí hợp với môi trường, cảnh quan xung quanh, tiện cho sinh hoạt đi lại. Đều chú trọng tính toán đến ánh sáng, hướng gió, vị trí cao thấp của địa bàn, mạch nước,... Chung quy đều phải đề cập đến Phong Thuỷ.
    Cần nhắc lại rằng Phong là Gió, Thuỷ là nước, người xưa coi khí một khái niệm vô hình quyết định sự sinh tồn, tốt xấu của toàn bộ sự vật và đới sống con người. Khái niệm "Khí" vô hình nhưng sự biểu hiện cụ thể của nó chính là Gió và Nước. Phong Thuỷ là môn khoa học thần bí nghiên cứu về việc chọn đất, chọn hướng, bố trí nội thất nhằm tối ưu nhà ở, đem lại những điều kiện tốt nhất cho sự tồn tại và phát triển của cuộc sống con người.
    Lịch sử phát triển của Phong Thuỷ ?
    Thuật phong thuỷ hình thành rất sớm, có thể nói gần như cùng với sự ra đời của loài người thì con người từ khi sinh ra đã biết chọn những vị trí cư trú có núi non che chở bao bọc, lại gần sông ngòi, nguồn nước. Từ đời nhà Chu đã có quá trình chọn đất xây nhà tại vùng bình nguyên Chu, đay là vùng đất màu mỡ, có thể canh tác nông nghiệp thuận lợi. Gần nguồn nước mà vẫn tránh được lụt lội, tai hoạ thời tiết, thiên tai. Vì vậy thuật Phong Thuỷ nghe có vẻ huyền bí nhưng thực ra lại rất thực tế và gần gũi với đời sống.
    Trải qua lịch sử phát triển của các triều đại, đời nào cũng có những học giả kế tục và phát triển. Nhưng sự huyền bí của nó thể hiện ở chỗ, có rất nhiều các học phái khác nhau dựa trên những suy luận khác biệt nhau, thạm chí có khi đối lạp nhau. Cho đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Vì vậy người ứng dựng Phong Thuỷ hiện đại đòi hỏi phải biết gạn đục khơi trong. Biết gạn bỏ những gì không hợp lý qua chiêm nghiệm thực tế và phát huy những gì đúng đắn nhất.
    Tóm lại Phong Thuỷ là một nghệ thuật bài trí không gian, rất tinh tuý, tuy nhiều bí ẩn nhưng nếu hiểu được và áp dụng nó thì sẽ mang lại những hệ quả hết sức lớn lao nằm ngoài những nỗ lực về trí tuệ và sức lực thuần tuý của con người.
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .
  10. desert-rose

    desert-rose Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    24/03/2002
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0

    Từ xưa đến nay, ước vọng lớn lao nhất của con người là tận lực tìm hiểu, nhận thức về thế giới khách quan và về chính bản thân con người. Nhưng thế giới khách quan vốn bao la vô cùng vô tận, mà con người lại là ?oTổng hoà của các mối quan hệ xã hội ?o (Các Mác). Vì vậy, mặc dù các bộ môn khoa học hiện đại, đặc biệt là các bộ môn được phương Tây phát triển như vật lý, hoá học, sinh học, tâm lý học...tuy đã thu được nhiều thành tựu lớn lao nhưng vẫn không hoàn toàn giải đáp được những câu hỏi hóc búa về tự nhiên, xã hội và con người. Nhân Tâm và Thiên Cơ luôn luôn được con người tìm hiểu và khám phá, đặc biệt trong xã hội hiện đại ngày nay vốn đầy rẫy những rủi ro và phân hoá xã hội sâu sắc. Nó luôn là những vấn đề đầy bí hiểm thách thức khoa học hiện đại.
    May mắn thay trong lịch sử phát triển của con người, đặc biệt là nền văn minh Trung Quốc, một trong những nền văn minh cổ xưa nhất của nhân loại đã phát minh ra học thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, đặc biệt là Kinh Dịch, là nền tảng cho Tứ Đại Kỳ Thư của văn hoá thần bí Trung Quốc ra đời, gồm có Nhị Học và Nhị Pháp, đó là :
    Dịch học : Dự đoán mọi việc lành dữ, biết tất cả các việc liên quan đến tự nhiên, xã hội và con người.
    Phong Thuỷ học : Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của địa lý, nhà ở đến cuộc sống con người. Dự đoán cát hung cho cả một dòng họ.
    Tử Vi : Dự đoán số mệnh, vận hạn con người qua năm tháng ngày giờ sinh.
    Tướng pháp : Dự đoán số mệnh, vận hạn con người qua tướng mạo bên ngoài.
    Với những môn trên, phần lớn những bí ẩn của tự nhiên và con người đã được khám phá, giúp cho con người chinh phục được tự nhiên, khám phá bản thân, dự đoán vận hạn nhằm đón cát tránh hung, sửa mình, sửa người làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
    Nhưng có một số người lợi dụng chiêu bài mê tín dị đoan, làm giàu cho cá nhân, làm hư hoại đến uy tín của các môn khoa học Thần bí này.
    Hoa hồng chỉ đẹp khi dầm trong sương sớm , tình yêu chỉ đẹp khi dầm trong nước mắt .

Chia sẻ trang này