1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kho vàng Sầm Sơn - Tchya

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi M_n_M_new, 15/01/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương 7


    Ngày 13 tháng 8 năm Bính Ngọ.
    Nhân dân thành Thăng Long, từ ngày Uy quốc công cho dùng vương lễ để tống táng thi hài chúa Trịnh, được mục kích không biết bao cảnh tưng bừng rực rỡ, liên tiếp nhau bầy ra trong khoảng hơn nửa tháng trời.
    Mỗi khi anh mõ đi riễu phố này qua phố khác, vừa gỡ miếng sừng cóc cóc vừa lên giọng khàn khàn báo cáo cho dân gian phải trang hoàng nhà cửa và nghênh bái những đám rước tôn nghiêm long trọng sắp đi qua, thiên hạ lại nhau nhau sắm sửa để chào đón những cảnh vui mắt, mới lạ, mà từ xưa, họ chua từng được thấy. Rồi, đến ngày đã dự định, họ tụm năm tụm bẩy ở các ngã tư ngã ba, họ dắt nhau họp đông đúc trước cửa Ngọ môn, trước phủ Liêu hoặc trước đền Vạn Thọ, họ leo lên cây, lên gác, lên tường, ở ven những phố phường mà họ cho rằng thế nào đám rước cũng phải dàn qua.
    Ngày 13 ấy, tấp nập rộn rịp hơn mọi ngày, nhân dân thành Thăng Long kéo nhau đi xem hội. Họ bỏ cả nhà cả cửa, họ bồng bế xô đẩy nhau, họ bàn, họ tán, họ làm náo động cả một vùng. Thôi thì nào già nào trẻ, nào con gái, nào con trai, từ ngưòi giầu kẻ nghèo cho đến ni cô hoà thượng, tất cả bao nhiêu sinh mệnh nương náu trong thành, tất cả bao nhiêu thôn phu an cư ngoài thành, hôm ấy không ai rủ ai mà hình như đã hẹn sẵn với nhau từ trước, đều lũ lượt ùa cả ra một lúc, dầy như nêm cối.
    Lính tráng, từ sáng sớm, đã cầm roi quất vào những làn da dầy dạn, những manh áo rách bươm, những chiếc nón xộc lệnh, những cái dù ngất nga ngất ngưỡng lấp trời. Một đội quân Ngự lâm, mỏi tay, mỏi mồm, mới bắt được kẻ đi xem đứng theo lệ luật, không được lấp bờ đường, mà từng quãng, có cọc đóng và dây thừng chăng sẵn để làm giới hạn.
    Chính giữa đường từ cửa Nam đi thẳng suốt đến Ngọ môn đền Vạn thọ, một hàng chiếu cạp điều phủ trên mặt đất; rồi, cứ năm mươi bước một, lại một chiếc án thư bầy ngoài cạp chiếu, ven đường. Một chiếc tàn vóc hồng hoặc một chiếc lộng vàng che ánh nắng cho án thư mà trên mặt, bầy một đỉnh trầm hương nghi ngút, một đôi bình sứ cắm hoa, hoặc những đồ thất sự bằng đồng. Cách vài trăm bước, có chỗ lại thiết lập những cái thể môn chót vót kết bằng lá tươi và các thứ hoa đủ sắc, trên treo những bức nghi môn, bảo cái, lóng lánh chữ vàng. Dưới cổng hoa, mỗi bên cột lại có bầy chiêng bầy khánh; cảnh tượng trông uy nghi, trọng thể vô cùng.
    Lúc ấy vào khoảng giờ Sửu. Từ bạch nhật, thiên hạ đ4 mỏi lòng chờ đợi, các võ quan, binh sĩ, thị lập đễ giữ trật tự, cũng chán nản mệt mỏi, bưng mồm ngáp vặt hoặc vuôn vai. Người đi xem đã náo núc muốn về, đinh ninh rằng đám hội, chắc sai ngày, không có.
    Bỗng đâu, một viên kỵ mã lướt qua đường như bóng nhoáng; thiếu niên ngồi trên mình ngựa như không để ý đến nghie vệ lỗng lẫy dàn ra trước mắt, cứ xăm xăm ra roi chạy riết, làm cho vó ngựa xông pha trên dẫy chiếu cạp điều. Ngầy ấy mặc võ trang ngắn mà chẽn, trông y phục thì ra một tên tùy tướng, không hiểu sao hắng ngang tàng như vậy, mà cũng không hiểu vì sao hắn có một con tuấn mã chỉ nhìn sắc lông và kiểu chạy cũng rõ là một con vật quý vô ngần. Hỏi ra mới biết bảo vật ấy là ngựa ?oLưu tinh? mà người cưỡi nó là một tên thám tử.
    Tên thám tử đi đến đâu cũng lấy tay ra hiệu và hô lớn, mỗi lần gặp bọn quan quân:
    - Sắp đến! Sắp đến!
    Như bị một mãnh lực gì tiêm vào gân cốt những mầm hùng dũng, khẳng khái, sau khi nghe hiệu ?osắp đến?, các tên lính canh đều hết cả buồn ngủ, ngáp vặt, tên nào cũng đứng ngay thẳng, coi bộ linh lợi hoạt động lắm; rồi cuộc ra roi đập ô, đập nón, đập áo, đập vai, lại một lần lượn khắp mặt khách did xem, bắt họ phải đứng ngay ngắn, không được sát vào các dây chăng làm giới hạn ở bên đường. Bây giờ thì dân chúng không tấp tểnh muốn về nữa, họ đều hồi hộp, đèu tỉnh táo, đều bấm nhau sẽ nhủ thầm:
    - Sắp đến! Sắp đến!
    Quả nhiên, độ ít lâu, một hồi trống kiểng ầm ầm báo hiệu trước có ngựa xe đi tới. Tiếng nhã nhạc trúc tơ bắt đầu từ mé Ngọ môn đưa lại, lẫn với tiếng sênh tiền nhịp nhàng êm ái như ru. Chẳng mấy chốc, một cuộc biểu diễn của Hoàng gia bầy trước mắt khán quan không biết bao nhiêu sự rực rỡ uy nghi không bút nào tả được. Cũng gần như đám rước hôm nọ của đội quân Tây Sơn đại thắng đưa quan Tiết chế vào thành, đám rước hôm nay có quân lính đi một dẫy dài có tàn, quạt, cờ, voi, ngựa, súng. Có chiêng, có trống, có đàn sáo, sênh tiền. Có khí giới sáng loáng, có tinh kỳ rợp trời, có bào vàng giáp bạc, không một vẻ lộng lẫy nào kém những cuộc điểm binh buổi trước, chỉ kém bề hùng tráng mà thôi.
    Hôm nay còn có thêm cỗ loan xa vua ngự, bốn con ngựa ?oHoa tôn? trắng kéo, chung quanh có bốn lọng vàng cùng các quan thái giám theo hầu. Lại có kiệu hoa của Phò mã Uy quốc công, và các mao vàng, việt bạc, nghi vệ của thiên tử đi dàn trên thánh giá.
    Ðám rước to lớn ấy từ Ngọ môn ra đến cửa Nam, rồi thẳng đường mãi tới Nam Giao thì đứng lại. Ðến Nam giao thì đứng lại. Ðến Nam Giao, vua Chiêu Thống (Nguyễn Huệ ra Bắc Hà chưa được bao lâu thì Lê Hiền Tôn, tức là Cảnh Hưng, Hoàng đế mất. Cháu nội Hiển Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, tức là Lê Mẫn Ðế, niên hiệu Chiêu Thống. Ông nầy sau chết ở bên Tầu) cùng bách quan và tướng sĩ đứng dàng cả hai bên đường để đón một vị qúi nhân sắp ra thăm đất Bắc.
    Vị quí nhân ấy nào có phải ai xa lạ: chính là Thái Ðức đế Nguyễn Nhạc, anh ruột Phò mã Uy quốc công. Nguyên trước kia, vua Tây Sơn không có ý ra đánh Bắc Hà, chỉ sai em là Nguyễn Huệ, rễ là Võ Văn Nhậm cùng tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh, ra lấy Thuận Hoá mà thôi. Khi Ngài tiếp được thư Huệ nói sắp ra đánh họ Trịnh, Ngài vội vàng sai người ra Thuận Hoá ngăn Huệ. Nhưng sứ ra đến nơi thì muộn quá rồi: quan Tiết chế đã cử đại binh ra đất Bắc từ lâu lắm. Kịp đến khi vua Thái Ðức được tin quân Tây Sơn đã diệt Trịnh, đại tháng vào thành Thăng Long nhưng còn ở nán lại giúp nhà Lê, Ngài rất lo ngại. Thực tình Nhạc chỉ lo Huệ ở lâu ngoài Bắc thì sinh biến, nên vội vàng đem 500 quân ra Thuận Hoá, lấy thêm 2000 nữa ở đó, rồi, không quản ngày đêm, đi tuốt một mạch ra Bắc thành.
    Quân Tây Sơn ra tới đèo Tam Ðiệp, bốn chuyến ngựa ?olưu tinh? liên tiếp nhau báo tin về chốn Triều đường. Vua Lê Mẫn Ðế bèn sai thiết lập các cỗng hoa rải chiếu khắp đường và bầy hương án để tiếp rước vua Thái Ðức. Hơn nữa, chịu ơn sâu Nguyễn Huệ, lại nghĩ mình còn trẻ tuổi, mới lên ngôi chưa được vững vàng trong một thời dường mối xã tắc đương đổ nát, vua Chiêu Thống chịu nhún mình đưa tam quân ra tận Nam Giao đón Nhạc, mong rằng sự khiêm tốn ấy sẽ cảm động vua Tây Sơn và chú dượng của mình là Huệ, ngõ hầu hai người ấy, từ đây, sẽ giúp mình giữ vững được sơn hà.
    Vua tôi nhà Lê đợi ngót một giờ, lúc ấy nẻo xe mới thấy bụi cuốn mịt mùng trắng xoá. Rồi phút chốc một đoàn binh tién lại nhanh vùn vụt, đi đầu một tướng mũ kim khôi, giáp lấp lánh những vàng. Tướng đó sức vóc vạm vỡ, mặt trông rắn chắc, mắt sáng như mắt diều hâu, mồm rộn, trán gồ, lông mày lưỡi mác; dưới cầm và trên mép có ba chòm râu huê râm, rủ xuống, càng làm tăng vẻ anh hùng. Chính là vua Thái Ðức nhà Tây Sơn đó. Vua Thái Ðức năm ấy đã gần sáu mươi tuổi, nhưng trông ngài còn quắc thước, tưởng chừng mới độ năm mươi. Ngài mặc võ phục giáp vàng, bào vàng, thắt lưng gấm, đi võ hài thêu rồng. Trên vai ngài lỏng lẻo treo một cái cung sơn son; hai bên sườn ngài, một bên buộc một túi tên bằng xích cẩm, một bên buông thõng một thanh gươm ?oGiốc chủy? mà võ nạm ngọc đụng leng keng vào dây xích vàng buộc bàn đạp với yên thêu.
  2. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Ðàng sau vua Tây Sơn, hai viên đại tướng theo hầu, cai quản 500 tên dũng sĩ cùng 2000 hùng binh chia ra làm 5 đội. Xem hai lá cờ hiệu phất phới bay sau lưng hai tướng, vua quan nhà Lê mới nhận rõ một viên là Tư Mã Ngô Văn Sở, còn viên kia là Nội hầu Phan Văn Lân.
    Thái Ðức Hoàng đế vừa tới, vua Chiêu Thống cùng các quan tiến ra đón rước chào mừng. Nhạc cứ hiên ngang thúc ngựa đi thẳng, dẫn binh theo sau, cũng không thèm xuống yên, không thèm quay đầu, cứ giả vờ nhu không biết đó là vua tôi nhà Lê ra nghênh tiếp.
    Vào đến cửa Nam, Nhạc không cho ngựa đi qua đường rải chiếu lại giẽ cương sang lối tắt đi thẳng tuốt về phủ Liêu, tức là hành doanh của Uy quốc công Nguyễn Huệ.
    Trong lúc đó ngoài thành Nam giao, vua Lê vừa ngạc nhiên, vừa bẽ mặt, buồn rầu lên loan xa cùng các quan lủi thủi trở về. Nhưng trở về thì chiêng không đánh, kiểng không rung, đàn sáo bát âm không tấu. Một đoàn binh mã, trước kia hùng tráng, giờ đây uể oải phản hồi.
    Thấy anh củu chỉ một cách quá kiêu hãnh, lạ lùng, Nguyễn Huệ cũng ngượng ngùng khó chịu. Không đợi cho vua Lê re lệnh lui ngự binh vào nội. Huệ đã cùng gia tướng và quân bản bộ, phi vào thành để theo kịp vua Thái Ðức cùng bọn Ngô Văn Sở, Phan Như Lân.
    Huệ tiếp tất cả bọn ấy ở trong súy phủ, còn hai nghìn rưỡi quân thì giao cho Tả Ðô đốc Võ Văn Nhậm trông coi liệt cả vào hàng quân cũ.
    Ngày hôm sau, trong sân triều, ngoảnh mặt lên điện Kính Thiên và phủ ph5uc tung hô vạn tuế, một tên sứ giả của vua Thái Ðức vào bái kiến vua Chiêu Thống đệ lên Hoàng đế nhà Lê một bức thư vắn tắt có vài dòng:
    ?oVua Tây Sơn là Thái Ðức gởi cho vua nhà Lê là Chiêu Thống đưọc rõ:
    ?oChúng tôi ngày đêm vất vả ra Thăng Long để đón thằng em Huệ trở về, cuộc hành trình mệt nhọc khó khăn khiến cho khi đến nơi không còn sức lực và thì giờ yết kiến nhà vua, xin nhà vua lượng xét.
    Chúng tôi còn ở lại Kinh đô đất Bác vài ngày, vậy ngày khác xin cùng nhà vua tương hội.
    Ngày khác, tức là hôm 17 tháng tám năm Bính Ngọ đó. Hôm ấy, Nhạc cho mời vua Lê sang phủ đưòng, để vua Lê ngồi bên ta, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, còn mình thì chính thọa trên sập rồng. Các quan võ thì chia ngôi thứ tự tú trực đôi bên. Một hồi trống long phụng nổi lên, tiếp theo một hồi khánh ngọc. Các quan cùng làm lễ triều kiến cả ba người.
    Trong khi thị vệ dâng trà, Chiêu Thống thốt nhời cảm tạ hai anh em Thái Ðức:
    - Chúng tôi còn nhỏ dại, vâng mệnh tổ phụ lên giữ đường mối cho xã tắc nhà Lê, giữa buổi đường mối ấy đương bị nghiêng lệch. Xứ Bắc ngày nay loạn lạc, bốn phương giặc nổi như ong, bởi tại chính sách nhà Trịnh mà nên vậy. Cơ đồ Liệt Thánh để lại cho công tử hầu bị tan tành, suy bại, nếu không có lệnh đệ the ân ra giúp tổ phụ công tử. Nhờ thế mà quả nhân còn giữ được giang sơn, công đức ấy kể sao cho xiết. Nay nhà vua lại chiếu cố ra chơi đất Bắc, cho quả nhân được chiêm ngưỡng tôn nhan, thực lấy làm hân hạnh và cảm kích vô cùng.
    Nhà quả nhân đạm bạc, không có gì quý báu để tặng nhà vua; vậy gọi là lòng thành lễ mọn, xin biếu nhà vua mấy quận đất để khao quân, mong nhà vua không chê là ít quá, vui lòng nhận lấy cho, quả nhân được đội ơn nhiều lắm.
    Vua Chiêu Thống nghĩ tủi thân cố nén lòng để nước mắt khỏi trào ra, vừa nói vừa run, chỉ sợ rằng vua Tây Sơn nếu không có lượng bao dung thì sẽ hoàn toàn nhục nhã, mà không biết xử trí làm sao cho được.
    Nguyễn Nhạc, ngoài mặc dẫu khinh bĩ Lê Mẫn Ðế là một hậu sinh còn non nớt, nhưng trong lòng cũng ái ngại thay cho vị vương giả đương bị cơn thất thế đáng thương.
    Nhạc bèn làm ra vẻ đàn anh rộng lượng nghiêm sắc mặt lại, cố tỏa một nụ cười hiền hậu trên dung mạo dữ dội, liếc mắt nhì Huệ như để hỏi ý kiến, rồi đáp rằng:
    - Nhà vua đã có lượng muốn khao thưởng tam quân, chúng tôi xin cảm ta. Song le, nhà Trịnh bạo ngược lăng loàn khiến chúng tôi, phải thuận ý trời mà tuyệt diệt, đó chỉ là vì đại nghĩa chớ không phải vị tư tình. Nếu xứ Bắc Hà này là đất của Chúa, thì một thưóc chúng tôi không để lại; nhưng bhy hiện là đất của nha vua, thì một phân chúng tôi cũng không dám lấy. Xin nhà vua cố giữ lấy sơn hà cho vững, sửa sang nền chính trị cho dân gian được hưởng thái bình. Hễ có sự gì khó khăn xảy ra, chúng tôi sẽ đem binh đến giúp, nhà vua nên thận trọng giữ lấy quí thể và xã tắc, gắng sức làm việc để định an cõi đất, ngõ hầu đời đời giao hiếu với nhau, ấy là cái phúc của hai nước đó!
    Trà nước xong, vua Lê từ tạ ra về. Bách quan đưa loan giá trở vào trong nội.
    Bấy giờ trong Súy phủ, chỉ còn hai anh em vua Thái Ðức ngự trên long ỷ, cùng các quan Tây Sơn đứng hầu hai dẫy giữa sân. Nguyễn Nhạc sai Ðô đốc Hữu Quân đem một toán binh tiễn vua về đền Vạn Thọ, còn mình và em, và các tướng thì bàn việc về Nam. Nhân lúc Hữu Chỉnh không có mặt ở Súy đường Phò mã Võ Văn Nhậm bèn tiến lên đại điện mật tấu cùng Thái Ðức:
    - Tấu lạy Phụ vương, Hữu Ðô đốc là một người rất phản trắc xảo quyệt. Con e rằng dùng y sẽ có một ngày sinh biến; âu là Bệ hạ nên để y một mình ở lại Bắc Hà. Y sẽ giúp vua Lê giữ yên ngôi bảo tộ, lại sẽ được ở đất nước trước kia y vẫn ở, gần các cố hữu thân bằng. Nếu Phụ vương không muốn để y ở lại Bắc thành thì chỉ còn cách là đem giết y đi, không nên để sống khỏi lo nhiều tai hoạ sau xảy đến. Lúc ấy có hối cũng không kịp nữa, mà Hữu Chỉnh sẽ là con cú dữ, được thời thì hoành hành đ1nh bạt hết các loài chim. Vả chăng, chính nó đã vì lợi riêng xui quan Tiết chế đánh Bắc Hà, tội kiểu mệnh là ở nó cả, tâu Phụ vương soi xét.
    Nguyễn Nhạc xưa nay vẫn biết Chỉnh là một Ngụy Diên tái thế. Nhưng một Nguỵ Diên thông minh, nhiều cơ trí, biện bác như nước chẩy, lại có dũng cảm ít ai bì. Song le Nhạc yêu Chỉnh, coi Chỉnh như một con ngựa hay có nhiều chứng tật, cỏn con. Trước kia, thủa vừa khởi nghĩa đánh với quân nhã Nguyễn, Nhạc bị một phen cùng khốn, mắc chẽn giữa đạo binh của quan Lưu thủ đất Long Hồ là Tống PHúc Hợp đóng ở Bình Khánh và đạo quân của họ Trịnh dàn ở Quảng Nam. Liệu thế chống không nổi, Nhạc phải xin hàng Hoàng Ngũ Phúc, chịu nộp đất và chịu sắc phong tước Tây Sơn hiệu trưởng của Chúa Trịnh ban cho. Sắc ấy so Nguyễn Hữu Chỉnh mang vào cho Nhạc, và nhân tiện giao cho Nhạc cờ và ấn kiếm của triều đình nhà Lê.
    Nhờ thế, không lo mặt Bắc, Nhạc mới có đủ lực chinh phục phía Nam, dựng nên cơ nghiệp. Trong khi theo Hoàng ngũ Phúc vào Quảng Nam. Chỉnh cũng đã có đi lại cùng Nhạc. Tài xu nịnh cùng khoa biện bác của Chỉnh khiến Chỉnh chiếm được lòng tin cậy của Nhạc, nhất là vì sự được Hoàng Ngũ Phúc thuận cho chúa Tây Sơn qui phục mà Nhạc cứ tưởng lầm là nhờ có Chỉnh mới xong. Từ buổi ấy, Nhạc đã có bụng dung Chỉnh. Thấy sự hục hặc giữa Chỉnh và em cùng rể mình, Nhạc rất lấy làm khó chịu. Ý Nhạc không muốn bỏ Chỉnh cũng như không muốn giết Chỉnh. Song le, mang Chỉnh về Nam ắt sau này khó tránh khỏi những sự xung đột trong hàng tướng tá. Nhạc phân vân khó xử. Biết rõ tâm anh không nỡ lìa Chỉnh, Huệ nhân dịp, cũng chêm vào một câu:
    - Phò mã nói chí phải! Nguyễn Hữu Chỉnh thực là một cái mầm hoạ lớn về sau! Vừa ra tới Thăng Long y đã lẻn ngay vào điện Kính Thiên ton hót với Cảnh Hưng; y sẵn tính tinh ranh giảo quyệt, không trừ trước đi thì chỉ tổ phải lo cho công việc tương lai. Vả chăng, để y ở Bắc Hà, cũng không thiệt hại gì cho y cả, mà mình thì trút được khối nặng chất bên lòng. Chỉnh trong một tháng rưỡi ở Thăng Long, không này nào trước cửa không ồn ào những khách, tất cả các hàng quan lại, tướng sĩ, đều quen y chả thiếu mặt nào. Thiết tưởng đất Bắc Hà này chính là đất nước của y, y ở đây thân bằng cố hữu đầy đàn, còn chẳng vui hơn thui thủi một thân trơ trọi ở miền Nam ru? Hoàng huynh không nên lưỡng lự bịn rịn như thường tình nhi nữ, phải có nghị lực mới phải!
    Tiếng sang sảng như chuông gióng, tia mắt sáng như điện quang của Huệ tựa hồ có một thứ mãnh liệt vô địch cảm haó tâm linh Nhạc; sau khi ngần ngừ một khắc, Nhạc cũng phải cho lời Huệ là chí lý, nên theo.
    Bởi thế, mật lệnh bèn truyền xuống cho tất cả hàng quân hàng tướng, định ngay tối này hôm đó thì phải sãn sàng hàng lý, phải đúng cơ ngũ để nhổ trại phản hồi.
    Chiều hôm ấy, Trần quang Riệu được chỉ vơ vét hết tiền của lương thực chất trong kho tàng của vua Lê và Chúa Trịnh. Trong kho có bao nhiêu lấy sạch, không còn để lại chút gì. Rồi đến cuối giờ Tuất, khi dân gian đã bắt đầu đi ngủ, khi đèn đước đã gần tắt cả, người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, đoàn quân Tây Sơn, như một dãy bóng ma ẩn hiện, im lặng lướt nhẹ nhàng trong quãng tối tăm mù mịt, dần dần ra khỏi bắc thành.
    Trước kia vào Thăng Long hùng hổ thế nào, bây giờ ra khỏi Thăng Long lại trái hẳn; lúc ra đường hoàng mạnh mẽ, khi về lẩn lút êm đềm. Vào thành ấy chính là Nguyễn Huệ, cử chỉ giữa thanh thiên bạch nhật; bỏ thành ấy thì là Nguyễn Nhạc, người chỉ quen kiêu hãnh, nhưng hành sự có bề xảo trá, ươn hèn.
    Nội đêm hôm ấy, vua Thái Ðức cùng em kéo quân về Thuận Hoá.

  3. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương 8


    Rạng ngày 18 tháng tám năm Bính Ngọ, khi trời vừa mới bình minh, ba chiếc thuyến buôn to lớn, từ bãi cát bờ sông, nhổ neo rời bỏ thành Thăng Long, đi xuôi xuống biển. Trong ba chiếc thuyền đó, thuyền đầu chở quan Hữu quân Ðô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh cùng các gia môn tỳ tướng, thuyền thứ nhì chở đầy khoang quần áo và đồ đạc quí giá, thuyền thứ ba chỉ chở có vào bốn hòm niêm phong khóa kín mà sáu người võ sĩ theo kèm.
    Quan Ðô đốc được tin công tử cấp báo quân Tây Sơn đã rút lui rồi, vội truyền lệnh cho thám tử đi dò xét thực hư của tin dữ dội ấy. Lúc đã rõ biết Nguyên soái Uy quốc công bỏ mình ở lại, Ðô đốc Chỉnh đâm ra lo sợ, luống cuống, kíp thâu đêm cho dọn đồ đạc châu báu, thuê thuyền buôn dùng đường thủy chạy theo quân sĩ Tây Sơn, Ðô đốc muốn vượt bể cho nhanh, đi chiếc thuyền nhẹ nhất, không hề đem bên mình một chút của cải nào sợ thêm bận bịu, chỉ dắt độ mười lăm viên dũng tướng để hộ vệ trong lúc hành trình. Thuyền thứ hai, rộng hơn, thì cho chứa các hành lý và những đồ quý vật, phó cho con thú là Nguyễn Anh Du và một tên người nhà tâm phúc trông coi. PHò nhị công tử Nguyễn Anh Du và tên người nhà ấy, dùng hai mươi tên quân tráng kiện.
    Hồi Ðô đốc theo Uy quốc công Nguyễn Huệ ra Bắc Hà, diệt Trịnh, có đem thủy binh vào cửa Ðại an, cướp được kho lương trăm vạn hộc ở ven sông Vị. Rồi khi hạ thành Sơn Nam, và kéo quân vào Thăng Long đều bị tướng nhà Tây Sơn thu cả, trong lúc hỗn độn, Nguyễn Hữu Chỉnh có vơ vét được nhiều của cải, ước ra đến mấy rương vàng. Giờ đây vội vàng thuê thuyền theo cho kịp chúa Tây Sơn, Ðô đốc không dám đem hết gia tài, phải để một phàn đồ đạc và ngựa xe ở lại. Còn bao nhiêu vàng bạc, ông sợ mang kèm bên mình thì e có nhiều điều hiểm trở, nhiều nỗi gian nguy, lại sợ khi tiết lộ, bị mang tiếng là người không liêm trực. Chỉnh bèn cho tải cả bốn năm hòm vàng bạc, tiền đồng và châu báu xuống chiếc thuyền vững chãi nhứt, rồi bắt con trai là công tử Anh Tề phải giải thuyền kia đến tận bến Nghệ An. Muốn cho khỏi sự nghi ngờ, trong thuyền Nguyễn Anh Tề chỉ có năm tên quân ăn mặc giả lái buôn hộ vệ.
    Trong năm tên ấy, một tên còn trẻ non, lại khôi ngô tuấn tú khác thường. Tên ấy, chính là An Trinh quận chúa cải trang theo tình lang đó.
    Ðược dịp phụ thân trao riêng cho một thuyền của cải, công tử Anh Tề lòng mừng hồi hộp, vội vàng mật báo người yêu. Rạng sáng hôm sau, cặp tài tử giai nhân đã nghiễm nhiên nhẩy nhót, ôm ấp nhau trong khoang, dưới tầm mắt ngạc nhiên của bốn tên quân theo hầu.
    Thuyền đi hơn một ngày ra tới biển đông. Ðộ ấy về tiết Trung thu, nước dâng to lắm. Hai con thuyền đi trước, nhân chở hành khách và hàng hoá không lấy gì làm nặng, và lại thuận theo chiều gió, tuồn tuột chạy nhanh, không tài nào theo kịp, bỏ lại thuyền chuyên vàng lẽo đẽo theo sau.
    Bể đông mù thu dông tố luôn luôn không ngớt, hết trận này sang trận nọ, khiến tầu bè kinh sợ không mấy khi dám đ1nh bạo ra khơi. Duy chỉ có lũ hải tặc ?oTầu Ô? giỏi nghề bơi lặn, kiếm ăn trên mặt nước đã quen, lũ đó coi phong ba bão táp như không, cho thuyền lượn trên sóng bể như ngựa phi trên cạn. Bọn khách bán người, buôn lậu, cướp của, giết lương dân đó không mùa nào không lảng vảng trên vũng Bắc Kỳ để tìm mồi kiếm lợi. Cũng là vì sự chẳng lành dun dủi, đảng Tầu Ô kia chạm trán cùng công tử Nguyễn Anh Tề.
    Thuyền công tử đi được bốn ngày trời thì bị bơ vơ một mình trên làn nước thẳm. Một trận bão cuồng khấu đã đưa con thuyền ra tận mãi ngoài khơi. Công tử lo sợ, hoảng kinh, nhưng cũng chả biết thế nào chóng chọi với mệnh trời, đành cho chiếc thuyền nhỏ bình bồng trôi vào nơi vô định.
    Bỗng, đương cơn hoạn nạn, một đoàn hải tặc bơi xuồng ra vây chặn hẳn đường. Vô phúc lũ bọn Tầu Ô gặp phải tay Anh Tề và An trinh quận chúa; một trận đánh nhau kịch liệt khiến lũ giặc kia bị một phen táng đởm tiêu hồn.
    Những càng chết nhiều, càng thấy số chúng nó tăng bội mãi; thì ra một đại thuyền làm sào huyệt cho bọn đó, cắm neo đậu ở phương xe. Quận chúa, công tử cùng bốn tên gia binh phải gắng sức đến quá nửa ngày, mới trừ tiệt được bốn chiếc xuồng con chỏo hai mươi tên giặc bể.
    Thấy thế núng, cả đại đoàn ùa lại; trên mũi thuyền sắp hàng một lũ Tầu Ô đen chũi, đầu trọc, răng trắng nhởn, da bóng nhoáng và mặt mày dữ tợn vô cùng. Công tử xét thế cô, bèn nghĩ ra một diệu kế. Chàng lấy bút viết vào mảnh hao tiên một bức thơ chữ Hán, đại khái nói rằng thuyền chàng là thuyền của quân Tây Sơn sai ra Bắc Hà thám thính, không có đem tiền bạc, chỉ tải nhiều binh khí mà thôi. Chả may bị bạt phong, lưu lạc ra khơi, không biết đường về bờ bến. Nếu thuyền khách có thể giúp chàng đưa chàng về bãi Sầm Sơn hay bờ Nghệ Tỉnh, chàng sẽ xin ngay quan trên thưởng cho một vạn quan tiền. Bằng như muốn cùng chàng thử sức hơn thua chàng sẽ liều sống mái một phen cho biết ai là hảo hán.
    Bọn hải tặc dáng chừng đã trông rõ bản lĩnh cao siêu của Anh Tề công tử, hoá nên đành vui lòng nhận việc đưa thuyền chàng về tới bãi Sầm Sơn. Họ bèn vứt một sợi dây to sang buộc lấy mũi thuyền con, rồi mở lái giương buồm, tuốt một mạch chạy về miền Hải ngạn. Vùn vụt ba ngày, hai chiếc thuyền tới vùng Sầm Sơn đỗ lại. bây giờ công tử sai khiêng một rương tiền sang tạ lũ Tầu Ô. Nhưng công tử cũng hơi sơ ý: quân giặc thấy hòm tiền tự trong khoang đưa lại, đoán rằng chiếc thuyền con hẳn còn chứa lắm bạc vàng.
    Bởi thế, không đợi cho công tử và quận chúa kịp đề phòng cẩn thận, họ trói gô ngay bốn tên kiện nhi khiêng rương tiền vào thuyền họ, rồi sắp binh kéo ùa sang cướp phá chiếc thuyền con. Công tử Anh Tề, lâm thế cô, mất cả lũ gia binh, liệu sức mình cùng An Trinh quận chúa không thể giữ nổi gia tài cho họ Nguyễn, bèn cầm tay quận chúa nhủ rằng:
    - Lũ hải tặc nó đang reo hò, sắp sửa sang tới đây cướp của, anh em mình khó bảo hộ được mấy rương vàng này cho thoát. Âu là em soạn lấy những đồ chậu bảo giắt c3 vào mình, rồi mình đục thuyền cho nước chẫy vào, dìm cả xuống biển. Vứt cho nước thẳm còn hơn để về tay giặc, em nghĩ thế nào?
    An Trinh quận chúa gật đầu; công tử bèn lật ván lên, lấy búa bổ sàn thuyền, tan nát. Hai vợ chồng dắt nhau nhảy tùm xuống nước, lặn vào bờ, nhô lên. Thuyền nặng nước to, chả mấy chốc mấy rương vàng đã chìm lĩm giữa khơi để mặc lũ Tầu Ô sửng sốt, chửi rủa líu lô một lúc rồi kéo buồm đi mất.
    Bốn tên gia binh bị chúng phanh gan, mổ ruột, đều thiệt mạng trong một trường hợp buồn. Thế là sự bí mật của công tử Anh Tề và quận chúa An Trinh, ngẫu nhiên, trừ hai người biết với nhau, người ngoài không ai rõ nữa.
    Sở dĩ câu chuyện này lọt vào tai hậu thế, là bởi cặp uyên ương kia đã chép nó vào gia sử, gởi về cho hai nhà được biết rõ nguồn gốc của sự mất kho vàng.
    *
  4. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0

    * *
    Trong một làng nhỏ ven bờ bể, cách bãi Sầm Sơn chừng ba bốn dặm đường, dưới một dẫy tre mọc um tùm xanh ngắt, một chiếc nhà lá ba giang sạch sẽ làm chỗ cư trú cho một đôi thiến niên thanh nhã, đến chu đụng cùng dân chài lưới, phút chốc đã ba bốn tháng trời. Chiếc nhà lá kia vừa dựng lên được đúng trăm ngày, đôi thiếu niên kia hình như tự xa xôi đến ngụ, và trước khi lập thành cơ sở, họ ở trọ nhà một ông già đánh cá trong vùng.
    Hai vợ chồng người lạ mặt đó không hề nói đến lai lịch của mình bao giờ cả, cũng không ai biết rõ tung tích họ ra sao. Tuy nhiên chẳng ai muốn dò la cặn kẽ làm gì: cặp uyên ương đó được cả chồng lẫn vợ: họ vừa tử tế, nhũng nhặn vừa có nhân từ độ lượng, biết thương kẻ khó và cứu mạng giúp đỡ người nghèo.
    Dân trong hạt, chả mấy chốc, đều kính yêu cả hai người thiếu niên đó.
    Người chồng ăn mặc xuềnh xoàng như một nhà hàn sĩ; người vợ cũng quần nâu áo vải, cả ngày tảo tần khêu vá, không lộ ra vẻ gì đài các phong lưu. Như thế mặc dầu, người ngoài thoạt thấy dung nhan và dáng điệu cặp thiếu niên ấy, cũng biết ngay họ không thuộc về những gia đình tầm thường, mà họ tất xuất thân ở chốn lầu vàng gác ngọc. Bởi lẽ, từ lời ăn tiếng nói, từ cách tiếp đã các láng diềng, hoặc cách sinh nhai thường nhật, họ đều tỏ ra rằng họ đứng vào một từng giai cấp cao hơn. Tuy họ tuyệt nhiên không khi nào tự xưng là quí phái, nhưng thấy họ sống an nhàn sung sướng, chả bao giờ phải vay mượn ai một đồng tiền nhỏ, nhưng thấy họ một đôi khi nắng ráo, phơi vài mảnh quần áo cực kỳ hoa mỹ, sang trọng, thấy trên vách tường nhà họ có treo một đôi gươm rất quí, rất dài, lại có nhiều binh khí khác vứt ngổn ngang dưới gầm giường, gầm tủ, thiên hạ không khỏi không bàn ra tán vào nhiều lối, cho họ là một đôi dị nhân ra truyền bá một sự gì quan hệ, hay ra nghiên cứu ở bờ biển một ciệc gì bí mật, phi thường.
    Có kẻ đoán họ là dòng chúa Trịnh đi ẩn thân lánh nạn. Có kẻ bảo họ là nòi vua Lê, thấy trong nước nhiều giặc giã, chán việc đời, đi ẩn dật cho thảnh thơi.
    Thiên hạ còn đoán nhiều, nhiều nữa, song không ai dám hỏi cặp uyên ương kia con cái nhà ai, và ra ở bờ biển làm gì. Không dám hỏi mà cũng muốn hỏi, vì ai ai cũng biết rằng hỏi đã vô lý, mà càng thêm thiệt hại cho làng nước, nếu hai người khách lịch sự kia, vì phiền phức phải bỏ nơi trú ngụ mà đi. Vả chăng, hai vợ chồng người lạ mặt, đã không quấy quả và làm hại ai cả, lại chỉ nai lưng ra giup1 đỡ cho khắp mặt dân chúng trong vùng. Từ khi họ đến ở được hơn 10 ngày, thì ông chồng mở ngay một ngôi trường học. Rồi từ đấy, hôm nào ông cũng dạy trẻ con trong làng học tập, tuyệt nhiên không hề lấy của bố mẹ chúng một đồng tiền học phí bao giờ. Ðến tiền nhập môn, ông cũng không lấy, cho chí những lễ vật đưa đến tết, ông cũng gạt đi không khi nào thu nhận cho ai. Hình như ông đã có vốn sẵn để sinh nhai, không lấy của thiên hạ, dù là một đồng kẽm nhỏ. Nhà cửa ông bà đồ lúc nào cũng sạch sẽ tươm tất, ông bà ăn uống thường cơm tám cá tươi; ăn mặc cũng quần nâu áo vải như người; nhưng hình như trong cách sinh hoạt, ông bà vẫn có một vẻ đặc biệt, tỏ rằng cả hai cùng là người quí phái, tự hạ mình sống cái đời khổ sở của thường dân. Tuy bát đàn, đũa tre, mâm gỗ, mà bữa cơm nào cũng long trọng, vợ cúi nâng qua tầm mắt dâng chồng. Tuy quần áo thanh đạm sơ sài, mà lu6n luôn thơm tho tề chỉnh, không bẩn ngầu những đất bùn, những ghét, như đồ dùng của dân quê.
    Bởi thế, trong làng, ngoài xóm, không ai không kính trọng ông đồ. Ðánh được con cá tươi nào, nhà chày vội vàng đem biếu ông là đồ nhắm. Rượu ngÔn Nghi, mỗi khi có ai cất được, lại gánh vào nhà ông dâng cho ông xơi trước một vài chai. Rồi tôm tươi, rồi cua bấty, chả ngày nào mâm cơm ông không đầy chan chứa, mặc dầu ông đã mỏi mồm cấm bà con không được biếu quà ông.
    Kể sống như thế, ông bà đồ thực đã được an nhàn sung sướng. Bà đồ, dẫu không có vốn riêng đi nữa, cũng không phải lo đến gạo củi cùng các đồ ăn uống thường dùng. Bà, dưới bộ áo vải quê kệch, xuềnh xoàng, tuy không hề tô phấn điểm son, mà vẫn trẻ non trẻ nõn, trắng nuột trắng nà, đẹp một vẻ đẹp lỗng lẫy, thiêng liêng, không tài gì giấu kín được.. Bà đã hết sức sống theo lối dân quê chài lưới, nhưng bao giờ tư cách và bộ điệu của bà cũng là bà xa biệt lũ thôn dân. Bà chỉ ngày đêm chăm nom săn sóc đến chồng, thờ chồng hết bổn phận của một người hiền phụ. Chả thế mà ông đồ, không những yêu thương bà rất mực, còn quí trọng bà như quí trọng một bảo vật hiếm hoi. Ðối với bà, ông cũgn chắp tay lễ phép khi mời bà ăn uống, ông đáp lại bà bằng những ?obẩm, thưa, vâng,dạ? ai nghe cũng phải lạ lùng. Về ban ngày, ai cũng chỉ biết rằng ông bà đồ xử với nhau như khách. Nhưng nếu ai đã, lúc đêm khuya, len lỏi, vào đời tư đôi uyên ương trẻ đẹp ấy, người ấy sẽ hiểu rằng ông bà đồ chỉ dùng vẻ ngoài lễ nghĩa để che lấp vẻ nồng nàn khăng khít của sự ái ân đằm thắm mà bề trong, ông bà vẫn tặng đãi nhau.
    Tối đến, khi ông đã làm xong bổn phận dạy học trò (sự dạy học của ông đây chỉ là một việc tiêu khiển cho qua ngày tháng), ông lại trở vào phòng cùng bà ngâm nga, chúng tavịnh, cùng bà đọc kinh ân ái bằng một giọng não nuột, thâm trầm. Ðêm nào cũng như đêm nào, nếu ông bà không cùng xem hoa đua nở, thì vịn vai nhau đứng đợi trăng lên, nếu không, gặp buổi mưa rầm âm ỷ tuôn rơi, một cuộc cờ hãm nước trà sen đã chìm đôi lứa vào một cảnh tiêu sầu cao thượng. Chưa từng thấy vợ chồng ai say mê nhau đến thế; ông bà đồ tự hồ như sinh ra để mến yêu nhau cho phỉ nguyện ba sinh. Thú văn hoa một đôi phen làm yếu ớt tính tình, vợ chồng nhà hàn nho lại diễn một trò kỳ dị. Họ tìm buổi trời tối đen như mực, ra giữa sân đấu kiếm múa quyền.
    Cũng vì sự đấu quyền, một tai nạn lớn lạo đã phá tan hạnh phúc của ông bà mất non hai tháng! Bà đồ quên rằng mình đang kỳ thai nghén, cùng chồng thử sức hơn thua.
    Nhân bà nhẩy múa quá mệt trong hồi lâu, cái thai nhỏ bà mang bị trụy, thoát ra ngoài, làm bà phát sốt mất năm ngày mới khỏi. Trong khi bà ốm, ông đồ chỉ dạy học mỗi ngày một buổi sáng, để buổi chiều săn sóc đến bà. Ông tỏ cho họ biết ái tình ông đối với bà không có mãnh lực gì kiềm chế được. Nhất là giữa cơn đau yếu, ông càng còn yêu bà hơn, cho bà vui lòng chóng lại sức lực người.
    Có nhẽ cũng vì thế nên chả mấy chốc bà đồ khỏi bệnh. Song thường thường, bà tựa hồ như buồn rầu, hối hận, bà thương tiếc cái thai vô tội vì bà mà không đưọc thành người, hoá nên nhiều khi bà không được vui vẽ sung sướng như xưa nữa.

  5. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương 9


    Thắm thoát một năm trời đã lướt qua, kể từ lúc hai vợ chồng ông đồ đến nhập tịch làng chài lưới. Một hôm mùa đông rét lạnh, gần tới vụ tết Nguyên đán, ông đồ xách ô lên tỉnh có việc gì. Hình như ông đi sắm đồ dùng để ăn tết cho thanh thú. Trước ngày ấy độ ít lâu, nếu ai ngắm kỹ bà đồ, người đó sẽ nhận thấy một vẻ buồn rầu đau đớn in trên nét mặt rõ rệt, dẫu bà cố ý tươi cười cho ông chồng đừng căn vặn hỏi han.
    Ông đồ vừa đi buổi sáng thì buổi chiều ở nhà ông xảy ra một chuyện tối quan hệ, trong khoảnh khắc phá tan đạp đổ hết hạnh phúc mà, tốn biết bao nhiêu tâm cơ huyết lực, ông đã gầy nên trong một năm trường.
    Không hiểu bà đồ đưa mật thư đi khắp làng xóm tự bao giờ, mà chiều hôm đó, hầu hết các hào mục đinh tráng đến tụ họp la liệt ở nhà bà, ngồi ngổn ngang chật ních cả sân và nhà học.
    Mấy ông hào trưởng khăn thâm ái dài ngồi vắt vẻo trên cổ chiếu thượng, vừa vuốt bộ râu ba chòm đốm bạc vừa mở hầu bao lấy cối chầy ra giã trầu một cách nhọc nhằn. Xung quanh bộ phản mà mấy cụ an toạ kê ở giữ ahè. Lúc nhúc một đàn đinh tráng, kẻ ngồi xổm, người chóng nạnh, người đứng dựa cột, kẻ đi đi lại lại trong sân. Thôi thì sực nức khói thuốc lào, đỏ ối quết trầu nhổ tứ tung ở góc nhà xó sân, ngổn ngang bã trầu vứt rải rác trên mặt đất. Người phe phẩy chiếc quạt nan, kẻ kéo tà áo lau ghèn mắt hay mồ hôi trán, người nhai trầu bỏm ba bỏm bẻm; mấy ông cụ già thì vừa uống trà, vừa hơ miệng chén lên mắt để xông hơi nước vào đôi đồng tử nhấp nhem.
    Ai cũng như ai, họ đều ngạc nhiên, không biết bị gọi đến để mục kích sự gì quái lạ, rồi họ bàn ra tán vào không ngớt, đánh cuộc với nhau rằng hẳn ông bà đồ có sự vui vẻ nên mời làng đến đông đủ để tuyên bố cho làng biết, và nhân thể sẽ mời làng đánh chén một bữa linh đình. Họ hỏi nhau việc đại hỉ đó là việc gì, lại cố bắt bộ óc đần độn của họ nghĩ ngợi và làm việc để đoán cho đúng ngày họ sẽ được no say phè phỡn.
    Một vẽ ồn ào náo nhiệt làm vang động cả vùng thôn dã, tựa hồ như nhà ông bà đồ là một cái chợ giữa hôm có buổi chợ phiên. Thôi thì rộn rịp, tưng bừng; hơi mồ hôi trộn lộn với mùi quần áo lam lũ, tạo thành một bầu không khí nặng nề khen khét, nồng nực và khó thở.
    Thiên hạ đến tụ họp ở nhà bà đồ đã ngót nửa giờ mà chưa thấy chủ nhân ngỏ ý ra làm sao cả. Họ có ý sốt ruột muốn ra về. Nhưng, chưa kịp về, họ thấy một vị nữ lang mặc rất kỳ dị ở trong buồng đi ra; vị nữa lang ấy bước tới hiên vái chào các hào mục. Nhân dân đều lấy làm lạ quá khi thấy thiêú phụ đó là một mỹ nhân đẹp như tiên giáng thế; họ lại càng kinh khủng lúc nhận rõ vì tiên nga nào phải ai đâu xa lạ, mà lại chính là bà đồ. Nhưng bà đồ hôm nay ăn mặc một cách kỳ khôi khôn kể. Bà đội một cái hoa khôi bằng vàng nạm ngọc, mặc một bộ y phục chẽn bằng gấm huyền thêu phượng, thắt lưng bằng vóc mầu lam, đi võ hài trân châu giát kim tuyến. Bên sườn bà đeo một thanh bảo kiếm ?olong phương? chuôi ngà vỏ bạc, tay bà cầm một hộp nhỏ bằng trắc khảm với một gói nặng trĩu mà đặt nhẹ nhàng giữa phản, trước mặt mấy vị thân hào.
    Trong khi dân chúng đương ngớ ngẫn không rõ việc quan trọng gì, bà đồ ngoảnh mặt nhìn hết cả mọi người, rồi bằng một giọng nói hùng hồn, dõng dạc, nhưng trọ trẹ tiếng đường trong:
    - ?oThưa làng, hôm nay tôi phiền làng tới đây, là bởi có một câu chuyện khẩn yếu, tối hệ trọng, muốn ngỏ cùng chư vị. từ khi hai vợ chồng tôi tới đây xin nhập tịch, chưa bao giờ chúng tôi kể rõ lai lịch cho làng biết.
    Vậy bây giờ chính là buổi tôi phải khai tông tích của phu quân tôi và tôi, xin làng chịu phiền lắng nghe tôi phân giãi một hai lời.
    ?oPhu quân tôi tên là Nguyễn Anh Tề, con trưởng quan Tây Sơn Hữu Ðô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh, về sau này được triều Lê phong cho tước Ðại Tư đồ Bằng Trung công. Còn tôi... tôi là quận chúa Võ An Trinh, con gái quan Phò mã Tả Ðô đốc Võ Văn Nhậm, rể Thái Ðức Hoàng đế.
    ?oHai vợ chồng tôi quá yêu nhau nên lấy nhau, không được cha mẹ hai bên cho phép. Bởi lẽ ấy nên phải dắt nhau ra ẩn nấp ở vùng này. Tôi những tưởng cùng Nguyễn lang thủ phận an bần, ăn ở với nhau cho đến buổi da mồi tóc trắng. Anào ngờ trời xanh ác nghiệ, khiến vộ chồng tôi khó long trọng tình tư mà không nghĩ đến thù nhà. Cha tôi vừa gây nên một mối oán ngàn thu cho dòng họ Nguyễn. Tôi không thể nào trông thấy mặt phu quân tôi nữa, phải buộc lòng mang mối ái tình cắt đoạn làm hai. Tôi sẽ chết.
    ?oSong le, khi theo chồng, tôi có đem ít nhiều của cải. Ngày nay tôi thác đi, chồng tôi cũng khó lòng sống để hưởng phong lưu phú quí một mình. Tuy biết trước như vậy, tôi cũng không thể sống được nữa. Gia sản của vợ chồng tôi thành ra vô chủ. Bởi vậy, tôi muốn đem chút của ấy phân phát cho dân trong hạt gọi là một chút vi thành. Hạt này có hơn trăm nóc nhà, toàn sống khốn khố về nghề chài lưới. Tôi muốn cho dân cư có chút đỉnh vốn để làm ăn, ngõ hầu chóng đưọoc phú cường, thịnh vượng. Chỗ vàng ngọc và châu báu này giá đáng tám ngàn lạng bạc, chư vị nên bán đi rồi chia rất đều cho lũ dân nghèo. Chư vị nên tư túi lấyphần, tôi chết đi tất thế nào cũng phù hộ cho người ngay, mà trừ bỏ những phường gian giảo. Chư vị không nên khuyên can tôi, vô ích! Trí tôi đã định rồi thì khó lòng ai chuyển cho lay... Tôi chỉ xin chư vị một điều: là giữ kín chuyện này cho tới lúc lang quân tôi mất hay bỏ hạt nầy đi biệt. Trước khi ấy, đừng nên nhỏ to bép xép, cho bề ngoài họ dị nghị lắm điều.
    Tôi lại xin làng ra ân cho một việc này: vợ chồng tôi chết đi sẽ không có ai nối dõi; vậy trong khoảng 50 năm, tôi xin làng nhớ đến ngày hôm nay làm giỗ cho hai vợ chồng tôi, thì hồn tôi sẽ được thoả mãn ở dưới chín suối mà bao giờ tôi cũng nhớ ơn làng. Vợ chồng tôi còn trẻ, chả may xấu số phải lìa rẽ nhau mà thác, vừa bất đắc chí, lại vừa bất đắc kỳ tử, tất thế nào cũng linh thiêng, làm thần phù hộ vùng nầy. Xin liệt vị chớ coi rẻ những lời tôi nói!
    Hào mục và dân làng nghe xong đều ngạc nhiên kinh sợ, không ai hiểu vì sao bỗng dưng lại có câu chuyện quá dị kỳ. Họ được rõ hai vợ chồng ông đồ là con các quan đại thần đi lánh nạn, thì càng tôn kính bà đồ; lại nghe nói bà ban cho dân làng sở tại những mấy muôn vàng, thì vừa mừng vừa sợ, chỉ nhìn nhau không biết nói thế nào cả.
    Quận chúa không đợi cho hào mục trả lời có ưng thuận hay không, nàng đã chỉ gói bạc vàng châu báu để ở giữa giường, rồi giơ hai tay trịnh trọng giao cho ông Tiên-chỉ hộp gỗ trắc khảm:
    - Tôi mời làng tới đây là để từ giã bà con và cám ơn làng đã có lòng yêu mến hai vợ chồng chúng tôi, coi những người hàng thôn chớ không phải người đến ngụ. Chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Vậy gọi là xin có chút báo đền, mong chư vị vui lòng nhận lấy.
    ?oTôi ra đi, không bao giờ còn gặp các ngài nữa, nói ra đau đớn thế nào! Sau khi khuất mặt tôi rồi, chư vị sẽ vì tôi, giao cho phu quân tôi hộp gỗ nhỏ này, kỷ niệm cuối cùng của cuộc tình duyên của vợ chồng tôi đó!
    ?oThôi xin chào các ngài ở lại!?
    Nói dứt lời, An Trinh quận chúa vái chào mấy ông hào mục. Rồi, trong khi dân chúng còn nhao nhao bàn tán, trong khi ông Tiên chỉ kinh hoàng chỉ ngồi đờ ra chả biết khuyên giải hay ngăn trở thế nào, quận chúa đã như một cái bóng, lẽ làng thoăn thoắt, phi thân nhảy vọt ra ngoài biến mất.
    Từ lúc đó, không ai biết nàng sống hay chết; nàng không để lại một tâm tích gì rõ rệt, tuyệt mù khuất hẳn bóng hồng. Thiên hạ chạy ùa ra bờ bể đứng xem, chỉ thấy bọt sóng tuôn cao nước cồn cuồn cuộn; xác người bạc mệnh có nhẽ, đã chìm sâu đáy biển, hoặc nữ anh hùng đã ro roi, quất ngựa, tếch lên ngàn...
    An Trinh chỉ để lại một mối ngậm ngùi thương tiếc, đèn nén lòng lũ thôn dân chất phác, hiện ra trên mí mắt họ trong những dòng lệ lóng lánh, chảy từ từ xuống mấy trăm gò má đen sì...
    Nguyễn Anh Tề về đến Sầm Sơn thì nhà cửa vắng teo, vắng ngắt, hỏi gia đinh mới biết vợ chàng yêu đã hoá người thiên cổ mất rồi. Ông Tiên chỉ cho cầm lại giả chàng hộp khảm nhỏ bằng gỗ trắc, chàng mở ra nhìn thấy vật kỷ niệm, càng vật mình lăn khóc, tâm can như bị mối thương đau vò cho tan nát rối nhầu. Trên án thư trong buồng, quận chúa để lại một bức thư vĩnh biệt; chàng vội vàng bóc ngay ra, đọc một lượt rất nhanh.
    Phu quân thân ái đích,
    Thiếp không thể nào cùng sống với chàng được nữa, xin cúi lạy chàng, khóc mà từ biệt, mong chàng nghĩ ân tình mấy trăng chăn gối tha tội cho thiếp, thiếp đội ơn muôn thủa cũng không quên.
    Ngày nay thiếp có ở lại trên đời cùng sống với lang quân, hai vợ chồng ta sẽ chỉ vì quá yêu nhau ma hối hận, rồi cùng chết cả. Nếu chúng ta không chết, trong hai người cũng sẽ có một người cắt bỏ mối tơ duyên. Âu là thiếp làm người ấy trước, cho khỏi phụ lòng chàng âu yếm thiếp mai xưa. Bởi lẽ gì, chàng cứ xem xong thì rõ.
    Hiện bây giờ chàng chưa biết căn nguyên việc quyên sinh của thiếp, chắc chàng trách thiếp bạc tình. Nhưng khi đã tỏ nguồn cơn, có lẽ chàng lại thương thiếp là người xấu số.
    Ngày cùng chàng ngẫu nhiên thành gia thất, thiếp có ngờ đâu rồi ra chúng ta phải ép lòng vĩnh quyết nhau đây! Thiếp những muốn cùng chang ngâm câu bạch đầu cho tới buổi mắt mờ răng rụng, trông mong ở tình trong sạch của đôi ta để cùng hưởng thú ái ân cho phỉ nguyện ba sinh. Có hay đâu, chàng ôi! Nửa đường gẫy cánh uyên ương, khiến trên gối phượng loan chàng phải ngậm sầu nuốt tủi!
    Chàng vẫn biết cha thiếp và phụ thân chàng không có tình đồng sự, mà hai họ chúng ta có hiềm khích với nhau. Bởi quên nỗi oán thù gá nghĩa cùng chàng, nên thiếp hằng ngày vẫn cầu khẩn Trời Phật vì đôi ta, làm cho mối nghi kỵ kia phải rã rời tiêu tán. Nhưng nhời thiếp nào được Hoàng thiên soi xét, hai họ nhà ta đã mỗi ngày thêm một mối oán hờn. thì vừa mới được mấy hôm nay, phụ thân thiếp đã bắt được ông thân sinh chàng đem về Thăng Long đó! Tà quân đã hành tội Hữu quân, dựng lên giữa đôi ta một bức tường thù oán không thứ ái ân nào đạp đổ.
    Vẫn biết chàng hết lòng yêu thiếp, nhưng thù cha, chàng há nỡ quên sao? Thiếp dù ở lại, đôi ta cũng không còn mặt mũi nào trông thấy nahu nữa. Mối thù kia đã xen vào phá tan hạnh phúc êm đềm mà chúng ta hết sức giữ gìn xây đắp bấy lâu. Dẫu thiếp còn chung sống với chàng, mà vì tình, chàng vẫn yêu thiếp nhu xưa thì chàng chỉ là một kẻ nam nhi hèn mạt, quá mê nhan sắc vợ quên cả đến thù cha, chàng sẽ không đáng mặt trượng phu làm chồng thiếp nữa.
    Còn thiếp, nếu thiếp không biết liêm sỉ, dùng các thủ đoạn nhi nữ để mê hoặc lòng chàng, khiến chàng vong hẳn phụ thù, thì thiếp cũNguyễn Nhạclà một con tiện tỳ dâm dật, há phải người để chàng quí mến, yêu đương?
    Vậy nên, không đợi chàng biết rõ tin tức đau đớn của gia đình, thiếp tự xử trước đi là hơn.
    Chàng đã thấu lòng cho thiếp, đã hiểu nỗi đau đớn và sự hy sinh của thiếp, thì tội thiếp nặng trăm phần, có lẽ chàng cũng giảm nhẹ đi cho. Thiếp thác đi, đem xuống dạ đài một mối hận ngàn thu không giải được. Xác thiếp sẽ nằm dưới đáy bể, bên cạnh kho vàng mà hai ta làm chìm đắm trong khi bị nạn Tầu Ô. Thiếp sẽ làm thần giữ kho vàng ấy đó!
    Thủa bình sinh hai ta có dùng hai đồng tiền Vạn Lịch để làm kỷ niệm cuộc tình duyên. Bao nhiêu châu báu trong nhà thiếp đã cho dân hạt này hết cả. Chỉ giữ lại cho thiếp đồng tiền bằng bạc, cho chàng đồng tiền bằng vàng. Ðồng tiền vàng ấy, thiếp gởi ông Tiên chỉ giao lại cho chàng đó. Chàng nên giữ nó trong người cẩn thận, gọi là còn chút tang vật của một cuộc chung tình ngắn ngủi, nhưng nồng nàn.
    Bức thư sau đây, thiếp xin chàng trao lại cho cha thiếp. Gặp cha thiếp, chàng dù muốn báo thù thì cứ báo, đó là tự lòng chàng, thiếp đâu dám cản ngăn.
    Rồi xin chàng cố gìn thân cho được mạnh khoẻ, quên hẳng thiếp đi, đừng nghĩ đến kẻ bạc mệnh này làm gì cho mệt. Chàng phải gắng lập công danh cho rạng rỡ gia tộc, rồi nối lại dây đàn để sau này có lấy mụn con trai.
    Trân trọng mấy lời, chúc chàng ở lại, thiếp cúi đầu lạy chàng xin vĩnh quyết, chàng nên vì tình tha cho tội bất nghì này.
    Võ An Trinh đốn thủ.
    Nguyễn Anh Tề đọc xong bức thư còn tưởng như mình mơ mộng; chàng giụi mắt đọc lại hai lần nữa; đọc bao nhiêu ruột càng như xé như bào. Một hồi, chàng ngây ra như tượng, hai mắt đăm đăm nhìn vào quãng vắn xa xôi. Một lúc rõ lâu bỗng chàng đứng dậy, cau mày, giậm chân xuống đất, vươn tay với thanh kiếm treo trên tường xuống, tuốt vỏ ra. Kiếm tuốt ra được nửa chừng, chàng lại chán nản tra nó vào vỏ, ngồi phịch xuống ghế, ôm đầu nức nở khóc như một người con gái.
    Chàng khóc không biết bao nhiêu thời khắc; khóc xong, lấy vạt áo chùi nước mắt, vùng đứng dây, chạy vào buồng. Chàng thay đổi y phục, mặt một bộ nhung trang ngắn, nai nịt gọn ghẽ, ngậm ngùi giắt hộp gỗ trắc vào lưng, đeo kiếm và dao găm bên cạnh sường. Xong xuôi, chàng ra ngoài dặn dò tên gia đinh Lộc giữ lấy nhà cửa, gọi tất cả đầy tớ phân phát cho chúng một ít tiền còn sót lại, cho phép đứa nào muốn về thời về, đứa nào muốn đi tìm chủ khác thì tìm; rồi chàng ứa lệ từ biệt chúng, quả quyết vùng đi ra đường, xăm xăm chạy về phía Bắc.
    Bóng chàng một ngày một xa, chàng đi khuất vào ngàn cây nội cỏ, rồi từ phút ấy, vùng Sầm Sơn không được biết tông tích chàng đâunữa.
    Câu chuyện ông đồ đến đây là hết. Bà đồ đã gieo mình xuống nước, còn ông đồ bỏ làng đi biệt, chẳng trở về. Dân làng, nhận được của cải, đem về phân phát cho nhau, và theo lời dặn của An Trinh, cứ ngày 26 tháng chạp, lại thiết bài vị ông đồ bà đồ tại đình làng, rồi mổ lợn mổ trâu, làm lễ long trọng cúng vong linh của hai người quí khách đó.
    Quả nhiên, cả hai cùng rất thiêng liêng, phù hộ cho dân bãi biển làm ăn thịnh vượng. Ðáng lẽ cứ đúng lời trối trăng của An Trinh quận chúa, thì sau 50 năm tế lễ, dân làng có thể bỏ tục làm giỗ cho quận chúa và công tử Nguyễn Anh Tề. Nhưng, vẫn nhóo ơn của hai vợ chồng ông đồ đã giúp dân và phù hộ dân một ngày một phát đạt thêm lên, các hào mục không bao giờ quên bổn phận đối với người đã chết, và hơn nữa, muốn cho vong hồn ân nhân được anh linh mãi mãi, họ bèn đem bài vị cả đôi thờ chung với thần vị Thánh Hoàng.

  6. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương 10


    Hôm ấy vào mùa xuân năm Kỷ Dâu (1789). Mưa phùn rả rích đập tầu lá ba tiêu xiêu vẹo; gió bể ào ào làm rầu rĩ mấy dãy thông cao vút, lại phã vào mặt lữ khách những luồng gió vừa lạnh lẽo, vừa ướt át, nặng mùi muống bể, đầy mầm sinh khí, khiến cho lữ khách, tuy bị rét ẩm thấu thịt, mà vẫn thấy nhẹ nhõm trong lòng.
    Lúc đó đã khuya. Trời tối đen mù mịt, con đường cát, ban ngày trắng xoá, bây giờ chỉ còn hiện ra như một nét cong queo mờ mờ trên một nền đen xẫm. Xa xa, dưới vòm mây vô định, mặt bể mênh mông trộn lộn với màu mưa vô ảnh; đi trên đường chỉ thấy bao la bát ngát một không không gian vô tận, chỉ cảm thấy bên trái là nước, trước mặt là núi, sau lưng là gió, trên đầu là mưa, tuyệt nhiên không nhận rõ một hình một sắc nào nữa. Tuy vậy, một làn hơi nồng hắc nhưng trong sạch khiến cho tinh thần và phế phủ khoan khoái, tai đươc nghe đổ dồn ngay cạnh mình tiếng ồ ạt của làn sóng đập vô hồi vào bãi cát, vào bờ đá, tạo thành một thứ âm nhạc buồn rầu và hùng hổ, xui ta bất giác ví âm điệu đó với hơi thở mạnh mẽ của Tạo vật, luôn luôn nhọc mệt mà vẫn điềm nhiên gắng sức, kiên nhẫn làm việc, làm ra những công trình vĩ đại nhưng vô dụng, mà mục đích quá cao xa không ở tầm suy xét của loài người...
    Thực vậy, làn nước vô hình kia đang vỗ lên vỗ xuống, nó đêm này tiến rồi lại thoái, dâng rồi lại lui, nó đã làm tốn xiết bao sức mạnh của Hoá công, nhưng không biết chủ đích của nó là để làm công cuộc gì hữu ích?
    Trong lúc tối dầy như mực, trên con đường cát ngùng ngoằng bao vành bãi bể Sầm Sơn, giữa cơn nỗ lực âm thầm của gió cả, sóng cồn, một lữ khách vừa rảo bước đi, vừa ngẫm nghĩ vẩn vơ kết quả hữu dụng của làn nước đêm ngày sôi nổi, của ngọn gió sớm tối quay cuồng. Chàng tự nghĩ: ?oChả qua sự nghiệp con người, rồi cũng chỉ như mục đích của sóng gió. Mãnh lực của tạo vật còn có sức nào đương nổi, thế mà những lực lưỡng ấy cũng chỉ dùng vào một công cuộc vô dụng. Huống chi là cái sức kém cỏi, nhỏ mọn của loài người! Có cả đời cạnh tranh bôn tẩu, rồi kết cục của mấy mươi năm cố gắng chả qua cũng chui vào hư không vô định mà thôi! Phú quý, vinh hoa, ái tình, danh nghĩa, đó toàn là những hư ảnh, những hư tự cả. Suy cho cùng lẽ, ôm làm gì một quan niệm cho đau thương, trong khi trời đất cũng còn không có quan niệm, nữa là mình!?
    Vừa đi, vừa lẩm bẩm, lữ khách đương mải mê trong những vấn đề triết lý cao siêu. Bỗng chàng giựt mình đúng lại. Chàng vừa chạm phải một gốc cây mọc chìa ra quá ven đường. Lữ khách gật đầu, đi rẽ về tay trái.
    Cách vài mươi bước, chàng dừng hẳn lại, dún mình nhẩy một cái rõ cao, vọt qua cái hàng rào, vào một cái sân hầu rộng. Vào tới sân, lữ khách như người rất thông thuộc đường lối trong cái nhà ch2ng hạ cố tới, chàng đi thẳng vào một gian phòng, gõ cửa.
    Trong nhà người vật đều ngủ say sưa cả, lúc ấy đã quá canh hai. Một hồi lâu, có tiếng người ú ớ nói mơ, rồi có tiếng nhè nhè ngái ngủ, mãi mãi mới thấy tự buồng trong phát một giọng gắt gỏng, cực cằn:
    - ********* nào, đến giờ này còn chui vào đây làm trò khỉ gì mà đập phá ầm ầm như vậy?
    Ðáp lại lời thôi bỉ ấy là một câu vắn tắt nói bằng một giọng dõng dạc, cứng cỏi, tựa như một mệnh lệnh oai nghiêm:
    - Mở cửa mau, Lộc! Tao đây!
    Nhận được tiếng truyền của lữ khách, tên Lộc hình như hết cả ngái ngủ, vội vàng ra mở cửa. Tiếng giầy dép lẹp kẹp, rồi tiếng then cọt kẹt, một khắc, lữ khác đã vào nhà. Trong nhà, như ngoài trời, không một tia ánh s1ng làm mất vẻ đen kịt của đêm trường u ám. chỉ nghe tên Lộc như cuống quýt nói:
    - Con xin công tử xá lỗi cho. Con không ngờ cậu về. Cậu hãy tạm ngồi cho phép con xuống bếp thắp đèn lên và pha trà cậu uống.
    - Ừ, mau lên!
    Ðến lúc chiếc đèn ***g xé bóng tối, toả trong gian phòng một ánh sáng vàng phờ phạc, lúc bấy giờ ta mới nhận rõ hình dung và diện mạo người lữ khách bí mật kia. Chàng là một thiếu niên vạm vỡ, lẫm liệt, mình mặc áo võ ngắn, đầu đội mũ da rái cá, lưng đeo bảo kiếm và cung tên. Nào phải ai đâu xa lạ, người đó la công tử Nguyễn Anh Tề.
    Nhưng ngày hôm nay, Anh Tề lộ ra một vẽ mặt buồn rầu, chán nản, mất hết nét ngang tàng khí khái khi xưa. Ðặt phịch lưng xuống kỷ, chàng vẩn vơ nhìn ra quãng trời mây ảm đạm, thở dài. Dùng xong mấy chén trà nóng, chàng cũng chả thèm vào phòng thay áo, cứ ngồi yên lặng hồi lâu. Một lúc, như giật mình nhóo lại một ý nghĩ gì, chàng gọi Lộc, bảo ngồi sát lại gần chàng, sẽ hỏi:
    - Lộc ơi! Từ khi cậu ra đi, trong nhà này còn bao nhiêu người ở?
    - Bẩm công tử, bao nhiêu gia đình đều tản mác về cả, chỉ còn có một mình con. Cậu có dặn con phải cố công trông giữ nhà này cho đến lúc cậu về; con không dám sai lời cậu chỉ bảo. Hiện nay trong nhà, ngoài con không có một người nào nữa, cũng không có một súc vật nào. Thực là hiu quạnh, vắng vẻ, bẩm cậu.
    - Lộc! Con thực là nghĩa bộc. Cậu có một câu chuyện này tối quan hệ, muốn phó thác cho con. Cậu muốn trông cậy ở lòng trung trực của con để giúp cậu làm cho trọn một sự rất cần, chả hay con có thể nhận lời với cậu, hết lòng giúp cậu, như con đã giữ nhà cho cậu, không? Như thế nghĩa là con không phụ lòng cậu thương mến con đó. Lộc ạ? Chẳng hay con nghĩ thế nào?
    - Bẩm câu, cậu bảo gì mà con chả làm theo lệnh cậu. Dẫu phải tan xương nát thịt, con cũng chẳng từ nan. Con trước kia là một phạm nhân, tội phải chết chém, nếu khôn gnhờ cậu che chở cho, đút lót các quan địa phương để gỡ tội và chuộc cái sống cho con, th2i con còn đâu đến ngày nay? Con xấu số đi thì thội, chứ trời còn để ngày nào, ngày ấy khắc xương khắc tủy ơn sâu của cậu.
    - Chuyện đó là chuyện cũ, con nhắc lại làm gì? Chỉ biết nay cậu phải nhờ con, con có nhận lời giúp cậu haykhông, thì nói cho cậu rõ!
    - Con đã bẩm hầu cậu: cậu bảo gì con cũng xin vui lòng nhận hết, dẫu cho khó nhọc hay thiệt mạng đi nữa, con cũng xin làm cho đạt ý cậu thì thôi. Vậy xin cậu bảo rõ cho con biết.
    - Lộc ạ, nói đến lòng cậu như xé ra muôn mối. Lòng cậu đã tan nát cả, nhưng càng nhắc lại, khối lòng kia vẫn còn đòi đoạn đau thương. Nhưng cậu cứ phải nói để con hiểu rõ. Có hiểu, con mới làm được việc cậu dặn cho tới đích. Con hãy lắng nghe cho kỹ Lộc nhé!
    - Vâng!
    - Con đã biết mợ con xưa kia là con quan Phò mã Tả quân Ðô đốc của vua Tây Sơn, tên là Võ Văn Nhậm. Mà cậu là con quan Hữu quân Ðô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh. Cậu quen mợ con từ ngày ở Qui Nhơn, cách đây vài hốn năm rồi. Cậu có phen thí võ với mợ con, thấy mợ con có bản lĩnh cao cường, cậu bỗng đem lòng yêu dấu. Gia dĩ, sau được biết mợ con, con nhà quý phái, lại thấy mợ con có nhan sắc lạc nhạn trầm ngư, cậu mê mợ con. Mợ con cũng có lòng yêu cậu nên hai vợ chồng cậu, lén nhà, thề bồi gắn bó với nhau. Những tưởng như thế ắt sẽ đưọoc thành một đôi uyên ương tốt lứa, có ngờ đâu ông Cao xanh ác nghiệt hay ghen ghét với những kẻ được hưởng mùi hạnh phúc, rồi bày ra cảnh trớ trêu!
    ?oMột mối thâm thù, mà căn nguyên không rõ ở từ đâu, đã dựng đứng một bức tường oán hận giữa hai gia đình họ Võ và họ Nguyễn. Quan Tả quân không bao giờ có lòng dung Hữu quân, cũng như Hữu quân nếu có dịp, thì khổng để Tả quân yên ổn.
    ?oCậu chẳng may còn trẻ, không được rõ các lẽ ấy, hoá nên khi thấy An Trinh quận chúa, mợ con, thì cậu thương yêu ngay. Cũng vì hai bên có tư tình, khi phụ thân cậu và nhạc phụ cậu ra Bắc Hà đánh Trịnh, thì cả cậu cả mợ con, cố sống cố chết theo ra cho kỳ được, ngõ hầu sum họp cùng nhau.
    ?oTừ Bắc Hà trở đi, lại bao nhiêu tai nạn tự nhiên xảy đến. Quan Tà quân gặp khi vua Thái Ðức ra Thăng Long, bèn xúc xiểm nói xấu phụ thân cậu, rồi xui vua cùng Uy quốc công Nguyễn Huệ nửa đêm lén rút quân về, để một mình họ Nguyễn chơ vơ ở lại. Quân sĩ về cả, duy có một mình mợ con, lúc ấy ăn mặc giả làm bộ tướng quan Tả quân, bỏ nhà lén báo tin cho cậu biết. Cậu vội vàng lên bẩm cụ, cụ hoảng hốt cho xếp cả gia sản và đồ đạc xuống thuyền, đêm ngày theo riết quân Tây Sơn, vào Nghệ An bằng đường thủy. Cậu và mợ con lúc ấy được coi giữ chiếc thuyền thứ ba, là thuyền chứa nặng những rương tiền và vàng bạc châu báu. Không may cậu bị bão, lại gặp giặc Tầu Ô, bốn tên gia đinh đều bị giặc giết chết; cậu mợ lâm thế cô phải đục thuyền cho đắm, rồi nhảy xuống bể, lặn vào bờ lánh nạn. Tiền và vàng bạc mất cả, lúc đám thuyền, chỉ tẩu được một ít châu ngọc và đồ tư trang mợ con bó thành một bó nhỏ, thắt vào lưng.
    ?oCậu và mợ con, sẵn có ba bốn tội nặng, không dám trở về quê quán nữa. Ðành ở ngụ cư tại đây, định lấy ái tình khăng khít để quên cả gia đình, quên cả mọi sự phú quí công danh trên trần thế nữa. Cậu và mợ con định sống một cuộc đời thanh đạm an nhàn.
    ?oNhưng, hỡi ôi! Trời cao xanh cay nghiệt nào có để cho hai chúng ta được hưởng hạnh phúc cho tới buổi da mồi tóc bạc. Một việc quan trọng xảy ra giữa cuộc chung tình của cậu và mợ con, khiến mợ con, vì quá yêu cậu, phải hy sinh cả ái ân lẫn sinh mệnh! Việc ấy, tức là kết quả của một sự thâm thù chia rẽ họ Võ và họ Nguyễn, nó làm cho cậu không dưng bồ côi cha, không dưng goá mợ; nó tức là sự Tả quân hành tội Hữu quân ở Thăng Long thành đó! Cậu ở yên phận trong vùng Sầm Sơn vắng vẻ này, xa hết cả mọi việc đời túi bụi, còn làm sao biết cái tin đau đớn thảm khóc ấy? Thế mà, không hiểu vì đâu, mợ con biết được rõ ràng đích xác; ba hôm sau khi hai cụ và cậu Hai nhà ta bị hại, hung tin đến tai mợ con. Mợ con một mặt sai cậu lên tỉnh dò la sự thể, một mặt tụ dân làng lại chia của cải trong nhà.
    ?oCậu ở Thanh Hoá về, thì mợ con đã là người thiên cổ. Ở Thanh Hoá cậu cũng được tin mang máng rằng cụ nhà ta phò triều Lê mà đương bại trận, nhưng có hay đâu ngài đã bị nhạc phụ cậu là Võ Văn Nhậm giết rồi!
    ?oMợ con chết đi, là có ý muốn để cậu đừng vì tình mà quên cốt nhục. Mợ muốn cho cậu được tùy tâm hành thích phụ thân nàng. Lộc ơi! Mợ con đã tỏ ra nàng là một phụ nhân hiếm có trên đời; cậu dù đối với cha nàng đeo một mối tử thù, nhưng nàng đã xử sự như thế, thì cậu nỡ quyết liệt làm sao cho được? May thay! Sự vật ngày nay lại hoàn toàn đổi hẳn, khiến cậu trả được thù mà không phải giết Tả quân...
    ?oCó lẽ trời xanh, sau khi đày đoạ cậu, đã hồi tâm thương cậu, không muốn cậu phạm vào một tội lỗi mà ngàn thu cậu vẫn ghê sợ, e ngại, không nỡ làm. Mợ con đã quá yêu cậu, tự hủy thân đi để giữ mối chung tình cho trong sạch đầy đủ, cậu nỡ lòng nào không thưong vợ, hung ác cầm dao đâm vào cổ họng cha nàng, nhúng tay vào vũng máu đã tạo ra nàng? Một kẻ phụ mình là anh hùng, cũng không có gan ấy được. Chỉ có loài mãnh thú mới đang tâm tàn nhẫn mà thôi! Nhất là khi cậu được giáp mặt Tả quân, thì đương lúc ông sắp bị đầu rơi khỏi cổ dưới lưỡi gươm đao phủ!
    ?oSong le không báo thù một cách bạo động, cậu đã làm cho tâm hồn nhạc phụ cậu, trước khi lìa khỏi xác, bị đoạ đày trong một niềm hối hận vô biên. Thế là đủ.
    ?oGiờ đây, giũ sạch được một gánh nặng nề mà ân oán đã gây nên, cậu còn phải lo trả sạch một chút nợ nam nhi trước khi liều mình tự tận. Phải, vì thế nào cậu cũng phải chết, cậu sẽ chết! trên bàn cờ, mợ con đã nhẫn tâm xoá cuộc, có lẽ đâu cậu còn gan ngồi đánh mãi một mình! Vả chăng, cậu là người thứ tư còn sống sót sau một cuộc phong ba hủy hoại cả gia đình cậu, cậu còn ham cầu hoạt làm gì?
    ?oNhưng, cậu còn chút bổn phẩn phải làm trọn vẹn trước khi theo cha, theo em, theo vợ, vào cõi hư linh bát ngát. Cậu sẽ sống thêm ít tuần nữa, sống để đuổi theo một mục đích tối thiêng liêng.
    ?oCậu con nhà dòng dõi trâm anh, lại còn trẻ không thể chết tối tăm như mợ con được, phải có chút công danh sự nghiệp để lại cho mai hậu, ngõ hầu thoả nguyện bình sinh, và đoạt ý chí của phụ thân cậu. Cậu hẳn phải sống. Bao giờ nguyện vọng của cậu hoặc đạt được, bây giờ sẽ chết cũng không muộn gì.
    ?oCụ nhà ta sinh thời ăn lộc nhà Lê, vừa đây lại thụ tước nhà Lê, mà đến chết cũng giữ vững được cơ đồ cho vua Chiêu Thống. Cơ đồ ấy nay đã về tay kẻ khác, vua Lê đã trốn sang Tàu. Cậu sẽ là người nối lòng ước muốn của ông cha, khôi phục lại xã tắc cho Lê triều đó! Cậu sẽ là một bầy tôi trung thành tận tụy, giúp vua trong buổi long đong. Cậu sẽ xây vững ngôi bảo tộ cho nền chính thống.
    ?oDù thắng, dù bại, cậu cũng sẽ cố làm. Cậu sẽ làm cho đến buổi, sức yếu, lực tàn, cậu ngậm cười mà chết giữa chốn sa trường đẫm máu! Nếu không được hạnh phúc lấy da ngựa bọc thây, cậu lại tìm về đây cùng mợ con lấy đáy bể làm mồ. Cậu sẽ chết cạnh mợ con cho phỉ tình ân ái.
    ?oBây giờ câu phải cùng con vĩnh quyết; ngày nay con trông thấy cậu, ấy là trong buổi cuối cùng. Từ buổi này trở đi, thầy trò ta sẽ không bao giờ gặp mặt nhau nữa. Trước khi tương biệt cậu cần dặn con mấy việc rất cần. Con nên nghe kỹ mà ghi lấy trong lòng, để sau này làm cho đúng lời cậu bảo!
    Bao nhiêu đồ đạc của cải trong nhà, cậu cho con cả. Sau khi cậu đi rồi, con sẽ đem hai bức thư này, một bức về Nghệ An, một bức về Phú Xuân. Con sẽ tìm về làng Châu Lộc, hỏi thăm cụ Nguyễn Hữu Bằng, tức là chú ruột cậu đó. Trong hai bức thư, con giao cho cụ một bức. còn bức nữa con sẽ giao cho Thọ Huê công chúa, tức là Võ Văn Nhậm phu nhân, ở Phú Xuân.
    ?oTrong hai bức thư đó có kể rõ cuộc tình duyên giữa cậu và mợ con, lại thuật rõ những lẽ đã làm cho cậu mợ phải nửa đường chia rẽ. Những dấu vết và sự tích kho vàng cậu làm chìm nơi đáy bể, cậu đã biến chép rõ ràng. Người đời sau ai có duyên thì cứ đến đúng chỗ mà khai lên, một gia sản lớn sẽ về tay người đó!...
    Con nên nghĩ đến ân nghĩa thầy trò, giúp cậu đem thư này cho tới đích, đừng nên để thất lạc đi. Ơn ấy, dù dưới suối vàng, cậu cũng ghi tâm mãi mãi...
    ?oThôi, con ở lại, cậu đi!...
    Dứt lợi, như một cái bóng lẹ làng, Nguyễn Anh Tề đã nhảy vọt ra ngoài, đi biến vào cõi tối mịt mùng thăm thẳm.
    Ngoài trời, mưa vẫn tuôn gió vẫn phả, sóng cồn vẫn nổi lên dào giạt, tung những làn bọt trắng xoá giữa vùng nước thẳm đen sì...
    Tên gia đinh Lộc, tựa cửa đứng trông, tưởng tượng như cố chủ đem thân vào cõi chết...

  7. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    12. Chương 11


    Vào khoảng hạ tuần tháng một năm Ðinh Vị (1787). Trên con đường thiên lý chạy từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, một đoàn lương dân đi lánh nạn tất tưởi tiến bước, không quản đêm ngày. Ðoàn đó tất cả độ năm chục người, nhưng chỉ có ba người cưõi ngựa, còn bao nhiêu thì đi bộ cả. Họ cũng ăn mặc quần áo vải, song khách bàng quan ngắm nhìn cách họ cử chỉ với nhau, thì tưởng chừng ba người cưỡi ngựa kia là chủ mà lũ đi bộ tức là bọn gia nhân vậy. Ði đầu là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, đầu quấn một vành khăn nhiễu tam giang, mình mặc áo the kép, đội nón dứa, đi văn hài, mẻ mặt ngại ngùng lo lắng. Trên yên ngựa, trước mặt ông ta, một đứa trẻ con độ bốn tuổi, mặt mũi sáng sủa lanh lợi, ngồi dựa lưng vào lòng ông, mồm nhí nhoẻn cười, tựa hồ lấy sự hành trình làm thú vị lắm. Một tay mắc cầm roi, tay nữa lại cầm cương, người đàn ông đó phải lấy một giải lụa dài buộc đứa trẻ con chắc chắn vào mình, cho nó đừng bị ngã trong khi gió ngựa gập nghềnh lên xuống.
    Theo sau người đàn ông, đi song song hai con ngựa bé nhỏ, trên ngồi hai người đàn bà. Một người đã ngoài bốn mươi, ăn mặc diểm dắn, người thứ nhì là một thiếu phụ trạc hai mươi tuổi, mà bộ quần áo đen bằng sồi càng làm tăng vẻ đẹp thuỳ mị và nước da trắng nuột như ngà non.
    Lục tục nối gót ba người kỵ mã, ấy một bọn hơn bốn mươi người, trai nhiều, gái ít, coi bộ đã mỏi mệt cả, nhọc nhằn lê bước, cố theo cho kịp chủ đoàn.
    Họ đi một quãng độ bốn dặm đường thì, may thay một quán trọ rộng rãi đã hiện ra dưới bóng một cây đa um tùm xanh ngắt. Ðộ ấy về mùa đông, gió bấc phả, rét cắt da cắt thịt; mặt mũi và tay chân lũ bộ hành đều thâm tím lại rất đáng thương.
    Dừng ngựa cách quán làng độ đam trượng, người đàn ông có đứa trẻ con trong bọc quay đầu lại nói nhỏ với người đàn bà đứng tuổi:
    - Xin lệnh bà cho phép xuống đây nghỉ một chốc rồi lại đi, nay đã gần Dồng Khê cũng chả còn bao lâu nữa thì đến Cao Bằng.
    Người đàn bà sửa lại tà áo bông và mái tóc hơi lòa xoà dưới vành khăn vuông mỏ quạ, nhìn người đàn ông, một cách buồn rầu:
    - Tiên sinh cứ tùy tiện, liệu định thế nào cho phải thì làm, không cần hỏi đến tôi nữa! Nay ruột tôi rối như mớ bòng bong, còn hơi sức đâu nghĩ tới những việc vặt.
    Người đàn ông được gọi là tiên sinh, không phải là một lương dân đi lánh nạn, chính là một vi quan đương triều vâng lệnh vua Chiêu Thống đưa hoàng gia lên tạm trú ở Cao Bằng, ông Lê Quýnh. Ðúa bé con ông đùm trong bọc tức là Hoàng tử mà hai người đàn bà cưỡi ngựa kia, người già là Thái Hậu, người trẻ là Hoàng Phi. Trong bọn người đi bộ có ba mươi người tôn thất, còn bao nhiêu đều là nữ tỳ cùng thị vệ theo hầu.
    Giữa lúc họ hàng nhà vua, nhọc nhằn, kham khổ, dìu dắt nhau tất tưởi trên đường lánh nạn, thì vua Lê, cùng vài vị trung thần và Bằng trung Công đại tư mã Nguyễn Hữ Chỉnh đương đóng đồn chống cự với quân Tây Sơn tại Mục Sơn, về vùng Yên Thế.
    Nguyên từ ngày vua Thái Ðức cùng Uy quốc CôNguyễn NhạcNguyễn Huệ bỏ xứ Bắc trở về Nam, sau khi đã phù Lê diệt Trịnh, thành Thăng Long, tạm yên ổn được vài tháng. Vì trải qua nhiều nạn binh đao, khiến giường mối nhà Lê, chưa được vững vàng, lại rối bét khó lòng gỡ nổi. Nhân dân hưởng thái bình được non hai tháng, lại nhao nhao sợ hải, kẻ chạy trốn, người ở lại, không còn ra thể thống gì cả.
    Ðáng lẽ sau khi Nguyễn Huệ đã diệt họ Trịnh để trả quyền bính đất Bắc lại trở về tay vua, Lê Mẫn đế phải lấy cái dịp hiếm có và cái cơ hội may mắn ấy để lập lại nền cai trị. Tiếc thay! Vua quan lúc đó chỉ là một loạt bồ nhìn vô dụng: Chiêu Thống thì trẻ người non dạ, không có tài quyết đoán, mà đình thần thì toàn là lũ giá áo túi cơm, không biết kinh luân chiến lược, con rát như thỏ.
    Thái Ðức Hoàng đế vừa đi khỏi chưa đầy hai tháng, chốn Bắc Hà lại hoá ra trường binh lửa điêu tàn. Bây giờ có hai tên dòng dõi nhà Trịnh, một tên Bồng, một tên Lệ, không biết tụ họp ở đâu được dăm ngàn quân mã, đem binh về Thăng Long đánh nhau để tranh cướp quyền hành. Các quan nghe có giạc tới nơi, lại như lúc còn đời Cảnh Hưng Hoàng đế, chưa đánh đã vung cẳng chạy trốn cả, bỏ một mình vua cùng dăm tên nội thị ở lại chốn triều đường.
    Ngoài thành, chả bao lâu, Trịnh Bồng phá tan quân Trịnh Lệ, rồi vào đền VẠn Thọ yết kiến vua. Chiêu Thống bèn giáng chỉ cho gọi các quan trở về; thầy giặc đã yên, họ lại ló đầu ra cả. Rồi giữa đình Kính Thiên, họ cãi nhau như mỏ quạ, kẻ bàn ra, người bàn vào, kẻ muốn gây lại nghiệp Chúa, người quả quyết chỉ tôn phù nhà Lê. Bấy giờ có Dương Trọng Tế, vốn chân khoa bảng đương làm quan trong triều, về hùa với Trịnh Bồng, hết sức giúp cho Bồng được cầm quyền chính.
    Vua Chiêu Thống lúng túng, không biết nghe bên nào là phải, nhung vì tình thế bó buộc, lại nể lời khẩn cầu của Dương Trọng Tế cũng dằn lòng phong Trịnh Bồng là An Ðô Vương, sai dựng Liêu phủ mới cho y ở.
    Bồng nhờ ơn Trọng Tế có công thủ xướng cho Tế dự vào giữ quyền chính trong phủ. An đô vương khi đã đắc lực rồi, vội lên mặt ngay, toan bề hiếp vua như các ông cha thủa trước. Lại được tay quân sư họ Dương hết sức siểm nịnh, bàn với Trịnh Bồng phế vua đi để tự lập, rồi sai người Nguyễn Mâu Nễ đem quân vây thành bắt Chiêu Thống để giết đi. Ðời sau chép việc ấy, pho ?oNam Sử diễn chúng ta" phê rằng:
    Trách thay Trọng Tế họ Dương,
    Cũng trong khao bảng cũng phường đai cân.
    Sao không biết nghĩa quân thần,
    Bày mưu phế lập, sắp quân vây thành.
    Non sông còn mặt triều đình,
    Bạc đen xem thấy nhân tình mà ghê!
    Khi Mẫu Nễ đem quân đến vây bắt vua, may sao có lão tưóong Hoàng Phùng Cơ, tức quận Thạc, ở trong thành phò Lê Mẫn Ðế. Quận Thạc sợ mang tiếng xấu, sai thủ hạ trèo lên thành mắng đuổi lũ nghịch tặc, khiến chúng phải hổ thẹn kéo lui; xong đâu đấy mới vào tâu vua rõ và xin vua quyết định về việc ấy.
    Chiêu Thống nghe tâu vừa giận vừa sợ, lại thấy cơ nghiệp lung lay sắp đổ, nghĩ ngay đến Nguyễn Hữu Chỉnh là người trung nghĩa, cho kẻ tâm phúc đem mật chỉ vào Nghệ An mời Chỉnh ra giữ vững Sơn Hà. Hữu Chỉnh, sau khi xuống thuyền chạy tất tưởi theo vua Thái Ðức, bị nạn phong ba trôi tạt vào bờ. Ðổ bộ đi đến Nghệ An, thì vừa gặp đại binh của Tây Sơn nghỉ chân ở đó. Vua Thái Ðức rỏ lòng Chỉnh trung trực, lại thấy y cố ý theo nhà Tây Sơn cho đến cùng, bèn thương tình không nỡ lìa bỏ y như trước, cho phép ở lại giữ đất Nghệ An cùng quan trấn thủ Nguyễn Tuệ. Chỉnh bèn đóng đồn trại ở đó cùng con thứ là Nguyễn Anh Du, đêm ngày hết lòng mong tin tức của trưởng tử là Nguyễn Anh Tề, nhưng càng mong càng phải đành yên trí rằng Anh Tề đã bị bão chết rồi, không nghĩ đến chàng nữa...
    Ở Nghệ An, Chỉnh chiêu mộ dũng sĩ, mãi mã tụ binh, rèn luyện khí giới, sáng chiều tập trận. Chẳng bao lâu, binh bản bộ có hơn một vạn, có đi đánh chốn nào cũng dư lực, không còn e ngại điều gì. Khi nhận được mật chiếu của vua, Chỉnh bèn thảo một bài hịch truyền đi trước, và cho bắt quân, tức khắc được đến hơn muôn, rồi chia ra làm đội tứ thành, đội tứ đột. Chỉnh thân xuất quân mã ra Thăng Long đi đến Hoa Lâm, gặp quan trấn thủ cũ là Bùi Ðình Toại, đánh cho Toại một trận ráo riết khiến Toại phải thua liểng xiển bỏ chạy. Qua Thanh Hoá, lại phá tan lũ tướng sĩ trong trấn ấy, chém chết quan trấn tướng là Trung Nghĩa Hầu. Chả mấy ngày đại đội binh mã đã kéo đến Dản Khâu (về hạt Ninh Bình). An Ðô vương sai Dương Trọng Tế đem binh chống lại. Chỉnh dàn quân đánh Trọng Tế phải trốn về Bắc Ninh. Trịnh Bồng thế yếu sức cô, cũng phải chạy sang Gia Lâm nấp trong nhà Trọng Tế, rồi thu vét của cải, nửa đêm trốn tuột vào rừng.
    Chỉnh đuổi xong Trịnh Bồng, hiên ngang lẫm liệt kéo quân vào thành Thăng Long; Vua Chiêu Thống thân ngự ra bến Tây Long duyệt binh, phong cho Nguyễn Hữu Chỉnh làm đại tư đồ, thụ tước Bằng trung công; con là Nguyễn Anh Du cũng được phong làm Thành Ðình hầu. chỉnh bèn lấy phủ Chúa làm dinh cơ, đóng quân lại Bắc thành để gìn giữ nhà Lê khỏi bị những cơn tai biến.
    Từ đó, Trịnh Bồng cũng một vài phen toán dấy binh khôi phục lại oai quyền đã mất, nhưng hắn đánh trận nào thì trận ấy bị thua xơ xác, không còn manh giáp trên vai. Bao nhiêu công trình của hắn thành ra vô ;dụng cả. Buồn bã, chán nản, hắn bỏ hẳn việc cạnh tranh khó nhọc, cạo đầu vào núi đi tu. Họ Trịnh, đến đời Trịnh Bồng, là dứt hẳn.
    Chỉnh từ thủa xưa, vốn đã có danh tiếng ở Bắc Hà; nay lại được vua yêu, cho hưởng quyền cao tước cả, tiếng tăm lại càng lừng lẫy thêm lên mà tân khách lại càng đến đông hơn buổi trước. Chỉnh thấy mình được phú quí, cho là thời vận đã đến, có ý ỷ mình tài hoa lỗi lạc, rồi ngạo nghễ tự đắc, coi thiên hạ bằng nửa con mắt, làm lắm điều càn dỡ, đến vua Lê cũng phải lấy làm phiền, đem bụng ghét, mà nhân dân đều có ý ngờ.
    Chỉnh thấy mình đường đường ngôi cao tước cả, lấy làm sung sương lắm cho dán trước cửa một hai câu đối, để cho thiên hạ biết mà thần phục và kinh sợ mình. Ðối rằng:
    Mở khép càn khôn, có ra tay mới biết;
    Ra vào tướng tướng, thử liếc mắt mà coi.
    Chỉnh có ý muốn nói mình đã đạt được chí anh hùng, vì đã ra tay giẹp tan dư đảng Trịnh, nhất đán ngồi hàng tướng tướng làm gương cho thiên hạ trông vào.
    Câu hát của thần nữ xưa kia mãi đến bây giờ mới nghiệm. Thế lực và những sự hành vi trái phép của Chỉnh đồn mãi đến tai Nguyễn Huệ trong Nam. Huệ lúc ấy được phong làm Bắc bình vương, nghe nói Chỉnh đắc thời có ý phản lại nhà Tây Sơn bèn cho người đem ra cho Chỉnh một bài thơ tứ tuyệt:
    Ai ra ngoài Bắc nhắn Chim Bằng ( )
    Lông cánh bao nhiêu dám vẫy vùng?
    Lộng lộng lưới trời sao thoát đặng.
    Rồi xem ta bắt bỏ vô ***g!
    (Chỉnh xưa kia được gọi là ?oChim dữ?, sau này lại thụ tước ?oBằng quận công?, vì thế nên Nguyễn Huệ gọi Chỉnh là ?oChim Bằng?.)
    Huệ một mặt nhắn trước cho Chỉnh biết, một mặt sai Phò mã Võ Văn Nhậm làm Tiết chế, đem một vạn tinh binh ra Bắc Hà bắt Chỉnh.
    Quân thủy bộ do Võ Văn Nhậm đốc xuất không kỳ ngày đêm kéo tuột ra phương Bắc; khi qua Thanh Hoa, đến thành Phố Sơn, gặp binh mã của quan Trấn thủ là Nguyễn Duật, Duật không dám chống cự, lui quân xuống giữ mặt Trinh Giang, để mặc cho Võ Văn Nhậm thẳng ruỗi ra đến hạt Ninh Bình.
    Nguyễn Hữu Chỉnh nghe rục rịch có quân Tây Sơn ra Bắc, bèn cho con là Thành đình hầu Nguyễn Anh Du coi tiền đội đi trước, dàn quân trên Bắc ngạn sông Thanh Quyết để ngăn quân Tây Sơn tiến lên. Chỉnh thì tự đốc hai vạn tinh binh giữ mặt bộ. Võ Văn Nhậm sai quân thủy, vốn có tài lặn lội, nửa đêm bơi ngầm dưới nước, lấy thừng chão buộc vào mũi thuyền của quân Nguyễn Anh Du. Rồi nhân lúc trời tối đen như mực, quân Tây Sơn nổi hiệu, ra cầm đầu dây kéo mãi, bao nhiêu thuyền Bắc Ngạn đều trôi về Nam Ngạn cả. Lúc bấy giờ chúng mới nổi hiệu súng bắn về phương Bắc; quân bộ của Nguyễn Hữu Chỉnh vội vàng bắn lại, ai ngờ lại bắn phải quân thủy của Nguyễn Anh Du, vì quân Tây Sơn, sau khi kéo thuyền về mé Nam, bỏ lên bờ lẩn tránh cả.
    Thủy binh của Anh Du bị bắn, cũng nhằm phía có tia lửa bắn lại, bắn mãi đến gần sáng, chết mất quá nửa bây giờ mới nhận ra rằng quân cha bắn lẫn quân con.
  8. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0

    Anh Du sợ hãi bỏ thuyền lên bộ tìm kế thoát thân; các thủy binh cũng hoảng hốt nhảy xuống sông bỏ chạy, thành ra không mất chút công đánh phá nào, quân Tây Sơn chiếm cả được các thuyền bè. Về phần quân bộ của Hữu Chỉnh đóng ở Bắc ngạn, thì một số đông bị đán chủa thủy quân bắn chết, còn bao nhiêu đều chạy tản lạc, Chỉnh hãm cũng không nổi, phải đành thua trận, lui tàn binh về đóng ở Châu Cầu.
    Quân xứ Bắc từ buổi nào đến giờ vẫn toàn là một lũ ô hợp và lười biếng, đã rúc rác còn khoác lác, chỉ dùng làm quân để đi trong đám rước thì đẹp, nhưng không thể đem ra chiến trường. Một vạn dũng sĩ ở Nghệ An đưa ra, quá nửa đã chết hoặc bị thương khi đánh nhau cùng họ Trịnh, còn bao nhiêu trộn lộn với quân xứ Bắc cùng tập tính quen sự lười biếng đi rồi.
    Khi Nguyễn Hữu Chỉnh lui về Châu Cầu, Võ Văn Nhậm thúc quân ráo riết đuổi theo, hai đội binh Nam, Bắc lại xung đột một lần hăng hái nữa. Song le, quân Nghệ đánh không hết sức mà quân Bắc thì e sợ quân Tây Sơn đã từ lâu rồi, vì lần nào cũng bị quân Tây Sơn đánh cho đại bại. Cái sợ ấy in sâu trong trí họ, hoá nên chưa lo đánh đã lo lùi. Trận Châu Cầu lại phải để cho Võ Văn Nhậm thắng thế.
    Hữu Chỉnh thua luôn hai trận, núng thế quá, phải bỏ thành Thăng Long cho quân địch, phò xa giá vua Chiêu Thống sang Kinh Bắc. Họ hàng nhà vua thì do ông Lê Quýnh đưa lên tị nạn ở Cao Bằng.
    Vua tôi Hữu Chỉnh, sang đến Kinh Bắc, quan Trấn thủ tỉnh ấy là Nguyễn Cảnh Thước làm phản đóng cửa thành không cho vua vào. Vua và Chỉnh phải thúc ngựa chạy lên Yên Thế; Khi đi đến bờ sông Nguyệt Ðức, trong khi chưa có thuyền chở sang đò, Chiêu Thống và mấy kẻ theo hầu lại bị đầy tớ Nguyễn Cảnh Thước đón đường cướp bắt. Túng thế, Lê hoàng phải cởi cả áo ngự bào mặc đồ thường phục, mới thoát được nạn, cùng cha con Hữu Chỉnh chạy lên Mục Sơn, đóng đồn tạm ở đó.
    Võ Văn Nhậm đuổi được quân Chỉnh, kéo đại binh vào Thăng Long, lấy phủ Bằng trung công làm hành doanh, rồi tụ bọn tướng đi theo mình là Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân cùng Nguyễn Văn Hoà để bàn định kế hoạch bắt Chỉnh. Hoa tình nguyện đem quân bản bộ lên Yên Thế để cướp trại, Nhậm cho đi.
    Trời độ ấy về mùa đông rét mướt, về ban đêm thường mây ám lấy cả trăng sao, Nguyễn VĂn Hoà bèn cho quân đi rất nhẹ nhàng, người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, kéo thẳng lên Yên Thế.
    Nguyễn Hữu Chỉnh và Chiêu Thống đương ngồi trong trại đàm luận bỗng nghe tiếng hò reo ầm ỹ, rồi thấy lửa cháy rực trời và ẩn hiện lấp ló trong ánh sáng không biết bao nhiêu quân mã kéo đến rầm rộ. Mấy tên nội giám trung trực phò vua lên ngựa chạy trốn trong khi Nguyễn Hữu Chỉnh nai nịt gọn ghẽ, vác siêu đao ?oCổ Ðỉnh? xông ra, tả xung hữu đột, phá quân Tây Sơn để tháo lấy một huyết lộ. Chỉnh đánh mãi mà rào người vẫn không núng, lại nghe bốn bề những tên quân Bắc Hà kêu khóc sầu thảm, lại càng sờn lòng. Quân Tây Sơn thì vây bọc như thành, reo hò hăng hái, càng ngày khí thế càng mạnh, khó lòng phá vỡ được.
    Con thứ Chỉnh là Thành đinh Hầu Nguyễn Anh Du thấy cha đánh không đổ bên địch, cũng hăng máu nóng mặt, vác hoạ kích xông xả vào đám hùng binh trăm vạn, đi đến đâu rẽ ra đến đấy, nhưng cắt được vòng này lại thấy có vòng khác, mà những vòng bị đứt thì đứt xong lại thấy nối liền ngay. Anh Du múa ngọn Phương thiên bạch quang bao bọc người chàng khi ẩn khi hiện, khiếng cho quân Tây Sơn trông thấy cũng phải phục tài. Tuy nhiên, phục thì phục, mà vây thì cứ vây; Du đâm bên Ðông, thích Tây, nào đỡ, nào né, nào múa, nào giết, xông pha trong vòng gươm giáo tên đạn trong hai giờ đằng đẵng, mà rút cục đã không cứu được cha còn bị hãm nhốt trong vòng vây.
    Du thu hết khí lực đánh phá một hồi lâu nữa, nhưng áo bào trắng lúc ấy mồ hôi thấm ướt đẫm, máu hoen ố đỏ ngầu, mắt thì hao lên, tay chân cũng bủn rủn, lượng mình khó bề thoát khỏi. Ðương khi bối rối, chợt nghe có tiếng gió vùn vụt, chưa kịp nghiêng mình tránh ám khí, Du đã bị một chiếc dùi đồng nhọn hoắc xuyên vỡ hộ tâm kính, cắm sâu vào ngực, Du kêu lên một tiếng đau đớn, giơ tay rút mũi tên đồng, lảo đảo một khắc, rồi ngã gục xuống chân ngựa.
    Quân Tây Sơn xông lại đăm chém chàng ra trăm mảnh.
    Hữu Chỉnh đang cố sống cố chết múa đao gỡ lấy một đường để chạy, đương hăng hái chém được vài chục thủ cấp, sắp giải được trùng vây, bỗng nghe tiếng Du kêu, quay đầu trông lại, thấy một cảnh tượng đau đớn như bào gan xé phổi, bất giác mồ hôi ướt áo, tứ chi bải hoải, không lẹ làng như trước nữa, bị Nguyễn Văn Hoà xông đến lừa lúc chân tay bối rối, thúc ngựa vào kéo dây lưng vật ngã xuống, hô quân trói lại.
    Hoà bắt được Chỉnh rồi bèn gióng chiêng bãi chiến thu quân về Thăng Long, bỏ vua Chiêu Thống chạy thoát, cùng vài tên tỳ tướng đi hộ vệ, sang núi Bảo Lộc.
    Hoà giải Chỉnh về quỳ trước mặt Võ Văn Nhậm, Nhậm trừng mắt ngắm Chỉnh rồi vuốt râu cười thiên hạhả nói mỉa rằng:
    - Chim Bằng lâu nay vẫn mạnh khoẻ đấy chứ? Làm sao mày làm phản?
    Chỉnh thản nhiên nhìn Nhậm, Không đáp.
    Nhậm cau mày, nhưng lại tươi tỉnh ngay, hất hàm hỏi Chỉnh:
    - Thế nào? Cố nhân không muốn nói ư? Một lời nói của cố nhân có lẽ làm cho Nhâm đây không nỡ nhẫn tâm dùng lưỡi gươm cắt đứt mối ân tình; Nhâm chỉ sợ ràng lưỡi đao tàn ác này lại không e nể cố nhân thì lúc xuống tay cố nhân có muốn nói năng, lời nối ấy Nhậm tiếc rằng khi chậm!
    Ba lần Võ Văn Nhậm nhắc đi nhắc lại lời chế giễu của mình, ba lần Nguyễn Hữu Chỉnh cứ đứng lặng yên, chờ chết.
    Sau cùng, thấy kẻ thù không nhúc nhích, Nhậm bước xuống thềm:
    - À! Ra cô nhân không muốn giãi tâm sự bằng lời; thế thì có lẽ ngài muốn trối trăng bằng bút. Quân đâu, văn phòng tứ bảo, mau!
    Lính thị vệ đem nghiên bút lại. Trên mặt tờ giấy trắng, Chỉnh, tuy bị trói ghì cánh khuỷu, cũng cố cầm bút vạch thành bốn chữ rõ to:
    ?oThế nhi dĩ hĩ!?
    Rồi vứt bút xuống sân, đứng thẳng người nhìn Nhậm. Bấy giờ Nhậm tuy không hiểu chữ nghĩa là gì, song cũng mang máng biết rằng Chỉnh cử chỉ như thế tức là khinh miệt mình; lửa giận bên trong bốc lên ngùn ngụt; Nhậm quay lưng đi thẳng lên đại điện, truyền quân đao phủ hành tội ngay Hữu Chỉnh dưới thềm, xả Chỉnh ra muôn nghìn mảnh rồi đem bêu đầu ở cửa thành; còn xác thịt, thì vứt ra đồng cho chó ta chim rỉa.
    Võ Văn Nhậm giết xong người cừu địch, nét mặt hớn hở vui mừng. Việc tư thù đã thỏa, Nhậm mới nghĩ đến quân sự. Thì ra từ khi vua Chiêu Thống chạy giặc, triều đình không có chủ, các quan lộn xộn ra vào, không còn thể thống gì nữa. Nhậm cho tìm vua, tìm đâu cũng không thấy, túng thế phải tôn hoàng thân là Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên ngôi, coi tạm việc nước, gọi là Giám quốc. Các quan đều không phục, chảng ai thuận theo; Sùng Nhượng Công ở trong điện Kính Thiên chỉ có dăm người hoàng thân cùng mấy quan võ tướng theo hầu, sớm tối hầu hạ. Ðình thần không ai đến chầu, cũng không ai tâu hỏi việc gì cả.
    Ngày ngày quan Giám quốc lại đi bộ từ đền Vạn Thọ sang phủ Bằng trung công, tức là hành doanh Võ Văn Nhậm rồi đứng chầu chực ở đó hàng giờ, đợi lời chỉ giáo. Nhậm lấy thế làm phiền phức, nhưng cũng không biết xử trí thế nào.
    Dân trong kinh thành thấy việc chướng mắt, ngược đời ấy, ai cũng chê cười, gọi Sùng Nhượng công là ?oThầy đề lại Giám quốc?.
    Võ Văn Nhậm ỷ mình có tài bắt được Hữu Chỉnh, có công để nhất trong sự cứu giúp nhà Lê. Nhậm đường Sùng Nhượng công sớm chiều sang hầu, ngoài mặt giả vờ tỏ vẻ khó xử, nhưng trong lấy làm thú vị sung sướng lắm, bởi lẽ tự hào mình là người có quyền thế to lớn nhất ở xứ Bắc Hà. Sự sung sướng ấy lộ hẳn ra nét mặt: Nhậm không những chỉ dương dương tự đắc còn có vẻ kiêu ngạo trong khi đối đãi với các quan nhà Lê với cả những người ngang hàng với mình như Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở, lúc đó sung chức Tham tán quân vụ.
    Khi Bắc bình vương Nguyễn Huệ sai Nhậm ra Thăng Long bắt Chỉnh, Vương đã có ý ghét Nhậm là người tiểu nhân, không dùng được trong đại sự, lại sợ giao nhiều binh quyền cho Nhậm thì y sẽ kiêu căng cậy còng cậy tài, rồi mưu những việc phản trắc ngay. Vì lẽ đó, vương sai đi kèm bên mình Nhậm tụi Sở, Lân để dò ý tứ và chia bớt thế lực của Nhậm.
    Ngô Văn Sở thấy chủ tưóong đối với mình có ý khinh bỉ, nghĩ lấy làm giận; nhân thấy Nhậm đối với Nguyễn Hữu Chỉnh, là bạn đồng liêu cũ, không có chút ân tình nào, càng đem lòng ghét Nhậm, liệt Nhậm vào hạng Trịnh Tùngtiện tiểu nhân, tàn nhẫn, không thể gây nên sự nghiệp vững bền được. Sở bèn viết thư cho Bắc bình vương, ngõ ý Nhậm tự phụ mình có công to, muốn làm phản.
    Ðược tin, Bắc bình vương, lập tức truyền lịnh kéo mấy ngàn quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường nửa đêm ra đến thành Thăng Long. Ðại đội hùng binh vừa tới nơi, Vương truyền lịnh kéo thẳng đến hành doanh Võ Văn Nhậm, trói gô Nhậm lại giải ra chợ trảm quyết.
    Nhậm vừa lấy làm lạ, vừa kinh sợ, không hiểu vì lẽ gì chú vợ mình lại xử tệ với mình. Y lạy phục xuống thềm, khóc lóc kể lể nỗi oan ức và xin Nguyễn Huệ khoan dung cho. Bắc bình vương chỉ lắc đầu, cười gằn, không nói gì cả sai lính đưa ra cho Nhậm một mảnh giấy nhỏ trên có đề mười hai chữ rõ rệt:
    ?oBất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng?.
    (Chớ khá nhiều lời; tài mày hơn tao, tao không dùng được).
  9. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0

    Nhậm mượn đọc xong không còn biết nói thến nào chỉ kêu trời kêu đất, oán thán phận mình. Nhậm biết rằng Huệ đã truyền lệnh, có xin van cũng vô ích. Tài Huệ có lẽ nào kém Nhậm, nhưgn Huệ nói thế, chỉ là để có cớ giết Nhậm mà thôi. Một người hữu ý, một kẻ vô tình, ai tránh cho khỏi tai vạ mà tha nhân đã lập tấm gieo trên đầu mình một chách quá tự nhiên, vô lý? Nhậm suy đi nghĩ lại, cam tâm chịu chết, chả trách chú vợ vô tình, mà trách mình quá dại dột, nai lưng đánh dẹp để gây cơ đồ cho nhà vợ, khiến giờ đâ, chưa kịp ngáp, đã hoá ra một thằng xú quỷ không đầu. Càng nghĩ càng xót xa, Nhậm sụt sùi khóc rũ xuống. Bao nhiêu những kỷ niệm về cuộc đời dĩ vãng, trong phút chốc, hiện ra, từng quãng một trong tâm hồn. Bao nhiêu hình ảnh của những kẻ thân yêu, nó bày cả trong trí nhớ, giữa chỗ sáng nhất. Nhậm thấy vợ ủ ê rầu rĩ khi nghe tin mình đã thác, thấy con gài yêu quí của mình nhởn nhơ như một cái bóng oan hồn. Nhớ đến An Trinh, lòng Nhậm như bào như xé; Nhậm tự hỏi không biết con mình lưu lạc phương nào mà mất tích, còn hay đã chết từ lâu.
    Ðưong lúc mê mẩn băn khoăn, Nhậm lững thững theo lũ đao phủ, tới chọ khi nào không rõ. Tới nơi, trời còn tối mịt; mười tên quân và viên Giám trảm coi giữ phạm nhân, lột áo y ra, chỉ để cho một manh quần che thên phía dưới. Họ trói ghì mồi của họ vào một cái cột tre cao đóng rõ chặn xuống đất, lột mũ y ra, xoắn tóc y lại rồi buộc gọn gàng mớ tóc ấy vào phía trên cột, khiến cổ tù nhân không bị vướng, để lưỡi dao giáng xuống được lẹ làng.
    Xong đâu đấy, cả bọn cùng ngồi nghỉ. Viên Giám trảm cho hai tên lính đứng ở cửa chợ để ngăn cấm những kẻ bán hàng không được vào, rồi chờ trời sáng rõ và lệnh bài của súy phủ mới khai đao.
    Võ Văn Nhậm lúc bấy giờ sống cũng như chết, tâm hồn rối loạn, không còn suy nghĩ được kế gì thoát thân. Vừa đau đớn, vừa căm tức, vừa hối hận, Nhậm bị không biết bao nhiêu tư tưởng kỷ niệm cùng hình ảnh chạy lộn xộn trong trí nhớ, cắn rứt khối óc hèn nhát của y, làm cho y nghiến răng mắm lợi, trợn mắt, nguyền rủa nhà Tây Sơn, rồi phút sau, lại gục đầu xuống than thở.
    Bốn bề lúc ấy đều im phăng phắc. Bỗng đâu, tiếng cải cọ ồn ào ngoài cửa chợ làm cho vien Giám trảm giật mình. Viên ấy vội vã bước ra ngoài; dưới ánh sáng ngọn đèn ***g, anh ta thấy một người thiếu niên vạm vỡ, ăn mặc võ phục trắng, quấn khăn trắng, đương trợn đôi mắt sáng quắc, vừa tinh anh vừa dữ dội, túm lấy cả hai tên lính, mỗi tên một tay, lắc đi lắc lại, làm cho chúng sợ hãi kêu la. Nhác thấy Giám trảm quan thiếu niên dừng lại. Cả hai tên quân, vừa bị khách lạ mặt rung cho một lúc mềm cả gân cốt, đều tức tối xoa cổ phân bua cùng bề trên:
    - Bẩm, có quan lớn làm chúung, tên này tự nhiên vô cớ ở đâu đến, nhất định đòi vào, nó bèn túm lấy cổ chúng con mà lay lấy lay để, xuýt nữa gẫy xương và nghẹn thở. Xin quan lớn bắt lấy nó mà trị tội.
    Thiếu niên nghe nói chỉ chống tay vào hông đứng cười. Hai tên quân lại càng căm tức. Sẵn có chủ ở đó, chúng cậy chó gần chuồng, định xông vào trói thiếu niên. Nhưng, gạt chúng ra hai bên, Giám trảm quan tiến lên mấy bước:
    - Ấy chớ! Chúng bây hãy lui ra. không được vô lễ, quí khách đây tức là cố chủ của ta. Bay có mắt cũng như mù thôi! Cút!
    Mắng lũ quân canh rồi, viên giám trảm phủ phục xuống lạy hai lạy, quì dưới đất. Thiếu niên rất ngạc nhiên, song nhanh trí, chàng vội vàng vái đáp lễ, đỡ viên quan đứng dậy. Mãi bấy giờ, dưới ánh đèn phờ phạc, chàng mới nhận ra người vừa khiêm tốn lạy ch2ng.
    - Ơ kìa! Thế mà tôi cứ tưởng là ai! Chẳng hoá ra Nguyễn Hải đó à! May quá, thực là một dịp bất ngờ. Ai hay đâu thầy trò ta lại có ngày còn gặp nhau đây!
    - Từ ngày loạn lạc xa nhau, con vẫn nhớ công tử quá. Nhất là công tử đối với con lại có chút ơn riêng con chưa báo được tí nào! Công tử bỏ đi đâu, làm cho cụ lớn nhà ta tìm mãi? Mà tới khi cụ và cậu hai kh6ng may thất lộc cậu cũng không thấy trở về. Có đi tìm cậu đến ngót tháng trời, song từ Bắc vào Nam, không biết tin tức cậu ở đâu hết c3. Biết đâu ngày ngay lại được phúc thấy nhau đây! Sau buổi cụ con và cậu hai mất rồi, con long đong mãi, bơ vơ không biết về đâu, mãi tới ngày khốn cực quá, con phải theo hầu Ngô Tư mã. Hôm nay ngài sai con đi hành hình Phò mã Võ Tiết chế. Thực là một dịp ngẫu nhiên: có ngờ đâu tự tay con lại được báo thù cho cụ! Nhưng đêm hôm đen tối, cậu lặn lội ra đây hẳn có việc gì?
    - Thì còn có việc gì! Cậu đến đây để mắt được trong thấy đầu Tiết chế rơi xuống đất! Cậu đến đây để nhúng tray vào máu cừu nhân! Cậu đến đây để xin Hải cho cậu làm đao phủ đó! Cậu đến đây để làm cho tiêu tán một mối đau đớn mà, nếu không, vạn cổ cũng không tiêu; đau đớn vì nghĩ đến cha cậu, em cậu, một đời anh hùng lừng lẫy, phút chốc hoá làm xú quỷ, nghĩ đến vợ cậu, tài sắc trọn vẹn, yêu chồng rất mực, mà không may không được sống an toàn hưởng cho hết tuổi thanh xuân... Cậu đến đây là vì thế đó!
    Thiếu niên nói xong câu ấy thì mắt lóng lánh chiếu ra những tia sáng sắc như gươm giáo. Tay chàng nắm lại tựa hồ muốn đắm ai cho hả giận, mặt chàng lộ ra vẻ gân guốc, cương quyết, tàn nhẫn, vì những đường dăn mà đôi mày cau lại cùng hai hàm răng nghiến chặt vào nhau vẽ ra trên khổ mặt lẫm liệt ấy.
    Viên Giám trảm trông cố chủ lộ ra vẻ bất bình căm tức, bỗng dịu dàng cầm tay thiếu niên nói nhõ khuyên rằng:
    - Hà tất cậu phải giết Phò mã làm chi cho mang tiếng là người không độ lượng; vả chăng giết một người nhát hèn như Võ Phò mã thì chỉ thêm bẩn lưỡi gươm thôi! Nay Trời chí công minh đã thay cậu mà trả thù hộ cậu, cậu chỉ nên đến viếng kẻ cừu địch cho kẻ kia phải đau lòng và hối hận, còn sự giết y thì cậu chớ nên làm!
    Vài lời nói thành thực của Nguyễn Hải hình như khiến thiếu niên đương mê quá tỉnh, chàng gật đầu lia lịa trong khi nét mặt đổi ra hoà nhã, hiền từ. Chàng cùng Nguyễn Hải đi vào trong chợ.
    Ở xa, thấy Võ Văn Nhậm bị lột trần trói ghì vào cột, ủ rũ đứng đợi sự chết, không hiểu vì sao, thiếu niên bỗng cảm động thương tình. Chàng bèn nhờ Giám trảm quan đem hai chiếc đèn ***g lại treo trước mặt tội nhân, rồi chàng từ từ tiến lại phía người khốn nạn sắp bị tử hình ấy, sụp xuống lạy y hai lạy.
    Ngạc nhiên, Võ Văn Nhậm ngước mắt nhìn ngưòi thiếu niên áo trắng đoái tưởng đến y trong khi bao nhiêu gia binh gia tướng đều bỏ y trơ trọi một mình, lúc ngắm xong, Nhậm bỗng đờ mặt há hốc mồm không nói được nữa, mãi hồi lâu mới khóc lóc kêu to:
    - Anh Tề công tử! Thật là tội ta đáng chết! Trời đ4 thay công tử hại ta đó mà! Ta đối đãi táng tận lương tâm với phụ thân ngươi, bạn đồng liêu của ta; nay chú vợ ta, ngươi nghe chưa, chú vợ ta lại tàn nhẫn với ta! Ðó là luật quả báo, đó là lẽ luân hồi, ta không còn oán ai được nữa! Oan oan tương báo, ta đã gieo nên oan nghiệt, ta phải làm bung xung cho nghiệt chướng của ta. Cớ sao ngươi không nghĩ thù cha mà lạy ta như vậy?
    Nguyễn Anh Tề không đáp. Chàng chỉ rút trong mình một bức thư nhầu nát, giơ lên ánh đèn đọch cho Nhậm nghe, xong rồi trao cho Nhậm. Bức thư đại khái như sau này:
    Bất hiếu nữ là An Trinh kính trình phụ thân là Võ đại nhân rộng xét:
    Con vô phúc đã không tuân lệnh cha, dám tự tiện cùng Anh Tề công tử thề nguyền vàng đá với nhau, đôi bên kết duyên Tần Tấn. Con những tưởng có thể cùng người yêu đẹp đôi cầm sắc, có ngờ đâu hai nhà Nguyễn Võ đã gây nên một mối thâm thù! Song le, trót ăn ở với tình lang con từ trước, con đã có mang ba tháng khi theo ra đất Bắc Hà. Lúc trở về, sợ không giấu giếm che đậy được nữa, lại sợ cha giận dữ không nghĩ thương tình mà giết đi, nên con phải trốn cửa nhà, đi theo chồng về Thanh Hoá. Chúng con định lánh bõ cõi đời túi bụi, yên phận ở với nhau cho đến bạc đầu, rồi đợi khi nào mối hiềm khích của hai nhà đã tiêu tan, bấy giờ sẽ về xin cha mẹ thứ tha cho tội lỗi. Nhưng Trời xanh cay nghiệt đã ghen với hạnh phục của chúng con riêng hưởng, xui nên cha không quên thù cũ mà đang tay giết chết Bằng Trung công. Phụ thân chồng con bị thác bởi tay cha, thì con còn sống làm sao gần chồng con được nữa! Vậy nên con phải chết. Con chết để chồng con khỏi mang tiếng là người bất hiếu. Nếu con còn sống ắt chồng cũng không dung mà càng thêm đeo xú danh của một phụ nhân dâm dật.
    Trước khi tự hủy mình cho toàn vẹn đại nghĩa con xin gởi lời về kính bái cha mẹ, xin cha mẹ nghĩ tình máu mũ mà tha cho tiện nữ này. Tội con thật đáng chết, cho nên con đã tự xử lấy thân, không để hổ thẹn đến nói võ tướng.
    Vài lời tuyệt mệnh, xin kính trình cha rõ, mong rằng vì sự con chết, cha sẽ thương lấy chồng con, ngõ hầu sự cừu oán đến đây là dứt, đừng giây giướng đến đời sau.
    Bất hiếu nữ Võ An Trinh đốn thủ.
    Nghe đọc đến câu cuối cùng, Võ Văn Nhậm bỗng kêu lên một tiếng, ngất đi. Anh Tề cũng thấy trên gò mà đầm đìa những giột lệ nóng như sôi, không thế nào cầm hãm được. Chàng càng nghĩ càng thương phận vợ, thương bao nhiêu, bấy nhiêu mối căm hờn đối với Nhậm cũng hình như giảm bớt đi nhiều.
    Chàng bèn lấy nước lã phun vào mặt bố vợ, lay gọi Nhậm hồi tỉnh. Mở mắt ra, Nhậm chỉ nhìn Anh Tề không đáp, nước mắt nước mũi chảy xuống ròng ròng. Hồi lâu, vừa thổn thức vừa nấc lên, Nhậm rền rĩ nói:
    - Ngày nay cha đã biết sự cha làm là lỗi, nhưng hối cũng muộn quá rồi! Nếu cha không có dã tâm hãm hại phụ thân con, có khi nào cha lại bị sa vào vòng tử tội! Chả qua là oan nghiệt! Nếu biết sớm hai con yêu vụng nhau dường ấy, có nỡ nào cha làm cho hai con phải vì cha lìa rẽ nhau ra! Sự hiềm thù vô lý kia, không có căn nguyên gì, mà đã gây ra xiết bao kết quả chua cay thảm khốc. Cha giết phụ thân con, để đến nỗi con gái yêu của cha phải ngậm hờn mà chết, rồi đến lượt cha phải trả nợ mất đầu. Con được mục kích sự đau đớn thống thiết của cha, thiết tưởng con cũng nên thương hại cha mà tha thứ cho cha thì phải! Con có tha lỗi cho cha, hồn cha mới được nhẹ nhàng trong sạch, nếu không nó sẽ bị đoạ đày trong xó lầm lội mịt mờ. Hương hồn phụ thân con nếu biết có giờ này, ắt cũng chả oán hờn cha!...
    Con ôi! Cha hối đã nhiều, cha đau đớn cũng đã nhiều, con có thấu cho cha không hở? Chỉ vì cha, mới nên nỗi nước này. Vì cha không giết Nguyễn Quân, thì hai chúng ta ắt đã gây nên nghiệp lớn, có đâu phải luồn lụy dưới quyền mấy thằng Tây Sơn đểu giả, dã man? Chả qua cha quá tin người, không nghĩ sâuxa, nên mới tan nát cả hai gia đình đến thế. Ôi! Ðau đớn! Ôi! Chua xót; đau đớn chua xót kể làm sao hết; mà kể lỗi xưa là mới đáng. Cha chết ngày ngay, nào có được êm ái, mau chóng hay lẫm liệt như phụ thân con đã thác; cha chết một cách khốn khổ, nhục nhã, trong khi xác thịt bị đau, linh hồn bị nát tan tành. Thế có đủ chuộc tội không con? Con có tha cho cha không con? Con có cho phép cha xưng ?ocha? với con không con? Con ơi, con trả lời đi, cha chỉ còn sống được nửa giờ nữa là hết đời cha vậy...?
    Võ Văn Nhậm vừa nói vừa khóc một hơi dài khiến cho Anh Tề, cầm không đậu mối thương tâm, cũng khóc lên nức nở. Bao nhiêu sự oán thù căm giận phút chốc bỗng tiêu tan đi như làn khói toả, để nhường chỗ lại cho lòng khoang dung vĩ đại, cũng như cho tình thương tiếc chân thành.
    Anh Tề hình như văng vẳng nghe trên không có tiếng phụ thân chàng nói xuống: ?oCon tha cho kẻ thù nhân đã biết hối quá!?; lại nghe như có tiếng vợ chàng thỏ thẻ từ cõi vô hình: ?oTha cho cha thiếp, chàng ôi!?...
    Chàng bèn lia lịa gật đầu, rồi mồm thì nói:
    - Con tha tội cho cha! Con tha tội cho cha! Trong khi thân phủ phục xuống đất Anh Tề lạy Võ Văn Nhậm hai lạy; lạy xong, chàng vùng té chạy mất, không dám ngoảnh đầu trông lại, cũng không dám ở lâu chứng giám cuộc chém đầu khốc liệt thảm thương, cuộc trảm quyết mà, vừa một vài giờ trưóoc đâ, chàng những muốn tự tay mình xử hộ cho tên đao phủ.

  10. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương 12


    Trong một ngôi chùa cổ ở gần động Tam Thanh xứ Lạn, từ dăm sáu tháng nay, người ta thấy đến tu hành một vị ni cô còn trẻ và có nhan sắc, đêm ngày chăm chỉ tụng kinh gõ mõ và đèn nhang ở chốn Phật đài.
    Vị ni cô đó ăn mặc rất nhã đạm, tựa hồ cố ý làm cho mình già xấu đi, để thiên hạ đừng để ý đến mình, ngõ hầu được yên ổn trong cõi đời thanh tịnh. Quả nhiên, muốn sao được vậy: quầng mắt, vì quá thức đêm, khóc lóc hay tư tự, chả bao lâu đã tím bầm; nước da, trước kia trắng đỏ hồng hào, bây giờ cũng xanh bủng, tái mét. Nét mặt ni cô dần dần hốc hác, hình dung nàng dần dần tiều tụy; mà có lẽ bầu tâm sụu nàng đeo nặng trong lòng, càng vì sự kham khổ của xác thịt, càng tăng phần chua xót thảm thương.
    Ni cô đau đớn bao nhiêu, bấy nhiêu, nàng định vùi lấp những tục lụy trần duyên trong sự nâu sồng khổ hạnh. Ðêm nào, sau khi thành kính tụng niệm trên tam bảo, nàng cũng chong đèn ngồi khóc lóc thở than. Như thế không biết bao ngày, chút lửa lòng của nàng vẫn không lấy giọt lệ tưới cho tắt được. Nàng hẳn bị một mối thất vọng gì sâu xa cắn rứt, hoặc bị nỗi thất tình gì nhục nhã giày vò.
    Ôm khối hận trường, nàng quyết sống một cuộc đời đ5m bạc, hoạ may mùi muối dưa sẽ, như nước cam lồ, có mãnh lực hàn dần những vết tử thương. Bởi thế, từ một thiếu phụ yếu ớt nhu mì, nàng hoá thành một đạo nhân can đảm.
    Ni cô sống một mình, với một hoàn cảnh tôn nghiêm cùng một gầm dĩ vãng. Những việc vặt trong chùa, cho đến sự đèn hương tụng niệm, nhất nhất nàng làm lấy cả, chỉ dùng một tiểu con để nằm ngủ cho có bạn mà thôi. Ðứa con gái nhỏ ấy, nàng nân niu yêu quí chả khác gì con nàng vậy.
    Chùa xây ở một chỗ hẻo lánh, gần núi mà xa thành thị, hoá nên nhũng khách đến vãn chùa chả có một ai. Họa chăng có một vài kẻ nhàn du đi xem phong cảnh, thì họ toàn vào động Tam Thanh xem tượng nàng Tô Thị, hoặc tìm những nơi sơn thủy hữu tình. Không người nào đoái hoài đến ngôi chùa cũ cỏn con, dựng khuất ở bên sườn núi trọc, giữa một chốn tiêu điều, tẻ lạnh, mà gót chân người ít để vết lại từ xưa.
    Chùa ấy là một cổ am bỏ hoang vắng đã lâu ngày; vị đạo nhân trụ trì trong am, kể có năm sáu năm nay, đã tự thiêu đi theo Phật tổ về cõi hư linh, huyền ảo. Khi ni cô đi qua Tam Thanh, định tâm tầm sư học đạo, nàng bỗng thấy nơi hoang vu tĩnh mạc, bèn dừng chân vào ngụ trong chùa. Chùa không có chủ, ni cô một mình sửa sang quét tước lại, mất đến nửa tháng trời mới giũ sạch được những vết bụi bậm, rêu cỏ, mà thời gian phủ trên một cảnh điêu tàn. Nhà cửa, Phật điện, một sớm được sạch sẽ quang đãng, ni cô tự nghĩ mình có công dọn dẹp, bèn dùng ngôi chùa làm chỗ tu hành.
    Rồi từ đó, nàng ở đấy, mua kinh về tụng niệm, không tìm thày, cũng không đi đâu nữa.
    Nàng đến ở chùa được non hai tháng thì một hôm vào khoảng trung tuần quí xuân, một thiếu niên tráng sĩ, không biết từ đâu đi đến, ghé vào chùa vãn cảnh, như chàng đã tò mò xem xét khắp mặt các sa môn ở vùng xứ Lạng. Khi nhận rõ mặt ni cô, tráng sĩ bỗng tỏ ý mừng rỡ cuống quýt rồi quì rạp xuống lạy nàng, kể lể, những chuyện gì không rõ. Ni cô mời tráng sĩ đứng dậy, nhủ chàng vào phương trượng, phân ngôi chủ khách ngồi đàm đạo hồi lâu, trong khi tiểu tỳ dâng trà hồng mai đựng trong một bộ chén sành.
    Một vài giờ sau, trước khi mặt trời lặn, thiếu niên từ tạ ra đi. Từ buổi ấy, không ai thấy chàng trở lại ngôi chùa cổ nữa. Mãi đến hạ tuần tháng một năm Quí Sửu, nghĩa là cách đấy non năm năm người ta mới gặp tráng sĩ trở về. Lần này, chàng ở lại chùa non nửa ngày, mà trong non nửa ngày ấy, chàng cùng ni cô vật vã khóc lóc một cách rất thảm thương bi thiết.
    Xong buổi khóc lóc ấy, tráng sĩ lại ra đi, rồi từ đó, chàng đi mất tích.
    Tráng sĩ không phải người đâu xa lạ, chính là công tử Anh Tề. Còn ni cô, nàng là một người trong quí tộc của hoàng gia: nàng tức là Hoàng phi vợ vua Lê Chiêu Thống đó.
    Từ ngày thua trận Mục Sơn, sau khi cha con Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết, vua Lê chạy trốn sang Bảo Lộc, rồi nay Hải Dương, mai Sơn Nam, đêm ngày cùng máy kẻ bề tôi trung nghĩa lo bề khôi phục. Khốn nỗi thế lực một ngày một kém, các triều thần đều lả tả mỗi người trốn tránh một nơi, không còn ai đủ cơ trí và hùng tài giúp nhà vua gây lại cơ đồ cũ nữa. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt rồi, Chiêu Thống không biết nương tựa vào ai. May thay lúc đó có kẻ thổ hào là Dương Ðình Tuân đem thổ binh ra hộ giá, bắt dân phu phải canh giữ đồnt rại ở bờ sông Nguyệt Ðức, Võ Văn Nhậm ra bắt vua không được, bèn dùng kế phản gián, làm cho Chiêu Thống ngờ vực Ðình Tuân, bỏ Tuân chạy ra huyện Chí Linh. Liễu trung hầu Ðinh Tích Nhượng lúc ấy đã theo hàng Tây Sơn, bèn đem quân ra Chí Linh đuổi bắt vua, may sao có hai tráng sĩ trung thần là Trần Ðĩnh và Hoàng Xuân Tú hộ vệ dùng lương binh chống cự với Ðinh Tích Nhượng, đánh Nhượng thua chạy. Nhượng thua rồi, vua đi sang huyện Thủy Ðường, tới nơi mới được tin rằng quan cựu thần là Hoàng Nhật Tuyển đánh được quân Tây Sơn ở cửa Lục. Ðồng thời lại có ông Ðinh Nhã Hành đem quân đến hội, vua cũng được yên lòng.
    Bỗng có tin Nguyễn Huệ ra Bắc Hà, sắp đem quân đến đuổi, vua Chiêu Thống định trốn về Thanh Hoá đem thủy quân đóng ở Quần Anh cùng lũ Hoàng Nhật Tuyển và Ðinh Nhã Hành. Không may nửa đêm bị gió bão nổi lên, thổi bạt thuyền rồng vua ngựa vào Thanh Hoá, và trôi thuyền Hoàng Nhật Tuyển ra cửa Cần Hải.
    Tuyển thấy quân tình rắc rối, lại lâm thế cô quẫn, đành phải ra hàng Nguyễn Huệ, bị Huệ bắt đem giết đi.
    Vua Lê từ bạt vào Thanh, lại cùng vài người bề tôi trung nghĩa trốn ra Bắc, ẩn nấp ở mấy trấn Sơn Nam, Kinh Bắc, lo sự gây dựng lại cơ đồ. Khốn thay, một mình không đương nổi đại sự, vả cũng không có người hào kiệt nào ra sức giúp đỡ, nên mấy phen mưu mô định khởi nghĩa đều bị thất bại cả. Túng thế, sau cùng, vua phải đem Hoàng gia lên nương náu ở Lạng Giang.
    Trong khi ấy ở Thăng Long, Bắc bình vương Nguyễn Huệ, giết xong Võ Văn Nhậm, cho gọi tất cả các quan văn võ nhà Lê vào yết kiến, đặt quan trấn thủ và quan lục bộ, giữ Sùng nhượng công Duy Cẩn làm Giám quốc để coi việc tế lễ cho tiên triều. Trước khi về Nam, Huệ lại sai bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc.
    Vua Chiêu Thống ở lâu ở Lạng Giang, nóng lòng sốt ruột, bèn cho Hoàng thái hậu đem Hoàng Phi và Hoàng tử sang Lông Chhâu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Vợ con vua Lê vào cầu khẩn quan Tổng đốc Lưỡng Quảng: là Tôn Sĩ Nghị. Nghị thương tình bèn dâng biểu tâu vua Càn Long đại lược nói rằng:
    ?oNhà Lê xưa nay vốn là công thần nước Tàu, đời đời cống hiến Triều đình; nay Tự quân bị giặc xâm chiếm mất đất, phái mẹ và vợ sang cầu cứu, xét cũng nên giúp, trước cứu được vua Lê, chiếm lại được miền Nam, lợi cả đôi đường, nhất cử lưỡng tiện. Khi vua Lê chiếm lại được ngôi, ta sẽ đóng quân để giữ đất nước, thế là nước An Nam sẽ về tay người Tàu vậy.?
    Chuẩn lời tâu Tôn Sĩ Nghị, vua Càn Long giáng chiếu sai khởi quân Lưỡng Quảng và quân hai tỉnh Vân Nam, Quí Châu giao cho Nghị cai quản để sang đánh An Nam. Nghị chia binh là ba đạo, một đạo sang Tuyên Quang, một đạo sang Cao Bằng, một đạo sang Lạng Giang, cả ba cùng thẳng tiến đến Thăng Long. Ðạo Tuyên Quang do tổng binh Vân Nam điều khiển; Ðạo Cao Bằng do Sầm Nghi Ðống tri phủ Ðiền Châu đốc xuất, đạo Lạng Sơn tự Sĩ Nghị cùng đề đốc là Hứa Thế Hanh chỉ huy.

Chia sẻ trang này