1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Kỷ niệm Bình Định qua một cuộc thi

Chủ đề trong 'Bình Định' bởi tranhanam, 29/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Kỷ niệm Bình Định qua một cuộc thi

    Kết quả cuộc thi viết "Quê hương - Ký ức và ước vọng"
    10:26'', 28/3/ 2005 (GMT+7)
    (BĐ) - Sau 1 năm phát động, ngày 15-3-2005, cuộc thi viết "Quê hương - Ký ức và ước vọng" do Báo Bình Định tổ chức đã kết thúc nhận bài với tổng cộng 99 tác phẩm của 82 tác giả ở khắp 11 huyện, thành phố trong tỉnh và ngoài tỉnh gửi tham dự cuộc thi. Tính đến ngày 25-3, Báo Bình Định, Bình Định điện tử, Bình Định nguyệt san đã đăng tải 37 tác phẩm (sẽ còn tiếp tục chọn đăng trong thời gian tới). Ngày 26-3, Ban giám khảo cuộc thi đã tiến hành chấm giải. Kết quả:

    Giải Nhất: không có

    Giải Nhì: tác phẩm: Ký ức tuổi thơ và ước vọng về một vùng quê của Trần Văn Thiên (Quy Nhơn)

    Giải Ba: 2 tác phẩm:

    - Bến xưa của Trần Duy Đức (An Nhơn)

    - Nơi ngày xưa "chín áo một quần" của Trần Thị Lưu Phương (Quy Nhơn)

    Giải Khuyến khích: 7 tác phẩm:

    - Những ước vọng cho du lịch Bình Định của Lê Hoài Lương (Quy Nhơn)

    - Hương quê của Võ Ngọc Thọ (Quy Nhơn)

    - Dòng suối Nghĩa Nhơn của Trương Tham (Quy Nhơn)

    - Tình quê và những dòng sông của Võ Hạnh (Hoài Ân)

    - Yêu hơn một quê nhà của Nguyễn Mỹ Nữ (Quy Nhơn)

    - Hoài niệm Hương Sơn của Trần Hà Nam (Quy Nhơn)

    - Quy Nhơn của tôi, những ký ức và ước mong vươn tới tầm cao của Hà Thúc Chí.

    Ngoài ra, Ban giám khảo cuộc thi còn dành một tặng phẩm cho em Nguyễn Tiến Bảo lớp 9A2 Trường THCS Võ Xán, Tây Sơn đã có bài dự thi được trình bày công phu nhất.

    Lễ trao giải sẽ được tiến hành vào lúc 16 giờ ngày 31-3-2005 tại Tòa soạn Báo Bình Định (84 Phạm Hùng - TP Quy Nhơn).

    . Q.K
  2. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Ký ức tuổi thơ và ước vọng về một vùng quê!
    13:33'', 6/3/ 2005 (GMT+7)
    Hoài Sơn, mỗi lần nhắc đến hai tiếng Hoài Sơn là trong tôi như sống lại một thời thơ ấu - nơi tôi đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nghèo trong những tháng ngày mưa bom bão đạn. Chiến tranh đã qua đi gần ba mươi năm, nhưng bao kỷ niệm tuổi thơ trong những năm tháng ấy vẫn còn sống mãi trong tôi như mới hôm nào.
    Hồi ấy, năm 1967, mới lên bảy tuổi nhưng tôi vẫn còn nhớ như in về một cảnh tượng hãi hùng. Tôi đang mải mê chạy theo bắt một chú chuồn chuồn thật to, hai tai tôi bỗng nghe nhiều tiếng nổ long trời lở đất, liền sau đó xuất hiện trên bầu trời một bầy "chuồn chuồn sắt". Chúng nối đuôi nhau gầm rú, xé nát cả bầu trời và lần lượt hạ cánh xuống đỉnh núi sau nhà. Mẹ tôi bảo rằng "Mỹ đã đổ bộ xuống Đồi Chùa". Tôi đã nhìn thấy nhiều mái nhà tranh bốc khói, những con bò vừa mới kéo cày đang gặm cỏ đã gãy chân ngã khụy giữa đường làng. Bà con chòm xóm bỏ cả nhà cửa, ruộng, vườn đi lánh nạn và phải sống những ngày tháng xa quê.
    Sau một thời gian bị dồn vào ấp chiến lược bà con phá ấp kéo nhau về quê hương quyết tâm bám đất giữ làng. Tôi có dịp về thăm lại nhà ngoại. Nhà ngoại tôi là một căn nhà cổ ở Túy Sơn, mái tranh, vách đất có những cây cột bóng loáng. Mẹ thường mắc võng ru tôi ngủ những buổi trưa hè, nay chỉ còn lại một đám tro tàn. Vườn dừa của ngoại ngày nào tôi rong chơi cũng biến mất. Mẹ tôi bảo rằng: chúng cưa và chở lên Đồi Chùa để xây lô cốt. Những tháng ngày ở quê hương là vô cùng cơ cực, không ngày nào mà không có tiếng súng nổ, bom rơi, pháo bầy, pháo biển, nhà cháy, người chết. Bà con bảo nhau phải bám trụ quê hương để làm ruộng, có lúa gạo nuôi các chú du kích và bộ đội đánh giặc giữ làng. Không đêm nào người dân quê tôi được một giấc ngủ yên. Mỗi lần nghe tiếng pháo từ biển dội đến là bà con phải lao nhanh xuống hầm, thường thì phải ngủ dưới hầm suốt đêm. Hết tiếng pháo, bà con lại trở lên tiếp tục cày, cấy với mảnh vườn, thửa ruộng quen thuộc của mình.
    Cuộc sống tuy gian khổ, cái chết cận kề nhưng người dân quê tôi cũng có những khoảnh khắc vui rạo rực mà không phải nơi nào cũng có. Đó là vào những đêm ba mươi và rạng sáng mồng một Tết. Chiều ba mươi, bọn lính ngụy trên xã xuống làng cắm cờ vàng ba sọc đỏ và truyền đơn khắp các đường làng. Nhưng rạng sáng mồng một Tết vừa thức giấc đã thấy đám cờ vàng kia biến mất, mà thay vào đó là những lá cờ nửa đỏ nửa xanh có ngôi sao vàng năm cánh xuất hiện rợp cả đất trời, tung bay phấp phới như một ngày hội lớn. Những cây cờ lại được cắm trên những cổng chào làm bằng cây ngâu xanh ngát vẫn còn nguyên những bông ngâu vàng óng. Trên các cổng chào có điểm thêm những đường cong của lá dừa xanh thẳm còn đọng những hạt sương long lanh của buổi ban mai. Các cổng chào được mọc lên ngay trên các ngã ba, ngã tư đường làng. Cảnh tượng ấy làm cho người dân quê tôi vui sướng và tự hào hiện rõ trên từng khuôn mặt. Đám con nít chúng tôi mặc quần áo mới, lấp ló đầu làng cuối xóm chạy ra chạy vào rồi đứng nhìn như đang lạc vào một giấc mơ. Thế mà giấc mơ ấy không được bao lâu lại tan biến. Đến khoảng chín giờ sáng mùng một, bọn lính trên xã đã tràn xuống. Chúng hò hét và ra sức dọn đi những gì mà chúng tôi đang yêu thích.
    Đêm đêm, trên bầu trời quê tôi lại được bọn Mỹ "ưu ái" thả những chiếc đèn sáng rực. Hễ phát hiện được nơi nào nghi ngờ thì ngay sau đó hàng trăm quả đạn pháo đại bác từ Tam Quan, từ biển dội về bất chấp sinh mạng của bà con. Những bụi chuối bụ bẫm cũng ngã nhào, cây lê-ki-ma trong sân nhà tôi cũng gãy làm nhiều khúc. Không một cây dừa nào là không dính mảnh pháo. Một lần, ca-nông rơi ngay trên sân nhà bà Hai Ngôn xóm tôi. Bà Hai đang bồng cháu chạy xuống hầm nhưng không còn kịp. Bà con đành phải gom thi thể của hai bà cháu để chôn cất trong nỗi đau khôn cùng.
    Uất hận dâng trào, các mẹ, các chị xuống đường đấu tranh chính trị. Các anh du kích đánh trả quyết liệt. Một buổi chiều nọ, mẹ tôi nấu một nồi cơm to. Tôi hỏi mẹ sao nhà mình nấu cơm nhiều vậy? Mẹ ghé tai nói nhỏ: "Nhà mình có khách". Tôi ngơ ngác nhìn quanh. Sau một lúc liền có bốn chú du kích xuất hiện, có chú xoa đầu tôi bảo rằng cháu nhanh lớn, chú dẫn đi đánh giặc. Cơm nước xong, các chú cởi hết quần áo chỉ mặt mỗi chiếc quần cộc, rồi đem tất cả các xoong nồi ra bôi đen thui từ đầu đến chân, trông như cột nhà cháy thật buồn cười. Thế là đêm đó, các chú đã bất ngờ tập kích vào bọn lính ngụy đang đóng ở xóm 3 tại làng tôi, nện cho chúng một trận bạt vía, kinh hồn.
    Năm 1972 quê tôi được giải phóng. Nói là giải phóng vì bọn Mỹ - ngụy trên Đồi Chùa, Núi Bé, Núi Nhiệm ở xã không đánh lại mấy chú du kích và nhân dân quê tôi nên phải rút sạch về quận Tam Quan. Nhưng Hoài Sơn là vùng tạm chiếm nên vẫn là mục tiêu ném bom và bắn phá của kẻ thù. Trên bầu trời quê tôi luôn luôn có máy bay thường trực để dò tìm mục tiêu, rải truyền đơn hoặc thả bom?
    Tôi vẫn nhớ trận càn xã Hoài Sơn năm 1973 của địch. Sau đợt pháo bắn dữ dội về Hoài Sơn, trên bầu trời lại xuất hiện một bầy "chuồn chuồn sắt ", tôi đã ngồi đếm một, hai, ba, bốn, năm sáu, bảy?..và không thể đếm nổi. Chúng nối đuôi nhau, không phải bay về hướng Đồi Chùa mà đi về phía La Vuông. Sau đó chúng lần lượt hạ cánh xuống Đá Lửa. Bà con trong xã tôi thực hiện chiến lược "Vườn không nhà trống". Lúc bấy giờ tôi mới mười ba tuổi. Được mẹ tôi giao nhiệm vụ là dắt con bò thật to để chạy giặc. Mẹ tôi bế em tôi một tháng tuổi, bà con trong xã gồng gánh cùng nhau đi về phía Hoài Châu. Hành trình là một cuộc tản cư đầy gian khổ. Trên núi tụi ngụy đã đổ bộ và càn về phía đồng bằng. Dưới đồng bằng thì liên hồi pháo nổ. Pháo nổ gần thì nằm xuống, pháo nổ ở xa lại tiếp tục chạy. Rất nhiều bà con bị thương và mất cả tính mạng trên đường đi. Khi giặc xuống đầu xã, bà con đã đến cuối xã. Khi giặc đến Hoài Châu, bà con đã đến Sa Huỳnh. Khi giặc xuống đường quốc lộ là bà con đã vòng lại lên núi. Sau ba ngày bà con đã trở lại xóm làng. Âm mưu dồn dân về Tam Quan để cách ly với cộng sản của chúng một lần nữa bị thất bại thảm hại.
    Mùa xuân năm 1975, đất nước được hoàn toàn thống nhất. Hai tiếng Hòa bình đến tai người dân quê tôi sao mà thiêng liêng đến thế, mọi người vui mừng không sao tả xiết. Chúng tôi được vào đội thiếu niên tiền phong, được đi dự trại hè. Chiều về, được thả diều trên những cánh đồng làng thơm mùi lúa mới. Những đêm trăng sáng, chúng tôi chia phe đánh trận giả, súng được làm bằng tàu dừa, đạn được làm bằng những bẹ chuối. Mỗi năm Tết đến, chúng tôi tha hồ mà chạy nhảy dưới các cổng chào được làm bằng cây ngâu và lá dừa xanh thẳm. Chúng tôi lại kéo nhau về chùa Thắng Quan để trang nghiêm lạy Phật, rồi sau đó chơi đánh giây thun trên sân chùa. Ngôi chùa ở đây đã được xây dựng lâu đời, trên Đồi Chùa lại có phong cảnh tuyệt vời. Đứng trước cổng chùa, có thể quan sát gần hết xã Hoài Sơn và một phần xã Hoài Châu. Cũng chính vì lẽ đó mà năm 1967, Mỹ đã đóng quân nơi đây để làm căn cứ quân sự chiến lược cho Bắc Hoài Nhơn. Sau những năm tháng chiến tranh, những mảnh đạn, mảnh pháo dính đầy trên các vách tường của ngôi chùa đến từng tất. Sau giải phóng, bà con đã đóng góp tiền của để tu sửa trở lại nhưng không thể nguyên vẹn như xưa. Chùa Thắng Quan đã trở thành di sản văn hóa và di tích lịch sử của người dân quê tôi.
    Hè về, lớp chúng tôi được tổ chức đi tham quan phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp ở Suối Vàng. Suối Vàng có những thác nước trắng xóa, dòng nước uốn lượn trong veo nhìn thấy cá chao chạy hàng đàn. Những hòn đá được bàn tay êm dịu của nước, qua bao năm tháng đã khéo léo gọt giũa trở thành những những hình thù tuyệt mỹ. Ai một lần đến đó đều phải sửng sốt trước cảnh đẹp của thiên nhiên.
    Sau bao năm tháng xa quê, tôi trở về thăm lại mảnh đất dãi dầu mưa nắng và đầy bom đạn năm xưa. Xã Hoài Sơn được nhà nước phong tặng là xã Anh hùng. Quê tôi nay đã nhiều thay đổi. Những mái nhà tranh được thay bằng mái ngói đỏ tươi, những con đường lầy lội được làm bằng đường bê tông vững chắc. Những màu xanh mơn mởn của ruộng lúa mùa xuân xen lẫn màu xanh của dừa, của khóm chuối bờ tre trong cảnh thanh bình nhà nhà sáng choang ánh điện. Nhưng thật tình mà nói tôi vẫn có một chút buồn vì xã tôi vẫn còn là diện xã nghèo! Trước cảnh đẹp quê hương, trong tôi trỗi dậy khao khát ước mơ về tương lai của một vùng quê, có lẽ nó cũng là mơ ước của người dân quê tôi.
    Tôi nghĩ rằng mỗi lần du khách đến thăm Việt Nam, điều đầu tiên mỗi du khách quan tâm có lẽ là một đất nước có bờ biển xinh đẹp, một nước Việt Nam có những miền quê êm ả cho những chuyến du lịch sinh thái tuyệt vời. Dân tộc Việt Nam có truyền thống đánh giặc kiên cường và giỏi nhất là cách đánh du kích. Vậy nên chăng, chúng ta nỗ lực đầu tư, thu hút khách du lịch đến với chúng ta bằng điều những đó?
    Cho phép tôi được làm một du khách nước ngoài về Hoài Sơn trong năm 2012, sau ba ngày du lịch ở thành phố Hồ Chí Minh - một thành phố phồn hoa và náo nhiệt. Từ TP Quy Nhơn xinh đẹp, vừa đi vừa ngắm cảnh nhưng chỉ mất trên hai giờ đồng hồ chúng tôi đã đến La Vuông. Tại bãi đỗ xe đã có hàng trăm loại xe du lịch lớn nhỏ không biết đã đến từ lúc nào. Tôi có cảm giác như mình đã đến cao nguyên. Nơi đây chúng tôi được đi thăm nông trại dứa, đàn bò sữa và thích nhất là được phóng tầm mắt ra xa tít đến tận chân trời. Khí hậu ở đây thật thoáng mát. Chiếc xe đã đưa đoàn chúng tôi vào một khu rừng phong lan có đủ các loại phong lan của xứ sở nhiệt đới, dọc theo đường đi là những cây bonsai cổ thụ đẹp như tranh? Sau đó chúng tôi đi tham quan bằng xe bảo vệ trong khu động vật hoang dã. Chiều đến chúng tôi được thuê ngựa và cung tên, đóng giả nhà vua và các quân sĩ đi săn thỏ rừng ở một khu rừng khác. Đêm đến chúng tôi đốt lửa trại, uống rượu cần với đặc sản mà chúng tôi săn được chiều qua. Sáng hôm sau chúng tôi đến một thung lũng có hồ nước ngọt kéo dài. Cảnh vật nơi đây giống như một dòng sông. Tại đây mọi người được khám phá về một cảm giác chiến tranh Việt Nam. Có một lối nhỏ vào rạp chiếu phim. Mọi người ngồi vào ghế, ánh điện vội tắt, trên màn hình xuất hiện một bộ phim tư liệu về chiến tranh Việt Nam, một bên là vũ khí hiện đại, máy bay, xe tăng, đại bác. Chúng đang càn quét một vùng quê và bên kia là mấy chú du kích, súng AK và dân làng không một tất sắt trong tay. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế mà ghế rung dữ dội như đang đi trên một chiếc xe quân sự trong chiến trường, đạn bay vèo vèo. Sau chừng mười lăm phút có tiếng loa phóng thanh phát ra "Địch đang pháo kích vào khu vực chúng ta, bà con bình tĩnh, sẽ có thuyền di chuyển quý vị sang sông, quý vị sẽ được giao liên dẫn đường". Chúng tôi đi theo người dẫn đường xuống những chiếc thuyền nhỏ các cô giao liên chờ sẳn để đưa chúng tôi sang sông, ra giữa dòng, đột nhiên một trận pháo kích của địch dữ dội, mấy chiếc máy bay trực thăng đang nổ máy, chong chóng quay tít đậu trên đỉnh núi. Những chiếc tăng M-48 lù lù xuất hiện tiến về phía chúng tôi với khẩu pháo to đùng. Những chiếc ca nô máy của địch lượn ào ào trên mặt nước, tiếng súng nổ vang trời làm nước tung tóe. Người chèo đò vẫn vững tay chèo. Tôi đã nhìn thấy chú du kích bám theo một chiếc xe tăng và một chiếc đã bốc cháy. Chiếc trực thăng cũng trúng đạn và bùng lên một đống lửa đỏ rực? Tiếng súng ngưng dần, cảnh thanh bình lại hiện ra. Trời sáng dần, các chiến sĩ đã chiếm lĩnh một chiếc xe tăng và vẫy tay chào chúng tôi. Mặc dù biết rằng đây là trận đánh giả vậy mà tôi vẫn cứ tưởng như thật, vừa hồi hộp vừa lo âu. Cảm ơn các bạn Việt Nam đã cho tôi một cảm giác lạ và biết thêm đôi điều về con người và đất nước bạn.
    Trên đường về Quy Nhơn, chúng tôi ghé qua chùa Thắng Quan, tham quan thắng cảnh Suối Vàng, nơi bàn tay của tạo hóa đã ban tặng cho các bạn những tuyệt tác của thiên nhiên. Về lại Quy Nhơn trong sự thích thú của một chuyến du lịch miền núi đầy phiêu lưu và nhiều ấn tượng.
    Có lẽ tôi đã dẫn các bạn lạc vào một giấc mơ, nhưng tôi tin rằng giấc mơ ấy rồi sẽ thành hiện thực. Với sự thông minh sáng tạo của người Bình Định, với lòng quyết tâm và đầy nhiệt huyết của mỗi chúng ta thì việc đầu tư có trọng điểm một khu du lịch vùng núi cho tour du lịch kết hợp biển, đồng bằng là hoàn toàn có thể. Quy Nhơn đã và đang trở thành một thành phố du lịch biển đầy thơ mộng và một vùng quê như quê tôi sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong thập niên tới.
    . Trần Văn Thiên
    (Tháng 3-2005)

  3. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Bến xưa
    8:43'', 15/9/ 2004 (GMT+7)
    Hiếm có một vùng quê nào ở miền Trung mà nhiều sông ngòi như ở An Nhơn. Bởi là nơi bắt đầu rẽ nhánh, phân chi của sông Kôn từ Vĩnh Thạnh chảy xuống, rồi được hợp với sông An Tượng từ An Trường chảy ra, nên càng tạo thêm nhiều dòng chảy chi chít đổ về hạ bạn rồi ra biển Đông.
    Ngày xưa, khoảng giữa thế kỷ 20 về trước, giao thông đường bộ chưa phát triển, các nhánh lớn của sông Kôn như sông Thạch Yển (bắc phái), sông Gò Chàm (trung phái), sông Tân An (nam phái) là những tuyến giao thông đường thủy vận chuyển hàng hóa, thuyền buồm tấp nập từ biển lên nguồn để "măng le chở xuống, cá chuồn chở lên". Cảnh trên bến dưới thuyền nhộn nhịp, nơi dừng chân của bao thương khách người Việt, người Hoa càng làm cho những phố chợ hai bên sông hưng thịnh, sầm uất như An Thái, Gò Chàm, Đập Đá, Gò Găng, Phú Đa... từng nổi tiếng.
    Lớp người trạc tuổi như tôi trở về trước, ai đã sinh ra và lớn lên từ mảnh đất nặng phù sa sông Kôn này mà không một thời có những kỷ niệm với con đò, bến nước. Từ thuở cắp sách đến trường, nhất là học sinh ở các xã Nhơn Hòa, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ, Nhơn Phúc... sông nước chia cắt, ai mà không cõng chữ qua sông để lớn lên cùng cái chữ, cùng với quê hương.
    Sáng sáng, những cậu học trò tiểu học đi chân đất, vội vã lót dạ mấy miếng cơm nguội với muối đậu, muối mè cắp sách chạy ra bến đò sang sông để kịp vào lớp học. Tan trường, chưa chịu qua đò về nhà ngay, mà lũ chúng tôi còn cởi quần áo trùng trục, bỏ sách vở trên bờ sông nhảy xuống dòng nước trong xanh lặn hụp cho đến khi đói rã ruột mới chịu về để ở nhà cha mẹ chờ cơm. Học sinh ở vùng sông nước tinh nghịch, vậy nên đứa nào cũng biết bơi. Đến kỳ nghỉ hè tha hồ chạy nhảy trên bãi cát, thả diều, chơi trò bịt mắt bắt dê, u quạ, đánh trận giả?
    Trong những bến đò lớn, nhỏ thì bến Trường Thi, bến An Thái, bến Thị Lựa, bến Bàu Sáu? là những bến đò lớn, tồn tại khá lâu, bởi là tuyến giao thông lớn đông người qua lại, và dòng sông rộng, nước sâu quanh năm cá lội biệt tăm. Nguồn lợi thủy sản dồi dào, các làng ven sông sống bằng nghề đánh bắt cá, họ dùng dụng cụ lưới, chài hoặc giăng câu chứ không xung điện, đánh thuốc nổ như ngày nay.
    Bến đò Trường Thi trên sông Tân An, nơi ở phía nam bờ sông thời đó có trường thi Bình Định (1852-1915), thuộc làng Hòa Nghi (xã Nhơn Hòa) hội tụ các sĩ tử các tỉnh Nam Trung bộ, quê ngoại của nhà thơ Yến Lan, còn bên này sông là quê nội, ở ngay Thành Bình Định. Bến Trường Thi thơ mộng, cát bồi nhiều năm tạo nên giống đôi chân mày phụ nữ, nối đôi bờ quê nội - ngoại của nhà thơ Yến Lan, đẹp đến độ tạo cảm hứng để ông sáng tác thi phẩm "Bến My Lăng" nổi tiếng, chắp cánh cho sự nghiệp văn chương của cố thi sĩ này.
    Còn bến đò An Thái là nơi gắn với miền đất võ nổi tiếng từ thời Tây Sơn khởi nghiệp, bờ bên này sông Kôn là An Thái, bên kia sông là An Vinh, khúc sông rộng đến gần cây số và sâu nhất, quanh năm thuyền bè tấp nập. Phố chợ An Thái sầm uất, hưng thịnh một thời nằm bên bến An Thái. Nguyễn Nhạc đã từng xuôi thuyền qua bến sông này từ thuở còn là anh Hai trầu đi buôn trầu trên sông Kôn.
    Nói đến bến đò Thị Lựa, chính là nơi nhánh sông bắc phái chảy xuống Thạnh Yến gặp nơi đầu con sông La Vĩ tạo thành ngã ba sông. Tương truyền nhánh sông này do vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc sức dân đào sông đắp lũy bao quanh mặt tây-bắc thành Hoàng đế. Bến Thị Lựa người đi qua lại tấp nập từ các xã phía tây đổ về Đập Đá và khu Đông.
    Trên đây chỉ là một số bến đò lớn nối các tuyến giao thông quan trọng, còn rất nhiều bến đò ngang trong huyện. Từ khi còn đi học trường làng, trường xã đến khi lớn lên đi học trung học ở thị trấn Bình Định, quê tôi - làng Hòa Phong (Nhơn Mỹ) như cái ốc đảo nên tôi đi qua hầu hết các bến đò. Song kỷ niệm nhiều nhất đối với tôi suốt mấy năm học cấp 1 là mấy năm liền đi qua bến đò Bàu Sấu. Bến đò nằm ngay nơi gặp nhau giữa hai dòng nước đục và trong, dòng nước sông Kôn trong xanh chảy xuống đến cuối làng Đại Bình gặp dòng nước đục ngầu sâu thăm thẳm của Bàu Sấu, ngày xưa có cá sấu, dưới chân hòn núi Kỳ Đông. Nơi đây, đã từng ghi bao chiến tích của nghĩa quân Cần Vương do đích thân tướng soái Mai Xuân Thưởng chỉ huy trong trận thư hùng, thủy bối với quân Pháp và lính Nam Triều. Và sau này, bến Bàu Sấu đã tiếp tục lập bao chiến công trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Có lẽ do hai dòng nước đục-trong hợp lưu nên bến Bàu Sấu thời ấy cá nhiều lắm, nhất là đến mùa cá lúi, để khi hết lụt hàng vài chục ngư dân tập trung nơi ngã ba sông đứng trên sõng tung chài bắt cá, có mẻ chài kéo lên hàng thúng cá lúi trông thật sướng mắt.
    Ngày nay, các dòng sông do thiên nhiên và do cả con người tạo nên bị bồi lấp cạn dần và lòng sông cũng hẹp hơn trước, mấy chục năm gần đây không còn hình ảnh những đoàn sõng trương buồm trong gió đưa hàng từ dưới xuôi lên miền núi và ngược lại. Và trên các dòng sông đã không còn trông thấy những ngư dân tung chài bắt cá lúi, không còn những thợ lặn lặn dưới hóc bụi tre (bờ cừ) ở những đoạn sông sâu bắt những con cá chép vàng lườm to đến hai nắm tay. Ông lái đò sau cùng cũng là dân chài lưới, nhà ở bên sông và gần nhà tôi đã ở tuổi xưa nay hiếm, thỉnh thoảng ông vẫn đội nón ra đứng bờ sông nhìn sang bên Bàu Sấu đã khô cạn, ngọn núi Kỳ Đông đã trơ trụi, không còn cây cao như xưa và đang bị lấy đất nham nhở.
    Những năm gần đây, những chiếc cầu tre, cầu ván được bắc qua sông thay cho bến đò xưa ở bến An Thái, bến Thị Lựa... Đặc biệt là bến Trường Thi đang khẩn trương thi công chiếc cầu bê tông vĩnh cửu, mở rộng không gian đô thị của huyện lỵ An Nhơn và là thị xã trong tương lai gần, từ thị trấn Bình Định đến khu công nghiệp phía nam quốc lộ 19. Chỉ riêng có bến đò Bàu Sấu là vắng vẻ không còn ai qua lại, bởi con đường qua sông đã chỉnh tuyến.
    Những chiếc cầu bê tông cốt thép đã và đang lần lượt được thi công thay dần những chiếc cầu tre lắc lẻo để kịp tiến trình của lịch sử trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, làm đổi mới bộ mặt nông thôn. Đó là mơ ước bao đời của người dân vùng sông nước đã thành hiện thực.
    Dù bến xưa có nơi bên bồi, bên lở, những chiếc đò nan chở vài ba chục người sang sông đã không còn. Nhưng vẫn còn mãi trong ký ức của tôi hình ảnh con đò, bến nước và vẫn nhớ như in tiếng gọi đò khi đêm đã về khuya của những người đi lỡ đường, những người đàn bà trở dạ, những người mẹ kẽo kẹt trên vai gánh rau đi chợ sớm... Và chắc chắn không chỉ riêng tôi, mà của bao người từng sinh ra và lớn lên ở vùng đất lắng đọng phù sa này. Bến nước, con đò cũng sẽ mãi là di sản quý báu, mặc dù những chiếc đò nan chưa được đưa vào lưu giữ trong một bảo tàng nào, nhưng nó sẽ mãi mãi đi cùng năm tháng với quê hương
    . Trần Duy Đức

  4. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Nơi ngày xưa "chín áo một quần"
    15:53'', 25/3/ 2005 (GMT+7)
    Chỉ mấy phút thôi, đứng ở bến xe buýt nhìn một bên là Trường Đại học Quy Nhơn, một bên là biển cả mênh mông, sóng biếc điệp trùng... lòng ta cảm thấy như hạnh phúc của muôn đời đang về trước mặt. Chiếc xe buýt màu xanh từ Quy Nhơn đi Tuy Phước - Bình Định... chầm chậm ghé vào bến. Chúng tôi vừa bước chân lên xe đã thấy hai thanh niên đứng dậy nhường ghế và lịch lãm mời ngồi.



    Việc hai cậu thanh niên nhường chỗ, thoạt tiên tôi coi là lẽ tự nhiên. Người trẻ nhường cho người già, đàn ông nhường cho phụ nữ một chút thuận lợi nơi công cộng là một thứ đạo lý hiển nhiên, có gì là đặc biệt! Ấy vậy mà khi đã ngồi yên vào vị trí, nhìn hai bên lề con đường thẳng tắp chạy giữa cánh đồng xanh ngút ngát, qua những xóm làng trù phú nhà cửa khang trang, xe máy, ô tô ngược xuôi tấp nập ...và, khi quay nhìn lại hai bạn trẻ kia đang đứng liêu xiêu trước mặt, tôi bỗng thấy xúc động và thật sự hàm ơn. Tôi chợt nghĩ về tuổi trẻ và sự hy sinh, về lý tưởng sống và ý nghĩa của nỗi gian nan cơ cực nơi chính mảnh đất này và những người dân hiền hậu của quê tôi đã sống chiến đấu một cách gan góc, đã vượt qua những nỗi gian truân của ba mươi năm trước. Vẻ đẹp của trí tuệ, hào hoa, của phong thái lịch sự, đàng hoàng... hôm nay phải chăng là hóa thân của vẻ đẹp chân chất, nhọc nhằn, giản dị và quên mình ngày ấy!
    *
    Ngày ấy, tôi theo các đoàn cán bộ tỉnh vượt Quốc lộ 1, vượt núi Bà... về với các đội công tác khu Đông. Chúng tôi phải lội bì bõm trên những cánh đồng ngút ngàn cỏ dại, vượt qua những con mương lau lách sình lầy, vừa đối phó với lũ đỉa và muỗi đói, vừa đối phó với bọn lính địch phục kích khắp nơi... để đến với bà con nông dân - những người gan dạ trụ bám nơi những xóm nhỏ ven "vùng trắng". Vùng trắng tức là nơi địch đã đốt hết nhà, đã xúc hết dân nhốt vào các khu dồn để cách mạng không còn nơi nương tựa.
    Ngày ấy, lụt lội và pháo bom thù đã làm vỡ hết đê ngăn mặn. Nước mặn từ đầm Thị Nại theo thủy triều tràn lên tàn phá những cánh đồng màu mỡ của các xã khu Đông Bình Định, nhất là huyện Tuy Phước và ven đô Quy Nhơn. Cả một vùng đồng bằng rộng lớn từng là một trong những vựa lúa của miền Trung, giờ chỉ toàn cỏ dại. Dân đói, phải trôi dạt khắp nơi để mong còn sống sót. Những người hoạt động "bất hợp pháp" và các cơ quan của cách mạng phải tạm trú trong những ngôi nhà đổ, phải chui rúc trong những lùm cây, bụi rậm dọc các bờ sông, dưới những căn hầm xâm xấp nước... ngày đêm rền tiếng pháo, tiếng bom.
    Ngày ấy, giữa cái sống và cái chết, nụ cười dí dỏm vẫn không tắt trên môi những chàng trai, cô gái khu Đông. Khi tôi về đây, câu Khu Đông chín áo một quần đã thành câu "đùa" phổ biến. Hồi đó tôi hay bị "hố" do cái trò nói lái tinh nghịch của anh em, nên mỗi khi nghe những từ ngữ lạ, thường không dám hỏi lại, nhưng cứ thắc mắc trong lòng. Một hôm tôi đem thắc mắc về câu Khu Đông chín áo... ấy hỏi chị Lành (Hội trưởng Phụ nữ tỉnh lúc bấy giờ), chị Lành cười chỉ vào mấy cậu du kích trẻ:
    - Đấy, chị xem, quần dài của tụi nó toàn buộc trên vai kìa, có mặc đâu mà rách!
    Ra vậy, không có đường đi thì cũng không cần tốn vải may thêm quần dài. Chín cái áo đã rách, nhưng đôi chân các cán bộ, chiến sĩ và du kích khu Đông thì chỉ cứng thêm lên, dày thêm ra bởi những vết xước của cỏ rạch ngang dọc trên da, quần dài thì vẫn buộc trên vai thay cho khăn quàng và áo ấm!
    Riêng đám con gái thì không dám ăn mặc kiểu đó. Vì vậy suốt ngày, có khi cả đêm nữa, cứ phải mặc bộ quần áo ướt sũng nước lẫn bùn, lội từ làng này sang làng khác, xã nọ đến xã kia để thâm nhập vào dân, tuyên truyền vận động quần chúng ủng hộ cách mạng, đừng nghe theo sự lừa mị của kẻ thù... và nhất là thực hiện một nhiệm vụ tối quan trọng: huy động lương thực và thực phẩm đem về căn cứ để tự nuôi sống và hoạt động. Nếu không có nguồn cung cấp bằng con đường này thì các đội công tác và cả bộ đội địa phương không thể nào hoạt động được. Đêm đêm các chiến sĩ, du kích gùi cõng những bao lúa, gạo, mắm muối... nặng trĩu trên lưng vượt qua hàng chục cây số đèo dốc, cỏ bùn dưới tầm kiểm soát của các chốt địch với những khẩu trọng pháo trên đồi cao sẵn sàng nhả đạn. Những người con ưu tú của quê hương tôi ngày ấy, khi ngã xuống còn ôm ấp ước mơ về những con đường!
    Ba mươi năm đã trôi qua kể từ ngày giải phóng. Câu chuyện Khu Đông chín áo một quần lặng dần vào dĩ vãng. Bây giờ hàng trăm cây số đường nhựa, đường bê tông ngang dọc dẫn xe về tận ngõ, tận sân. Các em nhỏ đi học trường làng đồng phục tinh ươm, khăn quàng đỏ thắm và những tà áo dài của các nữ sinh trung học dịu dàng bay trong nắng khiến lòng ta rạng rỡ niềm vui và rưng rưng nhớ về những năm tháng ấy.
    Ước mơ xưa về những con đường đã thành sự thật, nhưng quê tôi còn thiếu những cây cầu. Ngày xưa không có đường, nên cũng chẳng cần cầu. Chúng tôi có thể băng đồng và sẵn quần áo ướt bơi qua sông. Nhưng nay, xe máy, ô tô... không thể đi qua chiếc cầu tre lắt lẻo gập ghềnh... (tưởng chỉ còn trong câu hát ru buồn ngày cũ) để nối hai đầu con đường bê tông kia được!
    Tôi thấy tiếc xót xa cho cái làng Bình Lâm đẹp như tranh vẽ kia với ngôi chùa uy nghiêm và ngọn tháp Chàm độc đáo tuyệt vời thấp thoáng giữa hàng tre xanh của mảnh đất từng là nội thành của một cố đô nghìn năm trước. Lẽ ra vùng đất đầy tiềm năng này đã có thể trở thành vùng du lịch sinh thái hấp dẫn khách thập phương từ lâu rồi. Nhưng vì vùng đất thiêng ấy bị kẹp giữa hai dòng sông, không có cầu qua nên chẳng mấy ai đến được. Nói cho công bằng, Nhà nước cũng đã mấy lần đầu tư kinh phí để bắc cầu này, nhưng có thể vì đầu tư nhỏ giọt, có thể vì quản lý chưa chặt chẽ để thất thoát vốn, nên qua mấy lần làm cầu, nay vẫn cứ cầu tre! Và đời sống người dân ở đây vẫn cứ gian nan cơ cực, vẫn cứ lạc hậu, nghèo nàn... mặc dù họ đang ở giữa đống của cải khổng lồ cả tinh thần và vật chất.
    Tôi hình dung một ngày nào đó, cây cầu tre ọp ẹp từng gây tai nạn cho bao người kia sẽ được thay bằng cây cầu bê tông kiên cố nối liền hai thôn Tân Mỹ với Bình Lâm, để du khách không chỉ dừng chân một ngày với tuyến du lịch phía Tây: Điện Quang Trung - tháp Dương Long mà còn lưu lại lâu hơn với tuyến du lịch phía Đông: Bình Lâm - Gò Bồi- Thị Nại và khu du lịch văn hóa- lịch sử Núi Bà phong phú, diệu kỳ. Hơn thế nữa, không phải chỉ bằng đường bộ, du khách còn có thể đi bằng đường thủy mát mẻ, thơ mộng và tiện lợi xiết bao nếu được đầu tư nạo vét những dòng sông. Những dòng sông vốn xưa kia trong veo, sâu thẳm... là nguồn sống, niềm tự hào của mọi cư dân và là đường ra chiến trận của quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ ngày nào. Tôi ước mơ những nhịp cầu nhanh chóng nối hai bờ sông quê đã có đường bê tông vươn tới, những nhịp cầu nối muôn đời quá khứ với tương lai.
    Quy Nhơn, tháng 3-2005
    . Trần Thị Lưu Phương

  5. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Dòng suối Nghĩa Nhơn
    15:8'', 18/3/ 2005 (GMT+7)
    Anh bạn của chúng tôi là một nhà khoa học nổi tiếng. Anh có nhiều cống hiến cho y học trong nước và thế giới. Nhưng những người bạn thân của anh lại là giáo viên văn học, nhà văn, nhà thơ. Anh mải mê nghiên cứu nên chúng tôi rất ít gặp nhau. Có khi một hai năm mới gặp một lần. Hễ gặp nhau, câu đầu tiên anh hỏi: "Các cậu đã hoàn thành giúp mình chưa?". Từ lâu anh mong ước được thấy dòng suối nhỏ quê hương của mình đi vào văn học. Anh nói: "Với mình, nó là sự sống, là động lực giúp mình làm việc tốt hơn".
    Năm tháng trôi dần, đã ba mươi mùa xuân từ ngày đất nước thống nhất. Mãi đến mùa xuân năm 2005 này tôi mới đến được Nghĩa Nhơn. Thôn Nghĩa Nhơn thuộc xã Ân Nghĩa là một trong những thôn cuối cùng của Hoài Ân giáp với các làng của đồng bào dân tộc. Theo lời các cụ già trong thôn kể lại: Trước Cách mạng tháng Tám, Nghĩa Nhơn là một vùng quê heo hút, lèo tèo mấy chục nóc nhà. Thời bấy giờ những người trai họ Trương hiếu học đã lặn lội tới kinh thành Huế để tìm cái chữ mà sống, cho quê hương mình bớt cực nhọc tối tăm. Họ đã trở về dạy học ở Ân Nghĩa. Được sự hướng dẫn của một số "đảng viên ba mươi", một chi bộ đầu tiên của Ân Nghĩa được thành lập tại vườn dừa thôn Nhơn Sơn. Ông giáo Ba là Bí thư chi bộ đầu tiên của Chi bộ ấy. Từ Nghĩa Nhơn ông giáo đã ra đi hoạt động vào Nam, ra Bắc cuối cùng trở về hy sinh trên mảnh đất mà từ ấy ông đã ra đi. Thời kháng chiến chống Pháp, Nghĩa Nhơn là hậu phương cho các đơn vị bộ đội trở về đóng quân sau những mùa chiến dịch. Hòa bình lập lại chưa được bao lâu thì chính quyền Mỹ - Ngụy tràn về. Bọn chúng cải cách điền địa, thực thi chính sách tố cộng, đàn áp dã man những người tham gia kháng chiến cũ. Chị Mai, một đảng viên, kiên quyết không ly khai, tố cộng. Bọn chúng bắt trói chị rồi nắm tóc kéo lê đi trên con đường đá dăm, đến sông Ngã Hai thì bắn chị. Máu của chị đã nhuộm thắm một nẻo đường Ân Nghĩa. Những năm tháng ấy, mỗi ngả đường, con sông đều đỏ máu của những người yêu nước.
    Trưa xuân nay, tôi cùng với anh bạn nhà văn ngồi bên dòng suối Nghĩa Nhơn. Một con đường thẳng tắp chạy giữa cánh đồng lúa xuân xanh mởn. Những xóm nhà đông đúc; những mái ngói hồng, tường vôi trắng ẩn hiện trong vườn cây xanh mướt. Không gian trưa yên tĩnh. Tiếng nhạc, tiếng hát đâu từ những xóm nhà văng vẳng lan đi trong gió. Buổi trưa mà có cả tiếng ếch nhái kêu trên đồng. Đất Nghĩa Nhơn sao mà thiêng liêng đến thế! Và tôi chợt hiểu vì sao anh bạn tôi lại gắn bó tự hào với quê hương mình đến thế, vì sao anh lại quyết tâm nghiên cứu cách chữa trị các di chứng chất độc màu da cam. Cảnh vật đã hoàn toàn khác với Nghĩa Nhơn xưa mà anh bạn tôi thương nhớ ấp ủ trong lòng. Chỉ có dòng suối Nghĩa Nhơn trong vắt vẫn lặng lẽ trôi như một dòng thời gian bất tận là còn lưu giữ cho anh một kỷ niệm của thời thơ bé mà anh thường kể cho chúng tôi nghe.
    "...Thôn Nghĩa Nhơn nằm trong một thung lũng dài, bốn bên là đồi núi. Dòng suối uốn lượn chia thành đôi bờ. Một bên là đồng lúa, nhà cửa ở trong cánh đồng dưới chân núi phía Tây với những vườn dừa, vườn tiêu xanh mướt. Phía bên kia con suối là bãi cát trắng với những nà dâu. Tiếp đến là những loài cây dại rồi lau sậy chạy mãi đến dãy núi thấp ở phía Đông. Mùa nước lớn, nước tràn ngập cả bãi cát phía bên kia. Những con dế mỡ leo đầy trên những cành dâu trĩu trịt. Buổi tối tôi đi thả nhá. Những buổi sáng mờ sương đi kéo nhá, tôi thường ngồi lặng lẽ trên hòn đá trải ven suối. Trong không gian mờ sương, hoang vắng dòng suối như ẩn hiện. Lâu lâu một tiếng nước róc qua kẽ đá. Những tiếng chim gì chiu chít trong bãi cây, như mổ vào mùi hương hoa dại đang thoang thoảng trong không gian. Không biết từ bao giờ, ai đã trồng suốt một đoạn bờ suối dài những cây hoa tử vi xen với phù dung. Hoa tử vi màu hồng tươi sáng. Hoa phù dung sáng trắng trưa hồng. Buổi sớm sương dày phủ cả gốc cây chỉ thấy một vệt dài những bông hoa hồng trắng như đang bơi trong sương bạc. Đến khi mặt trời lên sương tan dần. Những giọt sương trong những đóa hoa lóng lánh như những hạt kim cương, lăn dần trên cánh hoa rơi xuống dòng suối. Nắng cứ lên dần, hàng hoa như đã trao hết những hạt kim cương cho dòng suối trở nên nhẹ vởn, sởn sơ trong gió nhẹ. Cũng là lúc những bông hoa phù dung từ màu trắng chuyển sang màu hồng. Nhìn xuống dòng suối tràn đầy những bóng hoa. Nước chảy mà bóng hoa không trôi, cứ chập chờn như một áng mây hồng phiêu linh trong dòng nước trong vắt.
    Ở Nghĩa Nhơn hồi ấy mỗi năm có hai mùa nhộn nhịp. Cứ vào tháng Chạp lúc khí trời bắt đầu se lạnh, mưa bụi lây phây không biết từ đâu hàng đàn cá chép lách suối vượt lên để đẻ. Người các nơi đổ về cùng với Nghĩa Nhơn bắt cá. Đến tháng tư âm lịch là mùa tiêu chín. Những chiếc sõng ngược dòng suối, nối nhau về bến cát. Họ về Nghĩa Nhơn mua tiêu, mua dừa và đem theo những mặt hàng để bán chác, trao đổi. Những dây tiêu được thả leo lên những cây táo nhơn cao, những cô gái đầu chít khăn hoa, vai đeo bồ đệc bắt thang leo hái tiêu. Bồ đệc được làm bằng mo cau, nom như một chiếc gùi nhỏ. Họ vừa hái tiêu, vừa hát hò đối đáp. Những anh con trai đứng dưới gốc chờ. Khi đã hái đầy bồ đệc các cô dùng dây thả xuống. Hột tiêu đem phơi vào nong, còn cùi tiêu đem rải trên đường như phơi rạ. Nắng nỏ, cùi tiêu khô dần tỏa ra mùi thơm nồng nàn là một mùi rất riêng của đất Nghĩa Nhơn. Người ta về Nghĩa Nhơn mua tiêu, mua dừa, bắt cá... Với những chàng trai về Nghĩa Nhơn còn vì những người con gái chăn tằm, ươm tơ ven suối. Nghĩa Nhơn hồi ấy rất nhiều người con gái xinh đẹp: cô Mai, cô Xuân, cô Tưởng, cô Đào. Nổi bật nhất có ba người ở độ tuổi mười tám, mười chín. Chị Sáu Thuận, dáng người thon thả dỏng cao, rất ít nói. Người ta bảo chị nói bằng đôi mắt to đen của mình. Tóc chị đen mượt dài chấm gót. Chị bới một búi lớn. Búi tóc của chị bao giờ chị cũng chừa lại một chiếc đuôi gà nhỏ xíu cứ phất phơ theo bước đi của chị trông rất ngộ. Cô Tám Liễu, người thon thả, da trắng mịn như trứng gà bóc, mắt hơi hiếng, môi hồng thắm. Tóc cô hơi hoe vàng mà thật dày, đổ xuống quá gối. Cô Tám thường tết thành một đuôi sam rồi bới lên thành búi tóc. Dắt cây trâm đồng. Người ta bảo nhìn vào cô như vừa uống xong một ly rượu mạnh. Có lẽ nổi bật nhất trong mấy người là chị Nga, cũng dỏng cao thon thả như chị Sáu và cô Tám. Chị Nga mặt trái xoan, mắt bồ câu cổ cao ba ngấn, nước da chị như một cánh hoa hồng nhạt vừa mới nở. Môi hơi dầy đều đặn. Răng trắng bóng với một chiếc răng khểnh ở khóe trái. Tóc chị đen tuyền, dài quá gót đến bốn gang tay. Chị bới một búi lớn, phần tóc còn lại của chị lại tết thành đuôi sam rồi vấn quanh búi tóc, mom như một bông hoa úp xuống trên chiếc đầu thanh thanh. Nhìn vào chị như nhìn vào một ảo ảnh. Chị chơi đàn măng đô lin và hát thật hay. Nhớ hồi tuần lễ vàng, người ta dựng một sân khấu gỗ giữa vườn dừa, tập trung bà con vận động quyên góp ủng hộ. Đêm ấy chị Nga hát một bản nhạc của Văn Cao. Chị mặc áo dài trắng, cổ đeo kiềng vàng, giọng hát trong vắt, vút cao. Gió ngoài suối thổi vào làm tà áo trắng bay bay tưởng như chị từ ở đâu bay tới. Bài hát kết thúc tiếng vỗ tay vang dậy. Chị bước xuống sân khấu, cởi chiếc kiềng vàng bỏ vào thùng quyên góp. Tiếng vỗ tay lại nổi lên rào rào...".
    Những người con gái ấy của Nghĩa Nhơn đã lần lượt đi vào hai cuộc kháng chiến và các chị cũng lần lượt hy sinh cho xứ sở quê hương. Đó là Nghĩa Nhơn trong tâm hồn người bạn tôi mấy năm nuôi dưỡng nâng niu. Dường như mỗi con người đều có một vùng đời thương nhớ như hành trang của mình đi qua cuộc sống đầy sóng gió của thế gian. Phải chăng quê hương Nghĩa Nhơn ngày xưa ấy là hành trang để cho những con người Nghĩa Nhơn đi tới hôm nay và ngày mai tươi sáng của cuộc sống. Đến lượt tôi và anh bạn nhà văn, sau khi rời Nghĩa Nhơn chúng tôi đã đến biển Đồ Sơn. Tự nhiên lòng lại thấy bồi hồi thương nhớ một mảnh đất xa xôi khuất nẻo của quê hương Bình Định. Anh bạn nhà văn nhìn xa xôi ra biển rồi nói với tôi: "Dường như trong biển nước mênh mông này, có một phần rất nhỏ của dòng suối Nghĩa Nhơn".
    Đồ Sơn, tháng 2 năm 2005
    . Trương Tham

  6. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Yêu hơn một quê nhà 15:56'', 11/3/ 2005 (GMT+7)
    Gia đình tôi gốc bắc. Sau khi rời quê, chúng tôi đã ở rất nhiều nơi trước khi định cư hẳn tại đây: Bình Định. Để rồi, đã mấy chục năm trôi qua với bao nhiêu biến động, đổi thay trên mảnh đất này. Chúng tôi đã xem Bình Định như thể là quê hương thứ hai của mình vậy.
    Nhà tôi hồi trước ở khu Hai và sát ngay bên chợ Xổm. Đó là một khu vực hết sức phức tạp và cuộc sống ở đó càng bừa bãi hơn khi có sự xuất hiện của lính Mỹ. Vốn sẵn nếp nhà lại thêm được bố mẹ uốn nắn, giáo dục hết sức nghiêm túc nên anh chị em chúng tôi, đã không hề bị tác động xấu từ những cảnh sống nhố nhăng ở chung quanh. Tôi luôn nhớ đến những buổi tối bình yên ở gia đình mình, hồi đó: cái đèn dầu được đặt giữa bàn tỏa ra thứ ánh sáng vàng đượm và ấm áp, soi rõ hình ảnh chúng tôi ngồi xúm xít bên nhau, cùng chăm chú học hành dưới sự nhắc nhở ân cần của mẹ - một người phụ nữ không hề biết chữ.
    Lúc đó, tôi đang học lớp ba. Tôi và người chị kề cùng học chung một trường: trường Nguyễn Công Trứ. Ngày hai buổi chúng tôi đi - về và phải chứng kiến rất nhiều cảnh tượng thật đáng xấu hổ, chỉ trên một đoạn đường ngắn ngủi với biết bao nhiêu là quán bar, trại lính, vũ trường? Chẳng hạn cảnh trẻ con lẽo đẽo theo sau lính Mỹ nói tiếng bồi xin tiền hay chen lấn, đạp đánh nhau? mỗi khi những chiếc xe quân đội Mỹ đi qua và những thùng bánh kẹo, chocolate được quẳng xuống như bố thí.
    Thầy giáo của tôi hồi đó là thầy Trọng. Thầy rất hiền lành, dễ chịu nhưng hết sức cứng rắn và sẵn sàng trừng phạt thẳng tay, nếu biết được một đứa học trò nào ở trường, nằm trong đội quân hỗn tạp này. Sau gia đình, thầy là người đã dạy cho tôi những bài học giá trị nhất về lòng danh dự, sự tự trọng, tính dân tộc? Thầy Trọng có phong thái rất nghệ sĩ: chạy xe solex đen, mang giày mũi nhọn, dáng gầy, tóc dài...
    Khu Hai bây giờ đã đổi thay đến mức khó tin là có thật. Những con đường đổ bê tông phẳng êm thay cho những con hẻm lún cát, ngoằn ngoèo. Nhiều ngôi nhà xập xệ tối tăm ngày trước đã được thay bằng nhà xây, lầu một, tầng hai? khang trang và đường bệ. Tiện nghi ở mỗi nhà không thiếu nhưng vẫn cứ hụt trống một cái gì đó trong ứng xử và phong cách sống của những người dân ngay tại nơi này. Tôi hãy còn những người quen cũ và thi thoảng có dịp về thăm, thấy buồn và lòng chạnh?Giá như đổi thay được cả một nếp nghĩ của mọi người để có thể chuyển biến đến tận gốc rễ những kiểu sống? Ngôi trường tiểu học của chúng tôi đã có một tên mới, từ rất nhiều năm nay. Đôi khi, có dịp đi ngang, thấy tâm hồn chùng thấp? Xúc động lẫn tự hào. Không phải sao! Ở đây đã có những thầy cô hết sức tuyệt vời. Theo nghề bằng tất cả tâm huyết, nhiệt tình, say mê? Những thầy cô như vậy, ngày ấy thật nhiều mà bây giờ sao hiếm? Trăn trở quá là những khát khao bỏng cháy. Làm sao để có được thật nhiều những giáo viên như thầy Trọng, ngày xưa!!!.
    Giải phóng Quy Nhơn rồi cả nước, khi tôi đang học ở Sài Gòn. Tôi bỏ trường về nhà, theo một khóa sư phạm cấp tốc rồi đi dạy. Bốn năm ở một vùng vừa núi vừa đồng như Hoài Châu không phải là dài nhưng những gì tôi và bạn bè được tiếp nhận ở đó thì quả thật không phải là ít. Sự khó khổ là những thử thách và chính sự mộc mạc, chân chất nơi tình cảm, tính cách của những người dân quê đã khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, đảo chao. Tôi thấy cuộc sống nhẹ nhàng hơn khi biết bỏ bớt đi sự ích kỷ, hẹp hòi. Khi ít nghĩ - lo cho chính mình, người ta may ra mới có được một chút đỉnh thời gian để mà hướng đến người khác. Tôi đã có được những khi, biết quên đi "cái tôi dễ ghét" để hòa nhập vào cuộc sống chung của cộng đồng với rất nhiều háo hức, khát khao. Ngày ấy tôi vừa vặn tuổi đôi mươi và tương lai hãy còn bao rộng mở?
    Quê ba chồng tôi ở Tam Quan mà phía má chồng lại ở Khánh Lộc, Phù Cát. Chạp mả phía ba vào tháng mười một và về nhà từ đường phía má lại phải qua giêng. Những địa danh đã trở thành thiết thân sau gần hai mươi năm vợ chồng chung sống. Cũng ngần ấy thời gian tôi kịp nhận ra quê chồng đã như một phần máu thịt và đời sống của mình. Từ món mắm quê đến những động cát. Từ tiếng nói quê cho đến cây cầu. Rồi những thân dừa cao ngất, bến nước, ruộng vườn, con mương? Ở quê, tôi được kêu theo thứ của chồng. Cái tiếng "Hai", "Hai"? cộc lốc, khốc khô không khác gì miếng bánh táp-lô. Nghe vậy, thấy vậy mà thử được kêu, thử được ăn mới hay? sao mà thương dữ? Sao đậm đà?
    Ba chồng tôi mất sớm và tôi ưa ngồi tròn mắt nghe cô, chú chồng kể chuyện hát bộ, hát kết, kéo xơ dừa? Tôi ngồi ngậm ngùi nghe chuyện xưa và quặn lòng nuối tiếc. Rưng rưng bao hoài niệm những cuối năm ở ngay giữa lòng quê mà quay quắt thay cho những tiếng hô bài chòi hụt hơi dần rồi mất biến. Có phải vì muốn lưu giữ và níu kéo thêm quá khứ? mà tôi đã chọn Tam Quan làm bối cảnh cho rất nhiều bài viết và dăm cái truyện ngắn của mình. Với Khánh Lộc, xin thêm một lần khất lại. Được chăng?
    Không phải tôi không thích sông. Những con sông tôi được biết, đi qua hay sống cùng, như: Trà Khúc, sông Ba, sông Côn vẫn trào dâng trong tôi bao nỗi nhớ. Sông dềnh lên trong tâm tưởng mình bao kỷ niệm. Sông hai bờ dặc dài thơm ngái mùi đất ải, cỏ mùn? Sông khi hiền, lúc dữ. Mùa hanh hao an lành, mùa bão lũ khiếp kinh. Sông là thế và chỉ thế ở trong tôi. Chỉ để thích chứ không phải yêu. Yêu như là tôi yêu biển. Tôi chưa hình dung nổi một Quy Nhơn không biển và muốn thốt lên rất nhiều lần lời cám ơn nơi này: một thành phố có biển.
    Biển đã đi qua đời tôi với từng dấu mốc tháng năm đầy trầm - thăng, biến ảo: biển thủa con gái, hồi làm đàn bà, biển hồi nữ sinh, biển khi làm cô giáo, biển lúc đi bỏ mối hàng, biển khi là một người viết? Biển là thế và luôn thế nhưng mỗi thời, mỗi công việc cho tôi cái nhìn rất khác nhau về biển. Để gần gụi và thiết thân thêm. Biển, khi hạnh phúc. Biển, khi khổ đau. Biển, khi tôi vui, lúc tôi buồn. Biển, khi tôi may mắn. Biển, lúc tôi gặp hoạn nạn, tai ương. Biển để yêu thương và chia sẻ? Khi ra biển và đứng lặng người trước khơi xa, lòng tôi như mềm lại. Những ý nghĩ bỗng hiền hòa khi để cho đôi chân trần dẫm lên cát ẩm, bước chậm rãi dọc theo mép nước mặc cho từng lớp sóng mơn man. Tâm hồn tôi bỗng khoáng đạt, thảnh thơi và thanh thản đến không ngờ.
    Tôi không hiểu mình sẽ như thế nào nếu không được sống ở đây. Có thể tôi sẽ giàu có? Có thể tôi sẽ thành công? Có thể tôi sẽ có một ông chồng không là người Bình Định. Không được về Tam Quan. Không còn ra Khánh Lộc. Không biết nói cái thứ tiếng lai lai với những ngữ điệu bắc trong những câu từ miền trung. Hay hay, là lạ? Không được ăn con cá tươi xanh nấu ngót. Không được ăn bánh hỏi, bành bèo? Không viết văn, viết báo. Không đi dẫn chương trình. Không đi lễ nhà thờ Lớn vào chủ nhật. Không ngang bờ hồ mỗi ngày? Không, không và không. Và cái không lớn nhất là không còn một quê nhà thứ hai để mình được nhập vào đó một cách trọn vẹn. Được hòa trong đó một cách thiết tha. Được thương đến tận tụy và được sống đến tận lòng. Không phải sao! Tôi đã yêu Bình Định hơn là tôi có thể tưởng. Không phải sao những trang viết của tôi, những truyện ngắn? của tôi đẫm gắt nơi này: một cơn gió, dăm ba tiếng nói, một con người, những ngả đường, phiên chợ quê, những chùm lá sớm mai, tiếng hô bài chòi khi khuya khoắt, biển cùng sông, cỏ hoa và mùa màng? Không phải sao! Tôi đã chọn nơi này để ở lại, dù có lắm khi vì nguyên cớ này hay vì lý do nọ đã ước ao vô cùng có thể dứt áo để ra đi.
    Bà nội rồi bố mẹ tôi đều nằm xuống ở đây. Ở Bình Định. Và hẳn là tôi nữa, sau này? Tôi đã rất hạnh phúc được chọn nơi này để sống. Sống rất thật lòng như những tháng năm đã sống. Và hạnh phúc nữa, khi được chọn nơi này để viết. Viết rất đắm say như những gì đã viết hồi giờ. Từ nơi này. Phải đó! Chính tự nơi này chứ không phải một nơi nào khác. Từ Bình Định của tôi.
    . Nguyễn Mỹ Nữ
    (Quy Nhơn)

  7. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Hoài niệm Hương Sơn
    10:39'', 28/2/ 2005 (GMT+7)
    Quê tôi là vùng đất bán sơn địa Cảnh Vân, Phước Thành, Tuy Phước. Đường về quê phải đi qua ngọn Hương Sơn mà dân quê tôi quen gọi bằng cái tên mộc mạc dân dã: núi Thơm. Tôi được biết quê nội từ năm lên 7 tuổi, khi háo hức theo cha về miền Nam. Với tôi, mảnh đất Bình Định trước đó chỉ được hình dung qua câu hát: Miền Nam em dừa nhiều, miền Nam em dứa nhiều, miền Nam em xoài thơm, miền Nam em khoai bùi rồi Dừa xanh xanh Bình Định, đồng xanh xanh Tháp Mười, tràm xanh xanh Hậu Giang, là quê em ngoan cường?.
    Tôi yêu quê tôi có dòng Hà Thanh mà theo lời kể của cha là dòng sông hiền hòa bao bọc xóm làng, là con sông chảy trong nỗi nhớ đã thành tên của anh ruột tôi. Khi tôi sinh ra, thoạt tiên cha định đặt tên tôi là Hương Sơn hay Thơm theo tên ngọn núi quê nhà, nhưng rồi có lẽ không mạnh mẽ, nam tính (!) nên cuối cùng tên tôi đã gắn với nỗi nhớ quê Nam của cha suốt 20 năm đất Bắc. Những ngày tập kết, mỗi khi có mưa cha lại vác cần câu hoặc bè vó ra mương. Cha bảo: "Mai mốt thống nhất về quê cha dẫn đi câu ở Bàu Quăng, quê mình nhiều cá lắm". Bạn có thể cho là tôi dài dòng kể lể! Vâng, quê hương thời tuổi nhỏ khi chưa một lần được đặt chân về đã đẹp biết bao trong tâm trí tôi. Ngày trở về, ngay từ xa khi nhìn thấy ngọn núi Thơm, cha chỉ: Sắp đến quê rồi đó!
    Núi Thơm chính là chứng tích đầu tiên ghi dấu cuộc trở về nhận quê của tôi. Thấm thoắt thời gian đã trôi đi gần ba mươi năm kể từ ngày ấy! Dẫu sống ở Quy Nhơn, nhưng ngày còn nhỏ, ngồi sau xe đạp cho cha chở về quê, tôi vẫn còn nguyên cảm giác náo nức khi nhìn thấy ngọn núi quê hương ba ngọn sừng sững đón chào. Sau này, được chú tôi là Hương Sơn lão sĩ Trần Đình Chi đọc cho nghe, tôi lại biết thêm:
    Cây Sanh, cây Xọp, cây Da
    Ba hòn gộp lại gọi là núi Thơm
    Ngọn núi thoai thoải xinh xinh ấy còn là nơi tôi được biết những sự tích gắn với lịch sử quê hương và dòng họ. Người trong họ tôi bảo: Hương Sơn là linh khí của Cảnh Vân, có ăn nên làm ra cũng nhờ có ngọn núi làm bình phong che chở. Bởi vậy, khi xưa sư đoàn 22 ngụy phá núi làm đường đã vấp phải sự phản ứng của dân địa phương nên không dám chạm vào ngọn núi thiêng ấy. Thế nhưng, chúng cũng kịp khoét thành hai rãnh mà dân trong vùng gọi là thăng-sê (hào) khiến cho ngọn núi mang thêm chứng tích thời chiến tranh chống Mỹ. Nhưng điều khiến tôi tự hào về ngọn núi Thơm chính vì ông cố của tôi từng giữ chức Tán tương quân vụ cho đại nguyên soái Mai Xuân Thưởng trong phong trào Cần Vương, bắt Tây về xử tội tại đây.
    Khi đọc cuốn Nước non Bình Định của Quách Tấn, đoạn viết về Hương Sơn quân thứ của Mai Nguyên soái, tôi vô cùng thích thú khi phát hiện nhiều điểm trùng hợp với địa danh quê mình: quê tôi cũng có Hương Sơn, có hòn Chóp Vung, có núi An Chà. Trong phong trào Cần Vương, mảnh đất Phước Thành có ông Thống Bin, có đốc binh Trưng và ông cố tôi là ông Tú Cả tham gia. Phải chăng, tên gọi của các địa danh quê tôi có một mối liên hệ mật thiết với phong trào của Mai anh hùng? Xin nhường các nhà sử học nghiên cứu tìm hiểu.
    Trong cảm xúc hướng về quê nội, tôi đã tìm hỏi những bậc cao niên và cha tôi để được biết thêm: trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quê tôi là vùng tự do, hưởng ứng tinh thần toàn dân kháng chiến, dân quân du kích đã dựng đài cao trên hòn cây Xọp của Hương Sơn để "quan sát địch tiến nơi nào, du kích báo động đồng bào đều hay". Tôi mới vỡ lẽ ra ý nghĩa của tấm bình phong bảo vệ xóm làng khi chợt nhớ bài học vỡ lòng quân sự hồi ở Đại học Sư phạm Quy Nhơn.
    Trong sự phát triển chung của tỉnh nhà, người dân quê tôi đã hưởng cuộc sống đầy đủ hơn, dẫu là một xã nghèo nhưng đường dây điện đã kéo về từng nhà từ mười lăm năm nay thay thế ánh đèn dầu tù mù. Nhiều con đường trong xóm được lát bê tông. Nhưng đáng tự hào nhất là quê tôi có nhiều con em vào đại học hơn trước. Trước kia đời ông cha cũng đỗ đạt cử nhân, tiến sĩ. Bây giờ, nhiều con cháu cũng lấy bằng thạc sĩ và tiếp tục học lên. Dẫu vẫn xếp vào diện xã nghèo, nhưng vượng khí Hương Sơn, như lớp cha chú vẫn tin cùng nền nếp các dòng họ lâu đời và sự quan tâm đến giáo dục của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đã làm rạng danh mảnh đất quê tôi với truyền thống hiếu học. Xã tôi có trường chuẩn quốc gia, có nhiều con em cấp THCS thi đạt giải thủ khoa các kỳ thi học sinh giỏi. Chỉ riêng năm học trước, học sinh Phước Thành đã làm rúng động cả trường chuyên Lê Quý Đôn khi có 9 em thi đều đậu. Các cơ quan báo chí đã về quay phim, phỏng vấn, trong họ tôi có người được đi dự Đại hội Khuyến học Trung ương?
    Nói về cái được của quê hương với niềm tự hào rất riêng nhưng không thể không cảm thấy ít nhiều bâng khuâng khi nói về những vẻ đẹp đã không còn nữa. Ngày mới về, bàu Quăng còn cá, tôi đã được cha dẫn đi câu nhưng rồi giờ đây với thói quen dùng thuốc sâu cũng như việc cạn dần nguồn nước vào mùa hạn do tình trạng phá rừng đầu nguồn sông Hà Thanh, đã khiến bàu Quăng cạn cá từ lâu, thú đi câu của cha chỉ còn lại dàn câu chỏng chơ trên chái nhà lâu lâu nhìn thấy lại thở dài. Cha tuổi đã cao, sức đã yếu, nên tôi chăm về quê hơn. Bây giờ đến lượt tôi lại thở dài! Hương Sơn trong ký ức của tôi đâu rồi? Chỉ thấy những đoàn xe đang lũ lượt móc đất, xẻ đá. Hòn Xọp gần như mất hẳn. Ngọn núi xinh tươi hiền hòa như trải qua một trận bom tọa độ, tan tành nham nhở. Hỏi ra mới biết xã chủ trương bán đất núi, lấy mặt bằng. Cả một quần thể Hương Sơn nếu san phẳng, bán mỗi lô hàng nghìn mét vuông với giá trăm triệu cũng được tiền tỉ (!). Các doanh nghiệp khai thác đá, chủ cây xăng? đang đổ xô vào móc ruột ngọn núi quê tôi. Dân kêu, huyện lên, nhưng đá vẫn bị khai thác vô tội vạ không theo một qui hoạch tổng thể nào. Núi là của chung nên không ai quản lý, đá chẻ giá 1.300 đồng/viên. Ai mạnh cứ đào. Chao ôi, nền kinh tế thị trường lại nghiệt ngã đến thế ư ?
    Tôi chợt nghĩ một mai Hương Sơn không còn vết tích mà ngậm ngùi. Con cái tôi sẽ không biết gì về sự tích quê hương. Kinh doanh kiểu đào rừng khoét núi ấy, sỏi đá có thành cơm cho người dân quê tôi được chăng, hay chỉ làm giàu cho một bộ phận sẵn tiền? Bao người dân quê tôi còn thấp thỏm nỗi niềm chạm vào tâm linh sâu thẳm, sợ mất đi nơi hương khói tổ tiên. Dẫu biết qui luật làm ăn giữa thời tấc đất tấc vàng, nhưng tôi vẫn ao ước có một cách làm hiệu quả, qui hoạch rõ ràng vừa giữ được dấu tích Hương Sơn như một biểu tượng tinh thần quê hương, vừa cải thiện đời sống vật chất dân quê tôi thật sự. Tôi chỉ ước ao giống như ngày trước, tôi cũng chở con về, xa xa thấy ngọn Hương Sơn xanh rợp mà nao nức: "Sắp đến quê mình rồi đó!"
    Tháng 2-2005
    . Trần Hà Nam

  8. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Tình quê và những dòng sông
    15:51'', 22/3/ 2005 (GMT+7)
    Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết những dòng thơ dạt dào cảm xúc: "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn".
    Đất hóa tâm hồn lưu luyến người đi? Hay chính tâm hồn người neo giữ với đất? Điều này tôi đã bao lần suy nghĩ mà chẳng thể phân định được rạch ròi. Nhưng cái cảm giác nhớ đất, nhớ quê thì tôi lại biết rất rõ, từ dạo mới lên mười... Ấy là năm tôi đạt học sinh giỏi. Mẹ tôi cho lên thành phố thăm bà con như một phần thưởng khuyến khích.
    Lần đầu tiên đi xa nhà, được ngồi xe ôtô và nhìn thấy cảnh phố xá đông đúc, nhộn nhịp, sang trọng, tôi cứ ngỡ mình đang lạc vào một thế giới thần tiên trong truyện cổ tích. Ngay ngày đầu tiên lên phố, tôi được các dì, các cậu chở đi chơi công viên, thăm sở thú, cho ăn kem, chụp ảnh, lại còn được mặc sức chọn đồ chơi thỏa thích. Niềm sung sướng, háo hức trào dâng làm cho người tôi thầm ao ước được ở mãi thành phố.
    Nhưng... chỉ sau vài ngày, những cảm giác háo hức vơi dần và thay vào đó là sự trống vắng, nôn nao, cứ như thể mình đánh mất cái gì, bắt phải tìm kiếm. Có khi bưng trên tay ly kem mà cứ nghe thoang thoảng mùi khoai lang nướng. Ngồi bên mâm cơm đủ các món ngon vẫn thấy thèm một tô cháo hến đến nao lòng. Và nhất là khi chiều xuống, bao hình ảnh cứ ào ạt hiện về: nào là cánh diều bay bổng trên triền sông, nào những cụm bông lau vun vút, những dải cát vàng thoai thoải, tiếng của lũ bạn chăn trâu rủ gọi chơi trốn tìm văng vẳng bên tai. Chao ôi! Sao mà nhớ quá. Tôi cuộn mình trong một góc xó, khóc tức tưởi ao ước sao mình có đôi cánh để bay ngay về quê, ào xuống dòng sông, vẫy vùng cho bõ nhớ...
    Tuổi thơ của tôi đã lớn lên hai dòng sông Lại Giang và Kim Sơn của quê hương Hoài Ân đầy nắng gió. Chẳng thể nào quên được những tháng năm đầy ắp kỷ niệm yêu thương của cái thuở mà một buổi đến trường, một buổi chăn trâu. Dòng sông với lũ con nhà nghèo chúng tôi khi ấy, không chỉ là nơi để chơi, để tắm mà còn là nhà, là người bạn cố tri. Hằng ngày đi học, dòng sông Kim Sơn đồng hành cùng chúng tôi đến tận cổng trường. Giờ ra chơi lại đón chúng tôi tung tóe nước dưới bờ xe. Sau buổi học, lũ trẻ trong xóm tôi lại cùng nhau lùa trâu bò xuống thả dưới bãi sông Lại Giang. Hồi ấy, trên sông Lại Giang chưa có con đập tràn xây bằng cốt thép xi măng hiện đại như bây giờ. Để lấy nước tưới tiêu cho đồng ruộng, người ta dùng cây gỗ, tre nứa làm bờ xe. Khúc sông phía trên bờ xe nước trong xanh biêng biếc. Còn đoạn dưới bờ xe, nước chảy theo lạch, theo dòng, để nổi lên những dải cát vàng thoai thoải, những cồn cỏ xanh mượt mà. Sát mép dòng nước chảy, lau sậy vẫn mọc đầy. Đến mùa trổ bông, thân sậy vàng óng ánh, bông lau sậy trắng xóa. Lũ con gái chúng tôi thường bẻ sậy làm bộ que chuyền, có khi còn chọn những cây lau già, lóng dài làm que tính học. Còn lũ con trai thì bẻ bông lau làm cờ chơi đánh trận. Có hôm nào đó không cãi cọ nhau, thì cả bọn cùng chặt lau làm nhà chung, chơi trò lớp học, buôn bán, thả diều, rồi cùng ào ra sông tắm.
    Trên dòng sông Lại Giang, mùa nào chúng tôi cũng tìm được đủ thứ đồ ăn và đủ thứ trò chơi thú vị. Mùa hè, cát phơi nhiều, hến thường tập trung sống theo lạch nước, lũ trẻ chúng tôi chỉ cần lấy chân dũi cát, dòng nước đẩy đi những hạt cát mịn và để lại vô số những con hến vỏ xanh óng ánh, tha hồ mà nhặt, chỉ một loáng là đầy cả túi bự. Hến có thể nấu canh, luộc, xào... Nhưng tôi thích nhất là món cháo hến mẹ nấu bột mì xe mại (thứ bột người ta làm bánh mì bây giờ).
    Ấy là cái thú vị của mùa hè. Còn đến mùa nước nổi, mùa thả bờ xe, thì cả khúc sông xôn xao như mở hội. Người người trong làng đổ ra thăm nước. Nôm, đó, nhũi sắp hàng trên bờ, chờ nước rút cạn để bắt cá. Hồi ấy, lũ nhỏ chúng tôi không vác nổi cái nhũi nhưng cũng háo hức theo người lớn, chờ họ đẩy nhũi lên bờ bắt con cá to, còn những con đỏ gịa, tôm tép, thì chúng tôi nhanh tay nhặt nhạnh hết. Đi suốt cả buổi cũng nhặt mót được vài lưng bát cá. Cá nhỏ thôi, thế mà khi ăn vẫn thấy ngon hơn bất kỳ con cá nào mẹ mua ở chợ về. Ấn tượng về những lần đi bắt cá mùa xe lở đã trở thành một phần ký ức của tuổi thơ không thể nhạt nhòa, để rồi mãi sau này, trong những bức thư của 4 năm học xa nhà, không lúc nào tôi quên dòng tái bút "Mẹ ơi! Độ rày xe đã lở chưa?".
    Hết bắt cá là đến ăn khoai. Cứ sau mùa lũ, dòng sông Lại Giang được bồi đắp thêm một lượng phù sa mỡ màu. Dưới bãi sông, người ta vun giồng trồng khoai lang. Tới mùa dỡ củ, lũ trẻ chúng tôi tha hồ được ăn khoai nướng. Người dân quê tôi khổ nghèo nhưng rất thơm thảo. Chỉ cần lặt hộ vài giồng khoai cũng được cho cả mớ củ.
    Lớn lên một chút, chúng tôi không còn được tụ tập chăn trâu dưới bãi sông nữa. Bởi lẽ người ta đã xây đập ngăn sông. Khúc sông sau lưng làng tôi nước ăm ắp tràn bờ. Những dải cát vàng thoai thoải, những cồn cỏ xanh mướt không còn nữa, những bờ xe nước cũng biến mất. Nhưng thay vào đó, suốt cả miệt sông là những bãi dâu, những luống ngô xanh ngắt bạt ngàn. Bạn bè chúng tôi cũng phân tán dần. Đứa thì theo cha mẹ vào Nam sống, đứa thì đi học nghề. Còn tôi cũng nghỉ việc chăn trâu để lo cho năm học cuối cấp. Mỗi lần nhớ bạn, tôi thường ra bờ sông thì thầm trò chuyện. Chẳng biết dòng sông có phép nhiệm mầu thế nào mà nó xoa dịu được nỗi nhớ. Ngay cả bây giờ và trong thời gian đi học xa nhà cũng vậy, mỗi lần về thăm quê, khi xe dừng lại ở Cầu Dợi, đi bộ một quãng, nhìn thấy nơi giao nhau của hai dòng sông Kim Sơn và Lại Giang, tôi bỗng thấy lòng mình ấm hẳn lại, vui như đang đứng trước cửa nhà.
    Cùng với thời gian, những dòng sông quê tôi cũng đổi thay con nước theo từng năm tháng. Có khi trong vắt, hiền hòa mát rượi, có khi lại cạn kiệt chẳng xuôi dòng. Thế nhưng đến mùa lũ, dòng sông lại hung hãn, đục ngầu, cuồn cuộn, sôi réo sùng sục như cơn giận của thủy thần muốn cuốn đi tất cả những gì có ở ven bờ. Tôi đã từng đắm mình trong dòng sông tuổi thơ, nên mỗi lần nhìn con nước đầy vơi, lòng cứ thấy bồi hồi, xốn xang bao nỗi niềm sâu xa trắc ẩn. Ước sao dòng sông cứ mãi xanh biếc, mãi rì rào vỗ bờ cát... Và mai này, trên quê hương Hoài Ân sẽ mọc lên nhiều nhà máy, nông trường, xí nghiệp nuôi trồng, chế biến nông lâm sản, để tạo việc làm cho người dân nghèo khó , để không còn cái cảnh con người vì mưu sinh trước mắt mà lén lút chặt phá rừng, hủy hoại thiên nhiên, hủy hoại môi trường sống của chính mình. Để trên dòng sông, những bãi tắm sạch sẽ, an toàn được rộn rã tiếng cười giòn tan của trẻ thơ bơi lội. Và cũng mong sao có những chiếc cầu vượt lũ bắt qua sông, để cho người dân xứ Hoài không còn những cảnh đau thương vì ghe lật, đò chìm; cũng không còn phải thấp thỏm lo âu khi con đi học hay khi ốm đau mà không sao đến được bệnh viện khi lũ lớn tràn về...
    Tôi yêu dòng sông bởi những kỷ niệm ngọt ngào, dễ thương của cả thời thơ ấu. Dẫu không còn bóng dáng của những bờ xe nước, không còn những cồn cỏ mượt mà để chăn trâu. Nhưng trong tôi, dòng sông vẫn mãi là cố tri, và những hình ảnh ấy, vẫn mãi là sự hoài niệm, là ước vọng về tình quê - bến bờ!
    . Võ Hạnh

  9. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Hương quê
    15:58'', 15/3/ 2005 (GMT+7)
    "Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người" (Đỗ Trung Quân). Câu thơ dung dị nhưng hàm chứa một triết lý sống sâu xa và cảm động. Làm người ai không có một quê hương để nhớ và phụng sự. Quê hương chính là cái đích ta nhắm tới để tự hoàn thiện mình, để sống xứng đáng hơn. Tôi cũng có một quê hương như thế.
    Không biết tự bao giờ ánh trăng sáng vằng vặc đã len vào hồn tôi và cùng với quê hương theo tôi suốt chặng đường dài. Cái gì đã thành ký ức đẹp sẽ là hành trang vô giá nâng mỗi bước ta đi trên đường đời. Những đêm trăng sáng tỏ soi rõ cả khoảng sân rộng nhà tôi, với độc chiếc quần xà lỏn, tôi ngồi trên vỉa hè say sưa xem đội văn nghệ gia đình phật tử chùa Phước Sa tập múa để biểu diễn trong ngày Lễ Phật Đản năm ấy. Đội văn nghệ toàn nữ, trong ấy có chị Hai tôi. Không khí buổi tập vui vẻ, trời mát dịu, trăng bàng bạc dõi theo từng bước chân nhịp nhàng, từng động tác dịu dàng uốn lượn của các chị. Tôi say sưa ngồi xem và thiếp đi lúc nào không biết.
    Cũng vào những đêm trăng sáng, tôi và các bạn cùng lứa tuổi tung tăng chơi trò u mọi, trốn tìm trên bãi cát trắng phau, mát rượi, vui đùa thỏa thích đến tận khuya. Có khi nằm ngủ luôn trên cát, đến gần sáng mới về. Cứ thế lớn dần lên, chững chạc hơn, đến đêm trăng chúng tôi lại náo nức tranh thủ ăn cơm sớm để còn lên dốc cát cao giữa làng tụ tập ngồi nói chuyện tâm tình với các bạn cùng lớp. Xa xa, những ánh đèn câu cá của ngư dân nhấp nháy như vòng ngọc thạch choàng qua ngực cô thiếu nữ. Thỉnh thoảng chúng tôi lại ngửa mình nằm dài trên cát nhìn sao đang tìm nhau trên bầu trời mênh mông mà mơ mộng.
    Ngày ấy, xã Phước Lý quê tôi (nay là Nhơn Lý) thuộc huyện Tuy Phước, xa xôi, hẻo lánh do cách trở đò giang. Từ Quy Nhơn muốn về quê phải đi đò biển hơn hai tiếng đồng hồ, người không quen đi biển sẽ bị say sóng nôn mửa và mệt cả ngày hôm sau. Vì vậy mặc dù cách nhau chỉ khoảng vài cây số đường chim bay mà đi về ít nhất phải mất hai ngày. Mùa đông mưa bão thì khổ gấp bội lần. Đò máy không thể đi đường biển, mà theo đường đầm Thị Nại đến Khe Đá ( Hội Thành - Nhơn Hội) rồi đi bộ qua động cát mênh mông thì phải hơn một tiếng đồng hồ mới về đến quê nhà. Cách trở như vậy nhưng người quê tôi rất hiếu học. Những năm 60, muốn học lớp nhất (lớp 5) phải lên tận Gò Bồi (Tuy Phước) hoặc Cát Chánh (Phù Cát) để học. Tuy vậy, nhiều người vẫn đùm túm hành trang đi học xa và không ít người đã thành danh đỗ đạt.
    Một dạo (khoảng năm 1964) đang học trung học tại Quy Nhơn về thăm quê sau đợt bọn Tổng đoàn dân vệ vô cớ nổi lửa đốt hàng trăm ngôi nhà của dân ở thôn Xương Lý, tôi được dịp tháp tùng với đoàn người biểu tình đi bằng thuyền chèo từ Huỳnh Giản, Phước Hòa theo đầm Thị Nại đến Bến Bạch Đằng, Quy Nhơn. Khi thuyền gần cập bến, bọn lính đứng trên bờ chĩa súng bắn thẳng vào đoàn người biểu tình. Nhiều người bị trúng đạn, kẻ chết người bị thương máu loang cả trên mặt nước. Trước sự tàn bạo của giặc, đoàn thuyền biểu tình phải tức tốc thoái lui để tránh bớt thương vong. Rút kinh nghiệm, lần thứ hai với lực lượng cách mạng làm nòng cốt, kết hợp vận động sự ủng hộ của nhân dân nội thị, đoàn biểu tình đã tiến được lên bờ và tạo nên một làn sóng biểu tình mạnh mẽ làm rúng động chính quyền ngụy tỉnh Bình Định và chế độ Sài Gòn lúc bấy giờ. Sau đó, đích thân Nguyễn Khánh (bấy giờ là thủ tướng ngụy) đến Nhơn Lý xin lỗi và chịu bồi thường cho những nạn nhân.
    Trong thời gian này, tình hình quê tôi rất phức tạp, bấp bênh. Chính quyền cách mạng làm chủ được vài tháng thì địch kéo về càn quét, ta vừa chống càn, vừa ém quân ở các hang núi sâu ven biển để bảo toàn lực lượng. Đêm đêm, cơ sở của ta ngụy trang giả đi đánh cá để đem lương thực, thuốc men tiếp tế cho các đồng chí trong hang. Tôi còn nhớ, một buổi chiều, bọn lính bảo an phục sẵn ở bãi biển. Một thuyền đánh cá vừa cập bến, chúng liền bắt hai anh thanh niên bịt mắt, trói quặt hai tay ra sau lưng bằng dây dù, rồi kêu gọi dân chúng tập trung xem chúng xử. Khi đã có một số người đứng vòng quanh, chúng tuyên bố hai anh này là cộng sản và chĩa súng vào mang tai bóp cò. Hai anh gục xuống hy sinh. Những năm chiến tranh, cái chết thường diễn ra lạnh lùng và tàn khốc như vậy đó. Tôi có người chú ruột lúc ấy làm cán bộ thanh niên xã mà tôi rất yêu quí, tết 1965, tôi và chú thức đón giao thừa và đánh cờ tướng suốt đêm. Chú hứa với má tôi khi ra "cứ" sẽ tìm cách liên lạc với ba tôi đang tập kết ở miền Bắc. Không ngờ đó là năm cuối cùng chú tôi sum họp với gia đình. Năm 1966, sư đoàn mãnh hổ Đại Hàn đổ quân xuống núi Bà (Cát Chánh - Phù Cát), chú tôi cùng vài đồng đội khác ở trong hang bị chúng ném lựu đạn, hy sinh, cho đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt.
    Quê hương trong tôi vừa đẹp, vừa nên thơ, nhưng cũng thấm đẫm máu và nước mắt. Người dân quê tôi chân chất, vất vả, "ăn sóng, nói gió" nhưng rất mực thủy chung với cách mạng, khi cần họ đoàn kết thành một khối đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù.
    Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân Nhơn Lý đã chung sức xây dựng quê hương. Ngày nay, bộ mặt của Nhơn Lý đã hoàn toàn đổi mới, nhiều ước mơ bao đời nay đã thành hiện thực. Nếu ngày xưa, muốn về quê phải đi bằng đò biển gian khổ, thì ngày nay đã có đường ô tô về đến nơi; nếu ngày xưa, ban đêm leo lét ánh đèn dầu, thì nay điện đã bừng sáng tận thôn xóm. Có điện, mọi sinh hoạt đời sống xã hội đã tiến bộ hơn. Người dân đã có nước sạch để dùng, nhiều nhà sắm tivi, tủ lạnh, quạt máy? hàng quán, chợ búa, trường học, trạm xá, bưu điện, trạm phát sóng truyền hình? đều được xây mới khang trang. Đặc biệt trước đây giữa hai thôn Hưng Lương và Xương Lý cách nhau bởi một nghĩa địa vắng vẻ thì nay đã thực hiện việc di dời mồ mả, san ủi mặt bằng, tạo nên một khu dân cư mới, đã mọc lên vài nhà cao tầng, khu chợ mới bề thế sầm uất. Diện mạo một thị trấn mới đang được hình thành.
    Nhịp sống nhộn nhịp là vậy nên giá đất cũng lên vùn vụt. Cách đây 4 năm, 1 mét vuông chỉ 100 ngàn đồng, thì nay đã 1 triệu đồng. Đa số dân từ nội thành Quy Nhơn sang mua để đó chờ thời. Có lẽ họ đang nghĩ đến tương lai và tin tưởng về sự phát triển năng động của vùng đất này.
    Vừa qua, ngày 22-8-2004, phiến dầm đầu tiên của công trình vượt đầm Thị Nại đã được lắp đặt, mở đầu cho việc hình thành một trong những chiếc cầu dài nhất Việt Nam. Chúng ta vui mừng vì bán đảo Phương Mai, vùng đất mênh mông bạt ngàn cát trắng rộng trên 10 ngàn ha với nhiều tiềm năng và lợi thế bị lãng quên suốt hàng trăm năm qua, nay đã được đánh thức. Trong tương lai sẽ phát triển thành Khu Kinh tế tổng hợp Nhơn Hội bao gồm: Khu công nghiệp tập trung (khoảng 1000 ha); Khu đô thị mới Nhơn Hội (khoảng 500 ha dự kiến dân số năm 2010 khoảng 80 nghìn dân); Khu cảng nước sâu và các công trình dịch vụ cảng (khoảng 450 ha); Khu du lịch Nhơn Hội (khoảng 500 ha) ? Tất cả đang được gấp rút thi công theo đúng kế hoạch. Trong "Phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020", Thủ tướng chính phủ cũng đã phê duyệt Khu kinh tế Nhơn Hội (Bình Định) là một trong những hạt nhân, trung tâm phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
    Ôi, biết bao sự kiện tốt đẹp đang diễn ra với quê tôi và các xã ven biển thuộc bán đảo Phương Mai. Con đường Nhơn Hội - Đề Gi đã cơ bản hoàn thành, đoạn đường từ Cát Tiến đi Đề Gi (Cát Khánh) đã được khánh thành đẹp như huyền thoại, lung linh phép mầu như trong truyện cổ tích. Con đường đã đưa những vùng quê bao đời cơ cực đến gần hơn với văn minh hiện đại. Di tích chùa Ông Núi đang được sửa chữa trùng tu sẽ là điểm du lịch lý thú đối với du khách. Đứng trên đỉnh đèo Vĩnh Hội (Cát Hải) nhìn về Nhơn Lý thoáng đãng qua vùng nước biển trong xanh, lòng tôi rạo rực dâng trào niềm vui khó tả. Rồi đây, dọc bãi biển dài trên 5 cây số từ Trung Lương (Cát Tiến) đến Vũng Bấc (Nhơn Lý) sẽ mọc lên những Đầm Sen, những Suối Tiên, những khách sạn hiện đại, nhà nghỉ mát lý tưởng? phục vụ du khách trong nước và quốc tế. Với bãi biển rộng, dài, thoai thoải, nước trong xanh bốn mùa, nơi đây sẽ là một trong những bãi tắm đẹp nhất nước. Thắng cảnh Eo Gió (Nhơn Lý) với bãi Đá Đẻ, với Suối Tiên róc rách nước ngọt quanh năm, với rạn san hô đẹp phong phú sinh vật biển sẽ là điểm du lịch kỳ thú và hấp dẫn đang mời gọi các nhà đầu tư ?
    Tháng 6-2004, trong đoàn của Hội Văn học nghệ thuật Bình Định, tham dự trại sáng tác Vũng Tàu, đi thăm một số danh lam thắng cảnh ở Vũng Tàu, tôi chú ý Đài Liệt sĩ được xây dựng rất đẹp trên gò đất rất cao và rộng; bên cạnh những kiến trúc hiện đại, ở đây còn sót lại nhiều vùng đất cát hoang sơ um tùm những cây dương liễu, xương rồng, tôi lại nhớ đến vùng đất bạt ngàn cát trắng ở quê mình. "Đến Vũng Tàu tôi lại nghĩ về Nhơn Hội/ Thành phố Quy Nhơn đang gặp dịp hóa rồng/ Chiếc cầu vượt Đầm đang được thi công/ Bán đảo Phương Mai từng ngày cựa mình sinh nở/ Tôi yêu Vũng Tàu vì những gì chưa khai phá/ Như
    yêu quê mình cơ cực sẽ qua đi" (Đến Vũng Tàu nghĩ về Nhơn Hội). Thực ra nếu xét về qui mô xây dựng trong tương lai, Vũng Tàu không thể sánh bằng Nhơn Hội. Nói như thế để thấy trước hình ảnh của Nhơn Hội trong tương lai mà tin yêu, mà trân trọng công sức của những con người đang đặt những viên gạch đầu tiên khởi đầu cho "bệ phóng" vào tương lai này.
    Theo ông Vũ Hoàng Hà, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định, một con người quyết đoán và tâm huyết với công trình thế kỷ cầu đường Quy Nhơn - Nhơn Hội, tiềm năng vẫn chỉ là tiềm năng nếu nó không được đánh thức và bán đảo Phương Mai sẽ không thể phát triển nếu nó không giải quyết được sự cách trở của tự nhiên để kéo Phương Mai về gần với nội thành Quy Nhơn hơn.
    Với ý nghĩa đó, cây cầu Quy Nhơn - Nhơn Hội chính là phép màu của bà tiên tốt bụng mang điềm lành đến với nhân dân các xã bán đảo Phương Mai, nhân dân Bình Định nói riêng, cả khu vực miền Trung và Tây Nguyên nói chung. Bởi khi khu kinh tế Nhơn Hội hoàn thành, nó sẽ tạo ra một bước đột phá đưa Bình Định trở thành hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm khu vực miền Trung.
    "Một dạo tôi về thăm quê nội/ Động cát gió vờn xây những kỳ quan" - khi viết những câu thơ này, tôi không nghĩ một ngày kia nó trở thành sự thật. Nhưng điều kỳ diệu ấy đang diễn ra, đang là niềm tin, niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Bình Định. Rồi đây, quê hương tôi sẽ phát triển vượt bậc trong 5-10 năm nữa, nhưng những ký ức về quê hương thuở ấu thơ sẽ chẳng bao giờ nhạt nhòa trong tôi. "Đường đã rộng hơn nhà cửa đẹp hơn/ Điện đã sáng ước mơ vùng đảo nhỏ/ Trái lưỡi long bên sườn đồi vẫn đỏ/ Bông du dẻ vàng thơm hương quê" (Hương quê).
    . Võ Ngọc Thọ
    (44 Trần Hưng Đạo, Quy Nhơn)

  10. tranhanam

    tranhanam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    568
    Đã được thích:
    0
    Quy Nhơn của tôi, những ký ức và ước vọng vươn tới tầm cao
    16:14'', 8/9/ 2004 (GMT+7)
    Tôi không phải là người sinh ra ở thành phố biển Quy Nhơn. Nhưng hơn nửa quãng đời của tôi đã sống và trưởng thành ở nơi này. Quy Nhơn đối với tôi, với những đứa con của tôi được sinh ra trên mảnh đất này là quê hương, là nơi chôn nhau cắt rốn của chúng. Dù ai đó bảo rằng Quy Nhơn không phải là quê hương của tôi, tôi chỉ mỉm cười, bởi tôi đã quyết định, tự hào được là người con của Quy Nhơn.
    * Những ký ức đã qua và hiện tại
    Năm 1983, tôi từ giã cố đô Huế vào Quy Nhơn nhận công tác. Quy Nhơn bấy giờ vẫn còn in rõ trong ký ức của tôi. Một thị xã nằm ven biển, vắng lặng, hiền hòa, không ồn ào, náo nhiệt xô bồ. Những con đường nhỏ hẹp nằm khuất sau những hàng cây cổ thụ. Những ngôi nhà mặt phố nhỏ bé rêu phủ, im lìm trong giấc ngủ trưa. Rất ít hàng quán, đường thưa thớt người qua lại, cỏ dại còn bao phủ nhiều mảnh đất trống trong thị xã và nhất là khu vực phi trường cũ. Đêm xuống không ai dám đi qua khu vực này vị sợ bóng đêm và nạn cướp cạn. Bệnh viện nơi tôi làm việc, chỉ có 200 giường bị xuống cấp nghiêm trọng, thiếu thốn mọi thứ. Người có tiền đau ốm gì cũng vào Sài Gòn chạy chữa. Thị xã hầu như yên ắng suốt ngày, chỉ có một ngôi chợ mang tên chợ Lớn Quy Nhơn, nhưng người mua kẻ bán thưa thớt, không ồn ào, náo nhiệt như vốn là tính chất của chợ. Cảng biển Quy Nhơn thưa thớt tàu quốc tế đến ăn và trả hàng. Chỉ có bến cá ở phường Hải Cảng, chiều về rất tấp nập, trong tôi bây giờ vẫn còn nghe tiếng cãi vã, tranh giành của người mua kẻ bán. Đó là ký ức và kỷ niệm về người dân biển Quy Nhơn, hẹn tôi ra bến nhận quà biếu bác sĩ bằng những con cá to còn tươi rói.
    Thị xã Quy Nhơn ngày ấy hầu như bị cô lập bởi phía sau là những rặng núi già, phía trước là biển cả mênh mông tiếp giáp với những làng ngư dân ven biển chìm khuất sau những hàng dừa xanh ngát. Bãi biển không người dám tắm vì quá dơ bẩn do những làng chài sinh sống trên bờ. Hai đầu của thị xã chỉ có một con đường độc đạo vừa đi ra vừa đi vào cách đường quốc lộ gần 10 cây số làm khách thập phương muốn ghé thăm cũng ngại ngùng. Không có nơi vui chơi, giải trí, công viên Quang Trung thì quá nhỏ, tối tăm chỉ dành cho tệ nạn xã hội. Rất ít nhà hàng ăn uống sang trọng, quán xá thưa thớt, muốn tổ chức hội hè người ta phải tự làm ở nhà. Nhà hát trung tâm thành phố thì đã xuống cấp và lỗi thời, thi thoảng mới có một đoàn nghệ thuật về biểu diễn. Những con đường đầy bụi cát và rác bẩn không có vỉa hè đã quá quen thuộc với người dân.
    Đó là những hình ảnh còn đọng lại trong ký ức của tôi về Quy Nhơn hơn 20 năm về trước. Đời người luôn có những thăng trầm, sự vật cũng thăng trầm, thế thì Quy Nhơn cũng có những thăng trầm của nó. Nếu bạn hỏi Quy Nhơn bây giờ thay đổi như thế nào? Tôi xin nói thật lòng là Quy Nhơn đã khác xa hồi ấy. Thay đổi để mỗi ngày một mới hơn, đẹp hơn, hiện đại hơn là điều dễ nhận thấy nhất ở thành phố biển này.
    Đầu tiên phải kể đến là một khu dân cư mọc lên giữa vùng đầm lầy bằng chính mồ hôi, nỗ lực của chính quyền và người dân thành phố. Khu dân cư đầm Thị Nại với nhiều con đường phố, những ngôi nhà xây hiện đại và khu chợ Đầm nổi tiếng các loại hàng thủy sản, nông nghiệp. Con đường độc đạo đã được mở rộng nhiều làn xe chạy thẳng từ quốc lộ đến tận cửa Cảng. Một con đường mới xây dựng chạy dọc ven bờ biển nối liền hai tỉnh Phú Yên và Bình Định, chạy thẳng vào trung tâm thành phố, rồi thông ra quốc lộ 1A, với phong cảnh đẹp như trong huyền thoại đã mở ra tiềm năng du lịch to lớn cho Quy Nhơn. Một khu nghỉ mát do nước ngoài đầu tư mang tên Bãi Dài đã đi vào hoạt động phục vụ khách du lịch quốc tế. Khu dân cư khu vực phi trường được xây dựng với nhiều khu phố, đại lộ Nguyễn Tất Thành đêm xuống đèn đường sáng rực, có những hàng cây, khu rừng nhỏ nhân tạo che mát quanh năm. Một trung tâm hội chợ triển lãm tầm cỡ quốc gia mọc lên bên cạnh một siêu thị hiện đại, thuận lợi cho người dân mua sắm. Quảng trường lớn của thành phố phủ một màu cỏ xanh là nơi diễn ra nhiều buổi lễ quan trọng và nơi thoáng đạt cho những cánh diều trẻ thơ mơ ước bay cao vào những chiều hè. Nhiều hàng quán mở ra, xe cộ nhộn nhịp suốt đêm ngày. Cảng biển quốc tế Quy Nhơn đã mở rộng, giờ đây luôn tấp nập tàu các nước trên 3 vạn tấn ra vào ăn hàng trả hàng suốt ngày đêm. Nhiều cảng cá cho ngư dân được xây dựng, những làng chài đang được quy hoạch, tàu thuyền của ngư dân được đầu tư lớn hơn, đánh bắt nhiều hơn. Dọc bờ biển từ trung tâm thành phố đến dốc Quy Hòa đã mọc lên những khách sạn 3 sao, khu nghỉ mát hiện đại chuẩn bị sẵn sàng đón khách du lịch bất cứ lúc nào. Bờ biển được quy hoạch, có kè chắn sóng, có khu công viên và những bãi tắm riêng biệt có sóng biển và cát mịn trắng tuyệt vời. Con đường ven biển mang tên nhà thơ lớn Xuân Diệu tạo nên một vành đai thuận lợi cho khách du lịch thưởng ngoạn phong cảnh biển. Những con đường trong thành phố đã nâng cấp, tráng nhựa hiện đại và mở rộng hơn. Khu Ghềnh Ráng nơi yên nghỉ của nhà thơ Hàn Mặc Tử và bãi tắm Hoàng Hậu đã được chỉnh trang thành một nơi du lịch nổi tiếng. Mộ Hàn Mặc Tử không còn nằm cô đơn chuyện trò cùng ánh trăng nữa, mà luôn tấp nập khách thập phương đến chiêm ngưỡng. Bệnh viện của tôi đã được nâng cấp, giờ đây là một bệnh viện 600 giường, trang bị tương đối hiện đại, thầy thuốc đủ trình độ điều trị bệnh cho người dân, ít trường hợp phải vào Sài Gòn, ra Hà Nội chạy chữa. Sân bay Phù Cát cách thành phố chừng 30 km đã được cải tạo hiện đại hơn chuẩn bị chờ đón khách du lịch. Khu công nghiệp Phú Tài ở cách thành phố hơn 10 km đang thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến làm ăn. Một dự án lớn đầy tham vọng của chính quyền đang được triển khai, mở rộng thành phố Quy Nhơn ra vùng bán đảo Nhơn Hội. Một cây cầu dài gần 2,4 km hiện đại bắc xuyên trên biển nối liền trung tâm thành phố với khu đô thị mới Nhơn Hội. Khu đô thị mới với những công trình kiến trúc hiện đại, những khu thương mại, dịch vụ tầm cỡ quốc tế sẽ đưa Quy Nhơn tiến lên thành một thành phố lớn ngang hàng với những thành phố lớn trong cả nước.
    Có những ký ức về Quy Nhơn trong tôi đã trải qua từ lâu lắm, có ký ức mới qua gần đây và có ký ức vừa mới xảy ra ngày hôm qua, một ngày trôi qua đã là quá khứ, những thay đổi diễn ra hàng ngày của thành phố cứ thế trở thành ký ức in sâu trong tâm trí của tôi, làm tôi luôn ngập tràn hy vọng vào tương lai của thành phố. Nếu ai đó trách rằng, đổi thay của Quy Nhơn quá chậm chạp, cái mới đã vươn lên nhưng cái cũ vẫn còn, cái đẹp đã lộ ra, nhưng cái xấu vẫn còn ẩn náu đâu đó, tôi cho rằng đó là quy luật tự nhiên của sự thay đổi. Quy Nhơn trong ký ức sẽ luôn tồn tại xen kẽ giữa một Quy Nhơn hiện đại hôm nay và tương lai với một Quy Nhơn đã tồn tại từ hàng trăm năm trong quá khứ. Đó mới chính là sự thay đổi.
    * Những ước vọng vươn tới tầm cao
    Tôi không phải là một nhà hoạch định kinh tế xã hội, có thể những ước vọng của tôi không hoàn toàn đúng, nhưng vì tình yêu đối với thành phố biển Quy Nhơn, tôi mạnh dạn bày tỏ những ước vọng tốt đẹp nhất dành cho Quy Nhơn mang xuất phát từ trái tim và lòng nhiệt tình của tôi thông qua những kiến thức và trải nghiệm của chính cuộc sống mang lại.
    Quy Nhơn phải là thành phố của văn hóa du lịch và là nơi cho ngành công nghiệp đánh bắt, chế biến thủy sản phát triển. Có lẽ đây là hai thế mạnh mà bất cứ thành phố biển nào cũng có, nhưng quan trọng là làm sao để chúng phát triển mạnh mang lại sự tăng trưởng đời sống kinh tế xã hội cho thành phố. Tôi có dịp đi tham quan nhiều thành phố biển trong cả nước và một số nước trong khu vực ASEAN, nói thật lòng ngoài khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng Bali của Indonesia, tôi tự hào chưa có thành phố nào có những bãi biển đầy sóng vỗ và cát trắng mịn như Quy Nhơn, cơ hội trời ban để thu hút khách du lịch. Tôi mong ước một ngày nào đó, ven bãi biển sẽ mọc lên nhiều khách sạn, nhà nghỉ không cần phải cao đến vài chục tầng, nhưng mang dáng vẻ hòa trộn giữa kiểu cách phương Đông và hiện đại của phương Tây. Những khu nhà hàng ăn uống đủ thứ hải sản, những cửa hiệu đầy ắp đồ lưu niệm sẵn sàng phục vụ khách du lịch bất cứ khi nào. Công viên trên dọc bờ biển đầy hoa vùng nhiệt đới và những khu rừng dừa nhân tạo soi bóng trong làn nước biển xanh ngát. Trên mặt biển nhiều hoạt động giải trí tìm cảm giác mạnh như chạy ca nô cao tốc cá nhân tung sóng suốt cả ngày. Những trạm phà như những nhà hàng lớn neo ngoài khơi gần bờ cho du khách tìm cảm giác mạnh bằng trò chơi dù bay. Nhiều trò giải trí trên biển như thi chạy thuyền buồm, câu cá, lặn tham quan bắt cá dưới đáy biển, đánh bóng trên biển, hàng trăm du khách đang ngụp lặn tắm mát suốt cả ngày. Trên bờ và dưới biển không bao giờ yên tĩnh, luôn tràn ngập tiếng cười vang, la hét, hoan hô cổ vũ.
    Một số cầu cảng nhỏ xây dựng ở cuối bãi biển gần Ghềnh Ráng dành cho các tàu cao tốc đưa đón khách du lịch đi tham quan, tắm biển ngoài đảo Nhơn Châu, tham quan khu tượng đài vị tướng lừng danh trong lịch sử Trần Hưng Đạo. Nơi nào du khách đến cũng có cửa hiệu, nhà hàng sẵn sàng phục vụ. Tàu cao tốc đưa khách du lịch đi dọc theo bờ biển để thưởng ngoạn cảnh đẹp trên bờ dọc theo đường Quy Nhơn - Sông Cầu, rồi ghé vào những hòn đảo nhỏ thưởng thức các món ăn hải sản, nghỉ ngơi và lại tiếp tục cuộc hành trình đến các hòn đảo xa hơn. Trên các hòn đảo này người ta xây dựng như một thiên đường thu nhỏ. Khu đô thị Nhơn Hội lúc nào cũng tấp nập khách nước ngoài đến làm ăn, du lịch. Đường phố lũ lượt đủ loại khách du lịch nước ngoài qua lại. Họ đi theo tour, đi theo từng nhóm, theo gia đình, cá nhân cũng có, ai cũng nở nụ cười thỏa mãn khi đến thành phố biển Quy Nhơn. Thành phố được mở rộng về phía bắc, đến thị trấn Bình Định, huyện Tuy Phước và hơn một nửa huyện Vân Canh. Có một xa lộ cao tốc chạy thẳng tắp từ quốc lộ 1A đến trung tâm đô thị Nhơn Hội, cảng biển quốc tế Quy Nhơn luôn tràn ngập dòng xe cộ đủ loại. Một khu du lịch rừng nhân tạo và nuôi thú hoang dã nằm dọc theo hai bên bờ sông Hà Thanh rộng gần 100 hecta có đủ loại thú rừng quý hiếm cho khách du lịch thưởng ngoạn bằng xe ô tô có kính bảo vệ.
    Người dân Quy Nhơn trong mong ước của tôi sẽ là một thế hệ có tri thức, được giáo dục kỹ lưỡng về văn hóa cuộc sống từ ứng xử, quan hệ với nhau, quan tâm khách du lịch hết lòng, sẵn sàng chia sẻ giúp đỡ khi họ có yêu cầu. Một đội ngũ nhân viên phục vụ khách từ tài xế taxi, nhân viên phục vụ, bán hàng thật niềm nở, có trình độ ngoại ngữ, tri thức, nhất là thuộc lòng lịch sử thành phố, các thắng cảnh đẹp, di tích văn hóa để sẵn sàng phục vụ khách du lịch. Trên bờ biển và trên các con đường trong thành phố luôn sạch bóng, không một tí rác thải rơi vãi. Xe cộ nối nhau chạy theo từng hàng. Người dân có ý thức bảo vệ môi trường, bỏ rác đúng nơi quy định.
    Biểu hiện mang tính văn hóa đặc thù của thành phố mà tôi mong ước sẽ là một tháp truyền hình cao vài trăm mét, chân tháp là nơi du khách nghỉ ngơi thưởng ngoạn có hệ thống đèn màu chiếu sáng về ban đêm rất đẹp mắt. Tháp mang hình nghệ thuật biểu tượng riêng của Quy Nhơn, du khách có thể lên tận đỉnh tháp bằng thang máy để ngắm nhìn Quy Nhơn về ban đêm dưới ánh đèn màu rực rỡ. Bất cứ một ngã ba, ngã tư nào cũng có một tượng đài nghệ thuật và những đài phun nước, những vườn hoa đủ sắc quanh năm khoe màu. Mỗi buổi tan trường, từng đoàn các em học sinh tung tăng, vui vẻ đi theo hàng trên các vỉa hè trong các bộ đồng phục đủ màu sắc, mỗi trường tự chọn một màu, không trường nào giống trường nào. Du khách ngắm nhìn các em với lòng ngưỡng mộ. Không còn những em bé đánh giày, những người nghèo ăn xin, những kẻ bán hàng rong chèo kéo khách du lịch. Xung quanh thành phố là những khu rừng nhân tạo che phủ một màu xanh tươi mát cho những rặng núi già kéo dài dọc theo đường Quy Nhơn - Sông Cầu, nhiều khu du lịch, cắm trại, picnic mọc lên ở đó.
    Trong ước vọng của tôi, vành đai trồng các loại rau sạch cung cấp cho thành phố vẫn còn được nông dân trồng trọt với phương pháp hiện đại hơn. Du khách có thể ngắm nhìn hàng dãy các loại rau sạch với một màu xanh lục đậm nhạt trong ánh nắng ban mai. Các chợ đã biến thành các khu trung tâm mua sắm, khu siêu thị bán đủ các loại hàng cho du khách, từ hàng cao cấp, hàng hạ giá, bán sỉ đến bán lẻ, muốn mua gì cũng có. Hàng quán, quầy bar, vũ trường đèn màu rực rỡ được quy hoạch thành những khu riêng biệt phục vụ cho khách du lịch suốt cả đêm. Quy Nhơn nhộn nhịp, không bao giờ có giấc ngủ, ai đi ngủ sớm coi như bỏ phí một nửa cuộc du hành.
    Dọc ven bờ biển của phường Hải Cảng, nhiều cảng cá, khu buôn bán hàng hải sản phục vụ tấp nập suốt ngày. Tàu thuyền đánh bắt chuyên dụng hiện đại, to lớn ra vào cảng liên tục. Ngư dân người nào cũng có trình độ khả năng điều khiển con tàu đi biển dài ngày. Từng đàn chim hải âu nối đuôi nhau bay theo các con tàu rẽ sóng vào bờ rất vui mắt. Ngư dân không còn trú ngụ trên tàu, họ có những khu quy hoạch định cư đủ tiện nghi cho họ và gia đình nghỉ ngơi sinh sống sau mỗi chuyến đi biển về. Nhiều nhà máy chế biến hải sản và nông sản hoạt động liên tục ở khu công nghiệp Phú Tài, Long Mỹ... Từ nơi đây, những chuyến hàng hải sản, nông sản mang nhãn hiệu "Sản xuất tại Quy Nhơn, Việt Nam" lên đường xuất sang các nước.
    Nhà hát kịch trung tâm thành phố chiếm một khu đất rộng ngay giữa lòng thành phố cao hơn 4 tầng, theo lối kiến trúc vừa hiện đại vừa mang những nét dân tộc. Nơi đây lúc nào cũng đông đúc khách du lịch trong, ngoài nước và cả dân thành phố đến thưởng thức các đoàn nghệ thuật biểu diễn. Tất cả công dân của thành phố đến tuổi trưởng thành đều có việc làm ổn định, chủ yếu nhờ vào dịch vụ phục vụ khách du lịch. Thu nhập của người dân tăng trưởng từng ngày. Không còn cảnh xe mô tô chen lấn đường đi, ai cũng có ô tô riêng để đi lại. Thế nhưng, rút kinh nghiệm ở những thành phố phát triển hay bị tắc nghẽn xe cộ, Quy Nhơn trong ước vọng của tôi vẫn nên duy trì phương tiện đi lại bằng xe đạp, có những làn đường chỉ dành cho xe đạp.
    Dáng vẻ sang trọng, tính cách công nghiệp, phong cách lịch thiệp, ăn mặc hợp thời trang là sự đổi mới đáng ghi nhận của người dân thành phố. Các bạn có thể cho rằng ước vọng của tôi quá lớn, quá viển vông, quá tham vọng làm sao thực hiện được? Không! Tôi xin nói rằng ước vọng ấy không có gì là quá lớn, quá viển vông cả. Tất cả là sự tổng hợp những điều tốt đẹp nhất từ các thành phố biển du lịch trong nước và trong khu vực ASEAN mà tôi có dịp tham quan. Họ làm được tại sao chúng ta không làm được? Cũng có thể những ước vọng của tôi chỉ sẽ là ước vọng, nhưng dù sao nó cũng giúp cho tôi yêu thành phố Quy Nhơn của tôi nhiều hơn, làm tôi mạnh mẽ hơn và cố gắng từng ngày để góp phần nhỏ công sức trí tuệ của mình cho những ước vọng ấy biến thành sự thật. Bạn có tin rằng có thể 5 năm, 10 năm hay nhiều năm hơn nữa, Quy Nhơn của tôi trong ký ức sẽ trở thành một Quy Nhơn trong ước vọng?
    . Hà Thúc Chí

Chia sẻ trang này