1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kiến thức Dinh Dưỡng - Sức khỏe

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi thanhbatbai, 08/07/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thanhbatbai

    thanhbatbai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/03/2009
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Phòng ngừa thai nhi nhẹ cân


    Thai nhi nhẹ cân sau khi chào đời sẽ gặp rất nhiều biến chứng nguy hiểm cho sự phát triển trong tương lai. Đây cũng là vấn đề luôn được coi trọng hàng đầu ở bà bầu.

    Theo bệnh viện nhi Boston, Hoa Kỳ, trọng lượng trung bình của một trẻ sơ sinh là 3,4 kg. Nếu em bé chỉ nặng 2,5 kg khi chào đời, nghĩa là thai nhi đã bị nhẹ cân. Trọng lượng của trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau từ kích thước tử cung, sức khỏe, tuổi tác người mẹ... Để ngăn chặn việc em bé ra đời bị nhẹ cân, có rất nhiều biện pháp phòng ngừa trước và trong khi mang thai, mẹ bầu nên chú ý:

    Có chế độ ăn uống lành mạnh

    Một chế độ ăn uống hợp lí và khỏe mạnh khi mang thai giúp thai nhi phát triển cân nặng đạt mức tiêu chuẩn. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, phụ nữ mang thai nên bổ sung đủ 100-300 calo mỗi ngày. Ăn nhiều rau, trái cây, sữa ít chất béo, protein nạc như thịt gà, thịt bò và các loại chất béo không bão hòa như dầu oliu rất tốt cho thai phụ. Bạn cũng nên tránh những loại thực phẩm chiên, thực phẩm nhiều muối, đường và chất béo.

    Bổ sung vitamin

    Bổ sung đầy đủ vitamin trước khi sinh để đảm bảo cho bạn và thai nhi được hấp thụ đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết. Những chất dinh dưỡng thiết yếu nhất là: Axit folic, sắt và canxi.

    Ngừng ngay việc hút thuốc lá và tránh tiếp xúc với khói thuốc

    Đây là việc cấm kị đầu tiên bạn phải thực hiện ngày từ khi có ý định sinh con. Hút thuốc lá hoặc tiếp xúc trực tiếp với quá nhiều khói thuốc sẽ làm tăng nguy cơ trẻ sơ sinh bị nhẹ cân. Theo các nhà nghiên cứu, nguy cơ sinh con nhẹ cân tăng gấp đôi ở những người phụ nữ hút thuốc lá. Bạn cần phải ngừng việc hút thuốc trong suốt thời gian mang thai và cho con bú sau này nữa.

    Kiểm tra răng miệng thường xuyên

    Răng miệng của mẹ bầu có vấn đề cũng ảnh hưởng đến trọng lượng của thai nhi. Bạn nên đi khám răng tại các phòng khám nha khoa ít nhất 2 lần/năm hoặc bất cứ lúc nào bạn có vấn đề về răng miệng. Sâu răng và bệnh ở nướu răng có thể gây nhiễm trùng, trực tiếp ảnh hưởng đến nhau thai qua máu của bạn.

    Tránh uống thuốc bữa bãi và uống rượu

    Theo bệnh viện nhi Boston, rượu và thuốc kháng sinh cũng làm tăng nguy cơ sinh con với trọng lượng thấp.

    Giảm căng thẳng và tạo tâm lý thoải mái khi bầu bí

    Bạn nên thường xuyên thực hành bài tập hít thở thoải mái và giảm căng thẳng vì stress là một trong những nguyên nhân chính khiến thai nhi bị nhẹ cân. Hãy ngồi thoải mái và hít thở sâu bằng mũi sau đó thở tất cả không khí ra qua miệng. Trong khi thở, dạ dày của bạn sẽ co bóp giúp giảm căng thẳng và mệt mỏi.

    Khám thai thường xuyên

    Bạn cần lên một lịch trình khám thai đều đặn trong suốt thời gian bầu bí. Bác sĩ sẽ giúp bạn phát hiện sớm chứng nhẹ cân ở thai nhi từ đó hướng dẫn bạn cách ăn uống và ngủ nghỉ sao cho hợp lý. Nếu bạn bị dấu hiệu của bệnh tiểu đường hay cao huyết áp cũng ảnh hưởng đến trọng lượng thai nhi và cần được chữa trị sớm.

    (Nguồn: Amthucbonmua.vn)​
  2. thanhbatbai

    thanhbatbai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/03/2009
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Ăn chất béo nào để giảm cân?

    [​IMG]



    Loại bỏ hoàn toàn chất béo khỏi thực đơn hoặc cùng lắm chỉ ăn các loại chất béo thay thế trong các loại thực phẩm ăn kiêng. Đó là lời khuyên mà một số chuyên gia dinh dưỡng đưa ra cho những người muốn giảm cân. Nhưng thực tế có đúng như vậy?

    "Chất béo giả" có thể gây béo thật
    Tại Đại học Purdue (Mỹ), các nhà khoa học đã thí nghiệm trên 2 nhóm chuột. Một nhóm được ăn các thức ăn giàu chất béo dành cho động vật, nhóm còn lại ăn các thức ăn ít chất béo. Sau đó, mỗi nhóm lại được chia làm hai. Bên cạnh thức ăn dành cho động vật, một nửa của mỗi nhóm được cho ăn snack khoai tây Pringle có hàm lượng chất béo cao. Nửa còn lại thỉnh thoảng được ăn snack Pringle thường, thỉnh thoảng được cho ăn loại ít năng lượng (Pringles Light). Đây là loại thường được những người muốn giảm cân lựa chọn, vì nó sử dụng olestra, một chất tổng hợp thay thế chất béo (hay còn được gọi là chất béo giả), mà theo như quảng cáo thì giúp thực phẩm có hương vị thơm ngon, bùi béo, nhưng lại không tạo ra năng lượng.
    Các nhà khoa học nhận thấy, những con chuột được nuôi bằng thức ăn cho động vật có hàm lượng chất béo cao, đồng thời thỉnh thoảng ăn thêm Pringles Light tăng cân và lượng mỡ trong cơ thể nhanh hơn đáng kể so với những con được cho ăn loại snack thường. Sau khi bỏ snack Pringles Light khỏi thực đơn, số chuột này cũng không giảm cân.
    Theo nhận định của các nhà nghiên cứu thì chất béo nhân tạo (như olestra) cũng tạo ra ở não những phản ứng sinh học tương tự như chất béo thật. Não chờ cơ thể cung cấp một lượng lớn calo, và khi calo không đủ, não điều tiết cơ thể chuyển sang chế độ chống đói bằng cách chuyển hóa thêm calo thành mỡ. Như vậy, sử dụng các chất này không những không giúp giảm cân, mà còn có thể làm béo thêm.
    Bỏ hẳn chất béo: Lợi hay hại?
    Một số tài liệu hướng dẫn phương pháp ăn uống để giảm cân cho rằng 1g chất béo ung cấp 9 calo, trong khi 1g carbohydrate và protein chỉ cung cấp 4 calo, chính vì vậy, nếu muốn giảm cân, phải loại bỏ triệt để chất béo ra khỏi thực đơn.
    Những người đưa ra lời khuyên trên đã không xem xét vấn đề một cách toàn diện. Đúng là các thực phẩm giàu chất béo cung cấp nhiều calo, nhưng mặt khác, chỉ cần ăn một lượng nhỏ những sản phẩm này là người ta đã cảm thấy no, trong khi các thực phẩm được coi là tốt cho sức khoẻ, như rau quả, thường dễ ăn và đỡ ngán hơn người ta thường ăn nhiều hơn. Lượng calo đưa vào cơ thể khi ăn hai nhóm thực phẩm này chưa chắc đã chênh lệch nhiều như người ta kỳ vọng. Bên cạnh đó, chất béo còn rất quan trọng trong việc giúp cơ thể hấp thu một số vitamin và phytonutrient (các thành phần dưỡng chất có lợi cho sức khoẻ trong rau củ). Do đó, loại bỏ hoàn tòan chất béo khỏi bữa ăn hàng ngày không những không giúp giảm cân, mà còn có thể gây hại cho cơ thể.
    Lời khuyên đúng đắn ở đây là nên ăn một lượng chất béo hợp lý và có chọn lọc. Các loại chất béo có lợi cho sức khoẻ là chất béo không bão hòa đơn và chất béo không bão hòa đa, có nhiều trong dầu thực vật (đặc biệt là dầu hạt cải, dầu ôliu), cá. Các loại chất béo này không làm tăng cholesterol trong máu, giúp làm giảm nguy cơ các bệnh tim mạch. Nên tránh chất béo bão hòa (có nhiều trong một số sản phẩm sữa) và chất béo trans (có nhiều trong bánh kẹo, đồ ăn nhanh, margarine cứng). Lý do không phải vì các loại này cung cấp nhiều calo hơn các chất béo không bão hòa, mà vì chúng làm tăng cholesterol, dẫn đến nhiều nguy cơ về mặt sức khoẻ.


    (Nguồn: amthucbonmua.vn)
  3. thanhbatbai

    thanhbatbai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/03/2009
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Những vitamin cần cho mẹ và con

    (Ẩm Thực Bốn Mùa) - Các vitamin và khoáng chất sau đây quan trọng với tất cả mọi người, và quan trọng nhất đối với sức khỏe của người mẹ và sự phát triển của em bé.
    [​IMG]


    Rau và trái cây là thực phẩm giúp bổ sung vitamin và khoáng chất

    Vitamin A: Giúp giữ gìn và cải thiện mắt, tốt cho hệ miễn dịch và chống lại nhiễm virus. Vitamin này có nhiều trong gan bò, sữa, trứng. Nhiều loại rau và trái cây cũng chứa một số loại cartenoid (như beta carotene) - vốn có đặc tính tương tự vitamin. Chẳng hạn cà rốt, cải

    bó xôi, khoai lang hoặc ớt chuông đỏ có rất nhiều chất dinh dưỡng quan trọng này.

    Vitamin B complex: Rất quan trọng cho sự phát triển của cơ thể, giúp các bộ phận chức năng hoạt động hằng ngày; giúp chuyển thức

    ăn thành năng lượng và giảm rủi ro ung thư. Vitamin này có trong các nguồn thực vật và động vật, như trứng, thịt gia cầm, cá và sữa là những nguồn vitamin B3, B5, B6, B7 và B12. Với B1, B2 và B9 thì có trong rau xanh và ngũ cốc.

    Vitamin C: Thúc đẩy sự miễn nhiễm, hòa tan trong nước, tạo ra collagen trong xương, sụn, cơ bắp và mạch máu. Nó giúp cơ thể hấp thụ sắt, giảm rủi ro phát triển bệnh hen suyễn và có tác dụng như chất chống oxy hóa, giảm chứng sưng viêm và tránh việc phá hủy tế bào. Nguồn phong phú là các loại trái cây giống cam quýt, ít hơn nữa thì có trong bông cải xanh, ớt chuông đỏ, dâu và thơm.

    Calcium: Là chất khoáng quan trọng cho cơ thể, đặc biệt cho sự phát triển của trẻ nhỏ. Cơ thể bạn cần củng cố xương chắc khỏe, nâng cơ bắp, tiết ra hormone, enzyme và hệ thống thần kinh. Phụ nữ cần nhiều calcium để tránh loãng xương. Sữa, yaourt và phô-mai là nguồn thực phẩm chủ yếu chứa calcium; kế đến là cải xoăn, bông cải và bắp cải, ngũ cốc, nước ép trái cây, những thực phẩm từ đậu nành cũng chứa nhiều calcium.

    Vitamin D: Không có loại vitamin này, cơ thể bạn không thể hấp thụ calcium. Ngoài ra, hệ thống miễn dịch cũng cần vitamin D để chống lại virus và vi khuẩn. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, vitamin D giúp chống dị ứng và bệnh tiểu đường. Nấm cung cấp vitamin D; cá hồi, cá ngừ và cá thu là nguồn vitamin D tốt hơn. Cơ thể tạo vitamin D khi da phơi trực tiếp dưới ánh mặt trời. Triệu chứng của sự thiếu hụt là đau cơ, mỏi mệt hoặc giảm sút năng lượng.

    Sắt: Là khoáng chất cần thiết và rất quan trọng cho việc phát triển của trẻ nhỏ. Sắt giúp phát triển cơ chắc khỏe và sản sinh ra máu. Sắt có trong thịt, gà và cá, ngũ cốc, bánh mì, cơm...
    Hà Nguyễn
    Theo: Ẩm Thực Bốn Mùa
  4. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    Dùng sữa bột cho bé theo từng độ tuổi
    (11/10/2011 09:59)
    Sữa là một trong những loại thực phẩm tốt nhất trong chế độ ăn uống hàng ngày. Sữa có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển cũng như mọi hoạt động của cơ thể. Chất đạm trong sữa dễ hấp thu, chứa đầy đủ các axit amin cần thiết.
    [​IMG]
    Một em bé mới chào đời thì thức ăn đầu tiên và tốt nhất cho bé là sữa mẹ. Tuy bộ máy tiêu hóa còn non nớt nhưng bé đã có thể hấp thu và chuyển hóa hoàn toàn sữa mẹ. Sữa mẹ còn giúp bé tăng cường sức đề kháng chống lại bệnh tật mà không có một loại sữa nào có thể thay thế được.
    Nhưng trên thực tế, cũng có một số trường hợp bà mẹ bị bệnh không thể cho con bú được hoặc một số bà mẹ thiếu / không có sữa thì đành phải cho bé ăn các loại sữa bột công thức.
    Đối với bé dưới 6 tháng tuổi
    Dùng các loại sữa công thức I: đặc điểm của các loại sữa này là có thành phần các chất dinh dưỡng gần với sữa mẹ, các chất dinh dưỡng ở các tỷ lệ cân đối hợp lý, phù hợp với sự hấp thu và chuyển hóa ở bé, ít gây nên tình trạng rối loạn tiêu hóa.
    Ở lứa tuổi này không nên dùng sữa bò tươi, sữa đặc có đường, sữa bột nguyên kem hoặc các loại sữa bột công thức dành cho bé trên 6 tháng.

    Khi mua sữa thì phải xem hạn dùng và pha sữa đúng theo tỷ lệ hướng dẫn ghi trên vỏ hộp, chỉ nên dùng nước để pha (nước đun sôi để nguội bớt) không được dùng nước sôi hoặc đun sôi sữa vì sẽ làm mất hoặc hao hụt các vitamin và khoáng chất có trong sữa.

    Số lượng sữa uống hàng ngày tùy theo từng tháng tuổi:


    • Bé sơ sinh (1 tháng tuổi): 60 - 80ml/bữa x 7-8 bữa/ngày (500-600ml/ngày).
    • Bé từ 2-4 tháng tuổi: 100 - 120ml/bữa x 6-7 bữa/ngày (700-800ml/ngày).
    • Bé 5-6 tháng: 150 - 180ml/bữa x 5- 6 bữa/ngày (800-1000ml/ngày).
    Đối với bé 6-12 tháng
    Ngoài các bữa ăn bổ sung như bột, cháo xay, bé vẫn cần phải uống thêm 500 - 600ml sữa/ngày, chia làm 3-4 bữa tùy theo mức độ uống của bé.
    Giai đoạn này dùng sang công thức sữa loại II. Sữa loại này có thành phần các chất dinh dưỡng cao hơn sữa công thức loại I, nhất là chất đạm để phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển của bé, nếu vẫn cứ dùng sữa công thức I thì bé sẽ chậm lớn do thiếu chất đạm. Cũng như sữa loại I, khi pha sữa chỉ nên dùng nước ấm và pha theo tỉ lệ đã hướng dẫn.
    Bé từ 1-5 tuổi
    Chế độ ăn chính hàng ngày là cháo, cơm, mì, súp, bún, phở… bé vẫn cần 400 - 500ml sữa/ngày, lúc này có thể dùng tất cả các loại sữa dành cho bé trên một tuổi, sữa bò tiệt trùng, sữa bột nguyên kem, sữa đậu nành, sữa chua.
    Bé ở lứa tuổi tiểu học và trung học cơ sở (6-14 tuổi)
    Ngoài chế độ ăn hàng ngày vẫn cần cho bé uống sữa vì đây là nguồn cung cấp canxi giúp bé phát triển chiều cao, nhất là những bé không chịu ăn tôm, cua, cá hàng ngày. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến tình trạng dinh dưỡng của bé để chọn các loại sữa cho phù hợp.
    Nếu bé phát triển bình thường thì có thể uống các loại sữa bột nguyên kem, sữa tươi tiệt trùng, sữa đặc có đường… nhưng nếu bé ở trong tình trạng thừa cân hoặc béo phì thì lại chỉ được dùng các loại sữa bột tách bơ, sữa tươi không đường, sữa đậu nành không đường và một số lượng không quá 300 - 400ml/ngày.
    Còn đối với bé bị thiếu dinh dưỡng thì lại chọn các loại sữa giàu năng lượng (sữa đặc biệt dành cho bé suy dinh dưỡng), khi pha có đậm độ năng lượng là 1ml cung cấp 1kcal và các loại sữa này chứa nhiều các vi chất dinh dưỡng hơn, giúp cho bé mau chóng phục hồi dinh dưỡng, số lượng uống không hạn chế, có thể uống 500 - 800ml/ngày.



    ThS. Lê Thị Hải - SK & ĐS

Chia sẻ trang này