1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Không chiến trên bầu trời Bắc Việt (Phần 2)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi kqndvn2, 07/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Freesky

    Freesky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    2.442
    Đã được thích:
    0
    Mỹ chỉ rút khỏi MNVN chứ có rút khỏi TL đâu?
  2. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Chính sách quốc tế của Thái lan cực kỳ mềm dẻo, và rõ ràng là rất thành công trong con mắt các học giả Foreign relationship. Thái lan đã không bị bất cứ đế quốc nào thôn tính trong suốt chiến tranh thế giới thứ 2 cho đến nay.
    Sau năm 75, Thái đã quay sang chính sách thân thiện hơn với các nước cộng sản Đông Dương (Cộng sản Lào, Cộng sản Ponpot, Cộng sản VN), bằng các hiệp ước kinh tế, xã hội, đồng thời yêu cầu quân Mỹ rút khỏi các căn cứ quân sự của Thái.
    Một trong số các tài liệu:
    The normalization of relations with its Indochinese neighbors became pressing as refugees from Laos, Cambodia, and Vietnam streamed across the Thai frontier, straining Thai resources and raising tensions in the border regions. Relations with Laos, bound to Thailand by a shared history, religion, ethnicity, culture, and language, were tense. Much of the problem centered on Laotian Meo tribespeople who had taken refuge in Thailand after the communist-led Pathet Lao forces gained control of Vientiane in May 1975. For years the Meo and some Thai irregular troops had waged clandestine operations against the Pathet Lao forces, reportedly with the knowledge and cooperation of the government of Thailand. After intermittent clashes on the Mekong River, Thailand in November 1975 closed the frontier with Laos, causing hardship in Vientiane; this action prevented oil, food, and other essential goods from reaching Laos through Thai territory, the historical transit route to the landlocked country. Tension eased somewhat after January 1976, when the border was reopened following Thai recognition of the new Laotian regime. In August 1976, the two countries signed an agreement on the transport of Laotian goods through Thailand in exchange for Thai air routes over Laos to Vietnam and Hong Kong. Nonetheless, recurring border incidents led to a temporary Thai economic blockade of Laos in late 1977. By the end of the year, Laotian refugees accounted for 73,000 of about 95,000 Indochinese refugees encamped in Thailand.
    In April 1975, Thailand was the first country in Southeast Asia to recognize the new regime of the communist Khmer Rouge in Phnom Penh. In October the two countries agreed in principle to resume diplomatic and economic relations; the agreement was formalized in June 1976, when they also agreed to erect border markers in poorly defined border areas.
    Meanwhile, the withdrawal of all American troops from Thailand by July 1976 paved the way for the Thai-Vietnamese agreement in August on normalizing relations. In January 1978, Bangkok and Hanoi signed an accord on trade and economic and technical cooperation, agreeing also to exchange ambassadors, reopen aviation links, resolve all problems through negotiations, and consult on the question of delimiting sea boundaries. Progress toward improved relations with the Indochinese states came to an abrupt halt, however, after Vietnam invaded Cambodia in December 1978, and in January 1979 installed in Phnom Penh a new communist regime friendly to Hanoi.
    This invasion not only provoked a Chinese attack on Vietnam in February 1979 but also posed a threat to Thailand''s security. Bangkok could no longer rely on Cambodia as a buffer against Vietnamese power. Bangkok was forced to assume the role of a frontline state against a resurgent communist Vietnam, which had 300,000 troops in Cambodia and Laos. The Thai government began increasing its defense capabilities. While visiting Washington in February 1979, Prime Minister Kriangsak asked for and received reassurances of military support from the United States. His government also launched a major diplomatic offensive to press for the withdrawal of all Vietnamese forces from Cambodia and for continued international recognition of Democratic Kampuchea under Pol Pot''s Khmer Rouge regime.
    As part of that offensive, Kriangsak also journeyed to Moscow in March 1979--the first visit ever by a Thai prime minister--to explain the Thai position on the Cambodian question and to reassure the Soviets that Thailand''s anti-Vietnamese position was neither anti-Soviet nor pro-Chinese. Such reassurances were believed to be necessary in view of Vietnamese accusations that Thailand collaborated with China and the United States in aiding and abetting the Khmer Rouge forces against the Heng Samrin regime.
  3. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Đọc thêm về tình thế khu vực lúc đó và chính sách ngoại giao của Thái lan.
    http://www.photius.com/countries/thailand/government/thailand_government_foreign_relations_si~2374.html
    Nevertheless, Thailand was committed to solving its problems with the neighboring states of Indochina--Cambodia, Laos, and Vietnam. The Thai flexibility in foreign policy that had enabled the country to avoid conquest or colonization by foreign powers included a dedication to maintaining good relations with all nations, great and small. Given this commitment and adaptability, it was likely that Thailand, perhaps in concert with its ASEAN partners, would soon reach a mutually agreeable accommodation with its Indochinese neighbors.
  4. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Khì khì, chẳng qua chưa muốn nó lên đĩa thì nó chưa phải lên thôi. Chứ nhìn gương lão Xihanuc mà xem, có muốn mềm dẻo trung lập cũng đâu được!!!
    Các lão học giả quốc tế có phải tự thiến để giả gái kiếm xiền không, có phải đi lính baỏ vệ "biên giới" Lào-VN không. có phaỉ đi biểu tình rồi bị bọn độc tài "Nguyễn Văn Thiệu Thái lan" nó bắn cho chết bỏ không. Đáng lẽ bọn học giả ấy nó phải nói là phải chi bọn Thái nó không mềm dẻo thì Mỹ sẽ nhảy vô giúp xây dựng chế độ dân chủ từ khuya rồi!!
  5. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Chuyện AN-2
    (Tiếp)
    Tất cả các máy bay chiến đấu đều có IFF, và rõ ràng chiếc AN-2 đã được lắp đặt IFF cho sứ mệnh này. Trước đây chúng tôi chưa từng có trong thay thiết bị nguyên vẹn thế này.
    Sau khi khám phá, chúng tôi đã làm một hệ thống tin cậy có khả năng truy sát được một cách chính xác vị trí những chiếc Mig nhỏ, nhanh và lẩn như trạch trước khi chúng kịp trườn tới đoàn bay đánh phá. Hệ thống cảnh báo RED CROWN đã được cải thiện đáng kể, tiết kiệm được bao sinh mạng phi công Mỹ và máy bay trong những năm tiếp theo.
    Tôi rất tự hào đã có công lớn trong việc này.
    Chiếc AN-2 quá nặng với chiếc Jolly Green helo (Một chiếc Chinook được cử đến để cẩu AN-2 về Viên chăn). Sau vài giờ, đột ngột có thông báo một chiếc RS57 đã bị bắn rơi đâu đó phía Bắc, và các phi công đã nhảy dù ra trong một dọc đường dài 20 dặm.
    Lệnh tất cả phải đi cứu hộ. Chiếc trực thăng cũng phải bỏ việc tức khắc để đi thực hiện nhiệm vụ, thậm chí không kịp hạ xuống để đón tổ chúng tôi lên.
    Tự dưng một việc đơn giản bỗng trở nên phức tạp, khi chúng tôi hiểu mình đang ở gần các đơn vị Bắc Việt, vốn rất có khả năng sẽ lần tìm tới hiện trường máy bay rơi để tím kiếm và phá huỷ nó. Trực thăng đã quần thảo ầm ỹ ở đây, lại còn vô tuyến điện đài từ nãy nữa, chắc chắn sẽ báo động sự hiện diện của chúng tôi. 4 người Mỹ (không nói tiếng bản địa) với chục người bản địa (không nói tiếng Anh).
    Vũ khí cũng giới hạn, đạn dược thiếu (three -38 revolvers, my Colt 1911 .45 automatic, and the Meos'' ragtag lot of Ml''s, Ml4''s, and ''03 Springfields). Không nước, không lự đạn khói, không compas, không pháo sáng. Chỉ có mỗi phương tiện điện đài đối không tầm ngắn, cộng với lời hứa quay trở lại đón - nhưng bao giờ đây?
  6. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Sau khi có một cuộc họi ý căng thẳng, chúng tôi quyết định ở lại địa điểm cho tới trước lúc mặt trời lặn 1 tiếng. Chúng tôi tìm một vị trí phòng thủ có thể ở lại qua đêm nếu cần thiết.
    Cuối buổi chiều, chúng tôi nghe tiếng trực thăng và có người gọi báo cuộc cứu hộ lớn đã hoàn thành, và chúng tôi cần chuẩn bị để được đón. Không thể diễn tả nổi chúng tôi đã nhẹ bẫng đi thế nào khi thấy chiếc Freedom Bird to đẹp bay lại về phía mình. Chúng tôi trở về Udorn.
  7. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Tiếp:
    Địa điểm này sau đó đã bị tràn ngập bởi bộ binh một tháng sau đợt ném bom đó. Tất cả các nhân viên người Mỹ đã bị giết hoặc bắt giữ.
    Chúng tôi nghe những lời cuối cùng của nhân viên điện đài báo cáo tình hình quân tấn công đang phát triển về boongke của họ.
    Thông tin chính thức cho biết quân Bắc Việt đã trèo lên sườn núi bằng dây thừng và dùng súng tấn công.
    Chúng tôi lúc đó không tin, tôi bây giờ cũng không tin. Cuộc tấn công có dáng dấp đặc điểm của biệt đội Spetsnaz, thực hiện bởi một đội nhảy dù HALO, nhưng trừ khi người Nga thừa nhận, chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết.
    Vài tháng trước, History Channel đã đề cập đến câu chuyện này trong series " Missions of CIA". Họ đã chiếu đoạn phim về chiếc AN-2 trưng bày ở Viên Chăn, và tranh luận về cuộc tấn công bộ binh sau đó.
    Họ đã làm việc tương đối tốt, nhất là với một việc đã xảy ra hơn 30 năm trước. Họ sai sót một đôi chỗ, và một đôi chi tiết họ không bao giờ có thể biết được.
    Họ đã không ở đấy lúc đó. Tôi đã ở đó.
    Lawrence E. Pence
    Đại tá KQ Mỹ về hưu.
    kqndvn:
    Theo tạp chí Sự kiện và Nhân chứng, sau đợt ném bom đó đặc công của ta được tăng cường một tiểu đoàn bộ binh (ko nhớ chính xác) đã tìm cách công phá được đồn.
    Rất tiếc là đơn vị bộ binh đã không biết gì về chiếc An-2 bị bắn hạ ngay trên đỉnh núi và thi hài các phi công đã được chôn cất ở đó để đưa các anh về (bây giờ có thể các anh vẫn còn ở đó !?).
    Cũng theo Tạp chí Sự kiện và Nhân chứng, hơn 30 năm sau, năm 95, quân chủng có tìm được một chiếc AN-2 và bọc di hài phi công.
    Nhưng câu chuyện của nhân chứng cựu binh Việt nam về tình huống chiếc AN-2 bị bắn rơi khác biệt xa so với câu chuyện của cựu binh tình báo Không quân Mỹ kể trên.
  8. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Tiếp chủ đề cường kích ném bom của KQNDVN:
    Ngoài AN-2, ta còn cải tiến loại máy bay vận tải IL-14 thành máy bay ném bom.
    Cũng chính đợt tết âm lịch này, cách đây gần tròn 40 năm, có nhiều tổ bay IL-14 cảm tử, đã vượt giới tuyến và không quay trở lại.
    Câu chuyện sau copy lại từ báo Quân đội nhân dân
    Tìm thấy tổ bay cảm tử mất tích trong chiến dịch Mậu Thân
    Ngày 06 tháng 08 năm 2005

    Kết thúc Chiến dịch Mậu Thân 1968, Quân chủng Phòng không-Không quân có 4 máy bay IL-14 cùng 32 phi hành đoàn không trở về, cũng không để lại dấu vết gì. Đó là những chuyến bay cảm tử tiếp tế cho chiến trường Nam Trung Bộ. Gần 40 năm qua, người thân và đồng đội của các anh tìm kiếm mọi nơi, nhưng mọi sự cố gắng đều đã rơi vào im lặng. Mới đây, nhờ lá thư của một cựu chiến binh sau chuyến về thăm lại chiến trường xưa mà Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) phối hợp cùng Đoàn bay 919 đã tìm được vị trí một tổ bay cảm tử vào vùng địch, bị hy sinh và đã đưa các liệt sĩ về nghĩa trang Yên Viên (quận Long Biên-Hà Nội). Tôi may mắn được đi theo đoàn, xin thông tin đến bạn đọc.
    Những chuyến bay cảm tử
    Trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968, thực hiện hiệp đồng chiến đấu, chi viện cho chiến trường, từ ngày 7 đến ngày 12-2-1968, Quân chủng PK-KQ đã có liên tục hàng chục chuyến bay, trung bình mỗi chiếc mang hơn 2 tấn hàng từ Hà Nội vào chiến đấu và tiếp tế cho chiến dịch Trị Thiên-Huế. Việc hiệp đồng được xác định bằng đốt lửa vào ban đêm để máy bay nhận biết địa điểm. Thực hiện nhiệm vụ này đối với các tổ bay quả là rất nguy hiểm, vì phải bay trong vùng kiểm soát của địch ở độ cao thấp để tránh ra-đa phát hiện nên rất dễ xảy ra tai nạn như va vào núi hay gặp phải hỏa lực phòng không, nhưng anh em tổ bay vẫn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, họ coi những chuyến bay đó như những chuyến bay cảm tử.
    Đồng chí Lê Ngọc Chuyền, nguyên là thợ cơ giới trên không của tổ bay xuất kích lúc 16 giờ 50 phút, ngày 7-2-1968, nay đã ở tuổi bảy mươi cho biết: ?oNgày đó tuy là những chuyến bay cảm tử, nhưng anh em thực hiện nhiệm vụ rất bình thản, không ai suy tính gì.
    Đợt xuất kích bắt đầu từ ngày 7-2 đến ngày 12-2 thì kết thúc. Riêng ngày mùng 7 có 6 chiếc IL-14 rời sân bay Gia Lâm, trong đó 3 chiếc mang vũ khí có nhiệm vụ hạ đồn Mang Cá ở Huế, còn 3 chiếc mang hàng tiếp tế cho chiến trường?.
    Ngày ấy tổ của ông Chuyền nằm trong nhóm đi hạ đồn Mang Cá do phi công Hoàng Liên lái chính. Theo kế hoạch, những chiếc IL-14 bay dọc biên giới Việt-Lào, đến sông Sê-pôn thọc xuống biển rồi vòng vào Huế hạ thấp độ cao. Vì thời tiết xấu, nhóm đánh đồn Mang Cá không tìm thấy mục tiêu, 2 trong 3 chiếc đã bay trở ra cửa biển Cửa Việt (Quảng Trị) và bắn chìm một tàu chiến của địch, bắn hai tàu khác bị thương rồi về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn. Còn máy bay của ông Chuyền trên đường quay về thì bị bắn thủng thùng xăng, phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Thọ Xuân - Thanh Hóa - những người trong tổ bay đều an toàn.
    Những ngày sau đó còn có nhiều tổ bay IL-14 nữa cất cánh vào Trị Thiên-Huế và cũng có những tổ bay đã hi sinh... Ông Phạm Đình Đạt, nguyên là diễn viên múa đoàn văn công Quân khu Trị Thiên-Huế (nay sống tại Tây Hồ-Hà Nội) là một trong những người được giao nhiệm vụ đốt lửa làm hiệu cho máy bay ngày ấy, nhớ lại: Tối hôm âý tôi và hai người nữa được cấp trên giao nhiệm vụ đốt lửa đón máy bay thả hàng. Chúng tôi đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu. Đến 23 giờ, mọi người nản quá không đốt nữa. Những người đốt lửa đâu biết những chuyến bay mà họ mỏi mắt mong chờ ấy đã không đến được điểm hẹn như kế hoạch.
    Kết thúc chiến dịch Mậu Thân, tất cả có 4 chiếc IL-14 cùng 32 chiến sĩ không trở về và cũng không có tin tức gì cho đến nay.
    Sau khi sự việc xảy ra, Quân chủng PK-KQ đã thông báo đi khắp các đơn vị, tỉnh, thành đề nghị phối hợp tìm kiếm và thông báo giúp, mong tìm ra tung tích những chiếc máy bay mất tích, nhưng sự việc vẫn rơi vào im lặng, không có một hồi âm. Việc phi công chiến đấu gặp tai nạn trong chiến tranh không tìm thấy xác vẫn thường xảy ra, nhưng trong sự việc này thì thật hy hữu, trong vòng 5 ngày cả 4 chiếc máy bay mất tích gồm 32 con người và gần chục tấn hàng mà không để lại một dấu vết gì. Các đồng chí tham gia các tổ bay đã được công nhận là liệt sĩ nhưng chẳng hề biết đích xác hi sinh ở đâu, một mẩu xương cho những người ở lại an lòng cũng là vô vọng. Gần 40 năm nay đơn vị, đồng đội, người thân của họ vẫn sống trong niềm khắc khoải khôn nguôi. Cho đến một ngày?
  9. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Từ lá thư của một cựu chiến binh
    Một ngày đầu tháng 6-2005, Quân chủng nhận được một bức thư đề gửi đồng chí ?oTư lệnh trưởng?. Người gửi thư là đồng chí Lại Văn Vượng ở thành phố Hải Phòng, nguyên là chiến sĩ đoàn B24 - Binh đoàn Hương Giang, đã có thời gian dài tham gia chiến đấu ở tây Thừa Thiên-Huế, cho biết, trong chuyến về thăm lại chiến trường xưa hồi tháng 5-2005 ở vùng A Lưới (một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên-Huế sát biên giới Việt-Lào) ông đã tình cờ biết được câu chuyện về một chiếc máy bay rất có khả năng là của ta bị rơi trên khu rừng gần xã Hồng Thượng. Theo bà con dân tộc Pa Cô kể lại thì thời điểm máy bay rơi khoảng năm 1965-1966, xác tổ bay thu lượm đã được một số đồng bào dân tộc thiểu số chôn cất trên khu rừng này. Ông Vượng cũng cho biết, hiện nay tại nhà của ông Nguyễn Xuân Toàn ở xã Hồng Thượng, huyện A Lưới còn giữ được một số hiện vật của chiếc máy bay nói trên. Riêng mấy ngôi mộ thì mấy chục năm qua nó vẫn yên vị ở chỗ cũ. Đồng chí Vượng còn gửi 5 bức ảnh kèm theo lá thư để thêm căn cứ. Trong đó có bức ảnh ông Toàn đứng bên mảnh cánh máy bay
    Sau khi nhận được bức thư trên, Quân chủng đã thông báo và phối hợp cùng Đoàn bay 919 - là đơn vị chủ quản của những tổ bay mất tích năm 1968 nay thuộc Tổng Công ty Hàng không Việt Nam vào A Lưới xác minh. Sau hai lần đi tiền trạm, ngày 11-7-2005, đoàn công tác đặc biệt của Quân chủng và Đoàn bay 919 đã lên đường vào Thừa Thiên-Huế tìm kiếm đưa hài cốt các liệt sĩ về đơn vị.
    Những người dân trực tiếp mai táng tổ bay năm 1968 hầu hết đều đã mất. Ông Nguyễn Xuân Toàn - dân tộc Pa Cô-người chứng kiến việc chôn cất và tham gia thu gom hài cốt nay vẫn còn sống tại xã Hồng Thượng. Theo trí nhớ của ông thì: ?oLúc đó khoảng 19 giờ, tôi thấy một chiếc máy bay bay từ hướng thành phố Huế lên, một lúc sau có tiếng nổ rất lớn vang lên trong cánh rừng, sau đó những mảnh xác máy bay bắn tung tóe văng ra tận nơi gia đình tôi ở?. Nhà ông Toàn khi đó sơ tán vào rừng, ở ngay gần nơi xảy ra sự việc. Ông cùng với một số người trong làng đã tìm đến hiện trường thấy mảnh xác máy bay văng mỗi nơi một ít, một số vũ khí như súng K54, AK và nhiều nhất là lựu đạn còn nguyên cả hòm, sáng hôm sau, dân làng thấy một số bộ phận cơ thể rơi rải rác chẳng biết mấy người, ruột gan và tóc mắc cả trên cây rừng, ông Toàn phải trèo lên gỡ xuống để mai táng...
    Ngày 12-7, sau khi đến A Lưới, đoàn công tác đã làm việc với huyện đội A Lưới và được các đồng chí nhiệt tình giúp đỡ cử cán bộ cùng xuống xã Phú Vinh, là địa phương xảy ra vụ việc máy bay rơi hiện nay để phối hợp làm việc. Theo kế hoạch, ngày hôm sau đoàn sẽ lên đường vào rừng tìm mộ. Ngày 13-7, đoàn công tác đã nhờ ông Nguyễn Xuân Toàn dẫn đoàn đến vị trí chôn cất tổ bay. Đoàn cũng nhờ thêm 10 thanh niên dân tộc Pa Cô thuộc xã Phú Vinh phụ giúp việc tìm kiếm. Đúng 7 giờ, từ đường Hồ Chí Minh đoạn thuộc xã Phú Vinh, đoàn tìm kiếm hành quân vào vị trí máy bay rơi. Qua hai giờ trèo đèo, lội suối, băng rừng mới đến nơi và tiến hành tìm kiếm, khoảng 20 phút sau đã tìm được một bọc ni lông gói tròn nằm sâu cách mặt đất khoảng 70cm. Ông Toàn xác nhận đây chính là bọc mà ông cùng với những người dân chôn cất khi xưa. Tuy nhiên, khi mở bọc ra chỉ còn lại một số mảnh dù và đất đen, còn lại mọi thứ đã tiêu tan hết. 15 phút sau đó lại tìm thấy một bọc nữa, lần này thì trong bọc còn hai đoạn xương cánh tay. Như vậy là hài cốt toàn bộ tổ bay 8 người gom lại chỉ được bấy nhiêu. Tất cả được chia làm 8 phần và đưa các anh về đúng vào dịp 27-7.
  10. kqndvn2

    kqndvn2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2006
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    4
    Tại hiện trường vụ việc, gần 40 năm trôi qua, mọi thứ phần lớn đã bị xóa nhòa nhưng những gì còn lại cũng đủ để khẳng định chắc chắn đó là 1 trong 4 chiếc IL-14 bị mất tích. Địa điểm máy bay rơi là một sườn núi cao, độ dốc lớn nên các bộ phận của máy bay cũng phân tán rất rộng: dưới khe suối là phần động cơ, đạn cối rơi. Từ trên đỉnh xuống khe suối là các mảnh dù rơi rải rác vẫn chưa bị phân huỷ; những mảnh nhựa có chữ tiếng Nga, một quả lựu đạn chày còn sót lại; chiếc lốp máy bay thì chỉ còn lại một ít cao su sát vành sắt. Sâu dưới lòng khe là hai chiếc hố rộng hoác, vết đất còn mới. Đây là dấu vết do những người tìm phế liệu đào lấy động cơ để bán còn để lại. Nguyễn Văn Hải, một thanh niên dân tộc Pa Cô thuộc xã Phú Vinh kể, tháng trước chính anh đã đào chiếc tuốc-bin này cùng với mấy chục quả đạn, tất cả được hơn hai tạ đi bán cho hàng đồng nát được hơn hai trăm ngàn đồng. Theo chỉ dẫn của Hải, chúng tôi tìm đến một điểm thu mua phế liệu nằm trên địa bàn thị trấn A Lưới, quả nhiên đã thấy một số bộ phận của máy bay. Đồng chí Lê Xuân Đức, nguyên là học viên phi công tham gia chiến đấu năm 1968 cùng các phi công trong 4 tổ bay trước ngày họ mất tích nhận ra một phần động cơ và bộ điều tốc của máy bay IL-14 nằm lẫn trong đám sắt vụn đủ chủng loại.
    Ông Nguyễn Xuân Toàn nhớ lại, ngày đó một số bà con đã mang một số hiện vật từ máy bay về dùng trong gia đình. Riêng ông Toàn cũng vác về một mảnh cánh, vài chiếc hộp kim loại và khẩu K54 được xác định là của tổ bay. Đến gia đình ông Toàn, đoàn công tác đã được thấy tận mắt các hiện vật. Lật mảnh cánh dài 2,4 mét, rộng 0,8 mét lên, đồng chí Lương Hữu Thuận ?" một thành viên trong đoàn, nguyên là một nhân viên kỹ thuật của loại máy bay này- tìm được tất cả 13 vết đạn. Đây là một căn cứ rất quan trọng để xác định nguyên nhân máy bay rơi. Theo nhận định của đoàn thì chắc chắn máy bay đã bị trúng đạn từ mặt đất. Gia đình ông Toàn đã bàn giao lại cho Quân chủng và Đoàn bay 919 chiếc hộp đựng bình ắc quy của máy bay và chiếc hộp đựng thuốc chữa bệnh có dấu sơn chữ thập đỏ.
    Đồng chí Lê Xuân Đức cho rằng, căn cứ vào lời kể và một số hiện vật tìm được thì rất có thể đây là chiếc máy bay IL-14 mang số hiệu 506 do phi công Phạm Kế lái chính, xuất kích lúc 17 giờ ngày 7-2-1968, vì xung quanh khu vực máy bay rơi còn nhiều mảng dù lớn để thả hàng nằm rải rác nay vẫn chưa bị phân hủy (tổ của đồng chí Kế có nhiệm vụ thả dù hàng hoá, vũ khí).
    Có căn cứ nào để xác định chiếc máy bay mới tìm thấy?

Chia sẻ trang này