1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kinh Dịch: Sắc Màu Thời-Không Tâm Lý (học) hiện đại

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 02/06/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Nghệ thuật đơn giản là phương tiện nhằm giải tỏa những “ẩn ức” bị “dồn nén” trong đời sống tâm lý.
    VĂN HÓA,Niềm Tin &Tôn Giáo xuất hiện là hình thức để những đứa con “nổi loạn” sám hối “tội lỗi tổ tông” với Totem-“Người cha nguyên thủy”.
    Luật pháp, văn minh được thiết lập như những thiết chế nhằm kiềm hãm và loại bỏ bản năng… Và thật tội nghiệp, người ta yêu “chỉ vì người yêu đem lại cho họ những khoái lạc nhục dục”. Tóm lại, Freud khẳng định toàn bộ hạnh phúc của con người gói trọn trong công thức: lấy dục lạc sinh dục làm tâm điểm cho sự sống của mình(05)._

    Với hành động tuyệt đối hóa xung năng tính dục nhằm xây dựng một Nhân Sih Quan/Thế giới_quan bị chi phối bởi dục tính, từ thế kỷ trước, phương Tây đã kêu ca về hành động cực đoan của Freud, hậu quả là một triết thuyết bị phá sản. “Đại thuyết nhục dục được sử dụng như là nguyên lý giải thích chủ yếu, đã bị những người kế tiếp ông bác bỏ như (C. G JUNG - E. Fromm , Karen Horney, ALFRED ADLER vv..; là ~ trường hơp điển hình) là một sự phá sản. Hàng loạt những mâu thuẫn và thiếu sót trong văn hóa học của S.Freud cần được tiếp tục chỉ ra”(07)._

    Nhà Triết học Karl Jaspers nhận xét: “Freud lại truyền bá một Tâm lý học (…) Nó chỉ thích hợp cho một thời đại mà nó đã thẳng thắn phanh phui những trá hình đê tiện. Nhưng Freud đã lầm ở chỗ muốn coi cái thế giới (đặc thù của thời đại ấy) như là thế giới chung cho mọi thời đại và mọi người”(08)._
    Nhà Sử học Will Durant bàn thêm: “Chế ngự được bản năng là nền tảng của mọi văn minh”(09)._
    Nhận định tổng kết của Nhà Triết học Karl Jaspers và Nhà Sử học nhân bản thiên tài Will Durant tỏ ra có khắt khe nhưng phần nào có thể nói là công tâm về vị trí của phân tâm học Freud và sự bùng nổ học thuyết bản năng hồi đầu thế kỷ trước.
    Lần cập nhật cuối: 31/10/2015
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Cùng chủ trương Nhân Sih Quan/Thế giới_quan dục tính, ở phương Tây sinh sau đẻ muộn - học thuyết Freud đi vào ngõ lũng củng; ngược lại,
    Kinh Dịch của Đông Á ngày một khuếch trương thanh thế (đi vào VH & với cả khoa học tự nhiên cổ đại trong nền Y học cổ truyền là 1 thí dụ điển hình ).

    Lý giải vấn đề, hai triết thuyết tuy có cùng quan niệm về Nhân Sih Quan/Thế giới_quan tính dục, nhưng luận về bản chất lại khác biệt hoàn toàn. Nhân Sih Quan/Thế giới_quan tính dục của Freud là Nhân Sih Quan/Thế giới_quan TĨNH, còn Nhân Sih Quan/Thế giới_quan tính dục của đạo Dịch là ĐỘNG tuyệt đối (và bởi động tuyệt đối nên trở thành tương đối).

    Đạo Dịch hoàn toàn khác, trình diễn một Nhân Sih Quan/Thế giới&Vũ trụ quan hết sức linh động, Âm DƯƠNG không thuần túy là dục tính, Âm DƯƠNG đó là hai năng lực mang bản chất đối lập, bù trừ và liên tục chuyển hóa cho nhau, khiến Nhân Sih Quan/Thế giới&Vũ trụ quan biến dịch vận hành.

    BIỂU TƯỢNG Âm DƯƠNG đó chỉ là BIỂU TƯỢNG tập trung nhất, được lựa chọn để biểu hiện cho năng lực chuyển hóa tiềm tàng củaNhân Sih Quan/Thế giới&Vũ trụ quan, nên nói Âm - DƯƠNG, cũng là nói sáng - tối, đực - cái, càn - khôn… tuyệt đối không có sự chia chẻ ý niệm.
    Nó là một: Vô cực hay Thái cực (vũ trụ nhất nguyên tương liên).

    Càn ( ☰) tượng trưng cho ánh sáng, cho năng lượng ban ngày, cho trời, cho cha, cho sự vận chuyễn không ngừng, cho tính chất kiên cường, trung chính, cho sự sống, là biểu tượng tính cách cho phái nam ...
    Khôn ( ☷ ) tượng trưng cho cái tối, cho sự hấp thụ đêm, cho đất, cho mẹ, cho sự nhu thuận mềm mỏng, cho lòng ham muốn, cho đức lớn, cho sự thủy chung, vị tha và biểu tượng cho tính cách nữ giới....

    PS:
    Bài viết cần Font chử Unicode có mã 64 trùng quái hay Quẻ, để hiển thị các Quẻ Dịch
    Lần cập nhật cuối: 02/11/2015
  3. dongoclinhnhi2015

    dongoclinhnhi2015 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/08/2015
    Bài viết:
    47
    Đã được thích:
    5
    Về hình thức và phương pháp giống như là một tác phẩm chuyên luận về âm dương bát quái. Nhưng thực chất là là dùng phương pháp bát quái để dự đoán thông tin. Vấn đề cơ bản nhất của nó là dùng vũ trụ quan một phân làm hai và quy luật đối lập thống nhất, là dùng phương pháp duy vật biện chứng, chỉ rõ quy luật tự nhiên của quá trình phát triển, biến hóa giữa các sự vật trong vũ trụ.
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Hoan Nghênh bác @dongoclinhnhi2015 tham gia & nhắc lại fần dẫn nhập của tiêu đề
    Fần này chủ yếu khảo sát cách tiếp cận KD về GIỚI TÍNH, TÍNH GIAO TÍNH DỤC & TÌNH_DỤC tương quan với phân tâm học (Psychanalyse) & Tâm lý học phân tích (C. G JUNG - E. Fromm) Vv...

    Chúng ta sẻ luận v/đ này sau
    Thân
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Các Quẻ TRONG KINH DỊCH/Chu Dịch liên quan v/đ GIỚI TÍNH, TÍNH GIAO TÍNH DỤC & TÌNH_DỤC.

    TÌNH_DỤC giới tính luôn luôn là một vấn đề sát sườn với con người và cuộc sống, nó không những là một đề tài luôn luôn hấp dẫn trong cả chuyện đứng đắn khoa học mà ngay trong lúc trà dư tủu hậu, tiếu lâm đời thường.

    Ở Đông Á canh nông, ĐẠO Âm DƯƠNG (thờ sinh thực khí) vốn là tín ngưỡng gốc. Tín ngưỡng Âm DƯƠNG, vì thế, chắc chắn có trước sự xuất hiện của Kinh Dịch (Âm DƯƠNG gia soạn Thảo) với tư cách là Nhân Sih Quan/Thế giới&Vũ trụ quan nguyên thủy đầu tiên tại Trung Quốc), đến khi Dịch xuất hiện, người ta mới hình tượng DƯƠNG bằng vạch liền (-) gọi là thực, Âm là vạch đứt (--) gọi là hư.

    Cơ sở của việc tượng trưng liên quan đến GIỚI TÍNH, TÍNH GIAO TÍNH DỤC hai vạch liền - đứt trong Kinh Dịch, vì vậy, có thể hiểu một cách biện chứng được xuất phát từ chính quan niệm tín ngưỡng phồn sinh của cư dân nông nghiệp và Nhân Sih Quan/Thế giới&Vũ trụ quan mở, vào toàn thể của Đông Á.

    Khuôn mặt của toàn bộ TÌNH_DỤC được thể hiện trong kinh Dịch như sau :
    “ Dương cương , Âm nhu , cương nhu tương ma, khuất thân tương cảm nhi lợi sinh yêu “
    DƯƠNG cứng, Âm mềm, co giãn mà cảm thụ để cùng hoan lạc

    Trong kinh Dich có câu :
    “Phù Càn ( ☰ ), kỳ tĩnh đã chuyên, kỳ động đã trực, thị dĩ đại sinh yên.
    Phù Khôn (☷ ), kỳ tĩnh đã hấp, kỳ động đã tịch, thị dĩ quảng sinh yên

    (Càn ( ☰ ), lúc tỉnh thì chuyên nhất, lúc động thì thẳng đuột, cho nên sức sinh của nó lớn.
    Khôn(☷ ), lúc tĩnh thì thu lại, lúc động thì mở ra, cho nên sức sinh của nó rộng).

    Giống như quẻ Càn ( ☰ ) (thuần DƯƠNG), cương cùng cực, tượng trưng cho trời.
    Quẻ Khôn (☷ ) (thuần Âm), nhu cùng cực, biểu hiện cho đất.
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Trong Các Bài viết sau này nói về các Quẻ Dịch; cần Font chử Unicode có mã 64 trùng quái hay Quẻ, để hiển thị các Quẻ Dịch; Ng Viết gợi ý các Font chử sau đâY:
    BabelStone Han
    GNU Unifont
    Segoe UI Symbol
    Symbola
    hay Unicode BMP Fallback SIL

    Riêng Font "ARIAL UNICODE MS" của MS OFFICE k0 đủ hiển thị các Quẻ Trùng Quái chỉ có thể hiển thị các Đơn Quái (bát Quái) & các Hán tự cần thiết

    Nếu gặp khó khăn trong việc cài đặt Các bác nêu ý kiến !!! Thân .

    Bài Thử nghiệm hiển thị các Quẻ (mã 64 trùng quái )

    Trong Chu Dịch Càn ( ☰ ) Thoán từ viết :
    ‘Thiên địa cảm nhi vạn vật hóa sinh” : (thiên địa giao cảm mà vạn vật hóa sinh).
    là: Nam_Nữ /Trời đất giao nhau rồi vạn vật mới thông:

    & Hệ từ”viết :
    “Vân hành vũ thi, phẩm vật lưu hành”: (tiến hành cuộc mây mưa, vạn vật sinh sôi nảy nở) Cho nên (Quẻ 11 * ĐỊA THIÊN THÁI)là Biểu tượng Nam_Nữ /Trời đất cảm nhau cho nên Con Ng & vạn vật mới sinh &
    (Quẻ 28 * TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ" " đả bàn sơ qua)
    Lần cập nhật cuối: 25/11/2015
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Văn hóa Phương Đông & Trung Hoa cổ đại lấy Kinh Dịch, lý thuyết Âm DƯƠNG và ngũ hành làm cơ sở nền tảng để giải thích mọi hiện tượng trong đời sống TÌNH_DỤC . Từ nền tảng ấy xây dựng nên khoa học cổ Trung Hoa trong đó có Y Thuật cổ truyền một thời rạng rỡ với ~ Tác fẫm như Hoàng đế Nội Kinh ;sách Tố Nữ Kinh Sách Ngọc phòng thiết yếu & Kinh Dịch, tới nay vẫn còn nhiều bí ẩn chưa được thấu triệt.

    Theo đó, nam là DƯƠNG, nữ là Âm. Nếu Âm, DƯƠNG không cân bằng, không hòa hợp thì con người sẽ phát sinh bệnh tật và tổn thọ. Theo triết học cổ đại phương Đông, Âm DƯƠNG là những thế đối nghịch nhau của sự vật như nam - nữ, trắng - đen, ngày - đêm, trời - đất, mặt trời - mặt trăng,... & Theo Kinh dịch, Âm DƯƠNG có giao cảm với nhau thì sự sống mới tồn tại và phát triển.

    Mà trong đó Y học cổ truyền thấy nếu cấm dục, Âm DƯƠNG không được gặp nhau dễ phát sinh bệnh tật. Cổ nhân sớm nhận thức được rằng TÌNH_DỤC là một nhu cầu tâm sinh lý tự nhiên và tất yếu của con người.(Nói chung cấm vận sẽ sinh ra Uất) & Theo triết lý cổ đại Âm DƯƠNG giao hợp chính là ĐẠO của trời đất,là sự vận động của Nhân Sih Quan/Thế giới&Vũ trụ quan.

    & Cũng từ nền tảng ấy gợi mở ra hai dòng tư tưởng, xuất thế và nhập thế. Lão Tử khai mở cho dòng triết học xuất thế. Khổng Tử đại diện cho tư tưởng nhập thế.

    Kinh Dịch làm thành cái gốc triết học siêu hình, nền tảng nhận thức thế giới cho cả hai dòng tư tưởng. Thiếu mất cái gốc này người học ĐẠO sẽ chẳng khác con thuyền ra khơi mà không có hoa tiêu.
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Chu Dư Đồng 周予同 (1 học giả nổi tiếng của TP Thượng Hải Chu Dư Đồng 周予同 là người nghiên cứu các vấn đề kinh học theo quan điểm Marxist 1 cách tương đối có hệ thống. Trên cơ sở những nghiên cứu mà ông đã thực hiện trước đây, từ năm 1959 Chu Dư Đồng bắt đầu biên soạn giáo trình Trung Quốc kinh học sử 中国经学史) tiên sinh từng nói rằng: “ý kiến của nho gia cho rằng, sự hóa sinh của vạn vật, sự sinh sôi của nhân quần, hoàn toàn là ở SINH THỰC, nếu một ngày nào đó ngừng SINH THỰC, thì tất cả sẽ hủy diệt, khi đó thì đừng nói gì đến xã hội, cũng không nói gì đến vũ trụ, càng không nói gì đến những cuộc thảo luận, do vậy, SINH THỰC, hoặc nói thẳng ra là “tính giao” (giao hợp) & TÌNH_DỤC, các nhà nho cho rằng, đó là công việc vĩ đại nhất, thiêng liêng nhất, (Quan điễm về Hôn Nhân - Bí ẩn của Bát quái , trang 328, NXB VHTT 1999 ).

    Quan điểm của Y học cổ truyền về TÌNH_DỤC:

    Theo triết học cổ đại của Phương Đông; Nam là DƯƠNG, nữ là Âm, Âm DƯƠNG giao hợp chính là ĐẠO của trời đất, là sự vận động của Nhân Sih Quan/Thế giới&Vũ trụ quan, và Quẻ 11[​IMG][​IMG] (*) ĐỊA THIÊN THÁI là Biểu tượng Nam_Nữ /Trời đất cảm nhau cho nên Con Ng & vạn vật mới sinh trong Kinh Dịch. & Theo đó Y học cổ truyền thấy nếu cấm dục, Âm DƯƠNG không được gặp nhau dễ phát sinh bệnh tật. Cổ nhân sớm nhận thức được rằng TÌNH_DỤC là một nhu cầu tâm sinh lý tự nhiên và tất yếu của con người.(Nói chung cấm vận sẽ sinh ra Uất)

    Âm DƯƠNG luôn phải tương ứng, tương sinh, đó là nguyên lý bao quát trong cả đời sống TÌNH_DỤC. Sách Tố Nữ Kinh giải thích sự suy nhược cơ thể dựa trên thuyết Âm DƯƠNG ngũ hành: Trong trời đất có 5 yếu tố chính là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (ngũ hành); chúng tương khắc và tuần hoàn. Nếu thủy tính (nữ nhân) quá mạnh thì dễ hại tới hỏa tính (đàn ông).

    Cát_Hồng - nhà khoa học thời Tấn - cũng cho rằng: "Âm và DƯƠNG không giao cảm với nhau sẽ làm tổn thương sinh mệnh".
    Trong sử ký có kể lại rằng: Nữ tỳ họ hàn của Tề Bắc Vương bị bệnh đau lưng, hay phát sốt phát rét không rõ nguyên nhân. Danh y Thuần Vu Ý sau khi chẩn mạch đã phán rằng duyên cớ là không được thỏa mãn mong muốn sinh hoạt nam nữ. Quả nhiên, sau khi kết hôn, căn bệnh tỳ nữ không thuốc mà khỏi. Từ Linh Thai, danh y thời Thanh (Trung Quốc) cũng từng chẩn trị cho một thương nhân họ Uông vì 10 năm không sinh hoạt vợ chồng mà suy nhược thần kinh. Sau khi chẩn mạch, Từ Linh Thai không kê đơn thuốc mà chỉ khuyên họ Uông nên sớm trở về nhà với vợ. Quả nhiên, sau khi nhập phòng một đêm, mọi chứng bệnh đều khỏi cả.

    Để dưỡng sinh trong TÌNH_DỤC, y học cổ truyền khuyên:
    - Không nên cấm dục (dục bất khả tuyệt).
    Lần cập nhật cuối: 01/12/2015
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Trong VH tính dục Đông Á, các thuật ngữ Dịch học đã thâm nhập & đi vào VH đời thường qua các từ ngữ chỉ các sự vật sự việc như Âm hộ, Âm ĐẠO, Âm mao; Dương_vật, Hôn nhân, Kết hôn, hôn phối vv...

    Hôn là trời tối ví dụ như hoàng hôn là trời sắp tối
    Hôn nhân là nhân lúc trời tối mà lấy vợ, hay là làm lễ cưới lúc tối trời
    Kết hôn là nhân lúc trời tối mà giao ước lấy nhau
    Tại sao người Trung Hoa xưa lại phải cưới vợ vào lúc trời tối ?

    Trong các Quẻ của Kinh Dịch thì quẻ số 3 [​IMG] [​IMG] (*) Thủy Lôi TRUÂN _(*)_. là quẻ thứ ba theo thứ tự trong Chu Dịch Thông Hành Bản nằm sau quẻ Thuần Càn, Thuần Khôn
    Quẻ số 3 [​IMG] [​IMG] (*) Thủy Lôi TRUÂN _(*)_. viết : Thiên mã ban như, khấp huyết liên như, phỉ tặc hôn cấu " ( vó ngựa lộp cộp, người con gái khóc chảy nước mắt, bọn cường ĐẠO đến cướp nàng làm vợ ).

    Thật ra thì hình thức hôn nhân ban đầu của Trung Hoa là cướp vợ . Gọi là cướp có nghĩa là người con trai chưa được chấp thuận của người con gái và gia đình cô ta, dùng phương pháp cướp đoạt để lấy người con gái làm vợ, mà cướp thì phải đợi lúc trời tôi mà ra tay. Sau người ta vẫn theo tập quán này, tổ chức lễ cưới vào ban đêm, từ đó hình thành khái niệm "hôn nhân", gọi lễ kết hôn là hôn lễ.

    Vào thời cổ đại của Trung Quốc sách sổ chép từng có chuyện "sư hôn" tức là lấy vợ qua chiến tranh, người ta lợi dụng chiến tranh để cướp người phụ nữ làm vợ. Chu U vương đem quân chinh phạt Hữu Bao thị, chiếm Bao tự làm vợ. Tấn Hiến công đánh Li Nhung lấy Li Cơ làm vợ. Tào Tháo phá Nghiệp Quận, bắt vợ Viên Hi lấy con trai mình. Vua Minh Tông đời Hậu Đường, khi làm tướng kị mã, chiếm Bình Sơn, cướp con gái họ Vương làm vợ, sau phong làm Hoàng Hậu. Nguyên Thái Tổ vây khốn Sa Hãn, cướp vợ Sa Hãn làm vợ mình. Minh Hiến Tông chinh Man, cướp được Kỷ thị, sau sinh Hiếu Tông. Vua Cao Tông nhà Thanh bình định Hồi Cương cướp được Hương phi đem về hậu cung, say mê một thời. Những thí dụ như vậy có rất nhiều, từ Hán đến Đường, các thủ lĩnh dân tộc ít người ở biên giới, dùng chiến tranh để cướp phụ nữ trong Hoàng tộc đem về làm vợ, cũng rất nhiều.

    Sách "Lễ ký, Tăng Tử vấn" chép: "Thầy Khổng Tử nói rằng, ở nhà người con gái, ban đêm không được thắp đèn đuốc, để tưởng nhớ người con gái đã xa nhà; ở nhà người con trai, trong ba ngày không được ca hát ồn ào, đề phòng bị phát hiện". Câu này là nói đến tục cướp vợ thời cổ đại. Sách "Lễ ký. Hiện đặc sinh" có nói rằng: "Hôn lễ bất hạ" (không tổ chức ăn mừng khi lấy vợ, ý chỉ giữ bí mật chuyện cướp được vợ.

    Trong "Trung Quốc văn hóa sử. Xã hội tổ chức thiên, chương hai thì Lương Khải Siêu giải thích câu " phỉ tặc hôn cấu" của "Chu Dịch" như sau: "Giặc cướp và lấy vợ lấy chồng là hai chuyện khác nhau, vậy sao lại gắn hai chuyện này làm một? Chắc rằng thủ đoạn cưới vợ ngày xưa không khác gì cướp đoạt".

    Cũng vì không lo nỗi sính lễ mà cướp vợ cũng là chuyện thương tình trong "Tả truyện chép: " Một khách buôn nước Trịnh trên đường tới nước Tần gặp một đám rước dâu, người này bèn cướp cô dâu làm vợ. "Bắc sử. Cao Ngang truyện" chép: Cao Càn hỏi người con gái họ Thôi làm vợ, nhà gái cho rằng ông ta không có quyền thế gì nên không gả, em trai Càn là Cao Ngang cùng với Càn cướp người con gái, ra khỏi thôn, Can Ngang sợ nhà gái cướp lại nên bảo anh: sao không lập tức cử hành hôn lễ? Cao Càn hiểu ra, bèn giao hợp với người con gái họ Thôi, rồi sau đó đem về nhà.
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.560
    Đã được thích:
    49
    Còn trong lịch sử Việt Nam thì chuyện quan lại cường hào ác bá cướp vợ người, cướp con gái người, lấy vợ người về làm vợ mình thì nhan nhản trong thực tế và trong các truyện cổ, những trường hợp mà sử sách ghi lại rành mạch như trường hợp Quốc Tuấn Trần Hưng ĐẠO và Trần Khánh Dư

    Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyễn V trang 23 chép : " Gả trưởng công chúa cho Trung Thành Vương . Con trai Yên Sinh Vương là Quốc Tuấn cướp lấy . Công chúa về với Quốc Tuấn

    VuaTrần Thái Tông ... ý muốn cho công chúa Thiên Thành làm lễ kết tóc với Trung Thành Vương ... Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng không thể nào làm được, mới nhân ban đêm lẽn vào chổ ở của công chúa thông dâm với nàng ... Vua bất đắc dĩ phải gả công chúa Thiên Thành cho Quốc Tuấn, lấy 2000 khoảng ruộng ở phủ Ứng Thiên ( Thanh Oai - Hà Tây ) để hoàn lại sính vật cho Trung Thành Vương

    Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, quyễn V trang 48 chép chuyên Trần Khánh Dư thông dâm với công chúa Thiên Thụy như sau : " Lần trước quân Nguyên vào cướp, Nhân Huệ Vướng Trần Khánh Dư, nhân sơ hở đánh úp quân giặc, Thượng hoàng khen ông có trí lực lập làm Thiên tử nam ... Sau Khánh Dư thông dâm với công chúa Thiên Thụy

    Bấy giờ Hưng vũ vương Nghiễn vì là con trai Quốc Tuấn, được lấy công chúa Thiên Thụy, lại có công đánh giặc . Vua sợ phật ý Quốc Tuấn mới sai người đánh chết Khánh Dư ở Hồ Tây, nhưng lại dặn chớ đánh đau quá, để không đến nỗi chết, ít lâu sau sau xuống chiếu.... "

    Ngoài ra chuyện sư hôn trong lịch sữ Việt Nam không phải là hiếm, sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục trang 245 chép chuyện Đinh Tiên Hoàn đánh tan sứ quân Ngô Nhật Khánh và lấy mẹ Nhật Khánh làm vợ mình hoặc

    trang 326 chép chuyện Lý Thái Tông hoàng đế năm 1044 đi dánh Chiêm Thành như sau : " ..người Chiêm bị quan quân giết chết xác chất đầy nội.....vào thành Phật Thệ bắt được vợ cả vợ lẽ của chúa Chiêm và những cung nữ giỏi ca múa khúc điệu Tây Thiên...Về dến hành điện Lý Nhân, vua cho vời vợ Sạ Dẩu, chúa Chiêm là Mị Ê, lên hầu thuyền ngự, Mị Ê khôn xiết uất ức căm hờn....gieo mình xuống sông tự tử..

    Trong xã hội Việt Nam ở nữa thế kỷ 20 trở về trước, thời của Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng thì hôn nhân là do cha mẹ quyết định, cha mẹ dặt đâu con ngồi đó, lễ nghi cưới hỏi gồm có nhiều nghi lể thủ tục, qua đó nó mang một ý nghĩa giáo dục, một triết lý vè việc chung sống giữa hai cá thể trưởng thành hội nhập vào xã hội, xác dịnh một tôn tri trật tự trong gia dình

    Trong tinh thần tự do ngày nay hình như cũng rất ít gia đình nói dến cái ý nghĩa thâm thúy của việc hôn nhân và cung có nhiều MC đã nói :" Hôn lễ đã được cử hành sáng nay tại... "

Chia sẻ trang này