1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kornet-E anti-tank missile (AT-14)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi sli0471, 26/03/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Súng chính T-80 hơn do tập hợp các tiến bộ. Trong đó băng và lên đạn đóng góp phần lớn nhất vào tốc độ bắn.
    T-80U Autoloader Schematics and Operation
    1.Handler arm; 2.Hydraulic cylinder; 3.Carriage; 4.Cam; 5.Main round; 6.Charge; 7.Breechblock; 8.Stub extractor; 9.Ramming mechanism; 10.Ram chain
    Bộ phận đó làm đại bác của T-80 có tốc độ bắn rất cao:
    Designation 6ETs-11 (original T-64 autoloader)
    6ETs-15 "Korzina" (Basket)
    Capacity 28 rounds of any type
    Min. cycle time 6 sec (ATGM - 7.5 sec)
    Max. cycle time 13 sec
    Manual reload time 13 .. 15 min
    Vào những năm 60, người ta nhận thấy, với sơ tốc đạn đạt được lúc đó thì nòng trơn hơn xoắn nhiều. Với truyền thống súng nòng trơn tầu biển, Mỹ tưởng họ tiếp tục vượt trội về pháo tank. Nhưng năm 60, Nga thiết kế Taran (1720 m/s, 152mm, đặt trên phần xe của tank). Sản phầm pháo nòng trơn cao cấp này Nga giữ tuyệt mật (mãi gần đây, tại kho-bảo tàng tank Kublinka ở Moscow mới thấy). Vì vậy ngay cả pháo XM291 của FMBT (dự định 2015), yêu cầu thiết kế cũng không hơn Taran.
  2. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Với cấu tạo như vậy, pháo T-80 không những nhanh mà còn linh hoạt nạp đạn. Nó thoải mái chọn một trong vài loại đạn mang theo, liều chung, chế độ ngắm bắn được máy tính điện tử chỉnh.
    Đây là liều "bắt cháy ngang":
    4Zh-40 charge cutaway and markings: 1 - charge designation; 2 - artillery system designation (caliber and model); 3 - gunpowder composition, batch, year, and gunpowder factory designation; 4 - batch, year, and charge factory designation; 5 - batch, year, and arsenal designation (if present)
    4Zh-52 charge cutaway. Note that single-channel grains were erroneously used in model construction, whereas 4Zh-52 in fact utilizes the 7-channel propellant
    đặc điểm
    tổng cộng 10000g
    thuốc nổ 5000g
    đế (phầ đáy liều, bị khe hở buồng nổ) 3400g
    ngòi GUV-7, electric/percussion (có khả năng đánh lửa điện)
    4Zh-40 (DOI 1962)
    Composition: 15/1tr V/A (1.5mm burning arch high-nitrogen pyroxylin stick gunpowder) + 12/7 V/A (1.2mm burning arch 7-channel high-nitrogen pyroxylin stick gunpowder) + VTKh-20 (flame-supressing gunpowder) + DRP-3 initiating gunpowder.
    4Zh-52 (DOI 1976)
    15/1tr V/A completely replaced with improved 12/7 V/A.
  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đây mới là đặc sản Russia. M1A1 mà có thứ bằng nửa thứ này đã không cháy đùng đùng ở Iraq.
    (các bác nhớ con số ấn tượng nhé: 10 quả AT-14 Kornet bắn từ phía trước ,chỉ 4 quả đến đích)
    Đây là bí mật quân sự tuyệt mật Nga Shtora-1 nối tiếp Drozd của T-55 AD. Nhưng đời này chỉ để xuất khẩu, Tiếp theo, T-80 nội địa được trang bị Arena E của T-95. Giá trị của nó ở trong phần nềm, có lấy được mẫu cũng chịu.
    trên T-80
    trên T-90
    Vào 20-10 năm 1999. Một thử nghiệm rộng với hệ bảo vệ của T-90 và T-80. Thử nghiệm ở bãi thử TsNIIO 643a với nhiều loại đạn bắn vào, với số lượng lớn. (gồm RPG ATGL (tên lửa diệt tăng cầm tay), ATGMs nặng và nhẹ, đạn APFSDS (đạn xuyên)) bắn vào trước tăng trang bị Shtora-1(APS) và Kontakt-V (ERA)
    Nói thêm chút: APS là hệ dùng radar phát hiện đạn bắn vào và phóng tên lửa đánh chặn. ERA là giáp phản ứng nổ.
    T-80U, T-90 ba xe mỗi loại. T-90, ERA được thay bằng khối chắn tháo được. Mỗi khối ERA đã nổ được thay cho lần bắn sau.
    vũ khí dùng
    chống tăng cầm tay ATGLs (fired at a distance of 40m)
    RPG-7 (dùng đạn 105mm PG-7VR với đầu chống ERA, xuyên 650mm thép tấm RHA)
    RPG-26 (xuyên >500mm RHA)
    RPG-29 (xuyên. 750mm RHA)
    ATGMs (bắn từ 600m)
    Malyutka-2 (xuyên. >600mm RHA)
    Metis (xuyên. 460mm RHA)
    Konkurs (xuyên. 650mm RHA)
    Kornet (xuyên. >850mm RHA)
    APFSDS (bắn từ T-80U MBT khoảng 1,500m,hầu hết đạn là 3BM42)
    Mỗi vũ khí bắn 5 phát vào 1 mục tiêu, 20 phát cho mỗi súng, tổng cộng bắn 150 phát
    Kết quả
    ATGLs
    T-90: RPG-29 có ba viên xuyên, không đạn RPG nào khác xuyên.
    T-80U: RPG-29 trúng 3 với ERA, trúng 5 không ERA.
    tất cả các loại khác, chỉ một PG-7VR xuyên mục tiêu.
    ATGMs
    T-90: chỉ một Kornet trúng
    T-80U: 2 Kornet trúng ERA, 5 xuyên, không loại khác xuyên.
    APFSDS
    T-90: ERA không xuyên, xe vẫn chạy và bắn
    bỏ ERA, 12 viên đạn xuyên
    T-80U (chỉ có dữ liệu với xe trần): một viên gần xuyên hết (còn 3mm) 2 đạn xuyên 1 nửa giáp, một đạn trượt, một trúng súng, không thiết bị nào trên xe hỏng.
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Thực tế, APS của T-80 có nhiều nhược điểm, một trong số đó là khoảng đánh chặn nhỏ và không toàn bộ các hướng.
    Arena phát hiện 50m, đánh chặn 50-16 met, mọi hướng tiến bộ hơn nhiều. Tương lại họ này còn rộng dài với các bộ vi sử lý mới.
    ERA và APS jin của T-80 vì thế được thay đổi rất nhanh.
    Đây là chi tiết về Kontakt-5 ERA. Các bác thấy, tại sao Mỹ vượt qua dư luận dùng uranium.
    (à, bác lekiên có tài liệu gì về các chương trình đạn kim loại nặng Nga không nhỉ).
    theo một cách tính, giáp này tương đương thép tấm RHA với từng loại đạn:
    nặng 3 tấn
    vs APFSDS: 250 mm
    vs HEAT: 600 mm

    It is believed that while protected by Kontakt-5 ERA, Russian MBTs cannot be penetrated across the frontal arc by the M256 guns firing M829A1 APFSDS ammo.
    This armor package is developed by NII Stali (Research Institute of Steel)

    MBT Nga không bị thủng khi súng M256(trước đây của M1A1) bắn đạn M829A1 APFSDS.

  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đây là tạp chí Jane's International Defence Review 7/1997.
    APFSDS round is defeated by Kontakt-5 (X-ray photo)
    đạnM829 APFSDS từ XM256120mm trên US M1 Abrams tanks, bắn vào T-72 trang bị Kontakt-5, ảnh chụp x quang.
    Các bác thấy, chả cần T-80, nếu không có đạn uranium thì M1A1 với XM256 chưa chắc ăn T-72. Điều đó giải thích Mỹ dùng XM291 và uranium cho M1A1.
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Các bác thấy, với giáp tốt, bảo vệ tốt, súng chíng bắn nhanh. T-80 và T-90 vượt trội về hoả lực. Ở khoảng cách 3-5km, hai đội M1A1 và T80 có số xe bằng nhau thì M1A1 sẽ lĩnh gấp hơn hai lần số đạn.
    Còn đạn đó gặp mục tiêu thế nào, ta xem qua vài loại đạn của T.
    Chống bộ binh anti-personnel (đạn trái phá):
    125MM APERS AMMUNITION
    Soviet 125mm HEF-FS rounds have the following layout: the explosive is located in the main body (3) with two driving bands (4). In front of a projectile is a detonator (2) with a protective cap (1). In the rear of the projectile are four folded fins (6) that are attached to the base (7) and are held together by stopors (5) and a plastic ring (8). The later breaks apart upon exit and releases the fins, which unsnap along the axes (9) and provide stabilisation in flight
    Đạn này có tốc độ thấp (850m/s).
    125MM HEAT-FS AMMUNITION (905 m/s)
    Soviet 125mm HEAT rounds have the following layout: the shaped charge is located in the cylindrical main body (3) with two driving bands (4). In front of a projectile is an extended probe (2) to ensure the proper detonation stand-off (on latest models it also contains the precursor charge that strips off ERA or con***ions advanced armor arrays). The detonator (1) is located on the tip of the probe. In the rear of the projectile are six folded fins (6) that are attached to the base (8) and are held together by a plastic ring (5). The later breaks apart upon exit and releases the fins, which unsnap along the axes (7) and provide stabilisation in flight.
    125MM APFSDS AMMUNITION
    Soviet 125mm APFSDS rounds have the following layout (the round assembly depicted is 3BM-16/3BM-18): in the front of the projectile is a ballistic cap (1) which covers the flat nose of a penetrator body (2); there is a ring-shaped three-part discarding sabot (3) with a driving band (4); stability in flight is provided by means of 5 bore-riding fins (6), that are equipped with ballbearings (7) for centering in the barrel. The round is assembled with the incremental charge (5).
    Đạn này có tốc độ 1700-1800 m/s, thất tốc 80-150 m/s/km tuỳ loại
  7. sli0471

    sli0471 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/01/2003
    Bài viết:
    106
    Đã được thích:
    0
    Tụi Mẽo dùng cả đạn DU cho súng 25mm của Bradley. Chúng nói là đã có trường hợp T-72 của Iraq bị bắn hạ bởi Bradley dùng súng 25mm. Hiện giờ có lẽ giải pháp duy nhất chống lại DU sabot là dùng DU armor như M1. Theo tụi Mỹ thì đạn DU của M1 không xuyên thủng được lớp giáp phía trước của chính nó.
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Việc giáp của M1A1 có được vững chắc như Họ nói không thì xem lại.
    Đóng góp về giáp lớn nhất là bộ nạp đạn tự động. Vì có nó nên tháp pháo nhỏ, thấp->dồn được khối lượng cho giáp.
    Trước 1991 thì tăng và pháo hai bên bí mật kinh khủng, sau đó M1A1 phải cải tiến cấp tốc do yếu so với T-80,T-90. Mà dự án T-95 đang định hình, còn dự án FMBT càng ngày càng chậm.
    Do diện tích rộng và thành đứng M1A1 phải thay súng chính (từ XM256->XM291). Cùng với việc dùng đạn uranium là lớp ngoài giáp. Nhưng các tài liệu bi quan nhất về tank Nga vẫn công nhận giáp M1A1 yếu hơn.
    Đây là lớp ban đầu viên đạn va vào, tỷ trọng và độ cứng của nó góp phần tản mát năng lượng đầu đạn. Các lớp sau tiêu thụ năng lượng đó.
    Ban đầu Mỹ dùng một hợp kim đặc biệt (chobham amor?????) sau họ đắp thêm lớp kim loại nặng (uranium). Ban đầu Mỹ lựa chọn vonphram và uranium, nhưng thứ đầu thì tài nguyên Mỹ ít, sẽ thua. Bọc thêm lớp này vào khoảng 50mm(nặng bằng 150mm thép tấm) lại làm xe nặng nề hơn->bớt giáp chỗ khác. Trong khi đó, T-80 vẫn còn thoải mái công suất động cơ cho những cải tiến sau.
    Mà ngay cả bây giờ, với tương đương 700 mm RHA (bao gồm độ dầy x độ nghiêng, phía trước T-80) và hàng met (trước T-2000). Thì quả là chúng vô địch về giáp thật. (bác nào còn cắt dọc xe này không nhỉ). Với các hợp kim Croma và nicken thông thường đã khiếp lắm rồi.
    Thực chất, nếu tương lai Mỹ vẫn dùng phổ biến DU thì việc T-80 phải bọc uranium trước là chuyện trông thấy, còn T-2000 thì chưa chắc cần. Súng cần tay thì chỉ vài nước có RPG 29, bắn thủng mặt trước T-80 và T-90. Uran tiếp tục đe doạ các nước nhỏ vì chỉ Nga, Pháp, Mỹ là nhiều. Mà ba nước này chỉ Mỹ là đã tham chiến nhiều sau khi có đạn đó. Trong khi đó, với tài nguyên dồi dào, Nga, Tầu Ấn thoải mái trang bị hợp kim vonphram cho lớp ngoài này. Thứ này bền kinh khủng mà vẫn nặng.
    DU được Mỹ dùng cho 30mm của máy bay, sabot của tăng và pháo nhỏ của xe bọc thép. Nhưng để bắn thủng mặt trước tank thì chỉ có pháo tank. Thực chất là quả đạn dưới cỡ, nên có sơ tốc gấp hơn hai lần đạn thường, tiếp tục tăng tốc bằng động cơ tên lửa. Với đầu khoan kim loại nặng, nó tạo được áp suất cao lúc gặp mục tiêu. Tầm đạn thì kém ATGM, sức xuyên cũng chỉ như vậy, chỉ có ưu điểm là vượt qua APS tốt hơn. Mỹ quảng cáo xuyên được hàng mét thép, nhưng thực tế chỉ đạt 600mm ở 3km. Trong khi đó ATGM vẫn giữ sức xuyên ở 5-6km, 8km với T-80.
    Để hiểu tại sao, Nga rất nhiều thứ ngưyên liệu này, mà chưa dùng đến, các bác xem một vết đạn T-80,HEAT-FS : xuyên thép 800mm, bác nào bảo M1Ax chịu được vết này:
    3BK-29M
    nặng 19,000g
    dài 680mm
    đầy đạn 1,624g
    tốc độ 905m/s
    tản mát 0.21mil
    Phá:
    800mm RHA at 0°
    680mm RHA at 0° sau ERA ngoài
    660mm RHA at 0° sau ERA trong
    Đây là một loại nữa:
    3P-11
    3BK18M
    Đạn sabot T-80, không hiểu bác lekiên có thông tin gì về đạn kim loại nặng không, đây là đạn thường. Sức xuyên không bằng HEAT-FS nhưng sơ tốc rất cao, dùng bắn mục tiêu có tốc độ cao thì tuyệt:
    125MM APFSDS ROUNDS
    3BM-9 APFSDS round and 3BM-10 assembly
    nặng 5670g
    sơ tốc 1800m/s
    đầu đạn
    dài 410mm 10:1 L/d
    nặng 3600g
    xuyên tại 2000m
    thép tốt 245mm at 0°; 140mm at 60°
    trung bình 290mm at 0°
    Mạnh hơn
    3VBM-6 (3BM-12 projectile; 3BM-13 )
    thép tốt 350mm at 0°; 180mm at 60°
    trung bình 400mm at 0
    3VBM-7 (3BM-15 projectile; 3BM-16)

    3VBM-19? (3BM-42M projectile; 3BM-45)
    Đây là sabot cổ, nhưng ghê lắm:
    nặng 6950g
    tốc độ 1750m/s
    đầu đạn dài est.570mm 22:1 L/d
    xuyên ở 2000met
    trung bình 600-650mm at 0
  9. lekien

    lekien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/01/2001
    Bài viết:
    698
    Đã được thích:
    0
    Về tăng T-80 có nhiều cải tiến và nhiều loại có lẽ sẽ bàn sau , nhưng các loại tăng T-80 gần đây và T-90 đều có thể dùng đạn tên lửa " Refleks " có tầm bắn đến 5 km như vậy là bắn xa hơn tăng Abram.
    Còn về DU ( Uran làm nghèo ) bạn vào đây xem
    http://www.globalsecurity.org/military/systems/munitions/du.htm
  10. ivan_toi

    ivan_toi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/11/2002
    Bài viết:
    101
    Đã được thích:
    0
    Cái hình bác Huyphuc post ở trên là một loại đạn dùng cho pháo không giật 106ly loại đạn D2 hay P2 gì đấy, trong Phim unknows imagines the Viet Nam war có chiếu cảnh Mẽo dùng rất nhiều pháo này cho cuộc chiến trên đường phố, loại đạn này nổ trong khoảng 500-1000m, khi nổ phóng ra xung quanh một lượng 6000 phi tiêu thép dài mỗi cái 5cm, đặc biệt hiệu quả cho cuộc chiến trên đường phố.
    No things to eat !

Chia sẻ trang này