1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kho vàng Sầm Sơn - Tchya

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi M_n_M_new, 15/01/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0

    Quân nhà Thanh rầm rộ kéo đến Thăng Long; bọn tướng Tây Sơn thấy uy thế ba đạo mạnh quá sợ sức không địch nổi, bèn rút cả hai mặt thủy bộ về đóng giữ ở đèo Tam Ðiệp, rồi sai người về Phú Xuân cáo cấp với vua Quang Trung.
    Tôn Sĩ Nghĩ không gặp ai cản trở, cứ thẳng đường đến Kinh Bắc. Vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi cùng quân Tàu cùng về Thăng Long. Nghị lập hành doanh ở giữa bãi, về mé Nam sông Nhị Hà, sai bắc cầu phao ngang sông để tiện đường đi lại và chia quân ra đóng giữ hết các mặt.
    Qua ngày hôm sau, Tôn Sĩ Nghị mời vua Chiêu Thống ngự sang trại quân rồi lại đại lễ tuyên đọc tờ sắc chỉ của vua Càn Long phong cho vua Lê làm An Nam Quốc vương. Tuy được thụ phong, Chiêu Thống vẫn phải để niên hiệu Càn Long trên các văn thư, lại phải mỗi buổi chầu xong sang đồn Sĩ Nghị để hầu quan tổng đốc xen ?oNgài? có bàn gì về các việc cơ mật quân quốc chăng. Mỗi lần sang chầu vua đi ngựa từ đền Vạn Thọ ra tới bãi Cơ Xá, chỉ có mười tên Ngự Lâm quân theo hầu. Vua chịu nhẫn nhục bao nhiêu, thì bấy nhiêu nghị càng ngạo nghễ tự đắc, xử với vua rất tàn tệ khinh bạc, lắm khi không cho vua vào yết kiến, chỉ sai người ra đứng dưới gác chuông truyền lệnh.
    - Hôm nay không có việc gì, thỉnh Quốc vương hãy về cung yên nghỉ, hôm khác sẽ lại hầu!
    Bàn dân thiên hạ ai trông thấy cũng ngậm ngùi tức tối, nhao nhao bàn tán về sự yếu hèn của Chiêu Thống, về vẻ láo xược của quan Tàu.
    Bởi thế, lòng dân xứ Bắc Hà đã chán nản càng thêm chán nản hơn nữa.
    May sao, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, khi được bọn Ngô Văn Sở báo về, lập tức hội cả các tướng sĩ dưới trướng để bàn định đem quân ra đánh tướng nhà Thanh. Treo lời khẩn cầu của bách quan, Ngài trước tiên lên ngôi chính tôn, để yên bụng quần chúng đã, rồi nhiên hậu mới tế cờ khởi binh ra lấy Bắc Hà.
    Ngày 25 tháng một, năm Mậu thân (1788) trên đàn lập ở sườn núi Bàn Sơn, ngài làm đại lễ tế trời đất rồi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Xong, ngài tự thống lĩnh thủy bộ đại binh để đi đánh giặc. Ngài kén được mười vạn hùng binh và một trăm voi, truyền tụ cả võ trường trong thành Nghệ An, đê nghe lệnh vua nhủ bảo phải gắng công gắng sức đánh giặc Thanh giúp nước. Ðoạn đại binh giong ruỗi lên đường, đến ngày 29 tháng chạp thì ra tới đèo Tam Ðiệp.
    Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm ra lạy mừng và tạ tội, kể chuyện quân tÀu sức mạnh, đương không nổi nên phải lui binh. Vua Quang Trung cười nói:
    - Chúng nó sang phen này, chỉ là mua cái chết đó thôi! Ta đây đã sẵn mẹo mực trong tay chỉ trong khoảng mười ngày là dẹp tan lũ ong kiến đó. Nhưng chỉ sợ nước nó lớn gấp mười ta, thua phen này tất nó xấu hổ, thế nào nó cũng mưu sự báo phục, dân ta sẽ bị chinh chiến đoạ đày mà khổ ải vô chừng. Vậy, đánh xong trận này, ta phải nhờ Thời Nhiệm cùng bút thiệt giúp cho bãi việc binh đao. Ðợi mười năm nữa, khi ta đã dưỡng sức hùng cường rồi, thì không cần phải sợ quân Ngô kia nữa!
    Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ được nghĩ ngơi ăn tết Nguyên Ðán trước, để tới ngày trừ tịch thì cất quân đi, định đến khai hạ sẽ vào Thăng Long làm lễ ăn mừng. Xong, ngài sai nổi trống tụ cả ba quân đến dưới tướng đài nghe lệnh.
    Sở và Lân thì đem tiền đội đi tiên phong, có Hán hổ hầu đi đốc chiến, Ðại Ðô đốc Lộc và Ðô đốc Tuyết thì chỉ huy đội hữu quân cùng thủy quân vượt qua bể vào sông Lục Ðầu: Tuyết đến cửa sông sẽ kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng mé Ðông; Lộc sẽ sang vùng Lạng giang Yên Thế chẹn lối quân Tàu thua chạy về. Ðại Ðô đốc Bảo cùng đề đốc Mưu cai quản tả quânv à tượng mã đi đường núi ra chắn phía Tây: Mưu phải thẳng ra huyện Chương Ðức, tiện đường kéo đến huyện Thanh Trì, đánh quận Ðiền Châu; Bảo thì thống xuất voi ngựa theo đường Sơn Lãng, rồi cũng đến Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.
    Thế là năm mặt quân đều dàn xếp xong cả; lần này sẽ vây bọc quân tàu như vây bọc trong lưới sắt, khó lòng có tên Ngô nào trốn thoát trở về. Ðến đứng ngày 30 tết năm Mậu thân ba quân hùng hổ khua chiêng gióng trống, mở cờ dựng giáo, kéo ùa ra các đường trọng yếu xứ Bắc Hà.
    Ðầu tiên, tới sông Giản Thủy, gặp nghĩa quân nhà Lê, nghĩa quân chưa đánh đã tan vỡ, chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc tướng sĩ đuổi theo đến huyện Phú Xuyên, bắt sống được cả toán quân Tàu đóng đồn ở đấy, không một tên nào chạy thoát. Bởi thế, quân Tây Sơn hoành hành dữ dội ở gần Thăng Long mà bọn Tôn Sĩ Nghĩ đều mải mê chè rượu, tết nhất, không biết gì hết cả, bởi lẽ không có tên quân Tàu nào trốn khỏi lưới để chạy về báo tin nguy cấp cho chủ soái hay. Thậm chí đến những tóp quân nhà Thanh đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi, gần Phú Xuyên, chúng cũng không biết tí gì hết cả.
    Nửa đêm ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn đến vây kín đồn giặc ở Hà Hội, bắc loa lên gọi, hàng muôn người hưởng ứng dạ vang trời, làm náo loạn hẳn vẻ tĩnh mịch của ban đêm. Quân canh đồn bấy giờ mới giật mình biết có biến, nhưng tưởng có đông người lắm nên sợ hãi vội vã xin hàng vua Quang Trung thu được quân lương và khí giới không sót một chút gì còn lại.
    Sáng mờ mờ hôm mồng 6, quân ngài lại tiến đến đồn Ngọc Hồi, giặc Tàu trông thấy tinh kỳ bắn súng như mưa. Ngài bèn nghĩ ngay một kế, sai lấy những mảnh ván, ghép ba làm một, dùng rơm cỏ giấy nước quấn ở ngoài, rồi truyền cho những binh kiêu dũng, lưng giắt sẵn dao găm nhọn sắc, cứ hai mươi người khiêng một tấm khiên lạ lùng ấy, mở lối cho hai mươi người nữa cầm khí giới đi ẩn ở mé sau khiên, Vua thì cưỡi voi đi hậu tập đốc chiến. Quân ngài vào đến gần đồn, bỏ khiên rút dao, xông vào chém xả, bọn có binh khí cũng kéo ùa cả vào đánh túi bụi. Thế lực mạnh như nước chảy, gió cuống, quân tưóng nhà Thanh không địch nổi, xôn xao chạy tán loạn, mất cả đội ngũ cứ xéo lẫn lên nhau chết như rơm rạ. Quân Tây Sơn lợi thắng kéo tràn lên, tiến đánh mãi, lấy được cả mấy đồn, tàn sát quân Tàu thây chết ngổn ngang khắp đồng, máu chảy từng vũng như ao lớn.
    Trong khi ấy, quân các đạo Hải Dương, Yên Thế, Chương Ðức, Thanh Trì cũng đều oàn thắng, đánh trống khải hoàn kéo cả đến Thăng Long. giữa cuộc huyết chiến túi bụi, đề đốc nhà Thanh là Hứa Thế Hanh, tiên phong là Trương Sĩ Long, tả dực là Thượng Duy Thăng đều tử trận; còn tri phủ Ðiền châu là Sầm Nghi Ðống đóng ở Ðống đa, bị quân An Nam vây nguy cấp quá, cũng thắt cổ tự tận.
    Sau trận khốc liệt này, quân Tàu chết gần hết, bao nhiêu thi hài đều xếp lại một chỗ, chôn cả vào một hố trên mặt đấp thành gò cao, đỉnh gò có dựng một ngôi đền thờ những tử sĩ và Sầm Nghi Ðống. Ðền ấy đến nay vẫn còn, ai có dịp đi qua Thái Hà ấp, gần Hà nội, người ấy chắc đã từng để ý đến đền Trung Liệt, ngất ngưởng đứng trên một cồn đất để kỷ niệm lại ngàn thu cái tài thao lược vô song của vua Quang Trung.
    Khi các đồn trại đã bị phá cả rồi, Tôn Sĩ Nghị mới được tin báo, hoảng hốt, sợ hãi, đang đêm không kịp mặc áo giáp, thắng yên ngựa, chỉ tất tưởi đem được mấy tên lính kỵ chạy qua sông Bắc. Quân trong doanh không có chủ đều xôn xao toán loạn, tìm đường chạy trốn, xô nhau ùa cả lên cầu phao, cầu đổ, đều sa cả xuống sông chết đuối, thây chất đầy sông Nhị Hà.
    Trong lúc hỗn độn, vua Chiêu Thống cùng mẹ, vợ con và mấy người cận thần dắt díu nhau chạy sang Tàu theo Tôn Sĩ Nghị. Không may giữa đường tránh nạn, lại bị lạc mất Hoàng Phi, chỉ có vua, Thái Hậu và Hoàng Tử trốn thoát.
    Vua Quang Trung vào được thành Thăng Long rồi còn cho quân đi đuổi quân nhà Thanh; hai đạo Quí Châu và Vân Nam thấy thế đuối, cũng bỏ Sơn Tây chạy về, quân An Nam đuổi rát mãi đến Nam Quan mới chịu thôi. Nghe miền Lạng Sơn đều khủng khiếp, bồng bế nhau trốn chạy; thành ra từ cửa ải sang mặt Bắc đến hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe tiếng một người nào!
    Bà Hoàng phi đương thất thểu theo chồng lẫn trong đám bách tính khóc như di, chẳng may bị quân Tây Sơn đuổi kíp quá, sức yếu chạy không kịp, lạc mất quân vương, đành khóc lóc trốn sang Kinh Bắc. Bà náu ở Kinh Bắc ít lâu, nghe tin vua trốn sang Tàu, bèn lên Lạng Sơn tạm nương thân trong một ngôi chùa, tu hành cho vẹn tiết nghĩa với vua, chờ ngày Chiêu Thống trở về, khôi phục lại được giang san đã mất.
    Nhưng bà chờ mãi, chờ mãi... Những giờ lạnh lẽo im lặng trôi chỉ đem lại cho bà một nỗi buồn thấm thía, nỗi buồn của một ngọc điệp kim chi thất thế, nỗi buồn của một từ mẫu lìa con, nỗi buồn của một cô phụ xa chồng!... Xa chồng mà thụuc cũng như mất chồng; mùi muối đưa chay tịnh của thiền môn, đạo bác ái cao siêu của Phật tổ có chăng chỉ tẩy sạch được trong tâm hồn ly phụ cái mối u hoài trường hận nó giày vò nàng đêm ngày, dằng dặc mãi... không thôi?
    Ni cô cố quên... Nhưng nào hay, công tử Nguyễn Anh Tề lại làm nhóm lại trong dạ khô héo của nàng một nguồn hy vọng đầm ấm mà, một sớm mai, sự tàn ác của những trường hợp éo le đã làm cho tắt hẳn, tắt vùi như tro nguội!...

  2. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương 13


    Hoàng Phi trốn sang Kinh Bắc từ khoảng thượng tuần tháng giêng năm Kỷ Dậu, mãi đến hạ tuần tháng ba, nàng mới gặp Nguyễn Anh Tề. Trong khoản đó, công tử về Thanh Hoá và đi khắp các sa môn ở hai trấn Lạng Sơn, Kinh Bắc, mãi sau cùng chàng mới gặp lệnh bà.
    Bao nhiêu cố thần nhà Lê, tức tối về nỗi thay quyền chính, rủ nhau họp thành bè đảng, toan sự khôi phục; họ cố lùng kiếm cho ra Hoàng phi, song bà hết sức lẩn tránh không muốn ra mặt. Chỉ một mình Anh Tề là có duyên được thấy bà trong một buổi ngẫu nhĩ; trước kia khi theo cha ra Thăng Long, trong lúc dự đám cưới công chúa Ngọc Hân lấy Uy quốc công Nguyễn Huệ, công tử có nhận được mặt Hoàng Phi, thuở ấy còn là vợ Hoàng tôn Duy Kỳ. Vể đẹp phúc hậu và hiền thục của Hoàng phi, nhất là cái mồm nàng cười rất có duyên, đã để một kỷ niệm xâu xa trong tâm hồn công tử, bởi lẽ nét khuynh thành của vợ Hoàng tôn, từng chút một, giống như tạc nhan sắc của Anh Trinh, An Trinh người thiếu phụ chàng thờ trong linh đài như thờ một nữ thần tuyệt đẳng.
    Lầy này, gặp Hoàng phi dẫu bà gầy đi, yếu đi, xanh xao tiều tụy đi. Anh Tề cũng nhận được ngay tức khắc: những kỷ niệm giấu trong đáy óc chàng đã giúp chàng có mộ thứ trực giác vững vàng, tìm được Hoàng phi trong một ni cô nâu sồng: điềm đạm.
    Phụ phục trước mặt người đàn bà thứ hai mà chàng sùng kình, nhưng sùng kính một cách tối cao thượng thiêng liêng ?" Anh Tề vừa khóc vừa đập đầu xuống đất:
    - Tâu lệnh bà, kẻ hạ thần tìm Lệnh bà đã mấy tháng trời này; mãi bây giờ mới được chiêm ngưỡng tôn nhan trong am sâu thanh vắng này! Hạ thần vốn dòng dõi cựu thần nhà Lê, sống chết vẫn thờ nhà Lê, dẫu bị gan óc lầy đất cũng không hối hận. Thần là con trưởng Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh; Cha thần thủa bình sinh chịu ơn nặng của tiên triều, của Hoàng thượng, nhưng không may giữa đời bị hại, chưa báo đáp non sông nhà Lê được một chút nào. Thần sinh sau đẻ muộn, song cũng cố noi theo ý chí tổ tiên, đêm ngày lo sự khôi phục cho xã tắc. Vả chẳng, quân Tây Sơn giết mất cha và em thần, thù ấy bất cộng đới thiên, lẽ nào thần nỡ khoanh tay ngồi mà không báo?
    ?oNay thân bốn bể không nhà, tang hồ một túi, thực không còn có sự gì bó buộc nữa. Mục đích của thần là đi tìm Lệnh bà, ngỏ cho Lệnh bà biết việc cơ mật để Lệnh bà an lòng chờ đợi, rồi thần sẽ ra đi, đi tìm Thánh thương, giúp Ngài lấy lại sơn hà!?
    Hoàng phi nghe nói nửa mừng nửa sợ, không hiểu Nguyễn Anh Tề có thực bụng trung nghĩa hay chỉ là một tay thám tử của tân triều. Cố hết sức trấn tỉnh tâm thần, nàng mời khách vào phương trượng. Trong khi đàm luận, Hoàng phi trong cử chỉ và dung mạo của Anh Tề, biết chàng không phải là người gian giảo phản trắc, cũng cứ thực tình giải tỏ cho chàng biết những nỗi đoạn trường cơ cực, bấy lâu nay đèn nén trên mái đầu còn non nớt của nàng.
    Thế rồi, từ giã Hoàng phi, Nguyễn Anh Tề phấn khởi ra đi, sau khi thề với nàng sẽ lấy thân thế và sinh mệnh giúp nhà Lê khôi phục.
    Trong chốn am sâu thẻ lạnh, Hoàng phi ra sức đợi chờ. Năm lại nối năm, những ngày buồn vắng hờ hững lướt qua không đem lại cho nàng một tin tức gì vui vẻ. Vua Chiêu Thống còn hay đã mất, nàng mịt mù chẳng biết tăm hơi. Bạn với nỗi u ẩn trong lòng, với cảnh tiêu điều ám đạm, nàng chỉ còn biết vùi sự đau đớn âm thầm trong làn khói xanh nghi ngút, trong sự thanh kiết nâu sồng, trong mấy pho kinh Ðịa tạng mà, ngày đêm chăm chỉ, nàng vừa gõ mõ vừa dốc lòng tụng niệm rì rầm.
    Bao nhiêu kỷ niệm rực rỡ của thời xưa, bao nhiêu nông nỗi khó khăn vừa mới trải, dần dần, như bị thôi miên bởi giọng ê a ru ngủ, trôi vào gầm tối vắng ơ hờ. Quên sự phú quí quên đời ngọt bùi, quên mùi lượt là đài các, Hoàng phi có đủ gan quên hẳn, quên cả, chẳng thèm tiếc nhớ đoái hoài. Nhưng mà... nhưng mà... tình mẫu tử, nghĩa phu thê, cái đau đớn của một thiếu phụ xa con xa chồng, nó lắm lúc, giữa bể lòng phẳng lặng, rào rạt lên như làn sóng cuộng, rồi nhô cao, nhô mãi, phi bọt tứ tung trắng xoá, gây thành một trận phong ba. Trận phong ba ấy, nếu linh hồn Hoàng phi chỉ hơi bị sự gì xúc cảm, là một lần lại bồng bột lên, làm náo laọn hẳn tâm nàng. Thương con, nhớ chồng, những tình cảm thiêng liêng của một cô phụ thất thế lỡ duyên, nước Cam lồ, dẫu đầm ấm đến đâu, cũng khó nỗi rửa tiêu đi được.
    Bởi thế, dù lắm lúc Hoàng phi cố hết sức trấn tĩnh tâm thần để tụng kinh niệm Phật, nàng vẫn thấy nhoi nhói trong linh hồn, như bào xé, như cắn rứt, những nỗi niềm cay đắng gây ra bởi cuộc phân ly. Sự chờ đợi của nàng, tưỏng đâu nó sẽ có kết quả mỹ miều mãn nguyện; có ai hay nó cũng mất đi với đống tro tàn của tấm hy vọng hảo huyền như mộng tưởng, nó bỗng hoá ra vô dụng, như đã vô dụng, những ngày áo não đợi chờ...
    Thế rồi... thế rồi, một buổi sáng mùa đông năm Quí Sửu (1793), một câu chuyện của Nguyễn Anh Tề kể lại, nó đã khoảnh khắc diệt hết những nguyện ước đầm ấm ấp ủ khối lòng lạnh lẽo của Hoàng phi, nó đã làm tiêu tán hết bao nhiêu nỗi thương đau, bao nhiêu nguồn nhục nhã, bao nhiêu cơn sầu thảm, từ trước đếnnay, nàng vẫn kiên tâm hoài bão. Giờ đây, nàng chỉ còn biết cúi đầu trước số mệnh, sống nốt quãng đời thừa, sống nhẫn nại, sống âm thầm, sống hiu quạnh như một ni cô đắc đạo. Xác nàng tuy còn chứa một đôi chút sinh khi khiến nàng góp mặt với trần ai, nhưng hồn nàng đã chết rồi, tâm nàng đã héo rồi, nàng có sống cũng như thác vậy.
    Không còn một hy vọng gì hồi lại được ngọn lửa trong lòng nàng đã vùi tắt ngấm; không còn một khoái lạc gì trên đời xúc động được xác thịt nàng đã cằn, con tâm nàng đã cỗi; không còn một thị dục gì nhóm lại những tia sáng trong mắt nàng ngày nay như say sưa đắm đuối trong bầu mộng tưởng; không còn một cộng cuộc gì làm nở lại nụ cười xinh đẹp trên đôi môi nàng xưa kia thắm đỏ, mà giờ đây nhợt nhạt, tím bầm...
    Chỉ bởi vì... Sáng hôm đó, đương buổi trước Phật đài, Hoàng phi rù rì khấn khứa, nàng thình lình thấy một bóng người từ từ tiến đến, bóng một người đàn ông vạm vỡ, đeo một lưỡi gươm trường vắt vẻo bên hông. Người đó là Nguyễn Anh Tề.
    Thấm thoát năm năm cách biết, chàng nhìn nàng thấy nàng hình dung tiều tụy; mà nàng trông chàng cũng thấy chàng già xấu xí đi nhiều. Nét mặt trước kia khôi ngô rắn rỏi, đôi mắt buổi thiếu thời sáng ngời và linh lợi, chỉ trong một quãng biệt ly ngắn ngủi, đã bị cuộc phong trần làm cho cằn cỗi ám mờ. Ðôi mắt mất hẳn tinh anh cũng như nét mặt kém vẻ khôi ngô trắng trẻo: những nét dăn, - kỷ niệm bao cuộc đau thương thấm thía, - hoành hành trên làn da đen xạm như đồng.
    Sau khi vào nhà phương trượng, mới thoạt đặt lưng ngồi xuống, chưa kịp nhấp giọng bằng vài giọt nước hồng mai, Anh Tề đã lệ rỏ đầm đìa, nức nở trước khi kể chuyện, khiến Hoàng phi chợt thấy vẻ thương tâm của tráng sĩ, đã đoán ngay lời chàng sắp nói, tất chỉ là những tin dữ dội, thảm buồn. Nàng cũng oà lên khóc.
    Hồi lâu, thấy khối lòng hơi khuây khoả nhẹ nhàng, chừng như đã trút được ít nhiều đau khổ trong nguồn nước mắt trào ra, Anh Tề mới lấy vạt áo lau mặt, nhìn Hoàng phi một cách âu sầu:
    - Lệnh bà đừng than khóc làm chi nữa cho mình vàng thêm mỏi mệt! Hạ thần đã định tâm gắng hết sức bình sinh giữ lòng bình tĩnh, ngõ hầu an ủi Lệnh bà. Nhưng thần ngày nay khí thế đã kiệt rồi, hy vọng đã tuyệt rồi, thần chịu ngậm miệng nhai nuốt quá nhiều đau đớn, hoá nên không kiên gan được nữa, không cầm được giọt lệ nữa! Lệnh bà chắc đã đoán rõ những chuyện thần sắp thuật ra toàn là những tin xé ruột, toàn là những trang của một pho lệ sử thảm thương. Phải, thần chịu nỗi cay đắng đem lại cho Lệnh bà một mối hận ngàn thu không sự gì giải được. Thần là kẻ thông tin của Thảm khốc, người sứ giả của Ðoạn trường. Thần là một con xú quỉ, nhưng cũng là một vị phúc tinh. Thần đến đây để báo cho Lệnh bà những đại tang mà oan nghiệt gieo lên đầu chầu, mà cũng đến đây để làm cho mối thương tâm của chầu bớt đi một phần thiết tha sâu sắc.
    Tâu Lệnh bà Thánh thương ngày nay đã là người thiên cổ, Ngài xuống suối vàng tìm Thái tử đã hơn một tháng nay rồi! Chỉ còn một mình Thái hậu ở lại bên Tàu, để ngày đêm thương khóc cháu và con, như Lệnh bà khóc chồng và con vậy...?

  3. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Anh Tề nói đến đây, chưa dứt câu, Hoàng phi đã kêu rú lên, vật mình xuống đất, khóc ngất đi một lúc. Anh Tề và con nữ tỳ hết sức lay gọi, phun nước vào mặt, bấy giờ nàng mới tỉnh, những tĩnh rồi càng rên rỉ khóc than. Anh Tề thấy cảnh động lòng cũng phải sụt sùi thổn thức. Song chàng vội trấn tĩnh, uống cạn mấy chén nước hồng mai, rồi nói:
    - Bây giờ Lệnh bà có quá sầu muộn, sự cũng đã rồi, chỉ tổ làm cho ngọc thể đã yếu còn suy nhược dần dần đi mãi. Lệnh bà mới chỉ nghe nói đức vua đã băng hà, Thái tử đã thất lộc, nhưng Lệnh bà chưa biết rõ những cớ sự, những nông nỗi, đã xảy ra trước cái chết của hai ngài.
    Lệnh bà cũng nên lắng tai nghe thần kể rõ nguồn cơn; như thế, dù không theo Hoàng gia sang đến nước người, chầu cũng tựa hổ được gần cạnh Hoàng thượng và Ðông cung trong khoảng cách xa nhau vậy.
    Lệnh bà chắc hẳn còn nhớ hôm thần qua đây tìm chầu lần thứ nhất. Chiều hôm ấy, sau khi ra khỏi Tam thanh này, thần cứ thẳng đường, đi không nghỉ, đến cửa Nam quan. Rồi, nhân một buổi tối trời, thầnnai nịch chỉnh tề, vượt qua ải đi sang Long Châu.
    Sang đến nơi, nghe nói Thánh thượng cùng quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã về Nam Ninh, thần cũng theo sang ở đó. Chưa được bao lâu, Tôn Sĩ Nghị phải gọi về triều, Phúc Khang An đến thay làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Nguyên vua Càn Long nghe tin Nghị đại bại trốn về, bèn thịnh nộ giáng chỉ bắt Nghị về kinh đô trị tội. Phúc Khang An là người Mãn Châu, thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn được vua nhà Thanh tin dùng, nên cho ra thay Sĩ Nghĩ. An ra đến Quảng Tây, nghe tiếng quân An Nam mạnh thế lắm, trong bụng đã sợ, có ý muốn hoà, cho khỏi bị thất thố như quan Tổng đốc cũ. Ðương khi băn khoăn, may làm sao vua tôi nhà Tây Sơn tỉnh ý, từ trước đã sai Ngô Thời Nhiệm thảo quốc thư đưa sang Tàu tạ tội, xin giảng hoà và đem giao trả những quân bắt được trong khi giao chiến. Bên này thì Phúc Khang An cũng muốn tránh việc binh lửa, sai đưa quân thư sang An Nam nói việc lợi hại và khuyên Quang Trung dâng biểu tạ tội cho yên hẳn sự can qua. Nhận được thư vua Tây Sơn phái ngay người đem vàng bạc sang đút lót cho Khang An và sai cháu là Quang Hiển cùng quan là Vũ Huy Tấn tải đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu kiến vua Càn Long để xin thụ phong.
    Phúc Khang An, được ăn lễ, mượn tay trong là Hoà Thân giúp đỡ. Hoà Thân cũng là người Mãn, trước kia cùng coi việc phiêu viễn với Khang An trong dinh Hoàng Kỳ, rất có thế lực. Nguyễn Quang Hiển sang Yên Kinh, trước hết vào hầu Hoà Thân, dâng vàng bạc châu báu và trình thư của Nguyễn Huệ cầu khẩn giúp đỡ. Bởi thế, mặt ngoài nhờ Khang An đạt biểu nói hộ, mặt trong thì có Hoà Thân dùng lời tâu khéo, điều gì cũng hợp ý vua, nên Càn Long sai sứ sang phong cho Huệ làm An Nam quốc vương, lại giáng chỉ đòi Quốc vương vào chầu.
    Cách đó mấy tháng sau, thiên hạ thấy một đoàn xa mã vào Yên Kinh: Bón quan văn võ Ngô Văn Sở, Ðặng Văn Chân, Phan Huy Ích, và Võ Huy Tấn phò vua An Nam vào chầu Thanh Hoàng đế. Ngoài những phẩm vật đem cống tiến như sừng tê, ngà voi, bạc vàng châu báu vân vân, còn có thêm một đôi tượng đực. Trong khi hành trình, vua tôi An Nam nhiều phen nghỉ trong quán dịch, những cung, trạm ở dọc đường phải phục dịch cung đốn rất là vất vả. Khi tới địa phận Quảng Tây, quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khan An và quan Tuần Phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải thân đưa Quốc vương vào chầu.
    Ròng rã mấy tháng trời, đoàn xa mã tới Yên Kinh; Vua Càn Long cho vời An Nam quốc vương và các quan theo hầu vào Nhiệt Hà, lại cho Quốc vương lên tận bệ rồng làm lễ ?obão tất? (ôm gối), như tìnhc thiên hạcon vậy. Xong, Thanh hoàng đế ban cho Quốc vương được vào điện ăn yến với các thân vương. Ðến lúc giã từ về nước, vua Tàu lại sai thợ khéo vẽ một bức tranh truyền thần Quốc vương rồi ban cho, ân lễ thực là tối hậu.
    Quốc vương An Nam từ đấy được vua nhà Thanh yêu mến, hoá không ai nghĩ đến việc chinh phạt nhà Tây Sơn nữa. Mãi sau này, cách đó non nửa năm, các quan theo hầu Hoàng thượng ta và thần mới được rõ có đoàn cống tiến An Nam sang Tàu, nhưng Quang Trung không sang, sai người Phạm Công trị dung mạo giống mình, trá hình làm Quốc vương sang chầu Thanh Hoàng đế.
    Những sự đó xảy ra mấy tháng sau khi Phúc Khang An đem Hoàng thượng và các quan ta về Quế Lâm. Nó lại hết sức giấu giếm những viếc phong vương cho Nguyễn Huệ, hoá nên vua tôi vẫn mịt mờ, không biết một tí gì. - Bấy giờ đi theo Hoàng thượng có Hoàng thúc Lê Công Duy Án, cùng các quan văn võ như bọn Ðinh Nhạ Hành, Ðịnh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh, Phan Khải Ðức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn; cả chín người nối gót Thánh thượng và ra mắt Khang an khi hắn vừa tới nhậm chức. Thằng ác bá ấy trong lòng không muốn giúp nhà Lê nữa, nên ngoài mặt tuy làm ra vẻ hiền hoà mà trong lòng đã bày đặt sẵn mưu kế quỉ quyệt để chia rẽ Chúa thượng ra một nơi, lũ quan tòng vong ra một nẻo. Hắn bèn dùng ngay Ðịnh Nhạ Hành làm Thủ bị Toàn châu, phong Phan Khải Ðức làm Ðô tư Liễu châu, còn thì tùy tiện an trí mỗi người một chỗ, để có Hoàng thúc, các quan Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh theo chúa thượng vào Quế Lâm mà thôi. Tháng tư năm Kỷ Dậu (1789), vua tôi vào thành Quế Lâm, Phúc Khang An bèn giả vờ an ủi Chúa thượng, nói thác rằng:
    - Hiện nay tiết trời đã sang hạ, khí hậu không tốt vì nắng nực lắm, sang đánh phương Nam không tiện e quân sĩ bị nhiều nhiệt chứng mà chết. Ðợi đến mùa mát mẻ, ta sẽ khởi quân. Vậy nhà vua nên bảo bọn thuộc tướng sửa soạn luyện tập trước đi, hễ tới dịp thì phát binh ngay, nhân lúc xuất kỳ bất ý mà tiến sang như nước lũ, hoạ may có cơ toàn thắng được. Song le, nhà vua nên cạo đầu và theo lối ăn mặc nhà Thanh, lúc về nước sẽ không ai nhận được mặt; trong việc hành binh phải hư hư thực thực, biến trá cho bên địch khó lường. Lúc nào lấy lại được giang sơn bấy giờ nhà vua sẽ để tóc ăn mặc lối Nam, tưởng cũng không lấy gì làm muộn vậy!
    Thánh thượng không biết Khang An chủ tâm lừa dối, cũng vui lòng giống giả các quan bắt chước Ngài, cạo đầu gióc tóc ăn mặc y phục Mãn Thanh. Nào ngờ Khang An lại nhân thế mà phản trá, nó làm ngay một tờ biểu dâng vua Càn Long, đại khái nói rằng:
    - Vua An Nam không có ý viện binh nữa, hiện đã cạo đầu đổi áo, yên tâm ở lại nước Tàu, không về nữa. Vậy xin bãi hẳn việc đánh phương Nam, cho dân sự khỏi nạn binh lửa.
    Trong triều có tay trong của bọn nó là Hoà Thân tán thành nói vào, khiến vua nhà Thanh xuống chỉ thôi hẳn sự dùng binh. Nhân đó, cách mấy tháng sau, Nguyễn Huệ lại sai Phạm Công Trị trá hình làm Quốc vương làm lễ ôm gối Càn Long. Càn Long nghe lời Khang An VÀ Hoà Thân, phong vương tước cho Huệ. Thế rồi việc viện binh của Hoàng thượng ta xin, nó bèn bỏ lảng đi. Không những thế, vua nhà Thanh còn tưởng Chúa thượng cùng các quan muốn ở lại bên Tàu nên giáng chỉ cho đòi vua tôi cùng về Yên Kinh để an trí cả một chỗ. Tháng Hai năm Canh Tuất (1790), Thánh thượng và các quan tòng vong lên cả kinh thành nhà Thanh.
    Lúc bấy giờ có mấy ông cựu thần triều ta nghe nói vua ở Yên Kinh, bèn theo sang hầu Ngài. Trong bọn đó, có các ông Lê Quýnh, Trịnh Hiến, Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Ðống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Ðình Miên, Ðàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức và ít người nữa.
    Phúc Khang An thấy bọn quan mới sang này không ăn mặc theo lối áo Tàu, bèn bắt cả về Quảng Tây rồi ép phải gióc tóc đổi áo như mọi người. Ông Lê Quýnh, không chịu đưọoc sự áp chế vô lý ấy, bảo Khang An rằng:
    - Ông cho gọi chúng tôi đến, đã chẳng bàn được điều gì có ích, lại còn dỗ dành chúng tôi cắt tóc thay y phục, thế là nghĩa gì? Tôi nói thật cho ông biết: Ðầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc không gióc được; da chúng tôi có thể lột được, chứa áo thì không đổi được!
    Phúc Khang An giận lắm lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào, bèn đem giải cả về Yên Kinh. Ði đến Sơn Ðông, may sao gặp Càn Long đi du ngoạn, thấy lũ quan ta bị trói, cho đòi vào hỏi rằng:
    - Vua nhà ngươi đã chịu cạo đầu thay áo theo kiểu nhà Thanh, sao các ngươi còn bướng bỉnh chưa chịu?
    Ông Lê Quýnh tâu rằng:
    - Chúng tôi muôn dặm tòng vong, xin cứ cho theo tục lệ vào ra mắt Quốc vương, rồi sau sẽ xin lĩnh mệnh.
    Vua Càn Long nghe lời nói khẳng khái, lại trông nét mặt rắn rỏi của ông Lê, phải khen ông là bầy tôi trung nghĩa, sai thả cả các quan ra rồi cho đưa vào Yên Kinh yết kiến Thánh thượng. Thánh thượng bấy giờ cũng Thái hậu và Hoàng tử được vua nhà Thanh an trí ở ngõ Hồ Ðồng toà Quốc sử giám cửa Tây Ðịnh, ngoài cửa toà có đề biển: ?oTây An Nam dinh?. Còn các quan thì cùng cho ở ngõ Hồ Ðồng Dương phố, cửa Ðông Trực, ngoài cửa có đề chữ: ?oÐông An Nam Dinh?.
    Bọn ông Lê Quýnh đến ra mắt vua, thấy Ngài đã cạo đầu đổi áo, cũng đều gióc tóc thay y phục cả. Chỉ có ông Lê là nhất định chết thì chết chớ không chịu, bởi thế nên chiếu tội vi mệnh, bị bắt giam mãi mãi.
    Thánh thượng đến Yên Kinh được mấy hôm thì có Nhương hoàng Kỳ Ðô Thống là Kim Giản, phụng chỉ Càn Long, ra phong cho Ngài chứa Tả Lĩnh và đưa cho mũ áo Tam phẩm. CÁc quan tòng vong thì mỗi người được một thạch gạo và ba lượng bạc.
    Thánh thượng tức uất người lên, song phải nuốt thầm nước mắt chịu thụ phong và nhận áo mão. Kim Giản đi xong, Ngài ôm đầu ngồi khóc, rỏ ra huyết lệ, Ngài giận nỗi bị quân Tàu đánh lừa, bèn cho gọi các quan đến, rồi cùng mấy ông Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Quí Thích, Nguyễn Ðinh Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức uống máu ăn thề nguyện sống chết thế nào cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Nếu không cho nữa, thì ít ra cũng cắt cho đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, để phụng thờ tôn tự, mà không nữa, thì xin ho về nước, để vào Gia Ðịnh với chúa Nguyễn mưu đồ việc khôi phục cho nhà Lê.
    Làm biểu vừa xong, đến nói lót trước với Kim Giản. Nhưng không có lễ vật gì dâng biếu, nên tuy nói hết nước dãi mà nó vẫn không nghe. Thánh thượng cùng các quan, không biết làm thế nào, đều phủ phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giản thấy thế, bất đắc dĩ phải mời cả vào an ủi mà rằng:
    - Nhà vua hãy cứ an tâm, cứ về quán dịch nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng quí thể đã; đợi để thương lượng thế nào, sau này tôi sẽ cho biết.
  4. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Nó dỗ dành như thế, nhưng ngày hôm sau, nó bàn mưu với Hoà Thân phân trí vua tôi mỗi người đi một chỗ để khỏi bị nghe những lời kêu chúng taoán thán khó chịu. Ðến tháng tư năm Tân Hợi (1791), ông Hoàng Ích Hiểu phải đày sang Tây Vực, ông Lê Hân đi Phụng Thiên, Ông Nguyễn Quốc Ðỗng sang Cát Lâm, các ông Nguyễn Viết Triệu, Lê quí Thích, Nguyễn Ðinh Miên, Ðàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương thì bị giải sang bến Trương Gia tỉnh Trực Lệ.
    Thế là chung quan mình Chúa thượng không còn ai cả, chỉ có hai ông Phạm Ðình Thiện cùng Ðinh Nha Hành bỏ chức Thủ bị Hoàng Châu theo lên, và vài người hầu cận nữa mà thôi.
    Thánh thượng lúc bấy giờ ruột đau như xé, đêm ngày Ngài lo lắng chua xót, khóc lóc kêu vang, ngồi đứng bất an, hình hài chốc lát tiều tụy hẳn đi, trông thương hại quá. Sáng hôm sau, Ngài cưỡi ngựa sang dinh Kim Giản, kêu oan cho lũ bề tôi bị đi đày, gặp ngay Kim Giản vào chầu vua Càn Long ở vườn Viên Minh. Ngài bèn nối gót đi vào cửa vườn, bị lũ lính giữ vườn ngăn cản lại. Lúc đó có tên nội thần là Nguyễn Văn Quyên theo hầu Chúa thượng; Quyên thấy lũ quân canh láo xược, bèn nổi giận đùng đùng, xông lại mắng chửi:
    -Lũ chó Ngô kia! Sao chúng mầy dám vô lễ, làm nhục đến vua tao!
    Vừa mắng vừa cầm gạch đá ném vào chúng nó. Bọn lính bị chửi cùng xì xồ chửi lại, rồi chúng kéo ùa cả ra xúm lại đánh cho Quyên một trận nhừ tử. về đến nhà, Quyên bị bệnh mà mất.
    Từ đó trở đi, Chúa thượng thấy mình bị lừa đảo, đến nỗi hoá ra lực cô thế yếu, trong lòng rầu rĩ buồn bã, song không dám nói đến chuyện xin viện binh nữa, vì biết có nói ra cũng chỉ tổ phí lời. Ngài đành kiên nhẫn sống cùng Thái hậu và Hoàng tử một quãng đời tẻ lạnh. Không hy vọng cũng không khoái lạc; đêm đêm ngài chong đèn ngồi khóc, khóc chán lại đem thơ ra ngâm, giọng ngâm nghe buồnr ầu thảm thiết, có thể cảm động được quỷ thần. Nghe vua than oán bi ai, những kẻ như thần theo hầu Ngài, cũng thấy gan ruột như bào như xé, nhưng còn biế làm thế nào trước sức mạnh vô cùng của số mệnh tàn ác bất lương, và trước cách đối phó giảo quyệt sâu độc của lũ quan Tàu nham hiểm!
    Vì Chúa thượng ưu tư quá, càng ngày sức lực Ngài càng đ6am ra suy kiệt. Ðã thế, phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí, Hoá công cay nghiệt còn đem đến cho Ngài những nỗi đau đớn, thâm thúy bằng hai sự mất nước, lìa ngôi! Ðó là sự Hoàng tử thất lộc. Tháng năm năm Nhâm Tý (1792), có dịch lên đậu ở Yên Kinh, Hoàng tử không may nhuốm bịnh. Chữa chạy mãi đều vô công hiệu: được non một tháng trời, Ðông cuang lìa bỏ cõi đời. Thánh thượng không còn biết mùi gì là ngon ngọt nữa, thú gì là vui vẻ nữa. Ngài chỉ hết than lại khóc, hết khóc lại ngâm, làm cho Thái hậu cũng vật mình kêu khổ. Chả bao lâu sau, khi Ðông cung khuất bóng, vua vì quá lao tâm mà thọ bệnh, mỗi ngày một nặng, nằm lì bì liệt giường chiếu, đến ngày 16 tháng mười năm Quí Sửu (1793). Ngài gọi các người theo hầu trong buổi lưu ly, ứa nước mắt cầm tay cả lũ chúng tôi, hổn hển ngỏ lời cảm tạ và từ biệt, rồi băng hà, không trối trăng lại điều gì cả!
    Vua thăng hà mà không có một ngự y nào bên cạnh giường bệnh, không có một người cung phi nào săn sóc trôgn nam, không có một vị đại quan nào đứng túc trực, không có một hồi chiêng hồi khánh nào báo hiệu Ngài về Trời! Thực là một cảnh tối cảm động thương tâm, thương tâm nhất là thấy vua một nước to, chỉ lỡ sa cơ thất thế mà chết khổ như một kẻ thường dân vậy.
    Tự cổ chi lai, trong lịch sử chưa bao giờ có ghi chép một việc bi ai dường ấy. Cũng đã có nhiều vị đế vương chết dưới mũi tên hòn đạn, bị hành thích hoặc bất đắc kỳ tử, nhưng chưa ai từng thấy một vị Hoàng đế chết ưu sầu thống thiết thế bao giờ!
    Hạ thần cùng mấy kẻ tòng vong đều phục xuống khóc. Còn Thái hậu thì người đau đớn quá, đau đớn đến nổi ngồi thở ra, lặng đi hàng giờ, không nói.
    Bọn chúng tôi xúm nhau lại tắm rửa cho Chúa thượng bằng nước ngũ vị hưong, xong lấy áo Long Cổn và mũ miện Hoàng đế cho ngài, rồi khâm liệm ngay, kẻo sợ quan Tàu kiếm chuyện.
    Yên đâu đấy, chúng tôi mới sai người báo tin cho Kim Giản, để Giản vào tâu vua nhà Thanh. Càn Long truyền chỉ dùng lễ tước công tống táng cho Chúa thưọong. Chúng tôi tìm được một ngôi đất tốt ở ngoài cửa Ðông Trực, bèn xin cho táng thi hài Thánh thượng ở đó.
    Việc ma chay chu tất, chúng tôi bèn thương lượng với nhau, kẻ ở lại hầu Thái hậu, người trốnv ề cố quốc thăm nhà. Trong mấy vị triều thần sang tòng vong, có nhiều vị tuyệt thực hay vẫn cảnh theo vua về chín suối. Dăm ba người lại vì cơ cực mà chết trước, chỉ lác đác còn một đôi ông, thì mỗi ông bị đày đi ở một chốn xa xăm.
    *
    * *
    Thưa Lệnh bà, đó là pho bi sử của Chúa thượng nhà ta đó. Trời đã đến lúc không trợ nhà Lê ta nữa, thì có quay cuồng cũng vô ích mà thôi. Hạ thần trước kia, cũng rắp tâm hy sinh cả thân thế và số mệnh cho sự khôi phục, nhưng một phen sang đến tàu, thần biết rằng ý chí của thần chỉ là một mộng tưởng. Bởi lẽ,c hịu ức hiếp dướu quyền lũ quan Tàu tàn ác, Thánh thượng còn khi nào được thấy ngày trở lại nước Nam ta? Nữa là còn mong ở sự giúp binh cứu viện!
    Thần nay là một kẻ chí khí đã cạn, gia đình đã nát, hy vọn gđã tuyệt, khôgn còn liên lạc gì với cõi phù thế nữa. Nhưng sở dĩ thần sốn sót đến ngày nay, là vì riêng muốn báo ơn Thánh thượng đến kỳ cùng, muốn được gặp Lệnh bà một lần nữa để báo cho Lệnh bà biết những nông nỗi mà Hoàng gia đã phải trải qua bên khách địa.
    Nay mục đích thần đã đạt, thần xin cúi lạy Lệnh bà gìn giữ mình vàng, chóo nên ưu sầu quá độ. Mệnh số đã như vậy, biết làm thế nào? Còn về phận thần, thần xin từ giã Lệnh bà; được giáp mặt Lệnh bà lần này tức là lần trót vậy.
    Tâu Lệnh bà, nỗi đau đớn của thần, nếu nó không giống sự mất ngôi mất nước, nó cũng là cho thần từ năm sáu năm này, ăn không biết ngon, mặc không biết đẹp, sống thác không quản, cực nhục không từ, nó đã làm cho thần không biết mùi sinh hoạt là gì nũua, không biết thú sinh tồn là gì nữa! Bây giờ đây, giũ nhẹ được trong lòng những ân oán trước kia chất nặng, thần chỉ còn biết êm vui trong sự theo vua xuống chốn tuyền đài.
    Thôi, xin lạy Lệnh bà!?
    Câu chuyện nói tới đây, công tử Nguyễn Anh Tề vùng đứng dậy, đi ngay, để một mình Hoàng phi ngồi gục mặt xuống bàn, chả biết nàng mê hay tỉnh. Ra đến ngoài hiên, Anh Tề mới nhận thấy mặt trời gần xế bóng...
    Lịch sử chép rằng cách đấy sáu năm, tháng một năm Kỷ Mùi đời vua Gia Khánh. Thái hậu theo vua và Hoàng tử về trời. Lại có chín năm, năm Nhâm Tuất (1802) khi Thế Tổ Cao hoàng nhà Nguyễn đã nhất thống được thiên hạ, quan nhà Lê, nhân dịp có sứ ta sang Tàu cầu phong cho Thế tổ, dâng biểu xin đem di hài Thái Hậu, Cố quân và Hoàng tử về nước. Vua Gia Khánh chuẩn lời cầukhẩn đó, tha cho tất cả các quan tòng vong khi trước được về xứ sở phương Nam.
    Khi cải táng phần mộ Cố quân, người ta thấy da thịt đã tiêu tán cả chỉ còn quả tim trơ lại, không nát, vẫn tươi đỏ như thường. Ai trôgn thấy hoặc nghe biết sự đó cũng động lòng thương xót, ái ngại cho tình cảnh một ông vua von quốc phải đày đoạ đến như thế, để lại muôn đời một tấm gương thảm kịch đáng thương. Ai cũng phải oán trách lũ quan Tàu quá tàn nhẫn, có những thói dã man áp chế khiến cái khổ của Chiêu Thống phải kết lại thành khối, đến mấy đời sau cũng chưa siêu thoát đi được.
    Ðem di hài Cố quân và Hoàng gia về đến biên giới thì gặp Hoàng phi mặc sô gai ra Nam quan đón rước linh cữu hộ tống về Thăng Long. Về đến Thăng Long trong khi hoàn linh cửu Cố quân lại đó, bà Hoàng phi Nguyễn Thị Kim cũng tuyệt thực mà chết, để lại một tấm gương trinh liệt mà đã cách mấy trăm năm rồi, cũng chửa ám mờ.
    Ngày 24 tháng một năm Nhâm Tuất, các quan cơ thần nhà Lê rước ma Cố quân, Thái hậu, Hoàng phi và Hoàng tử về Thánh hoá, đem táng ở lăng Bàn Thạch, thuộc về đất phủ Thọ Xuân. Di hài nội thần Nguyễn Văn Quyên và mấy ông quan tử tiết cũng đều phụ táng ở đó.
    Sự nghiệp nhà Lê, từ ngày Thái tổ khởi nghĩa ở Lam Son, cho đến lúc Chiêu Thống bị vong quốc theo Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, trước sau gồm tất cả được 360 năm, mở đầu bằng một kỷ nguyên rực rỡ oanh liệt, để kết cục băng một sự nhục nhã bi thảm, biểu hiệu cho sự hưng suy vinh nhục ở đời.
    Trong lúc đưa ma Cố quân ở Tàu về, các quan cựu thần nhà Lê có khóc viếng linh cữu bằng một bài thơ bát cú. Thơ rằng:
    Nằm gai nếm mật mấy năm thừa!
    Nấm cổ đưa về đất xưa,
    Bể Bắc, chín lần rồng lẩn sớm,
    Non Nam một đỉnh hạc về trưa,
    tưởng đâu năm nọ như ngày nọ,
    Nghĩ đến bao giờ khóc bấy giờ!
    Thua, được, cuộc cờ thôi để đó,
    Gội ơn cây cỏ vẫn còn thưa.
  5. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương 14


    Bây giờ Nguyễn Anh Tề mới giở đến ?oÐồng tiền Vạn Lịch?. Ðồng tiền ấy tự đâu mà có, tự đâu đến ghi trong đời chàng một kỷ niệm não nùng?
    Nguyên sau khi nhờ Bình an vương Trịnh Tùng lấy lại được thành Thăng Long, đuổi con cháu Mạc Ðăng Dung lên mạn Cao Bằng, vua Thế tôn nhà Lê có phái hai ông quan sang sứ Tàu dâng những cống phẩm và xin phong. Hai ông quan đó là Công bộ tả thị lang Phùng Khắc Khoan sung chức chánh sứ, và Thái thường tự khanh Nguyễn Nhân Thiềm, nhận chức phó sứ.
    Tháng 5 năm Ðinh Dậu (1597), hai ông Phùng và Nguyễn đem lễ vật sang Yên Kinh. Vua Thần Tôn nhà Minh, trước có nhận được biểu của con cháu nhà Mạc kêu rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi chớ không phải dòng dõi nhà Lê nên hai lần đã phái quan Thanh tra đến cửa Nam Quan để xét việc hư thực.
    Vua Lê Thế Tôn, bởi lẽ ấy, phải thân đến cửa quan để hội kiến cùng quan Tàu. Hội xong trở về, Ngài mới sai sứ sang cầu phong.
    Sứ giả tới Yên Kinh, vau nhà Minh có ý bênh họ Mạc, chỉ phong cho Thế tôn là An Nam Ðô Thống sứ mà thôi. Sau khi nhận các đồ cống hiến, Minh Thần tôn ban cho Chánh sứ một chiếc kim tiền, Phó sứ một đồng ngân tiền. Niên hiệu của Thần Tôn là Vạn Lịch; trên hai đồng tiền ấy, vì thế, có khắc bốn chữ ?oVạn Lịch thông bảo?.
    Chánh sứ là ông Phùng Khắc Khoan, thấy vua Minh chỉ ban cho vua nước mình một chức nhỏ mọn, bèn dâng sớ tâu rằng: ?oÐô thốn sứ là tước cũ của họ Mạc; nay vua nước Nam là dòng dõi chính thống, con cháu nhà Lê, phong cho chức bé ấy không được xứng đáng: xin cho chức khác to hơn.?
    Vạn Lịch trả lời rằng: ?oVẫn biết họ Lê không thể ví như họ Mạc, nhung lúc đầu mới phong, hãy tạm giữ chức ấy, rồi sau sẽ ban cho tước Vương, tưởng cũng chẵng muộn gì!?
    Ông Phùng Khắc Khoan không biết nói làm sao, đành chịu lui ra trong lòng tức giận lắm. Về đến quán dịch, ông tháo đồng kim tiền vua nhà Minh vừa tặng cho, mà ông đeo ở cổ, ném vật ấy xuống đất, nói rằng:
    - Quân Tàu này đã đối với vua ta khinh bạc đến thế, ta còn giữ của này làm gì cho thêm nhục mỗi khi trông thấy nó bên mình!
    Ông Nguyễn Nhân Thiểm thấy vẻ thịnh nộ trên mặt ông Phùng từ từ cúi xuống nhặt lấy đồng tiền, trao lại cho bạn:
    - Vẫn biết vua nhà Minh xử với nước ta hơi tê, song nó là vua nước lớn, mình là tôi nước bé, biết làm sao được? Không thuận cũng không xong, có thế nào chỉ thêm giặc giã hại dân thiết đất! Ở đây nhà xa cảnh lạ, xung quan tai vắch mạch rừng, ta hãy nên nhẫn nhục. Kẻo có đứa an2o biết, đem chuyện mình tức giận, ném tiền vua ban, lên mách với Minh đế, hai ta sẽ khó lòng trốn thoát trở về. Ông dù cho đeo chiếc kim tiền là nhục, thì ông cho quách tôi, tôi sẽ để cả hai đồng vàng bạc vào chung một hộp, ngõ hầu giữ kỷ niệm về mai hậu, cuộc hai ta sang sứ bên Tàu!
    Ðương lúc hăng hái, bực mình, ông Phùng gắt, nói:
    - Thì đấy! Tôi cho ông đó! Xin thêm tước cho vua không được, mình còn ham lĩnh thưởng làm gì! Cả chức Ðô thống của chúng nó, tôi còn chả coi vào đâu, nữa là một đồng tiền vàng một lạng! Nhưng ông có lấy thì nên giữ mà chơi; về đến nước mình đừng có đeo mà càng thêm tức!
    Thế là ông Nguyễn Nhân Thiềm làm chủ cả hai đồng tiền Vạn Lịch, hai đồng tiền ấy, sau này, ông cho bỏ nó vào hai hộp gỗ con bằng trắc khảm, giữ làm bảo vật trong nhà, bảo vật ấy trao đi truyền lại đến mười đời; đến đời thứ mười, nó vào tay Nguyễn Anh Tề công tử.
    Trong hai đồng, giờ đây, chỉ cònlại đồng vàng rực rỡ, đồng bạc kia đ4 theo An Trinh xuống nằm tận đáy bể rồi! Càng ngắm kỷ vật bao nhiêu, công tử càng thấy gan ruột như bào xơ, xé rách. Chàng đau đớn.
    Chàng hồi tưởng lại quãng đời vừa mới trải, sự nhục vinh suy thịnh để cho chàng môt dư vị đắng cay. Chàng biết rõ công danh phú quí chỉ toàn như đám phù vân, một áng phù vân lỏng lẻo dưới sức mạnh của ngọn gió chiều lôi cuốn. Ngọn gió tức là số mệnh, mà áng phù vân kia là sự nghiệp ở đời.
    - Giầu, sang, quyền thế, còn ai được bằng vua; thế mà, một sớm thất thế sa cơ, vua cũng khổ hơn thằng hành khất quen mùi đói rét. Thằng hành khất cõ lẽ chỉ bị nhũng bản năng không thỏa nguyện giầy vò xác thịt; song nằm xuống là nó ngủ, ngủ ngon, ngủ kỹ, linh hồn không từng bị cắn rứt bao giờ. Chớ như vua Chiêu Thống: nào bị nhục nhã, bị cay đắng, bị đè nén, bị những thương tâm vô hình nó luôn luôn cào gan xé phổi, luôn luôn rứt thịt, kéo gân! Nỗi oán hận của vua, nó càng khiến vua chịu đau đớn hơn mọi kẻ trong bàn dân thiên hạ, bởi lẽ, đã từng quen mùi chung đỉnh, Chiêu Thống không thể một mai đem tấm thân quí phái dãi dầu với ánh phong sương. Một cái khổ thâm thúy sâu xa bao giò cũng làm cứu cánh cho những nỗi sướng vui cực điểm.
    Hoàng phi, cũng như vua, phải chịu nhai nuốt những nỗi đắng cay, sau khi nhà tan nước mất.
    Nói tóm lại, cái vinh hoa, oanh liệt cũng đó, mà cái nhục nhã, cơ hàn cũng đó; cuộc thăng trầm đã chọn ai làm thí nghiệm, thì lúc cờ tàn mới rõ ai được ai thua. Mà, trên bàn cờ của thời gian, xưa nay đã bao người được? Phần nhiều, chỉ thấy người thua. Thua? Này Lê Chiêu Thống, này Hoàng phi, này Bằng Trung công Nguyễn Hữu Chỉnh, này Phò mã Võ Văn Nhậm, này quận chúa Võ an Trinh, này nữa, này nữa... công tử Nguyễn Anh Tề!
    Thua, thưa hết, thua cả: bạc, vàng, danh giá, có chăng chỉ là những ảo ảnh hư huyền?... Bao nhiêu tiền của mình gom góp nhặt nhạnh, bao nhiêu sự nhiệp mình xây đấp công trình, rồi nó cũng đổ, cũng tan, không còn để lại một vết gì nữa cả.
    Ðể vết lại, hoạ chăng chỉ cóÁi tình ! Phải, chỉ có Ái tình! Chiêu Thốngmất ngôi, mất nước, nhưng nào đâu có mất tấm lòng ái mộ của Hoàng phi? Hoàng phi mất chồng, mất con, mất nhà, mất của, nhưng khối ái ân trong tâm nàng không một lúc nào phai lạt, chỉ phai lạt đôi má hồng dày dạn bụi phong trần...
    Ta đây, ta đây, Nguyễn Anh Tề, ta cũng mất cả, không còn gì nữa! Mất cha, mất me, mất sự nghiệp tang bồng, mất cả kho vàng đáy bể. Song le, trước khi đi, vợ ta còn để lại cho ta kỷ niệm của một cuộc ái ân đằm thắm, nàng còn cho ta rõ dưới suối vàng nàng vẫn yêu ta, thế là đủ! Ta vẫn bo bo giữ đước Ái tình! Ái tình của ta, nó chẳng bao giờ tiêu tan! Kỷ niệm của nó, ta hãy còn đây, còn đây, trong đồng tiền Vạn Lịch.
    Ðồng tiền Vạn Lịch
    Thích bốn chữ vàng.
    Công anh dan díu với nàng bấy lâu...
    Một đồng tiền vàng, một đồng tiền bạc, một hùng, một thư. Cặp thư hùng rồi sẽ pải hợp nhau làm một! Cặp thư hùng sẽ làm chủ giữ kho vàng...
    Ôi! Kho vàng! Nói cho cùng, kho vàng nào có làm gì? Nào có ích gì? Cha ta hết sức vơ vét bóc lột, hết sức ty cóp giữ gìn, mới gây dựng được một kho vàng, nhưng của ấy, rồi ngài cũng không được hưởng mà phải chết chia làm trăm mảnh! Vua Chiêu Thống, đầy một nhà châu bảo, rồi cũng đều bị mất về tay Nguyễn Nhạc, chung qui lại chết trong cảnh nghèo hèn! Chúa Trịnh Khải, hưởng lại của tổ tiên một gia sản vô biên, rút cục, cũng bỏ mệnh trong một trường hợp buồn rầu thê thảm.
    Xem cuộc thế đảo điên như vậy, ta có cần gì phải bận mình làm nô lệ cái giầu sang?
    Ta chỉ muốn dùng khí thiêng mà khối của kia chung đúc để dựa linh hồn ta trong lúc chết, ngõ hầu ta thành một vị thần tuyệt đẳng ở vùng này.
    Ta sẽ cùng vợ ta cai quản bãi bể Sầm Sơn cho đến ngày, theo nghiệp duyên, đôi ta lãi sẽ tái sinh để nối nguyền ước cũ. Kho vàng lúc ấy sẽ hoá ra vô chủ, nó sẽ về tay người có số được trời ban cho hưởng hoạnh tài!
    Tuy nhiên ta mất công gây dựng, mất cong vận tải mất công trông giữ cái kho này, ta cũng phải có một chút quyền đặt ra một vài điều kiện, luật lệ, bắt ?ongười có số? ấy phải tuân theo, trước khi thay ta làm chủ khối bạc vàng của cha ta để lại.
    Vậy trên có Hoàng thiên, dưới có Hậu Thổ, bốn mặt có Thổ địa, Long mạch tôn thần, Hà bá thủy quan, lại có anh hồn vợ ta chứng giám, ta xin trước giờ tuyệt mệnh, phân vua cùng chư vị mà nguyền rằng:
    Ai là ngưòi sau ta có phúc phận được hưởng kho vàng này, ngườiđó phải có đủ hai đồng tiền Vạn Lịch thư hùng của ta. Người đó sẽ đứng ở chỗ ngày nay ta đứng cầm đồng tiền vàng ép lại đồng tiền bạc, nhìn ra bể mà ngâm bài thơ này:
    Vợ chết, tâm những héo,
    Cha về, còn đoạn trường!
    Ái tình toan trả nghĩa,
    Chưa rứt nợ quân vương,
    Một sớm quân vương thác,
    Ham chi sống bẽ bàng!
    Bể sâu tìm liệt phụ,
    Làm chủ giữ kho vàng...
    Như thế, lời ước ta sẽ thoả, hai đồng thư hùng giáp nhau sẽ khiến hai vợ chồng ta nối lại dây ái tình không may đứt quãng, kho vàng sẽ vì ta nổi lên bãi cát, mặc cho ai có duyên vận tải đem về...
    Nhược bằng không ai có phúc làm chủ đồng vàng này, chư thần cai quản nó sau ta, sẽ được phép muốn đem tặng cho ai tùy ý!
    Ta đây, ta không mong chiếm của phù vân làm chi cho mệt; ta chỉ muốn làm sống lại một sự ngàn thu bất hủ, cho sứ ấy vì ta càng bồng bột: ta sẽ tái sinh để giữ trọn nghĩaChung tình!
    An Trinh em ôi! Em có thấu lòng anh không nhỉ? Em đi trước, để lại cho anh một cuộc đời tẻ lạnh, một chuỗi ngày sống thừa vô lý, những ngày ảm đạm chứa biết bao là dư vị chua cay thấm thía, biết bao là oán hận nặng nề! Tuy nhiên, anh cũng vẫn cam tâm chịu sự hình phạt cực nhục mà Hoá công đã tàn nhẫn gieo xuống đầu anh, để bù lại tội lỗi lớn lao anh đã phạm, tội đã phạm đến một mỹ nhận tối trong sạch, tối cao quí, tối khẳng khái, tội đã làm hại một đời son trẻ của em.
    Không một phút; nào trong đời sống sót của anh, anh không phục em là một nữ hào kiệt quang minh chính đại, rộng lưỡng cũng như lỗilạc nghĩa khí mà lại nhu mì. Ðược hạnh phúc cùng em gá nghĩa uyên ương, anh dẫu thịt nát xương ta ngàn thu cũng chả bao giờ hối hận.
    Bởi thế, sau khi em bỏ anh ở lại cõi đời mờ mịt, anh vẫn cố sống torng ánh hào quang mà gương tiết nghĩa của em toả ra chói lọi; anh gắng sức gây một sự nghiệp vang lừng rực rỡ để khỏi thẹn với người yêu, để dưới suối vàng, em không cười chê anh là một kẻ yếu hèn vô dụng. Em Trinh ôi! Có hay đâu Trời xanh không muốn tựa nhà Lê nữa, khiến công cuộc của anh một sớm, đã tan tành!

  6. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Thực không phải anh dám phụ lòng trông cậy của giang sơn, cố chủ; Thực không phải anh không đáng sánh vai trí dũng để em kính em yêu; chỉ tại số vận đảo điên của một dòng dõi gặp buỗi sa cơ thất thế. Nhà lê đến nay là tuyệt hẳn, cũng như tuyệt hẳn các mầm hi vọng và hạnh phúc của đời anh. Hy vọng anh hoài bão là gây dựng lại ngôi bảo tộ tiền triều cho chắc chắn vững vàng; cònhạnh phúc anh yêu mê say đắm, nó tức là em đó. Nhưng bây giờ hy vọng đã thành ra ảo mộng, mà tình nhân cũng hoá ra người thiên cổ mất rồi! Anh có sống cũng không còn mục đích gì phấn khởi tấm lòng khô héo nữa.
    Vậy nên anh phải chết. Chết để tìm em nơi chín suối, để thăm cha, hầu Chuá dưới tuyền đài. Chết để rứt hẳn mối lụy mà tình ái đã gây nên, nhưng có lẽ, cũng để sẽ đước tái sinh,c ùgn em nối lại cho toàn vẹn cho mỹ mãn, cho thỏa nguyện, quãng đời tình mà kiếp này không may, nửa đường bị bỏ dở. Ví em còn đủ lòng thương anh, còn khao khát chắp lại mối duyên cũ ấy, anh xin nguyền sẽ đối với em hết lòng thủy chung tận tụy, dẫu hồntan, bóng khuất cũng chưa thôi!
    Anh vẫn biết tự hủy mình không phải là một sự vẻ vang cho khách anh hùng; nhưng đúng trong một cảnh như cảnh của nah, ai là kẻ có gan sống thêm nữa một chuỗi tháng năm vô vị? Vô vị đến nỗi ăn không biết phân biết mùi ngon, mùi đắng, mặc không quãng áo rách áo lành, giầu sang chẳng thiết, côgn danh chẳng màng, tâm hồn lạnh lẽo như băng, gan dạ héo khô nhu lá rụng. Sống nhẫn nhục để vì em đeo đuổi một việc gì có ích, dẫu lưu ly tân khổ, anh đâu có dám từ nan; Nhưng sống buồn rầu mà chẳng có lợi cho em cũng không lợi cho nhà, cho nước, anh thiệt nghĩ sống bao nhiêu càng vô dụng bấy nhiêu. Chẳng thà thác sớm giờ nào càng được cùng em giờ ấy gạp gỡ hoan hỉ, cùng lâng lâng bay nhẹ trong cõi man mác cao xa, thoát khỏi hẳn vòng phàm tục!
    Chết có lẽ anh sẽ sung sướng, thoả lòng hơn sống, anh còn ân hận tiếc rẻ gì mà không tự tử theo em? Trước kia vì muốn giữ tình đôi ta được trong sáng thiêng liêng, em tự buộc mình nhảy xuống chỗ chìm vàng; ngày nay bởi muốn gần xác em, cùng em làm thần cai quản bãi biễn này, anh cũng sẽ bắt chước em chết đúng chỗ xưa kia em chết.
    Em là phận nữ nhi khuê khổn, có thể vong tính mệnh một cách lịch sự, êm ái hơn anh; anh đây, trót đã mang danh tiếng tài trai, anh phải tự hi sinh một cách dữ dội, oanh liệt hơn, cho khỏi phụ giống nòi võ tướng. Anh không thể trầm mình, thác như em được. Làm như thế, thiên hạ sẽ cười anh là kẻ yếu linh hồn. Mà em, trước mọi người, em sẽ chê anh, là một đứa ươn hèn bạc nhược.
    Bởi thế, anh sẽ cho em hiểu người sánh vai em không phải là kẻ tham sanh úy tử, anh sẽ cho em thấy chồng em là một nhân tài sống anh hùng chừng nào, chết oanh liệt phi thường chừng ấy. Chồng em sẽ thiêng liêng, linh ứng, sẽ làm một vị thượng thần cai quản hải tần này!
    Trong hai giờ đồng hồ ngồi một mình trên bãi cát nhìn ra bờ bể. Nguyễn Anh Tề vừa nhắc lên nhắc xuống trên bàn tay đồng tiền Vạn Lịch, vừa ngắm làn sóng bạch đầu cuồn cuộn đập rào rạt vào chân chàng, lại vừa lẩm bẩm nói một min2h như trò chuyện tỉ tê cùng một người bạn ngồi kề bên cạnh. Có lắm khi hăng hái, chàng hoa tay múa chân, nói to, vỗ ngực; nhưng tiếng chàng bị tiếng gió tiếng sóng át đi mất hẳn. Những khách đi đường, nếu có ai tạt qua trông thấy, chỉ tưởng chàng là một du tử ngồi thừa lương ngâm vịnh trên bãi phù sa.
    Lúc ấy vào khoảng cuối giờ Dậu, nghĩa là gần tối. Mặt trời tà dưong, đỏ như một khối lửa hồng chói lọi, ánh xuống gợn thủy ba nhấp nhô hoá thành những tia hào quang rực rỡ đủ trăm màu. Gió chiều đưa lên một mùi thơm nồng hắc, một mùi thơm chứa đầy sinh khí, khiến cho người thở vào thấy tia gân thớ thịt dần dần mạnh mẽ thêm lên. Thế mà Anh Tề dường như không biết thưởng thức vẻ đẹp của cảnh thiên nhiên bày trước mắt chàng, cũng như không biết hưởng thú hô hấp làn dưỡng khí chứa đầy rên mặt bể.
    Chàng nói một mình chê chán rồi đứng lên đi dạo khắp một vòng. Thấy một chiếc bè vô chủ giạt vào bờ, chàng nhảy phắt lên trên rồi đẩy nó ra ngoài ba lớp sóng. Thuận chiều gió, chiếc bè đi nhanh như chớp, chả bao lâu đã cách bờ chừng tám trăm thước.
    Khi ấy, ai tình cờ đứng tren bờ, sẽ được mục kích một cảnh kinh thần khốc quỉ, một cảnh thương tâm thảm thiết mà cũng hùng tráng phi thường. Người đó sẽ thấy trên chiếc bè lênh đênh theo dịp thăng trầm của ngọn sóng tung rơi, một võ sĩ lực lưỡng cầm một lưỡi gươm sáng kêu lên một tiếng vang lừng, dữ dội, chàng lấy gươm rạch một đưòong dài trên bụng, mở phanh da thịt, đoạn, mặc những tia máu phun ra lênh láng, chàng nghiến răng trợn mắt thò tay lên ngực, móc tim ra.
    Quả nhiên, chàng làm xong việc. Nhưng, con tim vừa thoát khỏi ***g xương ngực, nằm hồi hộp và đầm đìa những máu tươi đỏ xẫm tren bàn tay tráng sĩ, chàng vừa được trông thấy nó thì đã ngã lộn nhào xuống biển, làm chiếc bè cũng tròng trành úp ngược, rồi trôi đi, trôi mãi, trôi lênh đênh trên vùng nước thẳm, cho tới ngày như quả tim tráng sĩ, sẽ tan tành mục nát giữa một gầm trời, nước, gió, mây...
    Nếu lúc đó, ta đứng gần kẻ quyên sinh, ta ắt thấy trước khi chàng ngã xuống, đôi môi chàng nhích ra, vẽ thành một nụ cười gan góc kiêu ngạo, trong khi, bằng một giọng say sưa âu yếm, chàng thu hết sinh lực để gọi một lần cuối cùng, một chữ tên chàng sùng kính yêu đương:
    - An Trinh em ! An Trinh...
    Một vùng nước xanh rờn bỗng hoá ra vẩn đỏ. Những loài tôm cá bâu vào quanh bè đớp lấy giọt máu tươi. Xác Anh tề nghiêng ngả rơi xuống từng sâu đáy biển...
    Tia sáng cuốicùng của bóng tà dương vụt tắt. Da trời quang đãng phủ một lần mây án đen ngòm. Ngọn cuồng phong thay luồng gió chiều hôm, bỗng bùng lên làm sôi nổi nước trào cuồn cuộn.
    Một vẻ lạnh lùng dữ dội như xuất hiện giữa gầm trời bể, tựa hồ trời đất phải xót xa, quỷ thần phải kêu khóc, tiếc dời vị anh hùng chết thảm thiết bi ai.
    Công tử Anh tề tự tận đúng vào ngày 26 tháng chạp năm Quý Sửu (1793). Giờ đếm giờ, cách đó đứng sáu năm về trước, cũng vào cuối giờ Dậu hôm 26 tết, quận chúa An Trinh đã từ giã hào mục và nhân dân hạt Sầm Sơn để đi ra bãi bể trầm mình. Có lẽ vì hương hồn quận chúa tối thiêng liêng, nên giun giủi cho chồng nàng chọn đúng ngày ấy để theo nàng về cõi chết.
    Dân vùng hải ngoại, từ 5 năm về trước, ngày 26 tháng chạp năm Mậu Thân (1788), một năm sau khi An Trinh mất tích, đã đúng theo lời dặn làm đàn tràng tế lễ, thờ nàng cùng Nguyễn Anh Tề. Trong một khoảng một ngàn tám trăm ngày, chồng quận chúa đã nghiễm nhiên làm một vị thần sống. Chàng vẫn sống mà dân hạ Sầm Sơn cứ tưởng như chàng đã thác, không ai biết tin chàng sinh hoạt ở đâu, chỉ trừ một mình tên gia đinh Lộc, nhưng sau khi nó tìm vào Phú Xuân và Nghệ An để đưa hai bức thư của chủ đến năm Chiêu Thống băng hà, công tử Anh tề mới chính thức làm thần vùng hải ngoại.
    Một trăm bốn mươi năm đã lướt trên cuộc sinh tồn từ ngày côngtử mất; tới nay nêú không có kho vàng làm chứng thực, không còn ai được biết chuyện ngày xưa có đích xác hay không. Vì ngoài khoảng sáu bảy tám mươi năm, dân hạt Sầm Sơn không nghĩ đến sự thờ phụng hai vị thần kia đã phù hộ cả vùng. Và sau này, khi các ông kỳ mục tiền bối đã từ trần, những kẻ hậu sinh không rõ chuyện chả có ai tin ở sự linh ứng của quận chúa An Trinh, nên không sùng bái hai vợ chồng nàng nữa. Gia dĩ lâu ngày rồi, nàng cũng hình như đã thoát hồn ngoài cuộc thế, rủ chồng đi ngao du ở một cõi huyền bí xa xăm nào, nên ít khi về báo mộng cho dân làng nữa. Không những thế, có quên làm giỗ tế nàng cũng chẳng thấy có quả báo gì ác hại, dân làng càng dễ muốn quên.
    Ðến hồi gần đây, bãi Sầm Sơn được chọn là một nơi nghĩ mát cho các tiểu thư công tử cùng gia đình quý phái thượng lưu, thì lớp sóng người phồn thịnh tấp nập ra dưỡng nhàn dưỡng sức dưới bóng phi lao, trene bờ cát trắng, đã hình như làm át hẳn mất mảnh hương hồn phưởng phất của dod6i uyên ương thủa trước, làm cho họ phải bạt đi vào cõi vẩn vơ nào. Lẽ thường cứ dương thịnh ắt âm suy vậy.
    Ngoài sự đó, thời gian cũng xoá nhòa hẳn những kỷ niệm ngày xưa để lại, không ai tìm thấy trong những lớp biệt thự tường vàng mái đỏ, chỗ nào căn nhà tranh của Nguyễn Anh Tề. Cuộc tang thương đã biến cải hẳn mặt bãi Sầm Sơn, mà lòng người hay thay đổi như cuộc tang thương, cũng không để dành một ý nghĩ nào cho dĩ vãng. Trong các đền thờ Thành Hoàng ở các làng vùng hải ngoại, trong đền độc cước chân nhân, trên hòn Trống mái, không còn ai thấy một vết tích gì để lại, tỏ rằng Anh Tề cùng An Trinh quận chúa đã sống giữa đám dân chài lưới, một quãng đời kỳ dị, đã vong thân giữa hạt dân chài lưới trong một trường hợp thê thảm lạ lùng.
    Bởi những lẽ đó, nên chả ai nghĩ đến sự khám phá mỏ vàng chìm lấp đáy vùng bể thẳm. Mà cũng không ai biết đến hai đồng tiền Vạn Lịch và bài thơ Nguyễn Anh Tề. Cuộc đời tình và cái chết bi đát của chàng không được người đời truyền tụng. Nó lâu dần chui vào gầm bí mật của thời dĩ vãng xa xăm.
    Sự bí mật sẽ hoàn toàn bí mật nếu hai lá thư kia chàng để lại cũng bị tiêu did mất tích. May thay, một lá trong hai lá vẫn còn. Lá dod1 ghi chép rất rành mạch cuộc ân ái của chàng và quận chúa An Trinh và kể rõ sự hy sinh cao thượng của quận chúa. Nhưng chỉ có thế là hết. Một sự tối may mắn hơn nữa, là trước khi lìa bỏ cỏi đời theo vợ, Nguyễn Anh Tề có viết một chương tuyệt mệnh rất dài. Chương tuyệt bút ấy nối lời hai bức cthư kia để biên lại những công cuộc chàng đã làm sau khi An Trinh tự tử. Nào báo thù không phải giết bố vợ, nào gặp Hoàng phi ở Tam Thanh, nào theo Lê Chiêu Thống sang Tàu. Chàng lại dặn trước rằng chàng sẽ tự mổ bụng chết theo vợ, và chỉ rõ cho người nhà biết nếu ai muốn làm chủ kho vàng, thì phải theo đúng lời nguyền của chàng, tức là mồm đọc bài thơ, khi hai tay ép hai đồng tiền Vạn Lịch vào làm một ngõ hầu thư hùng được hoà hợp cùng nhau. Nếu làm đúng như lời nguyền ấy, kho vàng sẽ theo sóng nổi lên bãi cát, cho mình vận tải đem về.
    Chương tuyệt mệnh đó, một ngày trước buổi chàng tự sát, chàng tìm một ngưòi phúc hậu, cho nó hết cả tiền bạc quần áo, trao thư cho nó, dặn đi dặn lại kỹ càng, nhờ đem tờ di chúc ấy về huyện Chân Lộc, đưa tay cho ông Nguyễn Hữu Bằng.
    Những thư từ giấy má của Anh Tề, nhờ trời nay còn giữ được cả trong nhà họ Nguyễn. Ông cụ Nguyễn Hữu Bằng lại đem ghi chép vào gia phả; người đời sau nhân vì thế, tìm ra dấu vết kho vàng.
    Biết đưọoc dấu vết là bởi cố công gắn sức tìm tòi, còn sự chiếm được gia sản vĩ đại kia, biết rằng ai có phúc phận bắt được đôi chìa khóa? Ðôi chìa khoá ấy, nó là đồng tiền Vạn Lịch, một đồng bạc, một đồng vàng...
    Ðồng tiền Vạn Lịch,
    Thích bốn chữ vàng:
    Công anh dan díu với nàng bấy lâu..
    Bây giờ nàng lấy chồng đâư?
    Ðể anh giúp đỡ trăm cau ngàn vàng.
    Trăm cau để thiết họ hàng.
    Ngàng vàng anh đốt giải oan lời thề...
  7. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Chương kết


    Người bạn mới quen biết của tôi vừa ngâm xong bài thơ đồng tiền Vạn Lịch, thì bỗng ngỗi nhỏm dậy, gãy đầu lia liạ, gãi vai, rồi phì cười cúi sát xuống tôi, nhủ sẽ rằng:
    - Tôi được ông cho hút thuốc phiện lần đầu. không hiểu nên hút nhiều ít thế nào, thành ra say khướt. Quái lạ! Sao tôi ngứa quá thế này? Có phải say nha phiến thì tịt mũi, nóng ran lên rồi ngứa ngáy, phải không ông?
    Tôi đương mải mê nghe câu chuyện lý thú chàng vừa kể lại, muốn rõ nốt quãng sau, vội vàng trả lời để đem bạn vào đầu đề, sợ chàng nhãng ý nói sang chuyện khác:
    - Phải, hút say thì đâm ngứa, nhưng không hề gì. Một lúc nó khỏi ngay. Nhưng mà này, mấy câu phong dao vừa đọc đây, có phải chăng nó thuộc về câu chuyện vừa mới kể nghĩa là chuyện đó người ta đặt ra câu phong dao ấy để làm gì?
    Bạn tôi cười thiên ha hả không đáp lại. Chàng còn lên giọng êm ái du dương ngâm lại rất thong thả mấy câu hát chàng ngâm lúc nãy, mãi sau cùng mới vỗ vai tôi, vui vẻ nói rằng:
    - Không phải đâu, ông đừng lầm! không phải đâu. Mấy câu hát của tôi, chúng nó có một điển tích khác, không dính dáng gì đến câu chuyện đồng tiền thư hùng cả. Song le, mấy câu phong dao cũ đó, nó đúng vào cảnh ngộ của tôi bây giờ, nên tôi dùng nó để đạt cảm giác và ý tưởng của tôi đó tôi. Ðiẻn tích câu phong dao. Tôi cũng biết, nhưng đó lại là chuyện khác, ông về lục tìm trong mấy pho sách cổ như ?oTruyền kỳ mạn lục?, ?oTruyện lạ nước Nam?, thì sẽ thấy.
    Bây giờ tôi không kể làm chi cho dài dòng vô ích, tôi chỉ nói nốt ông nghe kết quả chuyện kho vàng của tôi nó kỳ dị thế nào.
    Thắm thoát từ thủa Cao Hoàng nhà Nguyễn đánh được Tây Sơn để nhất thống thiên hạ, đến bây giờ trong gia tộc họ Nguyễn ở vùng Chân lộc, nay gọi là Nghi Lộc, tám đời đà nối tiếp nhau sinh hoạt về nghề cày ruộng, không ai muốn chen chân vào vòng sĩ hoạn làm gì. Những cảnh bị giết, bị thất thế mất oai quyền, mà tôn tổ ngày xua đã chịu trải qua một cách đau đớn, những cảnh ấy khiến dân trong họ lấy ông Cống Chỉnh là gương tầy kiếp, không ai hề nghĩ đến việc bôn tẩu kiếm công danh. Tôi vẫn còn nhớ, thủa bé, được nghe ông và cha tôi dùng mấy câu thơ Ðường để tỏ ý chí mình không chịu góp mặt cùng thiên hạ:
    Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
    Hối giao phu tế mịch phong hầu!
    Lần đi, lần một bạc đầu;
    Ai ơi đeo ấn công hầu làm chi?...
    Phải, trong họ Nguyễn chúng tôi, từ đời cụ Nguyễn Hữu Bằng, không ai muốn ra làm quan nữa. Họ toàn an phận trồng cây, trồng lúa, sống một cuộc đời thanh bạch, nhưng nhà hạ, chẳng khi nào có chút gợn phong ba. Tuy nhiên, tất cả trẻ em trong họ đều phải học hành cho giỏi cả. Không một người nào chịu tiếng dốt bao giờ. Còn đến khoa võ bị côn uqyền, thì lại cấm hẳn, không được học. Tổ tiên tôi cho nghề võ là vô ích, giỏi võ lắm, càng đâm ra dữ tợn ngang ngạnh và càng dễ gieo những mầm đại hoạ vào thân thể và gia tộc.
    Bởi lẽ ấy, từ cụ Bằng cho đến đời cha tôi, trong khoảng một trăm ba mươi năm, con cháu nhà Nguyễn hữu không ai luyện tập nữa. Họ đều chú trọng về văn chương, nhưng không đi thi, cũng chả làm quan. Thực là một giòng họ ương dở vô cùng. Mãi đến đời tôi, vì theo học chữ Tây, tôi mới bỏ hẳn những sự cấm đoán vô lý ấy. Sáng chiều nào tôi cũng ra cũng luyện gân và xách tạ, lại thuê thầy dạy đủ quyền cước và thập bát ban võ nghệ tàu và ta. Hơn nữa, tôi học cả võ tây, võ Hồng Mao và rất để ý đến môn kiếm thuật.
    Ông cha tôi lấy làm giận lắm: tôi phải mỏi mồm cắt nghĩa rõ cho các cụ biết ngày nay sự thế đổi thay, không thể bo bo giữ mãi được những tục lệ và chế độ hủ bại của thời xưa nũa. Ông cha tôi thấy tôi không những chỉ chuyên riêng có món võ mà thôi, còn gắng học cả chữ nho và chữ tây, nên dần dần hai cụ cũng lờ đi, không mắng chửi. Chữ tây tôi học từ năm mười sáu tuổi, nên mãi đến năm hai mươi bốn, tức là năm ngoái, tôi mới đỗ được bằng tú tài văn chương.
    Ðỗ xong, tôi xin phép nhà được ra nghỉ mát Sầm Sơn, cách đây mười tháng về trước. Tôi thường thích chiều chiều, một mình đi thơ thẩn trên bãi cát, ở một chổ vắng vẻ, để trầm ngâm nghĩ ngợi, không bị những thiếu niên thiếu nữ đi tắm đến phá rối sự yên lặng của tôi. Một buổi kia, đương mải mê ngắm mấy con dã tràng chạy tung tăng trên măt cát, tôi thình lình bỗng thấy ngoài khơi nổi lên một ngọn sóng to, to lắm, cao đến năm sáu thước hơn các làn sóng thường. Tôi những tưởng đó là một con thủy vật nào làm cho mặt biển nhô lên như vậy. Ðã lấy làm ngạc nhiên, tôi càng thêm kinh hãi, vì thấy ngọn sóng kia ồ ạt vỗ, rồi lừ lừ tiến lại mé tôi. Nó như lăm le muốn chụp lên đầu tôi để lôi cuốn tôi ra tậnchỗ; sâu hoắm ngoài xa tít. Chỗ tôi đứng còn xa bể độ tám chín thước tây, nên tôi không ngại lắm, cứ đứng yên chờ xem công cuộc xảy ra thế nào.
    Quả nhiên, ngọn sóng khổng lồ kia lượn rất nhanh chóng vào bờ, rồi đổ ụp xuống, làm cho bọt bắn tứ tung. Như một cái lưỡi dài, nó liếm bãi cát dưới chân tôi, chỉ cách gót giầy tôi có một gang nhỏ xíu. Quần tôi cũng bị tia bọt bắn vào ướt át; tôi tự nghĩ không hiểu làm sao đương lúc trời bể phẳng lặng mà tự nhiên bỗng nhô lên một ngọn sóng lạ kỳ này.
    Tôi chưa ra khỏi lúc bồi hồi, nước bể đã rút xuống lúc nào không rõ. Cúi xuống nhìn bãi cát, tôi bỗng phải rú lên vì mừng vì lạ: một vật tròn bằng vàng, nằm lóng lánh trên mặt cát, bên cạnh những mảnh rơm rác, những đám bọt, trắng một màu trắng pha xám, pha nâu.
    Tôi quỳ xuống nhặt vật ấy lên, trông kỹ thì ra một đồng tiền vàng. Một đồng tiền Vạn Lịch. Bấy giờ bao nhiêu ý tưởng tự đâu lại nhẩy lộn xộn trong óc tôi, mắt tôi hoa lên, tay tôi run lẩy bẩy, trống ngực tôi vỗ thình thình. Tôi nhớ lại câu chuyện trong gia phả họ nhà tôi, mà từ bé tôi thường vẫn đọc đi, đọc lại.
    Ðó là thần kho vàng chọn tôi là người có duyên để trao lại sản nghiệp bị chìm từ thủa trước, có lẽ đồng tiền này sẽ giúp tôi trở nên môt tay triệu phú vẻ vang? Bởi nó là chìa khoá để mở cửa vào cõi chứa kim ngân châu ngọc. Nhưng mà, ồ lạ! Sao thần nhân đã ra ơn cho tôi có một đồng vàng? Còn đồng bạc? đồng bạc ấy ở đâu, tôi làm sao tìm được nó?
    Ðương cuống quýt hồi hộp, tôi đâm ra thất vọng, khi nghĩ đến sự thiếu mất nửa chìa khóa kia, nửa chìa khoá mà, họp lại với chìa này, sẽ giúp tôi nhất đán có một mãnh lực làm bá chủ được đời nay: Kim tiền! Nghĩ đi, nghĩ lại, tôi băn khoăn khó chịu, không biết tự đây nên xử trí ra sao.
    Ðêm hôm ấy, về nhà trọ, tôi chong đèn ngồi cả đêm, ngắm lại đồng tiền vàng. Mỏi mệt quá, tôi thiếp đi, nằm gục đầu xuống bàn ngủ quên mà không rõ.
    Trong khi lơ mơ say tỉnh, hình như có một giọng nói nhẹ nhàng, rất nhỏ, theo luồng gió thổi, phều phào bay vào tai tôi:
    - Ðồng tiền hùng về tay ngươi, đồng thư về tay người khác. Ngươi phải cố tìm ra người đó, một cuộc ái ân từ thủa trước vẫn một niềm chờ đợi đón ngươi. Thôi, cố đi!
    Ba tiếng ?oThôi, cố đi!? tựa hồ quát rất to, tôi giật mình choàng dậy. Rõ ràng một giấc chiêm bao! Lạ náy! Cớ làm sao hai ba sự liên tiếp nhau xảy ra để quyết định lòng tôi hành động ngõ hầu chiếm lấy kho của? Tôi hẳn có dính dáng gì với sản nghiệp đó, chẳng sai!
    Hay kiếp trước tôi là Nguyễn Anh Tề? Có lẽ, có lẽ lắm. Bởi kiếp này, vì một sự tối ngẫu nhĩ, tối tự nhiên, ông tôi đặt tên tôi cũng là Tề. Nguyễn Hữu Tề! Thế thì lạ thật! Có lẽ người được đồng bạc kia là Hậu thân của Võ An Trinh quận chúa, mà người ấy đương đợi tôi để cùng tôi nối lại quãng đời tình?
    Lòng tôi bối rối như tơ nát. Tôi cũng không hiểu tôi lúc đó tỉnh hay mê. Một cảm giác khó chịu mà dễ chịu xúc động thần kinh tôi, người tôi như phát sốt. Ngày hôm sau, tôi đáp tầu về Nghệ An. Về Nghi Lộc, về làng tôi.
    Tôi giữ kín chuyện bắt được tiền, không nói cho ai biết cả. Rồi, một mình, tôi tự nhốt trong phòng sách, khoá kín cửa lại, đem các giấy má và gia phả trong nhà ra lục, ra khảo cứu, trong ngót ba ngày. Sau cùng, tôi tìm được đủ hai lá thơ cũ của ông Tổ tám đời của tôi là Nguyễn Anh Tề, và nhận được cả đoạn gia phả chép lại đời của ông nữa.
    Tôi cẩn thận bỏ các thư từ đó vào một chiếc phong bì, đem bì nhét vào ngăn kín nhất trong va li, rồi lộn lại Sầm Sơn tìm đồng tiền bạc. Ghé qua tỉnh Nghệ, tôi đặt một chiếc hộp gỗ nhỏ bằng trắc khảm, bỏ đồng tiền Vạn Lịch quí báu của tôi vào đó. Sắm sửa đ6au đấy, tôi đáp tàu và ô tô một mạch ra Sầm Sơn.
    Cả một vụ hè năm ngoái, ông ạ, không ngày nào, giờ nào, tôi không did tìm kiếm người đã có duyên như tôi, bắt được đồng tiền bạc. Trong ba tháng tôi đi xuôi chạy ngược, lùng hết các làng, các xóm, vào hết các quán trọ, các ô ten, mà tuyệt nhiên không được một chút tin tức gì cả. Người có đồng bạc, cũng như đồng bạc, chẳng thấy ở đâu. Công tôi đã như công dã tràng xe cát vậy.
    Thất vọng, tôi lại về quê, nằm meo nghĩ ngợi, nhưng nghĩ ngợi bao nhiêu càng sốt ruột bấy nhiêu. Quá vụ hè, ngoài bãi biển không còn mà nào cả. Có ra đấy cũng vô ích, tôi bèn đánh liều đi du lịch khắp trong nước, hoạ may có tìm ra được vết người, mà theo như lời mộng triệu, cùng tôi có tiền duyên ràng buộc! Ðã gọi là có duyên, mà có duyên thì ?othiên lý năng tương ngộ?, chả biết sao mãi tới nay người ấy, trước mắt tôi, vẫn như một nhân vật vô hình? Suốt một năm trời, tôi tìm y đã mỏi mắt, nản lòng, mà y nhất quyết không lộ mặt cho tôi được thấy!
    Tuy vậy, tôi vẫn kiên tâm trông đợi. Bởi tôi tin rằng thần nhãn không bao giờ vô cố dối tôi. Mà đồng tiền này nó tức là của tín thần kho vàng đã ban cho tôi đó!
    Vậy thì, mặc dầu khó khăn, mặc dầu lâu chóng, ta cứ tìm, tìm mãi, tìm đến khi nào có kết quả thì thôi! Kiếp này chưa tìm ra, nguyện kiếp khác cũng vẫn tìm, tìm nữa!
    Ông bạn ạ, tôi gặp ông, ắt là cùng ông có chút duyên tri ngộ; ông đã là người độc nhất và là người trước tiên nghe biết rõ chuyện kín của tôi, ông cũng nên giúp tôi một tay trong sự đi kiếm đồng tiền bạc! Nhưng mà tôi phải có một lời tâm sự dặn ông trước khi ông nhúng tay vào cuộc: là dù ông có vui lòng nhận lời hay không muốn nhận cộng tác với tôi chăng nữa ông cũng nên giữ bí mật hộ tôi, đừng tiết lộ chuyện của tôi cho ai rõ hết. Kẻo, một khi biết chuyện, những kẻ thâm hiểm độc ác sẽ mưu mô tìm quỉ kế đánh bẫy mình để chiếm lấy chìa khoá mở cửa kho vàng, lúc ấy tính mệnh mình sẽ theo sản nghiệp kia mà bị đoạt.
    Tôi trông dung mạo ông, biết ông không phải là người gian giảo phản trắc, bởi thế nên vui lòng giãi bày tâm sự cùng ông. Ông nên vì cách xử xự thành thực của tôi mà cũng thành thực giúp tôi, ông nhé!
    *

  8. M_n_M_new

    M_n_M_new Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/03/2002
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    * *
    Câu chuyện nguồn gốc ?okho vàng Sầm Sơn? đến đây là hết. Ðêm hôm ấy, chàng thiếu niên có khổ mặt rắn rỏi và hai con mắt inh sáng, mà tình cờ vừa cho tôi được quen biết, kể cặn kẽ cho tôi nghe sáng suốt nỗi tâm sự từ lâu chàng hoài bão tận đáy lòng. Ðến lúc chúng tôi cùng nằm im, định chợp ngủ một chút để dưỡng thần thì tiếng gà rồn rã báo hiệu vừng đông đã bắt đầu giọi sáng. Chúng tôi đều choàng dậy, không ngủ nữa, xếp hành lý lại cẩn thận, rồi rửa mặt, mặc quần áo, rủ nhau ra hàng quán ăn điểm tâm.
    Bắt đầu từ phút cùng ăn chung ngủ chạ ấy, tôi và thiếu niên mới gặp kết chung một mối tình nghĩa tri giao bền chặt, một mối tình mà thời gian cùng hoàn cảnh, sau này, khó làm cho đứt khúc, rối nhầu. Mặc dầu buổi sơ thân, chúngot6i đã thấy quí mến nhau vô kể. Thiếu niên thục dã không lầm lẫn khi chọn tôi làm bạn để giãi bày bí mật; tôi cũng không tự thẹn đã được biết sự bí mật của chàng.
    Một quãng đời quay cuồng điên đảo chúng tôi cùng sống sau buổi ăn điềm tâm hôm ấy, càng làm cho tôi càng kính trọng thương mến nhau, nhất là gì chàng thấy tôi đối với chàng tận tụy cùng như tôi thấy chàng đối với tôi một lòng chung thủy không phai.
    Chúng tôi đã họp sức họp trí nhau, đi kiếm đồng tiền bằng bạc và người chủ đồng tiền ấy. Trong khi tìm kiếm, chúng tôi đã hao tâm tổn lực, đã cố len lỏi trong muôn vàn lớp sóng ngưòi hoài nghi, nghiêm nghị, cố tiến đi, đi mãi, đi tìm cho ra nốt nữa mảnh chìa khóa mở cửa cho chúng tôi vào đời cự phú vinh quang. Bao nhiêu cuộc khó khăn ngăn cản chúng tôi, mà chúng tôi cũng vẫn điềm nhiên thẳng bước. Bao nhiêu sự hiểm nguy rình chúng tôi trong xó tối, chúng tôi vẫn tránh được như thường.
    Rút cuộc chúng tôi thắng thế, tìm được đồng tiền bằng bạc.
    Nhưng... nhưng, một phản lực mà chúng tôi không tài nào át chế được, đã gieo nặng xuống đầu chúng tôi một cách tối bất ngờ! Phản lực ấy là số mệnh!
    Số mệnh đã mỉa mai bảo chúng tôi đừng hão huyền mong chiếm đoạt một sản nghiệp mà mình không phải là chủ; số mệnh đã chỉ rõ cho chúng tôi biết hai đồng tiền Vạn Lịch không phải chìa khóa mở cửa vào kho châu báu, mà chỉ dùng được để rút then cửa của một cõi đẹp đẽ quí giá hơn:Cõi ái tình!
    Thực vậy, hai ba năm vật lộn lăn lóc chẳng cho bạn tôi cái cơ nghiệp chàng ao ước, nhưng chỉ biếu chàng một món quà tuyệt mỹ tối bất ngờ: một giai nhân mê chàng cũng như chàng yêu nàng đến tan hồn lạc trí.
    Cập uyên ương mà định mệnh xô đẩy vào lòng nhau, sau một cuộc xung đột nhau kịch liệt, bỗng nhận rõ chỉ có ái ân là đáng quí ở đời. Mối ái ân đó mãn nguyện rồi, kho vàng đáy biển lại hoá ra vô vị.
    Thành thử, trong một khoảng một trăm năm mươi năm, hai lần sản nghiệp lớn ấy mất chủ, chỉ bởi lẽ như tôi đã nói:
    ?oÁi tình có cần đâu đến những kho vàng!?
    Tôi, ngẫu nhiên, đứng ngoài làm khách bàng quan, không được hạnh phúc hưởng một phần giầu có - bạn tôi có thề rằng được vàng bạc sẽ cho tôi một phần ba của cải - những lại được một lạc thú tối cao quí là hơn cả mọi ngưòi, tôi biết rõ chuyện kho vàng.
    Làm thính giả trong một đêm, tôi chép ngay được lịch sử của kho vàng đó. Sau này, trong bao nhiêu trường hợp khe khắt xảy ra vì sự xâu xé nhau để chiếm lấy tài lợi, tôi không mất gì, được ngay một bài thí nghiệm rất sâu xa thâm thúy về nghĩa cuộc sinh tồn.
    Bài thí nghiệm sâu xa ấy, trong quyển ?oÐồng tiền Vạn Lịch? tiếp theo đây, sẽ đem lại cho các bạn yêu chuyện này nhiều cảm giác lạ lùng nhưng thú vị, sẽ làm cho các bạn phải bồn chồn hồi hộp, sống trong một hoàn cảnh tưng bừng náo nhiệt, bí mật gay go; khiến cho, cùng với người lặn lội đi tìm kiếm kho vàng, các bạn sẽ tưởng tượng như mình cũng là khách phiêu linh, rồi lo sợ khi thấy các nhân vật mắc nạn rất nguy, rồi mừng rỡ khi thấy họ thoát khỏi lưới mà bay nhảy vào một cõi cao siêu rực rỡ...
    Hết

Chia sẻ trang này