1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kornet-E anti-tank missile (AT-14)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi sli0471, 26/03/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lekien

    lekien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

  2. lekien

    lekien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0


    Light Armor Vehicles Weapon Systems
    Light armor vehicles (LAVs) appeared 100 years ago and have been the first self-propelled combat vehicles. Currently they are the most popular armor vehicles which are in service with the world-wide armies, including more than 140 thousands of armored personnel carriers, infantry fighting vehicles, reconnaissance vehicles, etc.
    A crucially new method of development was presented by the BMP-3 infantry fighting vehicle (IFV).
    It differs from the other IFVs by the unique weapon system comprising the 100-mm artillery gun õ?" loader unit, twin 30-mm automatic cannon and the 7.62-mm machine-gun.
    The BMP's fire power is mainly based on the 100-mm gun-launcher capable of firing both by the 100-mm guided missile with a tandem warhead (against ground-based and low-flying air targets) and by the 100-mm flat-trajectory HEF projectiles (against pinned down and entrenched infantry, weapons and fortificatious).
    The 30-mm automatic gun ammunition can effectively engage lightly armored and soft-skinned vehicles, air targets. The guided weapon system plus the automated fire control system originally designed for the light armory allow for the motorized infantry units to act in most combats without the artillery and tank support.
    Further works on the improvement of the weapon system resulted in a two-seat fighting compartment compatible with various lightly armored combat vehicles. The fighting compartment design makes it suitable for installation on most Russian and foreign tracked and wheeled vehicles. It features the following main advantages:
    õ? Automated day/night fire control system (FCS) with the target autotracker;
    õ? New enlarged ammunition including guided and unguided rounds with the increased firing range and lethality.
    Due to components and capabilities of the weapon the lightly armored vehicle turns to be an autonomous multipurpose ATGW, the artillery gun with the effective air defense transport vehicle capabilities.
    Most LAVs are equipped with single-seat turrets and a fighting compartment. To upgrade such vehicles, KBP offers the Kluiver single-seat fighting module with the 30-mm automatic cannon, four Kornet-E ATGWs and the 7.62-mm machine-gun.
    The armoured vehicle equipped with the Kornet outperforms Bradley IFV (USA), Marder (Germany), BMP-1, BMP-2 (Russia) in terms of fire power
    New ammunition
    The 3UBK23-3 one-piece round with the Arkan 9M117M1 guided missile is intended to engage modern tanks protected with ERA, small-size targets as well as slow-and-low flying target like hovering helicopters
    Main features
    Caliber, mm 100
    Firing range, m 5500
    ERA penetration, mm 750
    Length, mm 1185
    Round weight, kg 21.5
    The new 100-mm 3UOF19 round with the HEF projectile is designed to engage the exposed and sheltered manpower (in pillboxes, trenches, in folds of the ground), soft-skinned materiel and to destroy field fortifications as well as firing points located in urban buildings.
    Main features
    Caliber, mm 100
    Firing range, m 7000
    Reduced engagement area, sq.m 368
    Weight, kg:
    Round 15.89
    Projectile 13.41
    Explosive 2.3
    The 30-mm 3UBR8 cartridge with the APPS projectile can engage a variety of light weight vehicles. At a range of 2000 m, which is crucial in terms of dispersion for most automatic cannons, the projectile penetrates the frontal armor of most armored vehicles weighing of up to 20 t, and thus gives a chance to forestall the enemy during combat.
    Main features
    Caliber, mm 30
    Weight, kg:
    Round 0.755
    Projectile 0.304
    Muzzle velocity, m/s 1110
    Kluiver sigle-seat combat module with gun/missile armament system
    The module is designed to equip a wide range of light weight combat vehicles like IFV, APC as well as for installation on light ships including coastal guard boats.
    Components
    õ? Kornet-E ATGW;
    õ? 30mm automatic cannon;
    õ? 7.62 mm machine gun;
    õ? automated fire control system.
    The armament and the fire control system ensures the following:
    õ? effective firing by all types of weapon when stationary, on the move and afloat, against ground and surface targets;
    õ? target detection and recognition by day and night;
    õ? sighting and ranging;
    õ? estimation of fire settings;
    õ? weapon laying for elevation, traverse and lead;
    õ? firing against air targets based on the ballistic computer algorithm;
    õ? FCS state monitoring
    The Kluiver combat module can be mounted on most platforms at the customer's repair depots actually with no modification to the chassis.
    Main Features
    ATAM
    Firing range, m 100-5500
    Ready-to-fire missiles, pcs 4
    30mm automatic cannon
    Firing range, m 4000
    Ammunition load, pcs 300
    7.62 mm machine gun
    Firing range, m 2000
    Ammunition load, pcs 2000
    Control Automated system day/night
  3. lekien

    lekien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0


  4. lekien

    lekien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0

  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Em xin giới thiệu vài loại đạn sabot-DU.
    Đạn DU cong có tên gọi sabot-T (T=tracer=đạn lửa, vì sau khi xuyên qua vỏ giáp, nó bốc cháy).
    M829 120mm, APFSDS-T
    Đạn 120mm, dùng cho pháo tank M1. Đạn xuyên, Ổn định cánh đuôi, dưới cỡ. Đóng vỏ kèm liều và "bao đạn" (vỏ đầu đạn, đển bắn bằng súng lớn hơn cỡ đạn). Gồm bộ phận ổn định với 6 cánh đuôi nhôm. Một khối thuốc cháy lắp giữa cánh đuôi và lõi xuyên DU. Một nút đạy ngăn cách đạn và lưả trong nòng súng. Đạn dưới cỡ là một giải pháp hiện đại đổi đường kính lấy chiều dài nòng. Cả vỏ nặng 41.1lbs (18.6kg)
    Thuốc phóng :JA2.
    Ngòi M125
    Đầu đạn: M829
    Ống lửa M13
    Đạn này được sản xuất không lâu. Sau đó được thay bằng
    M829A1 và tiếp là M829A2.
    M829A1
    Đạn này được xế tank Desert Storm (bão sa mạc) gọi là "đậu bạc". Đạn bắn được tank hạng nặng. Là loại đạn hàng đầu thế giới về xuyên giáp.
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    M829A2
    Trong quá trình thiết kế súng chính cho tank, TACOM-ARDEC đưa ra đạn này. Tăng tốc độ và xuyên mục tiêu hơn. Các vật liệu composite mới được áp dụng, thuốc phóng mới với mật độ cao. Được đóng vỏ đạn cho xe M1A1 và M1A2. Cấu trúc thanh xuyên được cải tiến, mà giữ được những ưu điểm truyền thống, tương thích với tất cả nòng pháo NATO120mm trơn
    Lần đầu tiên, carbon-epoxy composie được áp dụng cho sabot (vỏ đạn-tiếp xúc với nòng)
    M829E3
    Đạn tăng gấp đôi khả năng so với M829A1, được thiết kế cho súng M1A1 và M1A2. Sử dụng thuốc nổ mới RPD 380. Dài 986mm. nặng (cả vỏ 56lb (23kg)
  7. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Ta nói qua về sabot kim loại nặng. Các báo cáo lạc quan nhất của loại đạn này cũng chỉ minh diệt tank tầm 3km. Thực tế, với các MBT hiện đại (T-80 ), chỉ khoan thủng được vỏ giáp trước trong tầm 2km.
    Tại sao vậy. Đầu đạn này có khối lượng nhỏ (2.6kg), đường kính nhỏ (25-50mm), sơ tốc rất lớn (1.7km/s). Vì vậy, nó thất tốc rất nhanh.
    Do sơ tốc lớn, đạn này bắn mục tiêu di động tốt hơn (thời gian đến mục tiêu nhanh). Càng ngày, NATO càng chứng tỏ họ có nhiều điểm đáng ngại trong hệ thống ngắm bắn của họ. Đo xa laze, nhìn đêm hồng ngoại tuy bắn mục tiêu tĩnh thì tốt nhưng bắn mục tiêu di động thì rất khó đo tốc độ địch. RADAR là chọn lựa tốt cho việc này.
    Do đó, đạn tăng mới của họ không có tham vọng diệt MBT tầm trên 3 km. Cũng có một số đạn tên lửa ATGM, nhưng các đạn này đều kém vi sử lý hơn nhiều ATGM Nga (điều khiển bằng cách lao thẳng hướng mục tiêu chỉ thị laze).
    Súng chính M1A1 và M1A2 có đặc điểm liều (KE)đạn gắn liền. Điều đó làm qua trình bắn ưu việt hơn khi dùng nhiều loại đạn (do dùng mỗi loại thuốc phóng cho mỗi loại đạn). Nhưng cồng kềnh và khó tự động hoá tháp pháo. Liều gắn liền đó làm M1A1 và M1A2 bắn sabot DU rất tốt. Và khẩu XM291 cuả những xe này quả thật có sức xuyên hơn hẳn trong tầm 1km. Đây là nguồn gốc việc "M1A1 hoả lực mạnh". Nhưng tốc độ bắn thủ công thì không thể lại khẩu súng chính tự động của họ T được.
    Trong khi đó, với đạn lõm và đạn tên lửa, đặc biệt là thiết bị ngắm bắn điện tử với khả năng đo tốc độ địch hơn hẳn, tank Nga trội hẳn với tầm 3-6km.
    Bác levanle có đính chính về việc chiếc T-72 bị bắn vào phần xe "động cơ bay trong không khí". Khi em cho rằng, sabot và phần xe không có thuốc nổ, bác levanle cho rằng đạn pháo nổ.
    Thật sự, đạn pháo chỉ nổ khi xe cách hàng chục phút. Vì xăng dầu phaỉ chảy ra ngoài mới cháy (trong xe thiếu không khí). Như chiếc M1A1 cháy trên đó. Mà bài miêu tả lại nói trúng đạn xe nổ. Sau chiến tranh, đọc một bài mới biết mấy M1A1 trên kia gặp trận phục kích bằng RPG. RPG, viết tắt tiếng Nga: ổ phóng tên lửa. Đây là tên đặt cho loại súng không giật, bắn tên lửa "ngu". Vì không điều khiển, tên lửa phải có sơ tốc lớn - giảm tản mát. Nhưng súng không thể nặng (vì vác vai), nên các RPG đều có đường đạn tồi: sơ tốc khoảng 100m/s, tốc độ đạn lớn nhất khoảng 300m/s, đặc biệt tầm bắn hiệu quả chỉ bằng nửa hay một phần ba tầm tối đa. Đầu đạn nhỏ nên lực xuyên cũng nhỏ (RPG 7V Iraq dùng chỉ 220mm thép tấm RHA và không có tầng thêm vượt ERA (tandem)). Ngay cả T-55AD cũng vô hại phía trước và hai sườn. Trận đánh đã nện cú chí tử vào các quảng cáo M1A1.
    Mỗi khi MBT Nga mới ra, các tạp chí quân sự lớn (fas cũng vậy) đều lặp lại câu : nối tiếp truyền thống T-34. Đây là vinh quang người Nga đổi bằng máu và mồ hôi. Có bác bảo rằng:

    Tính đến ngày 30 tháng 7 năm 1942, nước Anh đã giúp đỡ khoảng 2000 máy bay, 2000 tanks, 30 000 xe vận tải quân sự và hàng nghìn thùng xăng dầu nhu yếu phẩm được quân đồng minh chuyển qua LX theo thảo thuận viện trợ (mặc dù Anh đang khố đốn với Đức)
    Tính đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến 14,000 máy bay chiến đấu, 12 000 tăng, 425 000 xe tải, bọc thép, xe moto quân sự được đưa đến LX theo chương trình Lend-Lease

    Các con số đó không đáng bao nhiêu so với Nga, vì riêng Is và T-34, họ có 70 ngìn chiếc, tổng cộng, hàng trăm nghìn tank và pháo tự hành được sản xuất trong chiến tranh. Chiếc T-34 đã bắn hạ gần sạch tank Đức (giai đoạn cuối, Đức rất ít tank). Trong trận Kursk, cuộc đấu tank quan trọng nhất (ngày 12/7), khi xe hai bên gần ngang nhau (mỗi bên 600), T-34 đã đi vào lịch sử. Bác levanle cũng tỏ ra chưa bao giờ xem sơ đồ ó đen, và dẫn chứng một bài viết nhần lẫn T-2000 ó đen, T-95, T-80UM. Thưa bác, T-2000 không hề có người trên tháp pháo, tháp pháo có vỡ tan cũng chẳng ai làm sao.
    Với T-95, đạn thường có sơ tốc 1700m/s, như công thức thông thường thì sabot có sơ tốc khoảng 3000m/s, hiện tại chỉ dự án FMBT là sánh được. Nhưng ngày ra đời đã lùi lại đến năm 2015. Ngay cả FMBT, yêu cầu thiết kế RADAR không có gì mới, việc ngắm bắn chỉ bổ xung nhận dạng hình học, suy ra vẫn phụ thuộc vào tầm bắn ngắn. APS bổ xung đánh chặn mọi hướng. Súng FMBT và M1A2 có thể cải tiến là XM291 140mm, để đấu với 135 hay 152mm của T-95.
    Việc chậm trễ của FMBT, kết quả chiến đấu tồi của A10 (máy bay tầm thấp bắn đạn 30mm DU, tính đến nay chỉ một xe cháy có vết đạn), xác suất trúng đạn cao của Apache làm Nga không vôi vàng gì sản xuất ồ ạt T-95, họ có dự trữ thời gian hàng chục năm nữa. Việc M1A1 cháy hàng đống lại nổ ra trào lưu trang bị vũ khí chống tank. Và người Mỹ lại đau đầu về APS và ERA kém cỏi của họ.
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Thật khôi hài khi các nước đồng minh tranh công, chia sẻ với T-34 vinh quang của thiết giáp. Để so sánh, em lấy mốc 30/7/1942 như trên, với 2000 tank viện trợ:
    T34-76mm moden 1940.
    Production Quantity about 950* Production Period mid 1940 - mid 1941
    Production Quantity about 9290* Production Period early 1941 - 1942
    Vậy là khoảng 10000 chiếc T-34.
    KV1 các loại: Đến thời điểm đó có 1370 chiếc
    Đây là chỉ kể tank hạng trung (MBT).
    Còn tổng kết chi tiết cả chiến tranh, so với con số 12 nghìn chiếc viện trợ( số lượng sản xuất chỉ tính trong chiến tranh):
    IS-1
    Production Quantity 107* Production Period Late 1943 - Early 1944
    IS-2 Model 1944
    Production Quantity 3475** Production Period Apr. 1944-Jun. 1945**
    IS-3 Model 1945
    Production Quantity 350* Production Period 1945*
    ISU 122
    Production Quantity about 645* Production Period Late 1943 - 1944
    ISU 122S
    Production Quantity about 1400* Production Period 1944-1945
    ISU 152
    Production Quantity about 2000* Production Period 1943-1945
    T34-76mm moden 1940
    Production Quantity about 950* Production Period mid 1940 - mid 1941
    T34-41
    Production Quantity about 9290* Production Period early 1941 - 1942
    T34-42
    Production Quantity 14041* Production Period mid 1942 - mid 1943
    (trước chỉ có xe chỉ huy có điện đài, từ đầu 1943: tất cả có điện đài)
    T34-43
    Production Quantity 10760* Production Period mid 1943 - early 1944
    T34-85mm 1943
    Production Quantity about 800 Production Period Jan. 1944 - Mar. 1944
    T34-85mm 1944
    Production Quantity 17680* Production Period Mar. 1944 - May 1945
    SU 122mm
    Production Quantity 1148 Production Period Dec. 1942 - early 1944
    SU-85
    Production Quantity 2050 Production Period Aug. 1943 - Jul. 1944
    SU 100
    Production Quantity 1675* Production Period Nov. 1944 - Jun.1945
    T43
    Production Quantity prototype Production Period June 1943
    T-44
    Cũng như trên, đây chỉ là tính T-34-tank hạng trung-MBT và hạng nặng IS.
    Với pháo chính 120mm, giáp trước 200mm IS hồi đó không có đối thủ. Cuối chiến tranh, Đức chỉ chế mẫu được một chiếc tính năng tương đương nhưng nặng gần 200 tấn. T-34 kinh khiếp vì nó có thể sản xuất nhiều vẫn cơ động và mạnh.
    Để so sánh chất lượng, Anh Mỹ đặt cỡ pháo 76mm và 85mm lên tank, họ phải bỏ rất nhiều thứ đi và gọi xe đó là : Tank Destroyer (xe khu trục). Câu chuyện hài hước về tank các nước này WW2 đã được bàn đến trong xe bọc thép và T-95. Đây chưa nói, khi kể công, đồng minh gọi luôn bọc thép, pháo tự hành..... vào tank tuốt tuột.
    Tất nhiên em không bôi bác sự viện trợ với Nga WW2, nhưng nói viện trợ góp phần thế nào thì con số trên, quá đủ.
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Một số loại đạn pháo nữa dùng kim loại nặng:
    105mm pháo tank (XM256, trước đây dùng cho tank)
    General Dynamics Ordnance and Tactical Systems-GDOTS tiếp tục cung cấp đạn này cho những pháo 105mm, sau khi Mỹ tăng cỡ pháo tank lên 120mm(thanh xuyên DU M900 APFSDS-T). Các ấn bản dùng vonphram loại đạn này là C76, C76A1, M456A1/A2 (đạn lõm có khối tích năng lượng kim loại nặng), đạn bắn tập M490A1 và M724A1.
    Terminator (KEW) APFSDS-T
    Đây là bản cuối cùng M829A1 (đậu bạc). Để tránh các phản đối dùng DU, đạn này có thanh xuyên vonphram. Nó thừa kế các đặc điểm của M829A1, quan trọng nhất là tương thích với toàn bộ pháo nòng trơn trên tank NATO. Ngoài ra, những đặc điểm vonphram làm nó nổi trội: điều kiện nóng và bụi cát sa mạc.
    DM43A1 APFSDS-T
    Đây là sản phẩm lớn nhất xuất khẩu, liên doanh giữa GDOTS và Rheinmetall Industry, dùng lõi vonphram. Đang có bán, tương thích với 120mm pháo chính tank NATO.
    M865 TPCSDS-T
    Sabot chính của 120mm Mỹ, đạn tập (giống nó) có xuất khẩu, dùng vonphram, hiện dã sản xuất 2 triệu quả. Ổn định đến 8km.
    Nếu cộng với thông tin về truyền thống hạt nhân. Trong khối XHCN trước đây, nguyên liệu và chất thải chỉ xử lý ở LX. Trong LX, Ucraine nhiều nhà máy hạt nhân nhất nhưng làm giầu nguyên liệu và sử lý chất thải lại ở vùng trung tâm Nga, trong lòng Xibêri. Pháp vừa xử lý nguyên liệu và chất thải cho các nước quanh đấy, kể cả Nhật cũng dùng nhiên liệu P và U làm giàu từ Pháp. Như vậy, chỉ Mỹ Pháp và Nga nhiều DU.
    Hiện tại tank Anh vẫn là nòng xoắn, mà đạn DU nòng xoắn rất hiếm. Pháp Nga không mấy mặn mà với thứ này. Tại sao vậy.
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Nhu cầu giáp kim loại nặng xuất hiện trước 1950, khi sabot ra đời và phát triển. Do sơ tốc cao, đầu cứng sabot tạo áp suất rất lớn khi chạm mục tiêu.
    Trong kim loại nặng, thì vonphram là thứ lý tưởng để làm giáp và đạn. Nó có tỷ trọng khoảng trên 16 g/cm3. DU là 18.5g/cm3, vonphram ăn đứt DU và độ cứng và chịu nhiệt.
    Để làm đạn DU, người ta trộn vào DU một ít titanium. Còn để chịu nhiệt thì khó. Có thể dùng composite oxit uranium và kim loại nhưng tỷ trọng không cao.
    Mỗi viên pháo tank 120mm chứa từ 2.6kg đến 6kg DU, mỗi viên 30mm của A10 chứa khoảng 300g DU. M1A1 và M1A2 có hai tấm giáp trước tháp pháo DU.
    Thành phần uranium tự nhiên như sau:
    đồng vị chu kỳ bán phân rã(năm) phóng xạ (Ci/g)
    U-234 2.46 x 10^5 6.22x10^?"3
    U-235 7.04x10^8 2.16x10^?"6
    U-236 2.34x10^7 6.47x10^?"5
    U-238 4.47x10^9 3.36x10^?"7
    Trong đó(%):u tự nhiên DU
    U-234 0.0054 0.0007
    U-235 0.711 0.2
    U-236 không cố số liệu 0.003(từ quá trình làm việc)
    U-238 99.28 99.8
    U234 và U236 có trong U tự nhiên vì phản ứng hạt nhân tự nhiên. Phản ứng này lúc đầu người ta tưởng rất chậm nhưng một hiện tượng làm các nhà khoa học thay đổi quan điểm. Đó là khi người Pháp lấy quặng tự nhiên từ châu Phi về, lọc lấy U tự nhiên và thấy U235 ít hơn bình thường. Một việc nhạy cảm như thế nên phải điều tra quy mô. Các mũi khoan trong vỉa quặng đã chứng minh: vào một thời kỳ lịch sử, nước ngầm chảy qua đây , nước tự nhiên làm chậm notron tạo ra một lò phản ứng tự nhiên. U235 ít đi thay vào đó là plutonium, phân rã hết.
    Như vậy, với điều kiện lý tưởng, chỉ lọc được 5 trong số 7 phần nghìn U235 thành DU. Tuy ít nhưng U235 có cường độ phóng xạ gấp hàng vạn lần U238. Các phản ứng hạt nhân tự nhiên và quá trình làm việc tạo ra các nguyên tố nguy hiểm hơn, gấp hàng chục triệu lần U tự nhiên. Vì vậy rất khó kiểm soát độ phóng xạ của DU. Kể cả việc chất đạn trong kho cũng làm tăng độ phóng xạ.
    Lại xem lại. Với đạn xuyên 7 kg, T-80 có sơ tốc đạn 1700m/s. Với 5.2 kg, sơ tốc là 1850 m/s. Giáp dầy và nghiêng. Cộng với việc Mỹ ít vonphram. Sơ tốc đạn 2.6kg XM291 120mm(M1A1 và M1A2) là 1700m/s, không thể cải tiến nhanh thành XM291 140mm. Thì giải pháp dùng DU là duy nhất với Mỹ. Rõ ràng, T-80 ra đời và được cải tiến như đám mây đen bao phủ nước Mỹ, khi quá hoảng sợ, người ta đã dùng một giải pháp rất liều lĩnh.
    Mặc dù vậy, hệ nghắm bắn thiếu RADAR xịn, rất kém đo tốc độ địch cũng chỉ làm tank Mỹ bắn xuyên trong tầm 2km với giáp trước T-80, 3km với tank cổ. Mà tốc độ bắn cũng chỉ bằng một nửa. Từ 3-6km, tốc độ bắn của T-80 chậm lại (vẫn nhanh hơn M1A1) thì M1A1 và M1A2 không còn khả năng xuyên giáp trước.
    Có thể nói, so M1A1 và T-80 như so súng lục với súng trường vậy.
    Riêng APS thì khỏi nói rồi. So sánh như không có với có. Đó là chưa kể các ATGM mới có chức năng bắn thẳng từ nóc xuống. T-80UM đánh chặn thoải mái với Arena.

Chia sẻ trang này