1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kỷ niệm 40 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi terahezt, 18/01/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Cậu nhờ bác Gúc tìm từ Mỹ Lai nhé, đại đội Charlie ấy.
    Năm Mậu Thân 68 tại Bến Tre, Mỹ - VNCH bằng mọi giá tái chiếm Bến Tre. Hỏa lực phi pháo Mỹ - VNCH đã đánh nát, để cứu Bến Tre, ?oĐã tới lúc phải tiêu hủy thành phố để cứu nó? một Thiếu Tá Mỹ ẩn danh đả giải thích như vậy; và lời tuyên bố của ông ta trở thành một trong những câu được trích dẫn nhiều nhất về cuộc chiến và một khẩu hiệu thích hợp nhất của các cuộc phản công của Mỹ trong dịp Tổng tấn công Tết [Mậu Thân]. Ben Tre was pulverized by US. firepower. "It became necessary to destroy the town to save it," an unidentified US. Major explained, thus coining one of the most notorious phrases of the war and a fitting motto for the US. counterattack against the Tet Offensive
    Tất cả các tài liệu viết về trận Mậu Thân đều ghi nhận rằng Bến Tre bị dội bom rất nặng. Sau đây là một số tài liệu về chiến trận Mậu Thân ở Bến Tre, gồm có tài liệu Việt Nam Cộng Hòa, Việt C ộng và Mỹ:
    Tài Liệu Việt Nam Cộng Hòa
         - Ngày 8-2-1968 : Kịch chiến tiếp tục tại Bến Tre, 451 VC tử thương, 60 VNCH và 35 Mỹ tử thương, nhiều thường dân thiệt mạng (Đoàn Thêm : 1968: Việc từng ngày, trang 50).
         - Vì không rõ C ộng Sản đã lọt vào, trung tá tỉnh trưởng Kiến Hòa bị trúng đạn tử thương khi rời tòa tỉnh đi thị sát thành phố.
         "Để đẩy bật những chốt tử thủ của C ộng Sản trong khu vực trong trung tâm thành phố, phi pháo đồng minh và VNCH được sử dụng tối đa. Bởi thế, khi  Cộng quân rút lui, trên 50 phần trăm nhà cửa Bến Tre bị hư hỏng. Số thị dân tử thương lên tới 90 người. (Phạm Văn Sơn & Lê Văn Dương, 1968:344; trích trong Mậu Thân 68: Thắng hay bại?, của Chính Đạo (1998), trang 253)
    Tài Liệu VC:
         - Đúng 1 giờ sáng 1 tháng 2, 1968, Đội đặc công nước do đồng chí Hoàng Lam chỉ huy đã ém quân sẵn tại bờ bắc sông Bến Tre, nhanh chóng đánh chiếm trại Đinh Tiên Hoàng, bám giữ đầu cầu cho Tiều Đoàn 516 vượt sông.

        - Đơn vị đặc công tiến đánh sở chỉ huy Trung đoàn 10, diệt tên Trung Tá chỉ huy Trung đoàn (Nguyễn tường Diễn?) và bắt sống được Trung tá chỉ huy Công Binh Bến Tre.
         - Các ngày 2 và 3 tháng 2, pháo địch ở hạm tàu trên sông Hàm Luông và căn cứ Bình Đức Mỹ Tho bắn dữ dội vào nội ô, các loại máy bay ném bom, máy bay trực thăng bắn và rải xăng đặc hủy diệt khu Chợ Bến Tre, làm hơn 300 đồng bào ta chết và bị thương. (Cuộc đọ sức thần kỳ, trang 258 và 259 của Thiếu tướng Lê Quốc Sản chỉ huy Khu 8).
  2. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Tài Liệu của Mỹ:
    Theo các tác giả Viet-Nam and America & A Documented History là Marvin E. Gettleman, Jane Franklin, Marilyn Young và H. Bruce Franklin (tr.363-364):
         But the most famous case of this strategy in action was Ben Tre in Kien Hoa province. Here is an excerpt from the February 8 New York Times:
         "The ********* had people all over this town," said Maj. Philip Canella. . . . "Christ, they were everywhere. . . . They had apparently infiltrated into most of the town; they were probably living with the people. It was Tet and there were plenty of strangers in town."
         Ben Tre was pulverized by US. firepower. "It became necessary to destroy the town to save it," an unidentified US. Major explained, thus coining one of the most notorious phrases of the war and a fitting motto for the US. counterattack against the Tet Offensive.
         These citations and other information on US. bombing and shelling are found in New York Times, February 6, 1968. According to the Times, there were at least 750 civilian casualties in My Tho, 350 in Can tho, 2,500 in Ben Tre.
         (Tạm dịch: Nhưng trường hợp được biết đến nhiều nhất trong cuộc chiến là Bến Tre trong tỉnh Kiến Hòa. Sau đây là đoạn trích từ báo New York Times số ra ngày 8 tháng 2 năm 1968:
         "********* đã ở khắp trong thành phố," Thiếu Tá Philip Canella nói ... "Chúa ơi, chúng ở khắp mọi nơi ... gần như chúng ở khắp trong thành phố, có thể chúng ở chung với dân chúng ... Đó là dịp Tết và có nhiều người lạ mặt vào trong thành phố."
         Bến Tre đã bị đánh nát bởi hỏa lực của Mỹ. "Đã tới lúc phải tiêu hủy thành phố để cứu lấy nó, " một Thiếu Tá Mỹ ẩn danh đả giải thích như vậy; và lời tuyên bố của ông ta trở thành một trong những câu được trích dẫn nhiều nhất về cuộc chiến và một khẩu hiệu thích hợp nhất của các cuộc phản công của Mỹ trong dịp Tổng tấn công Tết [Mậu Thân].
         Những lời trích trên cùng tin tức khác về việc Mỹ bỏ bom và pháo kích tìm thấy trong báo New York Times số ra ngày 6 tháng 2 năm 1968. Theo báo [New York] Times có ít nhất 750 thường dân bị thương vong ở Mỹ Tho, 350 ở Cần Thơ, 2.500 ở Bến Tre.
    Theo Dictionary of the Vietnam War của James Olson (trang 39):

        Ben Tre was the capital city of the Kien Hoa Province in IV Corps.* South of Saigon,* Kien Hoa province borders the Vietnamese coast along the South China Sea. Ben Tre became temporarily famous in 1968 when Vietcong* forces captured the city during the Tet Offensive.* Overwhelming American and South Vietnamese forces, bolstered by massive air strikes, recaptured BenTre, but the artillery and air strikes all but destroyed the town, killing an estimated 550 people and wounding 1,200 more. That battle for Ben Tre was not much different from countless other struggles during the Vietnam War, except for the famous quote of an American major when asked by journalist Peter Arnett to justify the indiscriminate use of explosives. His remark, "It became necessary to destroy the town in order to save it," was widely quoted in the world press and became a symbol, to antiwar* activists, of the bankruptcy of US. policy in Southeast Asia.
         (Tạm dịch: Bến Tre là thị xã của tỉnh Kiến Hòa thuộc vùng 4 chiến thuật ở phía Nam Saigon. Tỉnh Kiến Hòa có ranh giới nằm dọc theo bờ biển Việt Nam của Biển Nam Trung Quốc. Năm 1968, Bến Tre một thời bỗng nổi tiếng khi Việt C ộng chiếm thị xã trong Tấn công Tết [Mậu Thân]. Một lực lượng vượt trội của Mỹ và VNCH, với sự tiếp sức của những cuộc đánh bom dữ dội, tái chiếm Bến Tre; hỏa lực pháo binh và không quân đã hầu như tàn phá thị xã, giết chết 550 người và làm bị thương 1.200 người khác. Trận đánh Bến Tre không khác gì vô vàn những trận đánh khác trong cuộc chiến Việt Nam, ngoại trừ câu trả lời độc đáo của vị Thiếu tá nhằm biện minh cho việc sử dụng bừa bãi bom nổ, khi trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả Peter Arnett. Câu tuyên bố của ông ta, rằng "Đã tới lúc phải tiêu hủy thành phố để cứu lấy nó, "được nhắc tới rộng rãi trong giới báo chí và đã trở thành biểu tượng phá sản của chính sách Hoa Kỳ ở Đông-Nam-á mà các phong trào phản chiến sính dùng."
     Tác giả Joseph Buttinger cũng viết:
         Trong dịp này, ngày 17 tháng 2 [năm 1968], Thượng nghị sĩ Albert Gore [cha của ứng cử viên Tổng thống Al Gore của Đảng Dân Chủ năm 2000] nói đã đến lúc Hoa Kỳ rút ra khỏi vũng lầy Việt Nam; [vì] chúng ta đang tàn phá một xứ mà chúng ta thường tuyên bố muốn cứu nó" [Senator Albert Gore said on February 17 that the United Sates had to get out of the morass of VietNam; "We are destroying the country we profess to be saving."]
         Còn Thượng Nghị sỉ Fulbright đòi hỏi quốc hội phải được tham khảo trước khi gửi thêm quân qua Việt Nam. Thượng Nghị Sỉ Robert Kennedy cho đó là "vô đạo đức và không thể chịu đựng nổi". Và Mike Mansfield, trong khi cảnh cáo rằng không được leo thang chiến tranh, tuyên bố: "Chúng ta đang ở sai chỗ và chúng ta đang đánh một cuộc chiến sai lầm". (Senator Fulbright demanded that Congress be consulted before any troops sent to Vietnam. Robert F Kennedy said it was "immorale and intolerable". And Mike Mansfield, warning against any further escalation, stated: "We are in the wrong place and we are fighting the wrong kind of war" (Viet-Nam : A Political History, Joseph Buttinger, tr. 507).
         Từ trận đánh Tết Mậu Thân, Bến Tre đã đi vào sử của nước Mỹ; và cảnh tàn phá của một trong ba thành phố bị thiệt hại nhất vùng IV này (theo báo cáo của Đại sứ Ellsworth Bunker) đã ít nhiều dẫn đến sự phá sản của chính sách Mỹ tại Việt Nam bằng cách cung cấp cho phe phản chiến câu tuyên bố của viên Thiếu tá dấu tên. Còn ở Việt Nam tin tức về Mậu Thân ở Huế được phổ biến nhiều nên trận chiến ở Bến Tre bị lãng quên, và không mấy ai được rõ tầm quan trọng của nó trong dư luận quần chúng Mỹ cũng như thế giới.
     
    Hoa Trinh, (Mậu Thân Bến Tre Đã Di Vào Lịch Sử Mỹ, tr , 79 - tr, 90)
    10 Tác Giả: Bản Chất Các Phản Ứng Về Bài Giảng Của H.T. Nhất Hạnh (25/9/01 tại N.Y), nxb GĐ 2001
  3. pvnr01

    pvnr01 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/11/2008
    Bài viết:
    79
    Đã được thích:
    0
    úi xời, cậu nào muốn nói gì mà chẳng được .... nhưng ít nhất cũng phải có links từ nguồn đàng hoàng chứ ....... còn nói nhăng nói cuội dồi ghép tên người ta vào thì chẳng khác nào mấy con vẹt quốc doanh vẫn viết 30 năm nay
    còn bác hoạ sĩ Gúc này ... hình như là thành viên của BOLSAVIK hay đứng rình tin tức trước tiệm báo Người Việt thì phải
  4. pvnr01

    pvnr01 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/11/2008
    Bài viết:
    79
    Đã được thích:
    0

     
    (tiếp theo kỳ trước) để tránh khỏi bị lạc đề bởi những bài bình láo toét (không có nguồn gốc)
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    các chiến sĩ Biệt - kích - Dù thuộc liên đoàn 81 vào trận
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    (còn tiếp)
     

    được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 08:23 ngày 22/01/2009
  5. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Tìm hiểu sách mới: ?oThe War Behind me : Vietnam Veterans Confront the Truth About U.S. War Crimes? của Deborah Nelson.
    [​IMG]Trong tháng 11, năm 2008, một nữ phóng viên rất có tiếng, đã từng đoạt giải Pulitzer trước đây, Deborah Nelson, đã cho ra đời một cuốn sách, làm rất nhiều người chú ý. Cuốn sách có nhan đề ?oThe War Behind me:Vietnam Veterans Confront the Truth About U.S. War Crimes?.
    Nelson là giáo sư tại Đaị Học Maryland, trường Báo Chí. Cô cũng là cựu Chủ tịch hội các Phóng viên và Biên Tập viên chuyên về Điều Tra, ngồi trong ban quản trị của ?oFund for Investigative Journalism?. Hiện cư ngụ tại Takoma Park, Maryland.
    Nelson ghi chép lại những điều cô đã tìm thấy về những tội ác của quân đội Hoa Kỳ đối với nhân dân Việt Nam trong khi họ tác chiến tại đây, những tội ác chưa từng bao gìờ được phanh phui ra ánh sáng. Vì một sự tình cờ mà cô đã đọc được những tài liệu mật của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chứa đựng những báo cáo của mọi cấp bậc, lên dến các tướng lãnh, bộ trưởng, về những cuộc điều tra không đi đến đâu và về những cố gắng bao che của các cấp lãnh đạo quân sự cũng như chính trị Hoa Kỳ về những tội ác đó.
    Nhắc lại chuyện cũ, năm 1969, nhà báo Seymour Hersh đăng lên một tin động trời về một cuộc thảm sát tại một làng nhỏ ở miền Trung VN, làng Mỹ Lai. Bài báo này với đầy đủ hình ảnh lính Hoa Kỳ châm lửa đốt nhà, cả trăm người dân vô tội, đàn bà, trẻ con bị bắt dồn vào một chỗ, rồi bị bắn giết và đẩy xuống những hố sâu. Lục Quân Hoa Kỳ đã làm cuộc điều tra và bốn tháng sau đã phải công nhân là chuyện đó có xẩy ra thật như vậy và đã chuyện ấy bị các cấp trên bao che. Sau cuộc điều tra, vào năm 1970, chỉ có một quân nhân bị kết tội cố ý giết người ?" trung úy William Calley ?" và bị kết án tù chung thân. Tổng thống Nixon lập tức can thiệp và Calley chỉ phải ở tù có 4 tháng rưỡi.
    Lục Quân Hoa Kỳ sau đó bí mật tiếp tục cuộc điều tra rộng lớn hơn cho toàn cuộc chiến. Sau 5 năm làm việc trong bóng tối, họ đã thu thập thành một hồ sơ khoảng 9.000 trang về những tội ác, những hành động dã man của quân đội Hoa Kỳ. Cuộc điều tra ấy không được phơi bày ra ánh sáng và cũng không đưa đến sự truy tố những kẻ chủ mưu quan trọng nào.
    Bài báo của Hersh có một tác động mạnh mẽ vào lương tâm mọi người, đặc biệt cho cô Kali Tal, một nữ phóng viên của một tờ báo địa phương. Đến năm 1990, cô nghe phong thanh có hồ sơ mật đó. Cô đã liên lạc với National Archives and Records Administration yêu cầu được tham khaoe. Khoảng một năm sau, cô được phép đến xem. Xem song, cô rất kinh hoàng và viết một bài trên tờ báo của cô, cốt báo động cho mọi người biết sự hiện hữu của kho hồ sơ quan trọng đó. Cô không làm gì khác hơn. Bài báo của cô, của một nhà báo không tên tuổi, đăng trên một tờ báo nhỏ ở địa phương đã không đem lại một tiếng vang nào. Không ai để tâm đến và thùng hồ sơ này vẫn được khép kín trong cơ quan National Archives and Records Administration.
    10 năm sau, một nhân viên của cơ quan trên, ông Cliff Sdnyder nói tới hồ sơ này khi gặp một nhà khảo cứu chuyên về lịch sử quân sự, Nicholas Turse. Ông này quen biết cô Nelson, lúc đó làm cho Los Angeles Times. Thế là hai người cũng nhau đào bới hồ sơ, lúc này đã được giải mật, để tại Đại Học Michigan, và đem ra ánh sáng ?onhững chuyện muôn đời không nói năng? này.
    Sau khi tham khảo đầy đủ hồ sơ, hai người bắt đầu tìm kiếm những cựu chiến binh Hoa Kỳ có liên quan, những người đã đứng ra tố giác cũng như những người bị tố giác đả giết những nông dân Việt Nam vô tội. Ở đây người ta mới thấy cô Nelson quả là một thiên tài điều tra vì cô đã biết cách nói sao cho những người trong lòng đầy mặc cảm tội lỗi, sợ hãi, căm thù, chịu nói ra, nói hết ra những tâm tư dấu kín trong lòng từ cả mấy chục năm nay. Chỉ những chi tiết nhỏ nhặt này cũng làm người đọc thích thú.
    Nelson mở đầu cuốn sách của mình bằng những lời thú tội của Jamie Henry. Anh này đã tham dự cuộc thảm sát ngày 8 tháng 2, 1968, trong đó đơn vị anh đã giết chết 19 người nông dân Việt Nam bình thường, không phải là quân du kích. Tuy sợ bị trừng phạt , nhưng anh đã bạo dạn báo cáo chuyện đó lên cấp trên. Một năm sau, anh được cho giải ngũ trong danh dự, lúc đó anh mới 20 tuổi. Thật là khó nói ra cho một ông gìà 60 tuổi kể chuyện mình đã giết người thế nào 40 năm trước
    Sau đó Nelson cũng đã trở sang Việt Nam thăm thú các làng mạc đã từng là những pháp trường của quân đội Hoa Kỳ - kể cả cái thôn nhỏ mà đơn vị Jamie Henry đã làm đổ máu 19 thây người - để chụp ảnh và nói chuyện với dân làng, những người còn sống sót.
    Trong 9.000 trang hồ sơ đã được dấu nhẹm hàng chục năm, Nelson đã thấy có rất nhiều chuyện kinh hoàng mà cô nghĩ mọi người cần được biết. Cô đọc nhiều báo cáo nặc danh ký tên ?omột trung sĩ quan tâm? , trình thượng cấp, tả cảnh nhiều vụ tàn sát, nhiều quá đến nỗi anh cho rằng ?omỗi tháng là có một Mỹ Lai?. Anh ta viết: ?oNhóm xạ thủ của chúng tôi nói tới chuyện kiếm mề đay dễ dàng. Giết được bao nhiêu VC thì một mề đay đồng, hơn bao nhiêu nữa thì được mề đay bạc. Nhiều khi, họ mang súng ra ngoài đồng, ban ngày cũng như ban đêm, với ống nhắm trong đêm tối, bắn bỏ những ai trong tầm 3, 4 trăm thước, bất kể có là VC hay không, lục soát có giấy tờ hay có khí giới hay không? . Nelson thấy những báo cáo lên thượng cấp nói rằng nông dân Việt Nam, cả đàn bà lẫn trẻ con được quân đội Hoa Kỳ xua đi trước thay thế cho máy dò mìn. Mìn nổ tung, nông dân chết gục, lính Mỹ thản nhiên bước qua. Nhiều đứa trẻ đang câu cá hay chăn vịt ngoài ruộng cũng bị bắn chết khi quân Mỹ đi qua.
    Năm 1970, tờ Newsweek ước định rằng chỉ trong 6 tháng, năm 1968, phải ?ocó cả ngàn nông dân VIệt Nam? bị quân đội Hoa Kỳ thẳng tay giết hại. Tài liệu tra tấn tù binh được ghi chép đầy đủ, phương pháp cho ngộp nước - được gọi là ?owaterboarding?, trái với Hiệp Định Genève mà Mỹ đã ký kết ?" là chuyện thông thường.
    Trường hợp nặng nhất là đưa đến sự trừng phạt một quân nhân chuyên việc tra tấn tù nhân lấy cung, bị tuyên án phạt 20 năm khổ sai, vì đã hãm hiếp một em gái 13 tuổi bị bắt về, Thế nhưng sau đó, tên hiếp dâm em bé đã chỉ ngồi tù 7 tháng 16 ngày, vì người ta không muốn làm to chuyện. Lại còn chuyện của một người, có bố là một thủy quân chuyên nghiệp, kể lại. Vào năm 1966, bố anh được một người bạn mới từ Việt Nam trở về đến thăm. Ông bạn này mang theo nhiều tấm hình chụp để chiếu lên tường cho mọi người xem. Anh kể: ?oTấm hình thứ nhất là ảnh chụp chính ông ta hãnh diện đứng trên một đống xác chết VC. Tấm thứ hai chụp mấy quân nhân khác, đứng khoe những dây chuyền đeo trên cổ, làm bằng tai người xẻo từ tai quân địch bị giết. Xem đến đấy, tôi lợm giọng".
    Đoạn này lại khiến người ta nghĩ đến một lãnh tụ trong đám quân nhân giải ngũ, rất phẫn nộ, sau khi ở Việt Nam về, đã trở nên một nhân vật nổi tiếng, sau khi ông ra trước Ủy ban Liên Lạc Ngoại Giao Thượng Viện Hoa Kỳ (Senate Foreign Relations Commitee) tường trình. Bản tường trình của ông là dựa trên kinh nghiệm của chính bản thân ông tại chiến trường Việt Nam, cũng như của trên 150 quân nhân mới giải ngũ, mà nhiều người đã được những huân chương cao quý nhất. Tất cả đều là chứng nhân của những tội ác của quân đội Hoa Kỳ, không phải là một số tôi ác lẻ tẻ, mà là tội ác xẩy ra hàng ngày mà tất cả mọi người trong tất cả các cấp bậc của quân đội Hoa Kỳ, ai cũng biết. Ông nói ?oQuân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đã hãm hiếp đàn bà con gái, cắt đầu kẻ địch, kẹp giây điện của máy điện thoại dã chiến vào ********* tù nhân rồi quay máy phát điện, chặt chân chặt tay họ, cho nổ tung xác chết, bắn bừa bãi vào thường dân, triệt hạ san bằng các làng mạc như quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn khi xưa, bắn giết trâu bò gà chó làm trò chơi vui, bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống, tàn phá những thôn quê Việt Nam vốn đã bị dôi bom tan nát bởi quân đội chúng ta?. Ông còn nói đến những chiến thuật làm rợn tóc gáy mọi người như ?othám sát bằng lửa? (reconaissance by fire) có nghĩa là bắn bừa bãi vào mọi chỗ khi tiến vào làng, ?oxách nhiễu và ngăn chặn bằng lửa? (harassment and interdiction fire) có nghĩa là dùng đại pháo bắn đều đều vào các làng xóm, ?okhám xét Zippo? (Zippo inspection) có nghĩa là chuẩn bị đốt nhà dân chúng, ?ocho đi mò tôm? có nghĩa là đẩy tù nhân từ trực thăng xuống xuống đất, xuống biển. vân vân..
    Ông này có tên là John Kerry, trang trước tôi có kể về ông này rồi. Chính vì những lời cáo buộc chân thực, có lương tâm này mà năm 2004, khi ra tranh cử Tổng Thống với ông Bush, ông đã bị phe đối thủ tố cáo là kẻ phản bội đã nói xấu quân đội, không xứng đáng làm Tổng Tư Lệnh quân đội quốc gia. Những người này hẳn coi sinh mạng của nông dân Việt Nam vô tội là đồ bỏ và giết chết người dân Việt Nam, kể cả ông già bà cả, đàn bà trẻ con, là chuyện không phải quan tâm.
    Nelson đã đọc hồ sơ của khoảng 800 vụ, trong đó 300 vụ được chắc chắn là cố ý vô cớ giết người. Còn những vụ khác thì được cho là chưa đầy đủ để kết luận. Tuy nhiên, theo nhận định của những quân nhân giúp cô xem hồ sơ thì những con số ấy chỉ là con số nhỏ rất xa sự thực.
    Tại sao có quá nhiều ?oMỹ Lai? như thế mà dân chúng Hoa Kỳ chẳng ai biết đến? Hoặcgiả với những người quan tâm đến chiến cuộc, người ta chỉ biết đến Mỹ Lai của trung uý Calley, của một tiểu đoàn láo lếu thôi, mà thực ra tất cả các sư đoàn đều có mặt tham dự các vụ thảm sát?
    Nelson nghĩ rằng với đống hồ sơ tội ác xếp xó cả chục năm như vậy có nghĩa là họ (quân đôi) sẵn sàng nhún vai bỏ đi, xếp xó coì như không có và có nghĩa là họ chẳng chịu tự vấn lương tâm, chẳng chịu tìm hiểu, học hỏi gì cả. Thế hệ trước lầm lỗi, các thế hệ sau chẳng biết gì, hoặc biết mà chối phắt, cũng lại lầm lỗi, lại lầm lỗi tệ hại hơn. Ngày nay những nhà lãnh đạo quốc gia chủ trương đánh chiếm Iraq dường như chẳng học được gì sau thảm bại ở Việt Nam. Cô còn nghĩ thêm rằng những nhà lãnh đạo đã chủ trương đánh Iraq, vì chính bản thân họ, họ không bao giờ trực tiếp với những sự ghê rợn của chiến tranh Việt Nam, của chết chóc. Cô nói : ?oLầm lỗi trong quá khứ mà không hối cải thì chắc chắn sẽ làm lầm lỗi nữa trong tương lai?.
    Đến đây, tưởng cũng nên nhắc lai: Ông cựu Tổng Thống Bush, vào những năm gay cấn nhất của cuộc chiến ở Việt Nam (1968), hồi đó 22 tuổi, một ?oWASP? (white anglo-saxon protestant) chính hiệu, sinh trưởng trong một gia đình có máu mặt, sống trên nhung lụa, đã vào được Không Lực của Vệ Binh Quốc Gia tiểu bang Texas, nên chỉ loanh quanh ở nhà không phải ra trận tại VN như các thanh niên đồng lứa; Ông cựu Phó Tổng Thống Dick Cheney thì đã xin được hoãn dịch năm lần, tránh bị đưa đi Việt Nam. Năm 1989, khi được hỏi trước Thượng viện về chuyện này thì ông đã trả lời đơn giản là trong những năm 60, ông có nhiều việc phải làm ưu tiên hơn là nghĩa vụ quân sự; Ông Tổng Trưởng Tư Pháp John Ashcroft thì cũng đã xin được sáu lần hoãn dịch vì khi đó ông đang dậy Luật Thương Mại, trình độ cử nhân (undergraduate) tại đại học Southwest Missouri State University; Còn ông Paul Wolfowitz, phụ tá Tổng Trưởng Quốc Phòng, nổi tiếng ?odiều hâu?nhất trong chính phủ Bush vừa rồi, nhưng đã không "diều hâu"chút nào đối với chiến tranh Việt Nam khi ông còn là sinh viên: ông đã liên tiếp xin được nhiều hoãn dịch để tiếp tục đi học.
    Tinh thần và hành xử độc ác, bất nhân Guatanamo, Bagdhag Hilton hay Abu Ghraib của thế hệ này chỉ là sự nối dài vô lương tâm của tinh thần và hành xử độc ác, bất nhân Mỹ Lai của thế hệ trước mà thôi.
    Việc đầu tiên người ta phải nghĩ đến khi thắc mắc về những điều nêu trên là chiến lược chống du kích của Hoa Kỳ, của ông Tổng Tư Lệnh, tướng William C. Westmoreland thời đó. Chính sách căn bản là dùng số quân địch bị giết làm thước đo sự thành công của mỗi chiến dịch, được gọi là ?obody counts?. Đơn vị nào báo cáo càng giết được nhiều kẻ địch bao nhiêu, dựa theo số tử thi đếm được, thì lại càng được trọng thưởng bấy nhiêu.
    Thảm trạng xẩy ra cho dân Việt Nam ở đây là các tướng lãnh quân sự ở Việt Nam đã coi rẻ sinh mạng con người Việt Nam, đã để các đơn vị tác chiến tự do hành xử báo cáo về thượng cấp số ?obody counts?, bất cần phân biệt ?oVi Xi? hay thường dân. Kết quả là các đơn vị tác chiến, của mọi sư đoàn có mặt đều thi nhau báo ?obody counts? của đơn vị mình để lấy điểm. Trong một cuộc hành quân, gọi là Speedy Express, kết toán ?obody counts? lên tới 11.000 xác chết, trong khi số vũ khí tịch thu được chỉ là 748.
    Ngoài ra, Nelson thấy tài liệu ghi chi tiết rằng ?ođại đội thứ Năm Thủy Quân Lục chiến báo cáo đã giết được 278 tên địch trong một trân đánh ở An Hòa, nhưng chỉ thu được 18 vũ khí tại chiến trường?. Như vậy thì làm sao không thể có ?omỗi tháng một Mỹ Lai? được?
    Người ta còn phải nghĩ đến ảnh hưởng của mệnh lệnh của Tổng Thống Nixon, khi thấy báo chí có thể có ảnh hưởng bất lợi cho chính phủ của ông. Ông ra lệnh: ?oKhông được để cho Lục Quân bị mang lên trang Nhất (của bào chí)?. Quân đội thi hành mệnh lệnh này chỉ có cách là mỗi khi được báo chí hỏi về một trưòng hợp họ nghe phong thanh được thì phải tìm cách nhận chìm xuồng. Chúng tôi đang điều tra, chưa thể nói gì được. Để lâu c.. trâu hóa bùn. Chính sách này làm nản lòng những người quan tâm đến sự thật, những luật sư, công tố viên, bồi thẩm đoàn chán nản vì biết có nói lên, tìm cách tìm hiểu sự thật, mọi chuyện cũng sẽ chẳng đi đến đâu.
    Với một chính sách bưng bít từ trên xuống dưới như thế thì làm sao dân chúng Hoa Kỳ biết tới được tầm mức tác phong dã man kinh tởm của quân đội nhà mà họ rất hãnh diện và cho rằng Mỹ Lai chỉ là một lầm lỡ lẻ tẻ, dễ hiểu khi phải chiến đấu với một kẻ địch sống trong dân.
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    XEm thêm: http://www10.ttvnol.com/forum/ThaoLuan/1112971/trang-29.ttvn#14483082
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  7. ndhung1412

    ndhung1412 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    01/05/2007
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    27
    Vừa xem lại Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng ta đã có những người lãnh đạo tuyệt vời, một QĐND tuyệt vời để nghiền nát lũ quỷ dữ bán nước cầu vinh ấy.
    http://www.youtube.com/watch?v=Jol4RkFktUU&feature=related
  8. ov10

    ov10 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/02/2006
    Bài viết:
    6.093
    Đã được thích:
    6
    Bác có nhầm nhọt gì không?
  9. saruman

    saruman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    1.684
    Đã được thích:
    140
    Anh chàng ở giữa được vinh dự "ngồi" vào 1 tranh trong quyển Osprey Men at arms Armies of VN War
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    nick pvnrxxx có tiếp 6 tháng leo cột điện, cùng lý do với các nick trước.
    Yêu cầu các bác không quote lại bất cứ bài vi phạm nào!

Chia sẻ trang này