1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kornet-E anti-tank missile (AT-14)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi sli0471, 26/03/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Qua một chút về lịch sử DU:
    Muộn hơn những năm 50, carbuar - vonphram là nguyên liệu đầu tiên của đạn sabot kim loại nặng, giáp, thanh xuyên. Vonphram đưa đến một tiến bộ lớn với thép carbon cao lúc đó. Với mật độ cao (13g/cc), đưa đến một sức xuyên tuyệt hảo với giáp lúc đó.
    Với giáp hai hay ba lớp vào những năm 60, đạn vonphram carbuar bị bẻ gãy trước khi xuyên giáp lớp sau. Khó khăn này đặt yêu cầu vật liệu và hợp kim mới có khả năng chống lại sự đe doạ của mọi loại giáp.
    Trả lời đòi hỏi của nhiệm vụ mới, quân đội Mỹ hoàn thành một số phát triển hợp kim. Ban đầu, quân Anh sử dụng vonphram nén, gồm 93% vonphram nén và 7% bao vỏ bằng hợp kim vonphram(WA). Hợp kim làm vỏ bao (WA) mật độ 17g/cc cao hơn vonphram carbuar.
    Từ 1965 đến 1965, Mỹ song song với Anh phát triển đạn kim loại nặng cho pháo 152mm XM578, cùng đó là đạn cho MBT-70. Với hợp kim mật độ cao hơn của Anh: 97.5% vonphram nén và 2.5% vỏ bao, mật độ trung bình 18.5g/cc.
    Đạn cho đại bác XM735 và XM774 là đạn đầu tiên được phát triển khác chương trình phát triển XM578, mặc dù hợp kim DU vẫn đang cân nhắc trong thời kỳ này, hợp kim vonphram cũng chứng tỏ đạt các yêu cầu quân đội Mỹ về xuyên giáp thời đó, nhưng quân đội Mỹ bắt đầu phát triển các ứng dụng DU.
    Một trong nhưng đạn đầu tiên Mỹ dùng DU là đầu đạn hạng nặng cho súng cối Davy Crockett . Thêm nữa, quân đội Mỹ thử nghiệm "hợp kim 4" : UQuad, thứ DU thử nghiệm cho pháo 105mmvà pháo 120mm Delta (đạn Armor Piercing Fin Stabilized, Discarding Sabots (APFSDS) ). Vonphram vẫn được chú ý hơn DU vì hai lý do chính:
    1: DU vẫn đang phát triển và mâu thuẫn với một hợp kim đang trong quá trình phát triển là vấn đề dai dẳng.
    2: Thanh xuyên thử nghiệm với tank Liên Xô mà mục tiêu tương tự không chứng tỏ tính ưu việt.
    Muộn hơn, vào giữa những năm 70, những khác biệt của giáp mới(T-72 và các giáp tank đang được nghiên cứu-chú thích của Huy Phúc), carbuar vonphram chứng tỏ năng lực yếu, sự tập trung cho vonphram của quân đội Mỹ thay đổi. Cùng một thời gian, thử nghiệm song song của hải quân và không quân với súng cỡ nòng nhỏ (20mm,25mm,30mm) lại chứng tỏ rõ ràng tính ưu việt của đạn DU.
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Năm 1973. Quân đội Mỹ cải tiến phương pháp sử dụng pháo mới 105mm của tank M68. Nằm trong chương trình phát triẻn đạn XM774, sau một quá trình thử nghiệm hợp kim DU và 0.75% Ti được lựa chọn, gọi là hợp kim U-3/4Ti. Đạn vonphramđược bọc vỏ théo bắn bằng pháo 152mm bị không khí cản mạnh, do đó giảm sức xuyên của đạn. Với sức xuyên nổi trội U-3/4Ti dễ dàng được chấp nhận là nguyên liệu đạn xuyên cho súng cỡ lớn.
    Sự phát triển U-3/4Ti đưa ra nhiều đạn mới cho quân Mỹ. Một mẫu đạn cho XM774, nhưng phần lớn các nỗ lực dành cho đạn tank bao gồm nhóm 105mm M883 và nhóm 120mm M829(sau này trở thành đạn xuyên giáp đầu tiên sử dụng ở vùng vịnh). Các mẫu tiếp tục được cải tiến với nhóm 105mm M900 và 25mm M919 của xe Bradly
    Vào những năm 1970, không quân Mỹ phát triển hệ súng GAU-8/A không đối đất cho A-10 "close air support aircraft". Đây là máy bay duy nhất được thiết kế chống lại cuộc tấn công của Liên Xô và khối Vacsava và trung tâm châu Âu bằng một mũi nhọn thiết giáp.
    Đó là khẩu súng hạng nặng, cỡ nòng lớn bắn nhanh 8 nòng 30mm, dự định bắn vào nóc tank, điểm nguy hiểm nhất của mọi loại tank. Để tăng uy lực cho khẩu súng khủng khiếp này, quân đội Mỹ sử dụng hợp kim U-3/4Ti trên đạn 30mm API (armor piercing incendiary-đạn xuyên cháy). Không quân bắt đầu thay thế đạn thông thường GAU-8 30mm vào 18/1/1976. Không quân Mỹ oqr châu Âu United States Air Forces in Europe (USAFE) trang bị 1978.
  3. SilverWings

    SilverWings Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2003
    Bài viết:
    492
    Đã được thích:
    0
    7 nòng thôi bác ạ


    Người cầm 4-6 đi trong Thảo Luận, diệt trừ những tên camping.
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Xin lỗi các bác về khẩu súng đó nha.
    Sơ qua một chút về lịch sử ATGM (anti tank guide mssile: tên lửa diệt tăng có điều khiển).
    Về món hàng hiệu quả này (vài trăm đo la cho cả cỗ xe lớn vào lò cao ngay), nước đầu tiên chú ý đánh giá, nghiên cứu, chế tạo, cho ra bãi chiến trường là Đức, WW2. Người Đức xứng đáng là cha đẻ chiến tranh hiện đại với hàng lô mục đầu tiên. Kể cả xe tank mang dáng hiện đại (một tháp pháo 360 độ, 1 súng chính, giáp thiên phía trước) và đạn tốt nhất đánh nó.
    Ấn bản đầu tiên đó là X4, lái cơ học bằng hai dây. ( có lẽ Đức là nước duy nhất sản xuất tên lửa lái dây cơ học-như diều)
    Quả đầu tiên Nga sản xuất là AT-1, đến nay đã có 16 đời ATGM Nga ra đời, đề là vô địch thế giới đường thời. Hồi AT-1, chưa có khái niệm phóng từ nòng pháo. Sau này, AT-14 phóng từ nòng pháo-ống phóng không giật-ống phóng bịt đáy. AT-16 là loại mới nhất, vừa được triển khai....chế tạo hàng loạt. AT-16 hiện tại chỉ phóng bằng ống phóng, nếu FMBT Mỹ tiến triển nhanh hơn với súng chính XM291 140mm thì T-95 bắt buộc phải triển khai với súng chính Taran 152mm (hiện tại có bản 135mm). Tất cả các tham số AT-16 đều theo chiến lược T-95, cho thấy, T-95 chưa phải siêu tank Nga như truyền thống IS, nó là MBT như truyền thống T-34, như các kênh thông tin lớn và tin cậy nhận định.
    AT-1 Snapper
    Cách gọi Mỹ AT-1
    Cách gọi Nato Snapper
    Tên Nga Shmell - Bumblebee
    nhiên liệu Solid (đặc)
    Lái Wire MCLOS (manual command to line of sight -lái bằng mệnh lệnh xạ thủ, mắt nhìn) có kính hồng ngoại.
    tầm 2 Km
    Đầu đạn HEAT (đạn lõm chống tank) xuiên 380mm thép tấm.
    phóng từ ray Mang trên xe UAZ 69 Đến 1970 loại bỏ.

    AT-2 SWATTER
    Lái bằng radio, vì có dùng cho trực thăng chiến đấu MI8
    Mã tên Mỹ: USA Code AT-2
    Tên NATO: Nato Name Swatter
    Tên Nga: Russian Name Falanga 3K11
    Nhiên liệu đặc Fuel Solid
    Lái Guidance Radio SACLOS
    tầm Range 3 Km
    phóng bằng rãnh ray: Launcher Rail
    Notes Usually used from helicopters espically Mil 24
    có dùng trên máy bay. Với 9M17 Skorpion đời V trở lên, Mi-24 tìm dẫn tự động (bằng mũ phi công và mũi máy bay). Được thiến kế cùng MIG 21 và sản xuất hàng loạt những năm 60. Đầu tiên trang bị trên AV:BRDM/BRDM-2.
    AT-3 và AT-5 thừa kế truyền thống AT-2.

  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Trên kia là hai loại ATGM đầu tiên của Nga. Đây là vũ khí sơ khởi của dòng này. Gắn liền với việc phát triển vũ khí diệt tank không dùng đại bác.
    Loại đầu tiên chắc chắn là RPG(súng không giật-bắn đạn khong điều khiển), cũng do Đức phát triển đầu tiên, đã lập công lớn cho Đức, WW2. B41 (tên Nga là RPG-7V) cũng đóng góp công lớn: chủ lực diệt tank chiến tranh Đông Dương 2.Nhưng đây là các vũ khí có tầm bắn rất ngắn, đã thế tầm bắn hiệu quả chỉ bằng 1/2 hay 1/3 tầm tối đa. Do đường đạn rất tồi của chúng.
    Hệ điều khiển cung cấp tính guided-không cần sơ tốc lớn cũng chính xác tầm cao. Mở ra khả năng mới: xe khu trục (tank destroyer) được gọi quay lại bãi chiến trường (UAZ 69, sau đó kết hợp vào AV) và trực thăng tấn công. Chả cần nói cũng biết tầm quan trọng ATGM. Nhưng AT-1 và AT-2 được sử dụng hạn chế. Một mặt do máy điều khiển lớn, chưa dùng cho bộ binh không xe được. Một mặt do chúng sinh ra thời bình.
    AT-3 không thế. Nó sinh ra "phải buổi khó nhọc". 1972 đỏ lửa Miền Nam. Uy tín của nó được tạo ra ở đây, được rất nhiều nhiều nước dùng và sản xuất. Quân Miền Nam kinh sợ, đồn rằng VC có đạn biết ngửi như..........chó săn. Người Tầu đặt cho nó cái tên vừa trang trọng vừa dũng mãnh: Hồng tiễn-Hongjian năm 1980 và trang bị những năm 80. Iran AT-3 9M14M-Ra?Tad-sau có cải tiến đầu thêm chống ERA. Bắc Triều North Korean Susong-Po.Bản Đài Loan Taiwanese Kun Wu. POLK is a Slovenian, bản đạn khói AT-3c/Improved (SACLOS), bản tầm nhiệt Iskra TS-M .Tên NATO: SAGGER. Mã tên Mỹ: AT-3. Ít nhất 45 nước dùng, trong đó có: : Former Soviet Republics, Afghanistan, Algeria, Angola, Bulgaria, Czechoslovakia, Cuba, Egypt, Ethiopia, Hungary, Iraq, India, North Korea, Libya, Mozambique, Poland, Romania, Syria, Uganda, Vietnam, Yugoslavia, Zambia.
    Còn người Nga, tên riêng là bé con-(Ma lức ca)-Malutka.
    Thông tin (nước ngoài biết) đầu tiên năm 1961. Tương thích hệ phóng AT-1 và AT-2. Đầu đạn xuyên lõm chống tank HAET tốt hơn (xuyên 520mm thép tấm, tầm 500-2500 met, cải tiến sau xuyên hơn, tầm xa hơn 3000 met, bản copy sau này 4000 met), nhẹ hơn. Dùng trên AV và Mi-2, Mi-8, máy bay tầm thấp. Có thể trang bị cho tổ bộ binh (bộ binh đi bộ). Cả hệ phóng nặng hơn 1 người mang (đến 40kg), đạn nặng 10,9kg. Phóng từ vỏ đạn (hộp đạn là ống phóng), có kính tiềm vọng hồng ngoại. Lái dây và radio. Hộp phóng 9P111. Nhiên liệu rắn. 2 phút một lần bắn. 23 giây đến mục tiêu xa nhất. tốc độ 115 m/s-130 m/s tuỳ loại.
    Một bản dùng cho 1 cá nhân, nhẹ hơn với một hộp: kính rộng là nắp hộp, một ray kéo dài ra làm ray phóng. Bảng điều khiển với nút bấm và gậy điều khiển (hi hi hi, liên tưởng đến joystick)
    Các xe BMP và BMD mang 4 quả, BRDM và BRDM-2 8 quả.
    Tổ lái: 2 (chỉ huy-cảnh giới và xạ thủ), thông thường 3 người (để mang) và trang bị thêm RPG-7V. 860mm dài AT-3 A/B/C. 1020mm dài với Malyutka-2. Hệ điều khiển 9S415/ 9S415M/ 9S415M1
    Rõ ràng, đây là viên ATGM vinh quang nhất, cùng với RPG vinh quang nhất B41, gắn liền chiến công Việt Nam và kỹ thuật Soviet.

    Được antey2500 sửa chữa / chuyển vào 08:10 ngày 25/05/2003
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165

  7. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Cải tiến sau AT-3, Nga sản xuất có nhưng tính năng gần bằng AT-4.
    Các ATGM tuy lập công to, nhưng buổi đầu tham chiến bộc lộ không ít nhược điểm. Việc chung slập công làm nhiều nước tham gia sản xuất. Chống chúng, với mục tiêu công sự nhà cửa khá đơn giản : lưới B40 (được dùng chống đạn B40). Tốc độ thấp làm ATGM mắc lại, không xuyên qua tấm đàn hồi này. Hồi đó cũng chưa có đánh chặn tên lửa diệt tank, chỉ có ERA thì AT-3 vượt qua tốt. Việc lái thủ công không cho phép tên lửa bay nhanh (người lái không phản ứng kịp), và tên lửa nặng (mang theo dây).
    Do đó, yêu cầu tự động hoá là thách thức các vi sử lý.
    AT-4 được sản xuất thay thế AT-3, bắt đầu phục vụ 1972. Năm 1975, phươg Tây qua Nam Tư biết đến với tên SPIGOT. Mã tên Mỹ AT-4, tên Nga FAGOT.
    AT-4 có dáng dấp ATGM hiện đại. Nó bỏ hẳn ray (rail) phóng của Kachyusa WW2. Là tên lửa đầu tiên được phóng từ ống phóng không giật, ống phóng bịt đáy (giật mạnh, đặt trên xe). Khối lượng nhỏ (1 người sử dụng được) nhưng tổ lái đủ vẫn 3 người. Lực xuên nhỉnh hơn AT-3 đời cuối: 500mm-600mm. AT-4B/Factoria -một cải tiến nâng tầm lên 2500met . Tốc độ bắn tăng vọt 3 phát phút.
    Có hai ấn bản: bộ binh(đi bộ ) và nặng hơn đặt trên xe: AT-4 và AT-4B. Hệ lái bán tự động, bằng dây và radio, có tầm nhiệt. Khi vào gần mục tiêu, tầm nhiệt có thể thay thế hoàn toàn dây lái. AT-5 và AT-5B là lớp cải tiến đầu tiên hạng nặng, đặt trên xe cùng AT-4, dùng cho tầm rất ngắn (<500m). BMP và BMD mang 8 quả trong đó 4 trong bệ phóng nóc xe, 4 chứa trên xe.
    Tầm bắn ngắn nhất được rút xuống còn 70 met. Tầm loại cá nhân 200met, thời gian tối đa đến mục tiêu 11 giây. Tốc độ 185m/s. Chế độ bán tự động thừa kế AT-3C3 làm trên 90% phát đầu tiên trúng. Xạ thủ chiếu đèn vào mục tiêu và tên lửa tìm đến. (tương tự laze nhưng tên lửa bám đèn bằng hồng ngoại). Việc điều khiển từ xa cho phép bắn trong chuyển động. Do tàm nhỏ nhất giảm nên tổ bộ binh đi bộ 3 người mang 4 quả và một hệ phóng, do không cần RPG bù vào khoảng nhỏ nhất của AT-3(300met).
    Những cải tiến sau này
    -Truyền tín hiệu qua xung đèn lái, hiệu chỉnh hướng xung trong hộp điều khiển 9S451M1, Nga.
    -Tầm nhiệt TPVP/1PN65 (cho hộp điều khiển)
    -TS-F (Slovenia), 1PN86-1/1PN86(Nga): đạn tự động tìm mục tiêu.
    Đưa tầm AT-4B lên 2500 và 3600 sau này.
    Các biến đổi AT-4: AT-5 vẫn được sử dụng với cải tiến hệ dẫn đường hiện đại. AT-14 và AT-15 kế thừa truyền thống AT-4.
    Milan và Dragon của phương Tây tương tự.
    Vài tham số và ảnh AT-4 9K111 và AT-4M 9K111-2
    Nơi thiết kế: Tula.
    Hệ điều khiển 9P135
    AT-4 9 K111
    lái : SACLOS (dây - radio - nhiệt)
    nặng : 35 kg.
    Tốc độ bắn 3 phát phút
    dài: 863 mm.
    đường kính: 120 mm.
    sải cánh: 369 mm
    nặng đạn: 11,5 kg.
    cả ống phóng(là hộp chứa): 13 kg
    Kiểu đầu đạn : HEAT (xuyên lõm)
    Đầu đạn nặng: 2,5 kg.
    Tầm nhỏ nhất: 70 m.
    Tầm lớn nhất: 2000 m.
    Sơ tốc: 80 m./s.
    Tốc độ bay: 186 m./s.
    Nhiên liệu đặc
    Thời gian bay lớn nhất 11 giây
    xác xuất trúng đích phát đầu 90%
    Hệ lái 9P135, nặng 22 kg.
    hệ lái 9S451 với đèn 9Sh119M sau này
    ĐÂy là AT-4B (AT-4M)
    Được cải tiến động cơ tăng tầm lên 2500 met hệ lái 9K111 được thay cho 9P135
    Dài: 910 mm.
    Đường kính: 120 mm.
    Sải cánh: 369 mm.
    Ống phóng (hộp chưa) dài: 1098 mm.
    Đạn nặng: 11,5 kg.
    Cả ống phóng: 13 kg.
    Kiểu đầu đạn: HEAT (xuyên lõm)
    đầu đạn nặng: 2,5 kg.
    Tầm : 75 m đến 2500 met
    Sơ tốc: 80 m./s.
    Tốc độ bay: 186 m./s.
    Thời gian tối đa bay: 13,5 s.
    Cấu tạo trong AT-4
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Một số ảnh khác của AT-4
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Tháng 10/1977, trên quảng trường Đỏ, Moscow trình bầy AT-5 SPANDREL trên nóc xe BRDM. Đây là lần đầu tiên Phương Tây biết đến nó. Những tính năng được biết sau này cho phép phán đoán đây là ấn bản bí mật (sử dụng nội địa) của AT-4). Thuộc thế hai ATGM Nga (từ AT-4 trở đi, bán tự động tìm (track) mục tiêu).
    Mọi tính năng cơ bản gống AT-4, cơ cấu thiết kế cũng vậy: bản đặt xe A và bản hạng nặng tầm ngắn B, không có bản bộ binh. Nhưng uy lực vượt trội so với AT-4 đương thời: tầm 100met-4km. Nặng hơn và thời gian tối đa đến mục tiêu lâu hơn AT-4.
    Hệ thống lái như AT-4, khích thước cũng vậy nhưng đạn nặng hơn. Xe BRDM-2 mang 5 quả trên giàn phóng và 10 quả trong xe. Được đạt trên nóc tháp pháo BMP.
    Bản hạng nặng 9 P135M3 -- Konkurs-M, hệ phóng 1PN65 tầm nhiệt. Tầm bắn đêm 12500met
    Vài đặc điểm
    Thiết bị liên quan hệ phóng 9P135M, Fagot/Fagot-M, (AT-4/AT-5), -M1, -M2, -M3
    Bắt đầu sản xuất 1973
    Xe chuyên dùng BRDM (xe khu trục-tank destroyer),BMP-2,BMP-1P, BTR-D, UAZ-469
    Tổ lái (bộ binh) 3
    Nặng hệ phống (không đạn) 22,5kg
    dài 1,3met
    Phóng trong ống không giật
    Hệ lái 9S451M1
    Cách lái SACLOS (bán tự động, truyền lệnh bằng radio và dây, tầm nhiệt). Có nhiều tính năng lái như thế ở thế hệ 2 ATGM vì phải tăng chính xác khi thiết bị điều khiển chua hoàn thiện. Có thể lái dây, radio và tự tìm mục tiêu trong các giai đoạn khác nhau.
    Tự tìm mục tiêu IR, 9S451M1 (hồng ngoại). Đo tính chống nhiễu khói. Báo động nếu có gây nhiễu. Bắn đêm.
    Các laọi đạn
    red]AT-5B/SPANDREL-B,Konkurs-M
    Nặng 26.5 cả ống
    Kiểu đạn Tandem Shaped Charge (HEAT-FS): đạn lõm xuyên giáp có phân đoạn vượt ERA.
    Xuyên giáp 925mm thép tấm(khủng khiếp).
    Tầm (75-100 met tuỳ loại)/4000met.
    Xác xuất bắn trúng 90%
    tốc độ bay 208 m/s
    Thời gian bay tối đa 19 giây
    /SPANDREL
    Alternative Designations Konkurs [/red]
    Nặng 25.2 cả ống
    Kiểu đạn Shaped Charge (HEAT-xuyên lõm)
    Xuyên 650mm thép tấm

  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165

Chia sẻ trang này