1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kiếm- Những điều có thể bạn chưa biết!!!!!

Chủ đề trong 'Kiếm hiệp cốc' bởi minhlover, 18/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. minhlover

    minhlover Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    03/11/2002
    Bài viết:
    221
    Đã được thích:
    0
    Kiếm- Những điều có thể bạn chưa biết!!!!!

    Kiếm luận​
    Khi thực hiện kế hoạch mưu sát vua Tần,Thái tử Đan đã mở cuộc trưng thu rộng rãi nhiều loại 'truỷ thủ" sắc bén trong thiên hạ.Nhờ thế mới được ngọn dao găm của Từ phu nhân,người nước Triệu.Sau khi nhận vũ khí lợi hại này,Kinh Kha dấu nó tronh bản đồ nước Yên sẽ dâng lên Tần vương.Vì kiếm loé sáng,Tần vương phát hiện được.Kinh Kha ra tay,Tần Thuỷ Hoàng tránh được.Do đeo kiếm quá dài,Tần Thuỷ Hoàng không thể rút kiếm kịp thời.Hai người quần thảo nhau quanh trụ cung điện.Đến khi rút được vũ khí,chỉ cần một đường kiếm,Tần Thuỷ Hoàng đã chặt đứt chân trái của Kinh Kha.
    1.Kiếm nghĩa:
    Trong Thích khách liệt truyện,"Sử ký" của Tư Mã Thiên gọi vũ khí của Kinh Kha là"Tụ lý kiếm"(kiếm trong tay áo) vì nó rất ngắn,tiện cất giấu khi thích khách.Trong vũ khí cổ đại của Trung Quốc,kiếm có mỹ danh"bách nhẫn chi quân"(vua của các binh khí).Kiếm xuất hiện từ trước thời Ân Thương.Vào thời Xuân thu Chiến Quốc,phong tục đeo kiếm và đấu kiếm đã trở nên thịnh hành,lý luận kiếm thuật cũng phát triển tương ứng.Đới Hán,nhiều người nổi tiếng thiên hạ nhờ kiếm thuật.Đời Tuỳ-Đường,hình thức kiếm vô cùng phong phú và tinh mỹ,tạo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sau,vì thế được tặng biệt danh"tị kiếm"(thuỷ tổ lòai kiếm).
    Ngoài tính cách là binh khí để chế ngự kẻ thù,là khí giới để rèn luỵện võ nghệ,kiếm còn được người xưa sử dụng theo nhiều ý nghĩa khác nhau.Một là tượng trưng cho quyền lực và địa vị.Chẳng hạn,hoàng đế trao "Thượng phương kiếm" cho vị đại thần thân tín với quyền "tiền trảm hậu tấu".Hai là biểu tượng của "pháp lực" do các nhà sư,đạo sĩ thực hiện,kiếm có thể ẩn thân,hàng yêu,sát quỷ,có khả năng lấy thủ cấp từ ngóai ngán dặm.Ba là tiêu chí rõ ràng nhất về đẳng cấp tronh các hình thức lễ nghi.Thư tịch cổ ghi chép rất cụ thể về chế độ đeo kiếm:tuổi tác,địa vị khác nhau sẽ đeo kiếm khác nhau.Bốn là đeo kiếm như một cách trang sức trang nhã.Vì thế,các văn nhân,học sĩ thới cổ đại thường đeo kiếm để biểu thị tính cách cao nhã.
    Về mặt kiếm thuật,có thể phân laọi:Thái cực kiếm(Bát quái kiếm),Thái ất kiếm,Võ Đương kiếm,Côn Lôn kiếm,Côn Ngô kiếm,Nga Mi kiếm,Tam tài kiếm(Tam hợp kiếm),Thất tinh kiếm,Tam thập kiếm,Bát tiên kiếm,Đạt Ma kiếm,Thông bối kiếm,Thuần dương kiếm,Kim cương kiếm,Thanh long kiếm,Thanh bình kiếm,Thanh hồng kiếm,Phi hồng kiếm,Long hình kiếm,Bàn long kiếm,Long phụng kiếm...
    2.Kiếm phổ:
    Sau đây chúng ta sẽ nhận diện một số cổ kiếm nổi tiếng trong giới giang hồ.
    -Tử vi kiếm:"Tử vi" đứng đầu trong các vì sao.Khổng Tử là người khởi xướng và định hình học thuyết Nho giáo,Khién Nho giáo trở thành truyền thống văn hoá Trung Hoa.Trên phương diện đạo đức và học thuật,Khổng Tử được coi là ngôi sao dẫn dắt sự phát triển văn hoá Trung Quốc.Do đó khi chu du liệt quốc,bậc "chí thánh tiên sư"được mệnh danh là "Tử vi kiếm".Vì vậy ,Tử vi kiếm được coi là một loại kiếm của nhân văn.
    -Côn Ngô kiếm:Đây là ngọn kiếm xuất hiện vào thời Chu Mục Vương.Tài liệu Thập Châu ký cho biết:"Lưu Châu tại Tây Hải,rộng 3000 dặm,cách bờ biển phía Đông 19000 dặm.Nơi đây có ngọn núi tên Côn Ngô.Biến đá ở đây thành thép để làm kiếm.Kiếm chiếu sáng như thuỷ tinh,chặt đá,chém ngọc như phạt bùn".Trong Thập di ký,Côn Ngô kiếm được miêu tả như sau:"Núi Côn Ngô có nhiều vàng đỏ,sắc như lửa.Xưa Hoàng Đế phạt Sy Vưu đã bày binh bố trận tại đây.Đào sâu 100 trượng,không thấy suối,chỉ thấy lửa chiếu hào quang như sao,trong đất có nhiều sắc đỏ như son.Luyện đá thành đồng,sắc đồng xanh và bén nhọn".Hai bộ cổ thư có nhiều chi tiết khác nhau,nhưng cũng gặp nhau ở địa diểm Côn Ngô.Điều đó chứng tỏ kiếm Côn Ngô được rèn đúc từ vật liệu ở núi Côn Ngô.
    -Thái cực kiếm:Cũng được gọi là Bát quái kiếm.Thái cực,Bát quái đều là "chí bảo"của Đạo gia.Thái cực kiếm kết tinh từ ý nghĩa và hình ảnh của Tam Sơn,Ngũ Nhạc và Bát quái,trải qua sự vận động của lưỡng nghi,Tứ tượng theo sự tiệm tiến của Dịch lý.Do đó,Thái cực kiếm là vũ khí trọng yếu của Đạo gia trong việc trừ tà,hộ thân ,luyện đạo.Vì thế,người sáng lập kiếm pháp Thái cực cũng dung nhập ý hình Thái cực vào kiếm thuật,tạo nên sắc thái đặc thù cho Thái cực kiếm.Khác với các loại kiếm dũng mãnh khác,Thái cực kiếm chế ngự đối phương bằng chiêu thức lấy tĩnh chế động,lấy nhu khắc cương,lấy ít địch nhiều.
    -Kinh hồng kiếm:Đây là kiếm pháp xuất phát từ Thiếu Lâm tự.Do kiếm pháp biến hoá thiên hình vạn trạng như chiếc cầu vồng,người ta đặt tên như thế(chữ"hồng" ở đây có nghĩa là cầu vồng).Trong kiếm pháp có 9 dạng thức"mẫu kiếm"(kiếm mẹ).Mỗi dạng thức kiếm mẹ tương sinh một số"tử kiếm"(kiếm con).Từ đó,kiếm pháp biến hoá muôn hình,muôn vẻ,tiến công thoái thủ nhanh như chớp,không có chỗ hở và không có lúc dừng.Nhất là cách thức tiếp kiếm trong thao tác cuối cùng:tay phải tung kiếm lên không,kiếm chuyển động tít mù,tay trái đón kiếm một cách điệu nghệ.Tuyệt chiêu này được gọi là "Phi long kinh hồng" để hình ảnh hoá nét uyển chuyển,biến hoá như con rồng bay qua bảy sắc cầu vồng.
    -Bàn long kiếm:Bàn lonh kiếm có hai hình thức.Một là "ngự kiếm" dành cho bậc hoầng đế,vì có khắc hình con rồng cuộn mình.Thời xưa,chỉ có vua mới có quyền dùng phù hiệu này.Ngoài ra, để biểu thị "thánh ân" hoàng đế sẽ trao cho vị đại thần có công to hoặc có nhiệm vụ thay mặt vua một thanh"Thượng phương bảo kiếm" có khắc hình rồng.Hai là kiếm của văn nhân,được mệnh danh là "khoái kiếm",có trang sức hình rồng cuộn tròn nơi bao kiếm.Chỗ tuyệt vời của loại kiếm này là"lấy công làm thủ",có thể ứng phó hữu hiệu trong mọi khoảng cách với đối phương.
    -Tam tài kiếm:Cũng được gọi là "Tam hợp kiếm",với trang trí hình đầu cọp.Thời xưa các dũng tướng đều mang loại kiếm này để biểu thị sức mạnh vô địch.Hơn nữa,"Tam tài gồm 3 yếu tố cơ bản:thiên,địa ,nhân.Do đó khi ra trận,các tướng lãnh mang kiếm "Tam tài" với ý nghĩa "thế thiên hành đạo",thuận lòng trời,hợp lòng người.
    -Hàng long kiếm và Phục yêu thất tinh kiếm:Đây là hai loại kiếm có liên quan sâu xa đén Đạo giáo và Phật giáo.Có người gọi chung hai loại kiếm trên là"Thanh long -Bạch hổ kiếm".Trên thanh "Hàng long kiếm" có khắc hình Nam đẩu ngũ tinh.Trên thanh "Phục yêu thất tinh kiếm" có khắc hình Bắc đẩu thất tinh.
    -Thuần dương kiếm:Tương truỳên đây là kiếm của Đạo gia Bắc phái.Lã Đồng Tân-một trong "bát tiên"-tự Lã Thuận Dương,yêu thanh kiếm này như chính bản thân mình.Bất kỳ lên núi hay xuống biển,Lã Đồng Tân đều không rời kiếm-Vì thế kiếm được đặt tên"Thuần Dương kiếm" là lấy nội hàm Lưỡng nghi,Tứ tượng của Dịch lý để biểu đạt chính khí hạo nhiên như câu chuyện về Lã Đồng Tân.
    -[red]Tự lý kiếm:[red]Đó là loại dao găm thời cổ,cũng được gọi là "Ngư trường kiếm"(kiếm giấu trong ruột cá) với đặc điểm cực nhỏ để có thể dấu trong tay áo,nhằm tấn cônh bất ngờ như trường hợp thích khách.Tên gọi "Ngư trường kiếm"bắt đầu từ câu chuỵên Chuyên Chư trong Thích khách liệt truyện(Để giết được Vương Liêu,Chuyên Chư phải học làm món cá thật điệu nghệ và giấu vũ khí trong bụng cá).
    3.Danh kiếm và bảo kiếm:
    Danh kiếm thường là vật kỷ niệm của người đúc kiếm hoặc là người uỷ thác.Để đặt ten cho kiếm,các nhà đúc kiếm có thể sử dụng địa danh,nhân danh hoặc đặc tính của kiếm.Chẳng hạn"Côn Ngô kiếm" bắt nguồn từ địa danh;"Thuần Dương kiếm" bắt nguồn từ nhân danh;"Hàng long kiếm"bắt nguồn từ đặc tính..
    Bảo kiếm gắn liền với anh hùng,hiệp khách,nghĩa sĩ.Những thanh kiếm của những anh hùng dược gọi là bảo kiếm,như:đao kiếm của Quan Công,Văn Thiên Tường..Bảo kiếm trong lịch sử cổ đại Trung Quốc còn lànhững thanh kiếm độc nhất vô nhị,gắn liền với những câu chuyện ly kì,đôi khi pha máu sắc thần thoại.Đó là trường hợp các thanh kiếm trứ danh thiên hạ:Can Tương Mạc Da,Long Tuyền Thái A.v..v..
    Đúc được những thanh bảo kiếm là cả một công trình công phu,nhiều khi phải hi sinh cả con người.Một trong những điều kiện cơ bản để đúc bảo kiếm là...thời tiết!Trong mmọt năm,hai mùa thích hợp nhất cho việc đúc kiếm là mùa xuân và mùa thu.Mùa hạ trời quá nóng,mùa đông âm quá thịnh đếu ảnh hưởng dến chất liệu đúc kiếm.Tháng 5 và tháng 7 âm lịch là tối kị trong việc đục kiếm.Vì tháng 5 trời cực nóng,dễ tích tụ các loại độc khí(độc nguyệt);tháng 7 là "quỷ nguyệt"-đại diện cho tà khí-không thích hợp với bản chất chính nghĩa của kiếm.



    Bách Khoa 1

    Được minhlover sửa chữa / chuyển vào 21:56 ngày 18/06/2003

    Được kieuphong sửa vào 10:12 ngày 19/06/2003

Chia sẻ trang này