1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lạc đường - Đào Hiếu

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi ngtoithuong, 20/02/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    18. Lời thú tội của một sát thủ
    Khi còn là sinh viên, tôi đã có dịp tiếp xúc với những tài liệu về nền công nghiệp chế tạo vũ khí của Mỹ, nhưng gần bốn mươi năm sau, khi xem cuốn phim Fahrenheit 9.11 của Michael Moore tôi mới thực sự nhìn thấy hiểm hoạ ghê gớm từ một nền công nghiệp như vậy.
    Nền công nghiệp ấy đã từ lâu quyết định chính sách đối ngoại của chính phủ Hoa Kỳ. Đó là một chính sách đạo tặc, ngạo mạn và man rợ. Đường lối đối ngoại của chính phủ Hoa Kỳ mang nhãn hiệu của bọn linh cẩu, bọn báo đốm, sư tử và chó sói.
    Chính sách ấy bốc mùi tanh máu cả hành tinh, làm ngầu bọt đỏ những dòng sông, bê bết óc tuỷ người trên những bức tường đổ, vung vãi thi thể, tứ chi, ruột gan phèo phổi trên đường phố đổ nát, thiêu cháy trẻ thơ trong những làng mạc.
    Chính sách ấy làm tanh tưởi những ngọn gió, biến những đồng ruộng thành tro than, làm bốc cháy sa mạc.
    Đó là chưa kể những chiến lược lừa đảo kinh tế quy mô toàn cầu được nguỵ trang dưới danh nghĩa rất cao đẹp như: viện trợ, đầu tư, phát triển? Có lẽ chúng ta đã quen với những cái tên ?ođáng kính? như: Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ (USAID), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)?
    Trong cuốn Lời thú tội của một sát thủ kinh tế (Confessions of an Economic Hit Man của John Perkins, bản dịch tiếng Việt - Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin 2006) chúng ta đọc được ở ngay trong ?oLời tựa?:
    Những sát thủ kinh tế là những chuyên gia được trả lương hậu hĩnh để đi lừa các nước trên thế giới lấy hàng nghìn tỉ đô la.
    Họ đổ tiền từ Ngân hàng Thế giới, từ Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, và từ các tổ chức ?oviện trợ? khác? vào két sắt của các tập đoàn khổng lồ và vào túi của những người đang nắm quyền kiểm soát các tài nguyên thiên nhiên của hành tinh này.
    Công cụ của họ là các báo cáo tài chính nguỵ tạo, những cuộc bầu cử gian lận, các khoản hối lộ, tống tiền, ******** và giết người.
    Họ cũng diễn cái trò cũ của chủ nghĩa đế quốc song đã biến đổi theo những chiều hướng mới, đáng ghê sợ hơn trong thời đại toàn cầu hóa.
    Tôi biết những điều này vì tôi đã từng là một EHM (Economic Hit Man ?" Sát Thủ Kinh tế.)
    Thực tế này một lần nữa lại được John Perkins chứng minh trong tác phẩm của mình bằng bi kịch của nước Ecuador như sau:
    Từ năm 1968 đất nước nhỏ bé này đã dần trở thành nạn nhân điển hình của chế độ tập đoàn trị. Những người cùng thời với tôi và những người đang theo bước chúng tôi, thật sự đã đẩy nó đến bờ vực phá sản. Chúng tôi cho đất nước này vay hàng tỉ đô la để nó có thể thuê các công ty của chúng tôi dựng nên những công trình phục vụ tầng lớp giàu nhất đất nước này. Kết quả là trong vòng ba thập niên, tỉ lệ nghèo đói chính thức tăng từ 50% lên 70%, thất nghiệp tăng từ 15% đến 70%, công nợ tăng từ 240 triệu USD lên 16 tỉ USD và ngân sách dành cho những người nghèo nhất giảm từ 20% xuống còn 6%. Ngày nay Ecuador phải dành gần 50% tổng ngân sách quốc gia để trả nợ. (trích Chương 34, trang 285-286)
    Mỉa mai thay, cái ?otầng lớp giàu nhất đất nước? ấy chẳng những đã không bị coi là kẻ đồng loã với ngoại bang mà còn được ghi công như những anh hùng vì đã xây dựng nên những công trình to tát, những khu đô thị mới, những khu công nghiệp?
    Về các khu công nghiệp, John Perkins đã viết: ?oChúng đến? với một mục đích rõ ràng là bóc lột những người dân khốn khổ, những người mà con cái họ bị suy dinh dưỡng trầm trọng, thậm chí đang chết đói, những người đang sống trong những khu nhà ổ chuột và đã mất hết hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
    Ngày nay, bọn chúng không cần phải vào rừng rậm châu Phi để tìm nô lệ mà chỉ cần thuê cái đám dân nghèo đói kia, về làm việc cho các nhà máy sản xuất áo khoác, quần jean, giày thể thao, phụ tùng ô-tô, linh kiện máy tính và hàng ngàn những thứ khác. Thậm chí chúng chẳng cần làm chủ nhà máy, thay vào đó, chúng thuê một doanh nhân bản địa để làm những công việc bẩn thỉu cho chúng.? (Trích trang 253-254)
    Những ?ocông việc bẩn thỉu? ấy chính là sự vắt kiệt sức lao động của công nhân với đồng lương rẻ mạt trong các khu chế xuất hiện nay trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam.
    Ở trang 24 John Perkins lại viết:
    Claudine và tôi ngồi trên ghế sofa cạnh cửa sổ ngắm tuyết rơi trên phố Beacon. Cô ta nói: ?oPhần lớn công việc của anh là khuyến khích lãnh đạo các nước trên thế giới tham gia vào một mạng lưới vô cùng rộng lớn nhằm phục vụ cho lợi ích thương mại của nước Mỹ. Kết cục là các nhà lãnh đạo này sẽ bị sa lầy vào một mớ nợ nần. Gánh nặng nợ này bảo đảm rằng họ sẽ phải trung thành với nước Mỹ. Chúng ta có thể bòn rút của họ bất cứ khi nào chúng ta muốn, để thoả mãn những nhu cầu kinh tế, chính trị hoặc quân sự của chúng ta.?
    Nếu có nhà lãnh đạo nào không bị mua chuộc để đưa đất nước mình sa lầy vào mạng lưới nợ nần của các sát thủ kinh tế, như Tổng thống Roldós của Ecuador, Tổng thống Torrijos của Panama thì lập tức họ bị CIA ám sát. Hai vị Tổng thống này bị giết cách nhau chỉ hơn 2 tháng. Máy bay trực thăng của Tổng thống Roldós bị nổ tung ngày 24 tháng 5 năm 1981. Ngày 31 tháng 7 cùng năm ấy đến lượt máy bay của Tổng thống Panama bị đặt bom. Không một ai sống sót.
    Tác giả John Perkins thú nhận: Chúng tôi đã không thể mua chuộc được Roldós và Torrijos, chính vì thế mà một loại sát thủ khác - những tên giết người chuyên nghiệp của CIA, những kẻ luôn đi sau chúng tôi - đã vào cuộc.
    Sau vụ thảm sát, John Perkins viết: ?oTrong mười năm qua, tôi là con cháu của những tên buôn nô lệ đã từng lũ lượt kéo vào rừng sâu châu Phi lùa đàn ông, đàn bà ra những con tàu đang chờ sẵn. Chỉ khác là theo một phương thức hiện đại hơn, tinh vi hơn ?" bởi tôi chưa từng phải trông thấy xác chết, ngửi thấy mùi thịt thối rữa hay nghe những tiếng kêu ai oán. Nhưng những gì tôi đã làm thì độc ác chẳng kém. Và vì cá nhân tôi không phải trực tiếp dính líu đến những xác chết, mùi thịt người và những tiếng kêu bi thương, nên suy cho cùng, tôi lại chính là kẻ tội đồ xấu xa nhất.? (Trích trang 210)
    Cái chết của hai vị Tổng thống kia đã làm lộ ra hai vấn đề lớn:
    Thứ nhất: thế lực của các tập đoàn kinh tế, các tổ chức tài chánh quốc tế mạnh đến nỗi chúng có thể giết bất cứ nhà lãnh đạo nào không vâng lời chúng.
    Thứ hai: chúng không ưa những chính quyền trong sạch vì thực tế chúng là bọn ruồi nhặng, chúng chỉ có thể sinh sôi nảy nở trong những môi trường bẩn thỉu, tham nhũng, chúng chỉ có thể tung hoành ngang dọc khi có sự đồng loã của các lãnh đạo bản xứ chịu ngửa tay nhận tiền của chúng.
    Ở Việt Nam, khi vụ PMU 18 đổ bể, người ta đọc thấy trên các phương tiện truyền thông: nào là quốc hội Nhật Bản nhóm họp để xem xét việc sử dụng nguồn vốn ODA của Việt Nam, nào là Ngân hàng Thế giới sẽ điều tra về vụ PMU 18? trên thực tế đó chỉ là những động tác giả!
    Chính bọn họ đang tiếp tay cho tham nhũng trên toàn thế giới!
    Trong bối cảnh ?otoàn cầu hóa? hiện nay, thân phận của các nước nghèo chẳng khác nào một cô gái điếm: vì nghèo, vì không có trình độ nên muốn tồn tại chỉ còn cách bán đi cái ?ovốn tự có? của mình. Đó là dầu thô, là cao su và những tài nguyên thiên nhiên khác. Chua chát thay nhân dân chỉ được hưởng một phần nhỏ lợi tức do ?ovốn tự có? mang lại. Phần lợi lớn đều chảy váo túi những mụ tú bà là các tập đoàn kinh tế Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật? và những tên ma cô dắt mối là chính quyền bản xứ.
    *
    Vậy mà, tôi đã nhiều lần đến nước Mỹ, đã nhìn thấy nó xinh đẹp, lộng lẫy, giàu sang và nhân hậu!
    Một con cá voi bị thương, người Mỹ bỏ ra cả triệu đôla đem về chữa trị rồi trả nó về với biển cả. Một con nai mồ côi được đem về nuôi cho lớn khôn rồi thả về rừng.
    Nhưng cũng chính người Mỹ đã ném liên tiếp hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản, giết ngay tức khắc hơn 200.000 người. Số thường dân bị bom đạn Mỹ giết chết trong chiến tranh Việt Nam và Iraq cũng không kể xiết.
    Họ xây dựng nhiều thành phố mới đẹp như thiên đường ở Boston, California, Seatle? nhưng họ cũng cày nát Baghdad để chiếm những mỏ dầu, đốt cháy Kabul để làm chủ các đường ống dẫn khí đốt và ném bom trải thảm Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc tại Đông Nam Á.
    Họ treo giải thưởng 50 triệu đôla cho cái đầu của Bin Laden, tống vào ngục những phần tử Al Qaeda, tử hình những kẻ khủng bố, treo cổ Sadam Hussein? nhưng họ lại cộng tác làm ăn hàng trăm tỷ đôla với gia đình Bin Laden. Và huấn luyện, cung cấp tiền bạc vũ khí cho đám khủng bố của trùm Basayev ở Chechnya.
    Vậy thì sự thật về nước Mỹ là gì?
  2. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    19. Đến Mỹ một lần rồi chết
    Hãy thử mở đầu bằng Las Vegas.
    Đó là một thành phố trên sa mạc Nevada khô cằn. Băng qua đó như băng qua một vùng đất của sao Hoả. Không có núi xanh vì sa mạc chết. Chỉ có những ngọn núi màu tím, màu vàng, màu cà phê hay màu đen ánh bạc của quặng thép.
    Những ngọn núi nổi chập chờn trong mưa. Mưa sa mạc đến rồi đi, rồi lại đến. Đột ngột, gào thét và dịu dàng. Những cơn mưa làm cho sa mạc bớt nóng. Nhiệt độ bên ngoài đã tụt từ 120 xuống đến 75 độ F (khoảng 20 độ C). Sa mạc trải dài hai bên con đường nhựa đỏ, ngun ngút một màu vàng xám lỗ chỗ những bụi gai sắc nhọn, khô cháy.
    Nếu không có sa mạc này thì Las Vegas không là gì cả. Những sòng bài mênh mông kia thực chất chỉ là thế giới rỗng tuếch, nhỏ hẹp, dành cho đám người tầm thường.
    DisneyLand cũng vậy, đó chỉ là khu giải trí dành cho trẻ con.
    Cái đáng thán phục ở Mỹ chính là những sân bay lớn như Los Angeles, Dallas, Kennedy? chúng như những vương quốc rộng lớn với nhịp sống vô tận.
    Hệ thống đường bộ của họ làm chúng ta bàng hoàng sợ hãi. Xa lộ ở tiểu bang California thênh thang, năm tầng bảy lớp, đường xẻ núi mà đi, lên đồi xuống dốc, băng qua sa mạc, vượt thung lũng. Đường trùng điệp, không biết đâu mà cùng, freeway thẳng tắp, ngút ngàn, bất tận?
    Bắc nước Mỹ xanh và lạnh. Trung nước Mỹ vàng lúa mì mùa hạ và trắng xóa tuyết mùa Đông. Nam nước Mỹ, nhất là Nam Cali ?" nơi có Sài Gòn Nhỏ ?" thì nóng, cằn, sỏi đá, sa mạc? nhưng Bắc Cali ?" nơi có Thung lũng Hoa Vàng, có cây cầu treo nổi tiếng Golden Gate thì mát dịu, cây cối xanh tốt hơn.
    Phố Tàu ở San Francisco đồ sộ, sạch sẽ, tự tin và kiêu hãnh bên cạnh một San Francisco của người Mỹ chính cống. Trong khi đó phố Tàu ở thành phố New York thì cũ kỹ, lộn xộn và ngập rác vào lúc nửa đêm.
    Ở New York City cây cối không tranh nổi với bê tông cốt sắt. Từ hơn 200 năm nay, cao ốc uy hiếp cây cỏ, chen lấn thô bạo những cánh rừng, những công viên, chúng huênh hoang trên những đại lộ, tranh ánh sáng với từng tán lá dưới thấp, đẩy cây cối vào các khe hở của chúng, vào kẽ nách của chúng.
    Nhìn từ nóc toà nhà nổi tiếng Empire State Buiding ta mới kinh hoàng bởi khối lượng nhà chọc trời thiên hình vạn trạng của New York. Nó hoàn toàn xứng đáng là thành phố lớn nhất thế giới.
    Nhưng New York nhìn từ những ngóc ngách của phố phường thì quả là một sự quá tải của mọi thứ. Bên cạnh những toà nhà cao ngất, lộng lẫy, hiện đại là những building nám khói, lở loét, cửa kính vỡ nát, hoang tàn. Bên cạnh những đại lộ thẳng tắp sạch sẽ với những cầu vượt hiện đại là những chiếc cầu sắt vô danh cũ nát đen nhẻm như đống sắt phế thải. Bên cạnh những siêu thị rực rỡ, những nhà hàng khách sạn sáng choang là những dãy phố đầy rác bẩn của China Town, của khu Harlem.
    Tôi nghĩ là người Mỹ dư tiền để xây dựng một thành phố New York hoàn chỉnh hơn, toàn bích hơn, nhưng dường như chính quyền đã bất lực trước một thành phố quá rộng lớn, quá bề bộn, quá đa dạng. Họ kiểm soát không nổi, họ bỏ mặc những nơi quá sức quản lý của họ. Một người bạn từng sống lâu năm tại New York bảo tôi: ?oCảnh sát rất ngại đến khu vực của các nhà hàng Ý. Họ sợ đối đầu với đám Mafia ở đó.? Còn ở Phố Tàu thì sao? Dường như họ chỉ có mặt trên đường phố để điều khiển giao thông. Phần lớn cảnh sát giao thông ở China Town đều là phụ nữ da đen.
    Tất nhiên thành phố New York vẫn có những công viên rất đẹp và rất nhiều bóng cây, nhưng nếu ra khỏi thành phố, từ những freeway nhìn ngoái lại, ta chợt kinh hoàng nhận ra New York không phải là một thành phố của hành tinh này nữa. Nó như những dãy núi đá nối tiếp nhau chập chùng, trơ trụi, không một bóng người, không cây cối, không tiếng động. Đó chỉ là một dãy đá tảng khổng lồ, lô nhô, tìm thấy trên một hành tinh xa lạ, lạnh giá và hoàn toàn chết lặng dưới ánh nắng chói chang của mặt trời. Đó là một thành phố đã chết, đã hoang phế từ một ngàn năm rồi. Không ai ngờ là nó đang sống. Sống dữ dội. Sống hối hả. Sống rực rỡ. Sống hết những gì nhân loại có thể sống. New York có đủ những gì nhân loại có thể có. Và có cả những cái nhân loại chưa từng có.
    Đó là thành phố New York nhìn từ mắt của một nhà văn da vàng lạc hậu như tôi, hoàn toàn phiến diện, hoàn toàn thiếu sót. Bởi vì trong một buổi sáng sớm từ tiểu bang Connecticut đến New York city, anh bạn tôi đã qua lố một cái exit trên freeway và lập tức chúng tôi bị lạc vào khu ngoại ô New York. Đó là một thế giới hoàn toàn khác. Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. Chúng tôi lạc trong rừng. Nhưng đó là khu dân cư, với những ngôi biệt thự xinh xắn nằm rải rác trên những đồi cỏ xanh bóng cây, rực rỡ hoa, ngân nga sự tĩnh lặng sang cả của thiên đường. Đó là khu vực của người da trắng. Một New York khác, ẩn dật, trầm mặc và riêng tư. Vậy thì sẽ còn bao nhiêu New York khác nữa? Bao nhiêu thế giới khác nữa?
    *
    Tuyết có cõi riêng của nó. Đó là một thế giới im lặng. Thế giới của niệm. Của thiền định. Tuyết hiện hữu phi thời gian. Một thế giới không có đường chân trời. Tuyết vô ngôn và vĩnh cửu. Tuyết là một nhan sắc bát ngát, óng ả. Lộng lẫy trong u tịch. Và bừng sáng trong giá lạnh.
    Lúc tôi gặp tuyết, thời gian đã ngừng lại. Mặt trời không có mặt ở đó. Mặt trời đã chìm khuất vào thế giới bên kia. Và tuyết toả sáng. Một màu trắng đơn độc.
    Đó là một buổi trưa mùa Đông năm 2004 tại vùng núi Denver bang Colorado. Tôi từ miền Trung nước Mỹ đến đây.
    Hành trình kéo dài 10 tiếng đồng hồ. Và tuyết đang chờ tôi ở đó với những con đường đèo đóng băng trơn trợt đến độ bánh xe phải niền thêm xích sắt cho khỏi tuột dốc. Những dòng nước đang chảy từ trên núi đá xuống cũng bất chợt rùng mình hóa thân thành những bức tường băng treo lơ lửng trên vách núi.
    Tất cả các thác nước đều ngừng lại, hóa đá. Khi không có chuyển động, chúng ta không có ý niệm về thời gian nữa. Giống hệt trong cổ tích. Tất cả đều đóng băng, trong suốt, trắng mênh mông và rực rỡ trong một thứ ánh sáng tinh khiết của thiên đường.
    Có lẽ đây là cái thế giới mà Lý Bạch gọi là ?obiệt hữu thiên địa phi nhân gian?. Không nhìn thấy đất, không nhìn thấy trời. Mọi vật đang ở ngoài trần thế, ở ngoài thời gian. Núi cũng chìm khuất trong tuyết, những ngọn thông cũng chìm khuất trong tuyết.
    Chỉ lấm chấm những sắc xanh, vàng, đỏ rực của quần áo những người trượt tuyết đang phóng từ trên đỉnh núi xuống, lả lướt, chấp chới như những khóm hoa nhỏ di động trong một nền trắng bát ngát.
    Tuyết đưa mặt đất vào huyền thoại. Đàn dê núi chập chờn trên vách đá. Bông tuyết mù mịt. Ngọn gió trắng hư ảo, phiêu hốt qua thung lũng, Đàn dê núi đến bên chân người. Có thể thọc bàn tay lạnh cóng vào lông ngực chúng để sưởi. Chúng quỳ xuống thành bầy và trẻ thơ ngủ giữa những dãy vú căng sữa nóng hổi. Những con thỏ rừng cũng không sợ người. Chúng đào hang dưới gốc thông để ngủ đông. Có thể vuốt ve những mảng lông mịn lẫn trong cỏ khô. Trời liền với đất. Người liền với vật. Hơi ấm liền với giá rét. Mọi vật đều vô ngôn, lặng thinh. Sự sống giấu bên dưới sự tịch mịch, sự nồng nàn giấu bên dưới băng giá.
    Tuyết ở Denver gợi nhớ cái thế giới thanh bình mà Trang Tử đã vẽ ra trong chương Mã Đề của Nam Hoa kinh:
    ?oTrong núi không có đường mòn, trên sông không có thuyền, không cần bắc cầu. Vạn vật sống cùng nhau, không xâm phạm nhau. Hết thảy đều vô dục như nhau. Cầm thú thành đàn, thảo mộc sum suê. Cho nên có thể cột một sợi dây nhỏ dắt cầm thú đi chơi, có thể leo lên cây nhìn vào tận ổ con quạ, con chim khách. Vật không sợ người thì làm sao người có thể sợ người được? Người và người sẽ sống bên nhau, cùng vui như hoa bên cạnh hoa, lá bên cạnh lá, cỏ bên cạnh cỏ.?o
    Ô hô! Tuyết đã làm ta quên rằng ta đang sống trên trần gian. Đang sống trong một thế giới bốc mùi.
    Tuyết hiện thực hóa giấc mơ của tôi, giấc mơ về một thế giới tinh khiết, không có tội ác, không có chiến tranh, không có đàn áp, chà đạp và bóc lột. Tuyết là một hiện tại vĩnh cửu. Thế giới của tuyết chỉ có sự trong sạch và ánh sáng.
    Thế giới của tuyết không có ruồi.
    Tôi hạnh phúc vô biên thấy mình đang sống trong một thế giới hoàn hảo và trong sạch như thế dù tôi biết rằng có thể nó chỉ tồn tại vài tháng, có khi vài tuần hay vài ngày. Hoặc chỉ sau một cơn mưa là cả cái thiên đường ấy tan rã, để lộ ra phố xá, con người, xe cộ và rác rưởi.
    Để lộ ra bầy ruồi truyền kiếp.
    Vì thế tôi ôm lấy tuyết, vùi trong tuyết, chạy điên dại trong tuyết.
    Một tuần sau, tôi lại đi tìm tuyết nơi những đỉnh núi trắng xóa sừng sững phía trên Hẻm Núi Lớn của bang Arizona huyền thoại. Tuyết phủ hai bên vực sâu của Grand Canyon thăm thẳm, hun hút gió.
    Tuyết là niềm an ủi, là chỗ để con người chạy trốn cái thế giới bốc mùi, chạy trốn chiến tranh, xác chết và ruồi nhặng.
    Tuyết là thánh đường cuối cùng của nhân loại. Khi tất cả những thánh đường trên mặt đất tràn ngập sự đối trá, khi tất cả những thánh đường trên mặt đất tràn ngập ruồi, thì tuyết sẽ ngân lên hồi chuông cứu rỗi, sẽ lan toả trên mặt đất giá lạnh và sẽ thắp ngọn nến nhỏ của đức tin như ngôi sao duy nhất còn sót lại trên bầu trời đen.
    Những con dê núi, những con thỏ sẽ thắp lửa và mang cỏ khô đến cái hang đá nhỏ của Dã Nhân. Và cậu bé da đen người Congo sẽ ngự trong máng cỏ đó như bằng chứng về tội ác của nhân loại mà cậu ta sẽ phải cứu chuộc.
  3. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    20. Chia tay
    Có những cuộc chia tay không buồn không vui. Những cuộc chia tay mệt mỏi.
    Đó là cuộc chia tay với báo Tuổi Trẻ, với nữ nghệ sĩ Hột Xoàn và với những ?ođồng chí? trong Phong trào Sinh viên thời chống Mỹ. Chia tay không vì bất đồng, không vì ghét bỏ thù hận, không vì tiền tài địa vị.
    Chia tay vì quá hiểu nhau.
    Tôi biết nói sao về một tờ báo thuộc vào loại lớn nhất nhì trong nước, khi mà có những nhà lãnh đạo khen là trung thực, có những nhà văn cây đa cây đề cỡ như NN ca ngợi là ?ođứng về phía nhân dân?? Nhà văn ấy không hề biết rằng trước năm 1975 ở Sài Gòn có 36 tờ nhật báo nhưng chỉ có duy nhất một tờ báo của nhà nước. Đó là tờ Tiền Tuyến. Tờ báo đó không ai đọc và chỉ phát không cho lính.
    Ngày nay chúng ta chỉ toàn báo nhà nước, sao nhà văn lại nói lời ngây ngô đến vậy?
    Tôi làm việc ở báo Tuổi Trẻ dưới triều của nhiều ông tổng biên tập. Có người là bạn tôi, rất thân thiết như anh 7C, anh 3K anh 6Q. Đó là những anh lãnh đạo biết khiêm nhường vì biết sức của mình.
    Vũ Lành không biết mình là ai nên phong cách của anh có khác. Trong những buổi họp anh hay bắt chước Lenin, chắp tay sau đít đi đi lại lại, thỉnh thoảng lại đưa ngón tay trỏ ra chỉ vào khoảng không, điệu bộ cũng không khác Lenin là mấy.
    Có lần nhìn tôi dắt chiếc xe đạp từ ngoài cổng vào cơ quan, anh ta hỏi:
    "Ông dắt xe trông dễ dàng quá. Sao tôi dắt thấy lướng vướng. Không thăng bằng."
    Tôi đưa xe cho anh ta dắt thử. Rồi tôi nhận xét:
    "Ông nên đứng bên trái của chiếc xe thì ông sẽ dắt đi dễ dàng."
    Anh ta bèn đổi bên và ngạc nhiên thấy mình đã có thể dắt xe đi một cách thoải mái. Rồi cứ thế, anh ta dắt chiếc xe đạp của tôi vào thẳng trong nhà xe.
    Tôi đứng im, nhìn ngắm niềm vui hồn nhiên của anh ta và tự nhủ:
    "Nếu muốn làm một nhà lãnh đạo như Lenin thì ít ra bạn cũng phải biết cách dắt một chiếc xe đạp chứ."
    *
    Hồi đó phi công Phạm Tuân, được Liên Xô chọn làm phi hành gia cùng với Viktor Gorbatko được phóng vào không gian trên tàu Soyuz 37 vào ngày 23 tháng 7 năm 1980. Tôi có mặt trong đoàn nhà báo ra phi trường đón anh khi anh từ Liên Xô trở về sau chuyến bay. Nhà báo lúc đó thì nhiều nhưng chắc chỉ có mình tôi biết chi tiết này: Lúc Phạm Tuân và Bùi Thanh Liêm (người cùng được đào tạo với Phạm Tuân tại Liên Xô, sau này đã tử nạn máy bay) đi diễu qua đám đông thì có một nhân viên mật vụ nào đó đến giữ tay Bùi Thanh Liêm lại và nói: ?oXin đồng chí đừng đi cùng với đồng chí Phạm Tuân.? Bùi Thanh Liêm ngạc nhiên hỏi: ?oSao vậy? Lâu nay chúng tôi vẫn đi cùng nhau mà. Kể cả bên Liên Xô.? Nhưng rồi Liêm vẫn phải tách khỏi Phạm Tuân vì anh hiểu ra rằng mình không phải là ?oanh hùng?.
    Vụ can thiệp thô bạo đó làm tôi sốc. Tôi không muốn viết bài nữa. Tuy nhiên tôi cũng đưa một cái tin ngắn về cuộc họp báo sau đó. Trong bài viết tôi gọi Phạm Tuân là ?ongười Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ?.
    Vũ Lành giãy nảy lên:
    "Sao lại là người Việt Nam đầu tiên? Phải viết là người châu Á đầu tiên chứ!"
    Tôi nói:
    "Người châu Á đầu tiên thì cũng đúng. Nhưng tôi nghĩ mình nên khiêm tốn một chút. Vì phi thuyền là do người ta chế ra. Điều hành chuyến bay là do các nhà khoa học của người ta, trạm không gian Salyut 6 cũng do người ta lắp đặt trên quỹ đạo. Nói chung mình chỉ là người ?~quá giang?T lên trời. Thế thì mình cũng không nên khoa trương quá đáng. Trung Quốc, Ấn Độ, nhất là Nhật Bản? họ cười cho!"
    Vài tuần sau Ba Hưng, một sếp hạng ba của toà soạn bảo tôi:
    "Trên Quân khu 7 có bốn gương điển hình tiên tiến, ông đi viết đi. Hay đấy!"
    Tôi hỏi:
    "Sao hay?"
    "Bốn anh bộ đội này đến ngày phục viên nhưng làm đơn tình nguyện ở lại phục vụ trong quân ngũ."
    Tôi đi gặp bốn anh bộ đội trẻ. Họ nói:
    "Anh ơi! Đừng viết."
    "Tại sao?"
    "Tụi em không muốn giải ngũ vì về nhà không biết làm gì. Sợ thất nghiệp, trở thành gánh nặng cho gia đình. Có vậy thôi. Anh viết bài, bạn em nó chửi em chết."
    Tôi đem chuyện đó thuật lại, và từ chối viết bài. Ba Hưng nói:
    "Tôi đề nghị đồng chí làm nhiệm vụ."
    Bình thường tôi và anh ta vẫn xưng hô mày tao với nhau nhưng khi trở mặt thì người ta thường gọi nhau là ?ođồng chí?. Tôi mệt mỏi. Và tôi ngủ.
    Ba ngày sau cũng đếch có chữ nào!
    Ba Hưng điên lên:
    "Tôi ra lệnh?"
    Anh ta chưa nói hết câu thì ba cú đấm liên tiếp từ bàn tay rất yểu điệu của tôi, bàn tay xưa nay chỉ biết chơi đàn? đã bay thẳng vô mặt anh ta. Ba Hưng thét lên:
    "Các đồng chí ơi! Nó đánh lãnh đạo! Nó đánh lãnh đạo!"
    Tôi cũng không ngờ lúc đó tôi lại dữ đến như vậy. Nhiều người trong toà soạn bu lại coi như coi đá gà. Tôi bỏ ra ngoài.
    Đột nhiên Vũ Lành ở đâu chạy về. Anh ta la lớn:
    "Tại sao các đồng chí lại đứng khoanh tay nhìn? Tại sao lại cười? Tại sao không có ai kêu công an đến còng tay anh ta lại?"
    Vũ Lành không thể ngờ rằng ngay hôm sau, trong buổi họp kiểm điểm tôi, chị Trần Thị Xuyến đã phát biểu:
    "Tôi nghĩ anh Đào Hiếu đánh anh Ba Hưng là phải. Bởi vì nếu không đánh tại cơ quan thì ra ngoài đời anh Ba cũng bị người ta đánh."
    Ngày nay, sau gần 30 mươi năm, báo Tuổi Trẻ đã lớn mạnh hơn nhiều, đội ngũ phóng viên trẻ hơn, năng động hơn nhưng báo vẫn là báo của Đảng. Họ chỉ được viết theo chỉ đạo của cấp trên. Hàng ngày họ vẫn chống tiêu cực, chống tham nhũng? nhưng cũng là ?ochống? theo ý của Đảng. Độc giả bình thường vẫn nghĩ là họ rất ?odũng cảm?, ?odám nói sự thật?? và những nhà văn cây đa cây đề cỡ như NN thì vẫn tiếp tục khen tờ báo là ?ođứng về phía quần chúng?? nhưng những người có chút suy nghĩ độc lập thì ai cũng biết rằng chuyện chống tham nhũng chống tiêu cực trên báo Đảng chỉ là chuyện màu mè, chỉ là những tiểu xảo ?oche mắt thế gian? vì thực tế chuyện tham nhũng là chuyện của cả một guồng máy.
    Khi có những vụ tham nhũng lớn cỡ như PMU18 hoặc Đề án 112 thì các quan lớn thường chỉ thị một cách nghiêm khắc là: ?oHãy xử đúng người, đúng tội, không được bỏ sót?? nhưng thực tế họ cùng một ?obăng? với nhau, bao che cho nhau, xử án qua quýt, lòng vòng? rốt cuộc là chìm xuồng hoặc năm bảy năm tù để rồi vài năm sau, nhân Lễ Quốc khánh lại cho về vì ?ocải tạo tốt?. Đó là những màn trình diễn quen thuộc, rẻ tiền.
    Vì thế những bài báo mà người ta vẫn khen là ?odũng cảm? là ?ođứng về phía nhân dân? thực chất chỉ là những tiểu phẩm hài trơ tráo.
    Tội nghiệp biết bao cho những nhà báo trẻ đầy nhiệt huyết vừa rời ghế trường đại học đã phải đi làm bồi bút.
    Và họ sẽ làm bồi bút như vậy suốt đời.
    *
    Cuộc chia tay với nữ nghệ sĩ Hột Xoàn, lặng lẽ hơn, ít kịch tính hơn nhưng lại làm tôi thất vọng.
    Ngày nọ chị đến tìm tôi, nhờ tôi viết hồi ký.
    Về sau này, khi nghe tôi kể chuyện viết thuê cho Hột Xoàn, Sơn Nam nói anh cũng từng viết thuê như vậy. Rồi nhấp nháy con mắt lem nhem, anh nói: Chơi không được. Có lẽ chỉ mình tôi hiểu được câu nói đó của Sơn Nam.
    Lúc đó một anh công chức quèn như tôi lương phạn ít ỏi, được một bà nhà giàu thuê viết hồi ký thì mừng lắm. Mỗi tuần tôi đến nhà chị hai lần. Chị thường làm việc với tôi ở cái phòng khách rộng rãi sang trọng với bộ ghế bành đồ sộ và cây đàn piano lộng lẫy.
    Chị kể và tôi ghi chép. Tôi hỏi và chị trả lời. Đôi khi cao hứng chị mời tôi lên phòng riêng vừa trò chuyện vừa ăn bún bò.
    Chúng tôi làm việc với nhau suốt mấy tháng trời, không quản mưa nắng, sớm chiều. Chị đi diễn còn tôi đi làm nên thì giờ cả hai cùng eo hẹp. Rảnh thì phone đến. Bất kể giờ giấc.
    Có lần tôi đến, ngồi đợi ở phòng khách khá lâu, uống hết ly đá chanh mà vẫn chưa thấy Hột Xoàn xuất hiện. Buồn tình tôi ngồi lại cây piano. Tôi chơi bản Lac De Côme. Đó là một tác phẩm nổi tiếng của Galas soạn trên cung LA giáng trưởng, với giai điệu thánh thót, diễn tả cảnh thơ mộng khi bơi thuyền trên hồ. Lập tức Hột Xoàn xuất hiện ngay đầu cầu thang. Nhưng chị đứng im và lắng nghe. Đến khi hết bản nhạc thì chị bước chậm rãi xuống, y hệt như trong một vở diễn.
    "Thật bất ngờ! Ông mua cây đàn tôi bán cho. Ở nhà có ai đàn đâu."
    "Tôi thấy trong các vở kịch chị vẫn chơi piano mà."
    "Chỉ gõ đại khái mấy nốt. Ông mua tôi bán cho."
    "Tiền đâu mà mua. Con nhà nghèo."
    "Nghèo sao biết chơi piano?"
    "Khi mới tiếp quản Sài Gòn tôi sống trong các ngôi biệt thự sang trọng. Nhà nào cũng có piano. Tôi cũng chỉ học lóm được mấy bài.?
    Rồi chị lại kể. Tôi lại ghi chép.
    Sau đó tôi phải viết trong nhiều tháng trời mới xong cuốn hồi ký. Tổng cộng thời gian phỏng vấn và thời gian chấp bút, sửa chữa, phải hơn một năm trời.
    Cuối cùng chị cầm một xấp bạc cũ rích đưa cho tôi. Tôi không nhớ cụ thể số tiền là bao nhiêu vì thời đó đổi tiền liên tục, nhưng cảm giác khi cầm số tiền thù lao là đau xót. Vì nó chỉ đáng chừng một tháng lương công chức quèn. Lại là mớ bạc cũ, chắc hẳn là tiền lẻ còn thừa sau những đêm diễn.
    Tôi nói:
    "Tôi làm việc với chị không có hợp đồng. Bản thảo này là do tôi phỏng vấn chị để viết. Nó giống như một bài báo. Vì thế bản quyền thuộc về tôi mặc dù chị đang giữ bản thảo."
    *
    Mười mấy năm sau, một anh bạn của tôi là Lê Non, chủ biên một loạt sách chuyên đề, báo với tôi là ông Vô Hạnh có xách cái bản thảo Hồi ký Hột Xoàn đến toà soạn nhờ đăng và nói là hồi ký đó do ông viết.
    Chị Hột Xoàn có thể không cho ông Vô Hạnh biết là Đào Hiếu đã viết hồi ký đó, nhưng có điều chắc chắn là ông Vô Hạnh biết mình không phải là tác giả. Làm sao mà một nhà văn có tiếng như ông lại đi làm cái việc đáng hổ thẹn như vậy?
    *
    Cuộc chia tay thứ ba là cuộc chia tay với những con ruồi.
    Dã Nhân hỏi:
    "Ngươi không phải là ruồi, sao ngươi có thể chia tay với ruồi?"
    Đáp:
    "Trước đây chúng không phải là ruồi, chúng là bạn tôi. Về sau, vì ăn tạp, chúng bị đột biến gen và hóa thành ruồi."
    Thực ra tiền thân của ruồi là một loại sinh vật màu trắng, nhỏ như cọng tăm, không có lông lá, không có tay chân. Dân gian gọi nó là con giòi. Vì giòi không phải làm việc nên không cần tay chân. Chúng chỉ biết ăn nên chỉ cần một cái miệng là đủ. Chúng bò trườn, chúng câm lặng vì ?oim lặng là vàng?. Chúng lúc nhúc trong đống vàng ấy.
  4. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    Đầu tiên là một con ruồi cái. Cái mặt nó bự, mắt là một thứ lăng kính nhiều mặt. Tay chân nó đầy lông, bụng nó phình ra như cái trống. Hồi còn là sinh viên tướng tá nó đã ngầu như vậy. Bộ ngực đồ sộ như hai trái bí đao. Khi ở tù nó được tụi cai ngục đặt cho cái hỗn danh là ?oCon ma vú dài khám Chí Hoà?.
    Tôi không ở tù chung với nó nên không biết trong tù nó có ?ongon lành? không (muốn biết cứ giở những tờ khẩu cung còn lưu trong Tổng Nha thì rõ!) nhưng ngoài đời nó thường ăn nói đốp chát, đanh đá. Chồng của Ma Vú Dài thì tôi biết vì tôi ở tù chung với anh ta. Anh ta thuộc loại ?ongon lành?. Nhưng đó là chuyện trong tù, còn chuyện ?okinh tế thị trường? thì lại khác. Chẳng biết hai vợ chồng đớp hít vơ vét cỡ nào mà phải bỏ nhiệm sở trốn. Chạy đi cầu cứu hết ông lãnh đạo nọ đến ông kia. Một bữa, Ma Vú Dài tình cờ gặp tôi. Nó nói:
    "Mình có cái đồn điền cà phê mấy chục mẫu. Ông mua mình bán cho."
    Tôi chỉ ngón tay vào giữa hai đùi của mình và nói:
    "Làm nhà văn, chỉ có mỗi cây bút bi này, tiền đâu mà mua?"
    Không biết sau đó nó bán đồn điền cho ai. Nhưng đồn điền cà phê có là cái quái gì với nó. Nó làm sếp tàu biển. Mỗi lần tàu há mồm là nuốt cả xe hơi, biệt thự. Dù nó có bỏ nhiệm sở mà trốn thì cũng đã gởi cả núi tiền ở các ngân hàng Thuỵ Sĩ rồi!
    Thứ hai là một con ruồi đực. Nó cũng từng vô rừng ?okháng chiến? đâu bốn năm năm gì đó. Thường mang một cây M16 rỉ sét vì nó không biết tháo ráp để chùi súng. Và dĩ nhiên là chưa hề bắn viên đạn nào.
    Năm 1974 tôi gặp nó trong chiến khu Long Khánh. Nó nói:
    "Ông sắp về thành phải không? Cho tôi gởi cái thư về nhà."
    Nhà của nó ở tận ngoài Đà Nẵng, cách Sài Gòn một ngàn cây số. Vì bạn, tôi đi Đà Nẵng (thư mật, không thể gởi qua bưu điện). Tôi không quen đường sá ở đó nên nhờ Hổ chở xe máy. Qua đường ray xe lửa, xe của Hổ bị sụp lỗ, đẩy nguyên bàn chân phải của tôi vô bánh xe. Máu túa ra đầm đìa. Đưa được một cái thư, lãnh một cái sẹo. Nhưng vì đồng chí mình, một cái sẹo nào có sá gì!
    Chỉ tiếc là máu đã đổ cho một thằng ăn cắp.
    Sau giải phóng nó làm phó giám đốc một công ty xuất nhập khẩu Quận Một TPHCM. Chuyện nó đớp hít thế nào bố tôi cũng không biết. Chỉ biết mấy năm sau nó bị còng tay, tống vô tù vì tội tham nhũng. Tham nhũng bao nhiêu tiền, bố tôi cũng không biết chỉ biết rằng mấy tháng sau, nhân dịp Quốc khánh nó thuộc diện ?ocải tạo tốt? nên cho về.
    Nó ra Bắc chơi, ngao du sơn thuỷ. Thấy cái nhà sàn đẹp, bằng gỗ quý, tận đâu trên Lạng Sơn, Cao Bằng gì đó nó mua nguyên cái. Thuê người tháo ra từng mảnh nhỏ, đóng gói cẩn thận, lại thuê nguyên một toa tàu chở về Sài Gòn không thiếu một cái chốt.
    Nó mua một miếng đất rộng, dựng ngôi nhà sàn ấy lên như món đồ cổ. Nhưng cái nhà sàn đó cũng chỉ là món đồ chơi vậy thôi. Chỉ là cái móng chân của nó. Tài sản mà nó vơ vét khi còn làm quan nó giấu ở đâu? Tẩu tán cho ai? Rửa tiền bằng cách nào? Không ai biết được. Chỉ biết?
    Thứ ba cũng là một con ruồi đực. Con ruồi này nó thơm lắm vì nó ?oăn? toàn nước hoa của hãng Thanh Hương do cái thằng ******** có tên là Nguyễn Văn Mười Hai làm chủ. Thằng Mười Hai này ?orặn? ra một hãng nước hoa, quảng cáo rùm beng là làm ăn phát đạt ghê gớm. Nó cấu kết với thằng bạn tôi lúc đó đang làm Giám đốc Sở Tư pháp. Nó huy động vốn. Trả lãi mười phần trăm, rồi mười bốn phần trăm một tháng. Thiên hạ rủ nhau đem tiền gởi cho nó để lấy lời. Nó thuê hàng trăm nhân viên để đếm tiền và bỏ tiền vào tủ mỗi ngày. Nó lấy tiền của người này trả lãi cho người kia, tiền của người sau trả lãi cho người trước.
    Giám đốc Sở Tư pháp đã bao che cho nó như thế nào chẳng ai hay, ăn chia với thằng Mười Hai như thế nào chẳng ai biết, chỉ biết ngày nọ nó bị tống vào tù. Nhưng đó cũng chỉ là cái trò che mắt thế gian mà thôi. Lại ngày Quốc khánh. Lại cải tạo tốt. Lại ra tù. Lại mua nhà. Nhưng thằng này không mua nhà sàn mà mua biệt thự. Hiện nay nó có ba cái biệt thự ở Đà Lạt.
    Chúng nó cấu kết với nhau để cướp tiền của nhân dân lao động (trong đó có bà xã tôi, mất tiêu 5 triệu đồng dành dụm trong bao nhiêu năm trời!) nhưng cho đến giờ chúng nó vẫn phè phỡn nhờ số tiền cướp được ấy!
    Con ruồi thứ tư là một thằng chủ tịch huyện, nó cũng gốc sinh viên, từng ở chiến khu. Thằng này thì biết tháo ráp, chùi súng. Và hình như cũng đã từng bắn một viên đạn do cướp cò. Thời gian làm chủ tịch huyện nó cũng ăn tạp nhiều quá, phải ngồi tù.
    Con ruồi thứ năm là một tổng giám đốc, bỏ trốn ra nước ngoài ngày?
    Con ruồi thứ một ngàn là phó chủ tịch quận phụ trách nhà đất, bỏ trốn ngày?
    Nhưng những thằng phải đi trốn, những thằng phải ở tù cũng chỉ là những thằng ăn cắp vặt (có nghĩa là vài chục tỉ, vài trăm tỉ). Chính những thằng không đi trốn, không đi tù mà đi xe hơi, đi máy bay riêng mới là những ?ođại ca? thứ dữ. Tiền chúng nó cướp được không phải là chục tỉ, trăm tỉ mà là ngàn tỉ, chục ngàn tỉ? có như thế chúng nó mới bỏ ra vài triệu đô la để cá độ bóng đá, có như thế chúng nó mới gởi con sang Mỹ ăn chơi đàng điếm.
    Năm 2004, nhân một chuyến tham quan Beverly Hill, khu nhà ở sang trọng của các ngôi sao điện ảnh Hollywood, tôi được người hướng dẫn du lịch chỉ cho xem một ngôi biệt thự đồ sộ gần đó và nói rằng đó là nhà của một sinh viên Việt Nam, con của một ông chủ tịch? xã!
    Và đâu chỉ thằng chủ tịch xã đó biến thành ruồi. Bạn bè tôi, có thằng nào làm quan mà không trở thành tư sản đỏ, không biến thành ruồi?
    Nghĩ thương cho Dã Nhân, chỉ đủ tiền uống xị đế, vậy mà cũng triết lý, cũng dạy tôi nhiều thứ:
    ?oSự áp bức bất công đã tràn lan như cát trên sa mạc, như rừng trùng điệp, như sóng trên biển cả. Ai thay đổi được, ai chống lại được? Áp bức và bất công đã được toàn cầu hóa. Ngươi là cái gì mà đòi thay đổi. Nếu thay đổi được thì đã không có Bin Laden không có chủ nghĩa khủng bố.?
    Cho nên nhân loại đang sống trong tuyệt vọng.
    Có người biết điều đó, nhưng cũng có người không biết điều đó. Họ đã quen với áp bức, bất công. Họ đã quen với tham nhũng. Họ coi chuyện giai cấp cầm quyền ăn chặn tiền của họ là chuyện bình thường.
    LOÀI NGƯỜI XƯA NAY ĐÃ QUEN SỐNG CHUNG VỚI TRỘM CƯỚP cũng giống như dân đồng bằng sông Cửu Long từ lâu đã quen sống chung với lũ.
    Tới kỳ, nước lại dâng lên, sập nhà, mất mùa, chết người, chết gia súc? nhưng bỏ đi đâu bây giờ? Biết làm gì bây giờ? Vì đó là THIÊN TAI, không thể sửa đổi được quy luật của trời đất. Đành phải sống chung với lũ. Đành phải sống chung với trộm cướp?
  5. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    21. Những con chó rơm của Khổng Tử
    Khách đi xe hơi đến. Xe và tài xế ở lại dưới chân núi. Một mình khách theo đường mòn đi lên. Cây, đá đều lẫn trong sương. Trời cũng chìm khuất trong mây, Mây thấp, la đà dưới thung lũng.
    Dã Nhân nói:
    "Ta không muốn tiếp nó."
    "Vậy thì thầy lánh mặt đi."
    Khách là bạn cũ của tôi và Dã Nhân. Trước đây hắn cũng ở trong phong trào sinh viên chống Mỹ. Tốt nghiệp đại học. Ở rừng về. Đảng viên. Tuy hắn chỉ giữ một chức quan nhỏ nhưng nhờ quen biết lớn hắn nhảy vào kinh doanh địa ốc trở thành một trong những đại gia của thành phố.
    Thủ đoạn kinh doanh của hắn có thể tóm tắt như sau: ?oThông qua các quan lớn, hắn biết được các khu quy hoạch của thành phố. Hắn tiếp xúc với các quan trong địa phương có đất quy hoạch, cùng họ lên phương án đền bù giải toả. Hắn họp dân lại, treo cái bản đồ quy hoạch tổ bố trên bảng để dằn mặt dân, sau đó hắn ra một cái giá rẻ mạt cho mỗi mét vuông, bắt dân phải bán đất.
    Trước đây tại một khu quy hoạch ở Nam Sài Gòn, người nông dân bị buộc phải bán cho hắn mười chín ngàn đồng một mét vuông đất ruộng. Về sau này, nông dân biểu tình phản đối cướp đất, hắn đi con đường mềm dẻo hơn. Hắn cho họp dân để ?ohiệp thương? tức là hai bên thương lượng giá. Nhưng hắn lại đưa ra một cái khung giá do nhà nước quy định. Ở thời điểm năm 2000 cái giá ấy là 300 ngàn một mét vuông. Dân không chịu thì hắn và các quan chức địa phương bèn ra lệnh: ?oAi không chịu nhận tiền đền bù thì số tiền ấy cũng sẽ được gởi vào ngân hàng. Còn kế hoạch giải toả vẫn tiến hành theo đúng tiến độ.? Ngay ngày hôm sau, trên mục rao vặt của các báo xuất hiện những mẩu tin rao bán đất. Các chủ đất đọc báo, thấy đất của mình được hắn ta rao bán với giá bảy triệu đồng một mét vuông (!)
    Tiếp theo là cuộc hành quân quy mô lớn gồm công an, cảnh sát cơ động, chó nghiệp vụ, xe cứu thương, đại diện cơ quan nhà đất địa phương, đại diện ban giải toả đền bù, đại diện dự án tái định cư? cùng một đoàn xe ũi, xe xúc, cần cẩu? rầm rộ kéo đến tiếp quản đất và san lấp mặt bằng. Xe cứu thương hụ còi, ?osẵn sàng làm nhiệm vụ? nếu có xô xát đổ máu.
    Đó là cảnh tượng tôi đã từng chứng kiến.
    Tôi không rõ khi người ta xây dựng khu Phú Mỹ Hưng thì người ta có phải hành quân kiểu đó không, và giá tiền đền bù giải toả mà người nông dân nhận được có phải là 19 ngàn đồng một mét vuông như lời đồn đại không, nhưng điều tôi biết chắc là hiện nay những người nông dân ấy - với số tiền đền bù rẻ mạt - vẫn phải ở nhà tranh vách đất hay chui rúc trong các xóm lao động, còn Phú Mỹ Hưng văn minh hiện đại là nơi dành cho người Hàn Quốc, Nhật Bổn, Pháp, Mỹ, Đài Loan, Hong Kong? và một số cán bộ cao cấp, một số những nhà giàu ở Quận Một Quận Ba hay khách phương Bắc đến để rửa tiền.
    Và bạn nghĩ gì khi người ta mua đất của nông dân với giá 19 ngàn một mét vuông và hiện nay họ bán lại với giá 60 triệu?
    Lợi nhuận ấy chỉ thua các ông trùm buôn bán vũ khí Hoa Kỳ chứ không thua ai. So với hắn, tụi buôn ma tuý chỉ là lũ tép riu.
    Vậy mà hôm nay hắn đến đây.
    "Thầy có nhà không?"
    "Đi rồi."
    "Chắc thầy đang hành thiền?"
    "Thầy tôi không phải là một thiền sư. Ông giống một đạo sĩ hơn. Ông thường uống rượu và say xỉn."
    "Có thể cho tôi gặp sư phụ được không?"
    "Không biết thầy đi đâu."
    Khách ngó quanh quất. Rôi chợt đứng dậy, xăm xăm đi ra phía sau núi. Tôi đuổi theo thì hắn đã mất hút trong sương mù dày đặc.
    "Sư phụ! Sư phụ!? Hắn gọi vang cả rừng núi.
    Hắn vừa gào vừa men theo con đường mòn dẫn đến hang đá. Đột nhiên hắn im bặt khi nghe tiếng nước đổ rào rào trên những tán lá ngay phía trên đầu.
    Vừa ló mặt ra, hắn thấy ngay chú mọi nhỏ đang vểnh cu đái cầu vồng xuống đầu hắn. Vừa lúc có tiếng ngâm nga của Dã Nhân:
    Tùng hạ vấn đồng tử
    Ngôn sư thái dược khứ
    Chỉ tại thử sơn trung
    Vân thâm bất tri xứ.
    Bốn câu thơ làm hắn sững người. Vừa lúc Dã Nhân hiện ra trên một tảng đá lớn.
    "Chào thầy. Bài tứ tuyệt của thầy hay quá."
    "Không phải của ta. Đó là thơ Giả Đảo. Nhưng ông đến đây làm gì?"
    "Sắp tới rằm tháng Bảy. Tôi muốn làm lễ xá tội vong nhân."
    "?"
    "Trước hết là cho các đồng chí của mình trước đây trong phong trào sinh viên đã hy sinh trong kháng chiến như Trần Quang Long, Trần Triệu Luật, Hồ Hảo Hớn, Trần Bội Cơ, Nguyễn Ngọc Phương?"
    "?."
    "Sau đó là tới các gia đình có công với cách mạng."
    Dã Nhân hỏi:
    "Ông nghĩ rằng những người đó cần phải được xá tội sao?"
    "Thưa thầy? ngày Vu Lan cũng là ngày xá tội vong nhân cho những linh hồn?"
    "Những người chết không có tội gì cả. Những người sống mới có tội. Thế sao không dùng tế lễ để xá tội cho những người sống?"
    "Ý của thầy là sao?" Hắn hỏi.
    "Ngày xưa Khổng Tử đem lễ nghĩa ra dạy đời nhưng thực chất chỉ là lời nói suông, thực chất xã hội rối loạn. Các nước chư hầu đều nhân danh nhân nghĩa mà đem quân đánh nhau gây bao nhiêu tang tóc cho muôn dân, con mất cha, vợ mất chồng, mẹ mất con, gia đình tan nát, xã hội tiêu điều, sinh linh đồ thán. Trong triều thì bọn quan lại tìm cách hãm hại nhau vì danh lợi, ngoài thảo dã thì trộm cướp nổi lên, dân chúng đói khát, không có cái ăn cái mặc. Vậy mà Khổng Tử và các môn đồ của ông ta vẫn cứ đi hết nước này đến nước khác để giảng nhân nghĩa lễ trí tín, há chẳng phải là làm cái bình phong để tiếp tay cho bọn quan lại, vua chúa đàn áp, bóc lột nhân dân sao? Há chẳng phải là giả dối, lừa mị sao? Vậy thì Khổng Tử, Mặc Tử đã làm được gì cho thiên hạ? Hỡi ơi! Sao bọn họ không thấy xấu hổ, không biết nhục nhỉ!"
    "Nhưng thưa thầy đó là chuyện của thời xưa."
    "Thời nay nào có khác gì. Bọn trộm cướp chuyên nghiệp, trộm cướp có hệ thống, lại chính là bọn kêu gọi tình người, tình đồng chí. Tù nhân đầy trong các nhà giam, hàng triệu con gái nông thôn lên thành phố làm gái điếm, trẻ bụi đời, dân nghiện ngập, thanh niên thất nghiệp đầy dẫy trong các xóm lao động tối tăm, những dân tộc thiểu số sống lầm than như súc vật? thì không ai lo, lại hô hào bảo vệ bản sắc dân tộc, bảo vệ truyền thống, bảo vệ cái khăn đóng áo dài, cái nón quai thao? có phải là lừa bịp không?"
    "Nhưng tôi chỉ muốn tổ chức một lễ cầu siêu?"
    Dã Nhân đáp:
    "Để ta kể cho ông nghe chuyện Khổng Tử cùng học trò là Nhan Hồi tới nước Vệ, gặp thái sư nước Lỗ tên là Kim. Nhan Hồi hỏi Kim:
    ?~Ông nghĩ sao về thầy tôi??T
    ?~Thầy ông sẽ bị khốn cùng mất thôi!?T
    ?~Sao vậy??T
    ?~Khi cúng tế người ta thường dùng một con chó rơm bọc gấm rất đẹp. Người ta đặt con chó rơm ấy lên bệ rất là trang trọng, rất là đẹp. Nhưng khi đã cúng xong rồi thì con chó rơm bị vứt đi, lăn lóc dưới đất. Người ta đi qua đi lại giẫm đạp lên. Giày xéo lên. Có người cắt cỏ nọ nhặt con chó rơm đó đem về chụm lửa. Nay thầy của ông cũng đi lượm những con chó rơm mà tiên vương đã dùng để cúng tế từ nhiều đời trước, rồi ông ta họp đệ tử lại, ngắm nghía, săm soi ra chiều đắc ý. Vì vậy mà bị nước Vệ cấm không cho vào, rồi bị vây ở biên giới nước Trần, không có gì ăn, nhịn đói suýt chết.?T"
    Hắn lại hỏi:
    "Ý thầy muốn nói??"
    "Rằng chuyện lễ lạt, chuyện tưởng niệm, chuyện bản sắc dân tộc, chuyện truyền thống Việt Nam, chuyện trung với nước hiếu với dân? chẳng qua chỉ để che mắt thế gian. Thực chất chỉ là những con chó rơm được bọc áo gấm cho đẹp đẽ để cúng tế trong giây lát mà thôi, dùng xong thì vứt lăn lóc dưới đất như rác rưởi."
    "Thầy coi thường lễ nghĩa đến như vậy sao?"
    "Đó là những điều ta học được từ Trang Tử."
    "Nhưng ở các nhà trường người ta vẫn dạy: ?~Tiên học lễ, hậu học văn?T đấy thôi.
    "Cái lễ trong nhà trường là cái lễ với thầy cô, với cha mẹ. Cái lễ ấy trong sáng, dễ thương. Còn cái lễ ngoài xã hội là cái lễ giả tạo của bọn nguỵ quân tử dùng để che mắt thế gian. Trang Tử coi lễ là mớ giẻ rách. Ông viết như thế này trong chương Trí Bắc du của Nam Hoa kinh: ?oMất Đức rồi mới có Nhân, mất Nhân rồi mới có Nghĩa, mất Nghĩa rồi mới có Lễ.?
    "Câu đó phải hiểu như thế nào?"
    "Ông hãy tự soi lại mình thì sẽ hiểu câu đó. Có phải khi ông đã làm những chuyện thất đức tày trời rồi ông mới nghĩ tới làm việc nghĩa. Nhưng có làm được đâu, vì thực chất ông không dám trả lại tiền cho những người bị các ông cướp ruộng đất. Chính vì thế mà các ông mới nghĩ tới lễ. Vậy thì thứ lễ ấy có khác gì miếng giẻ rách đâu!"
    Khách nghe đến đây thì sợ quá, co giò chạy xuống núi. Chú mọi nhỏ đứng trên tảng đá, vỗ tay cười. Tiếng cười như mảnh thuỷ tinh bắn vãi theo. Khách cuống cuồng sảy chân lao ra khỏi vách núi, ngã xuống vực. Tôi hốt hoảng định kêu lên nhưng Dã Nhân đã cười lớn mà rằng:
    "Ngươi hãy nhìn xem!"
    Lạ thay, người khách khẽ rùng mình, hóa thành một con ruồi to như con diều hâu, tà tà bay xuống thung lũng.
  6. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    22. Linh hồn của chuyến công tác
    Tôi không thích gã, chẳng phải vì gã lầm lì, xa cách nhưng vì gã quá keo kiệt.
    Đoàn có bốn người: một bà giám đốc nhà xuất bản, một cán bộ ngoại giao đã về hưu, tôi và gã. Gã được giới thiệu là một quan chức cao cấp của ngành phát hành sách. Như vậy gã đâu có thiếu tiền. Có thể nói gã là người giàu nhất trong đoàn. Vậy mà trong suốt chuyến đi gã gần như không ăn sáng, chỉ uống một ly cà phê nhỏ. Trong các bữa ăn chung tại phi trường hoặc suốt tuần lễ lang thang ở Seoul gã thường từ chối các lời mời mọc nhậu nhẹt, kẹt lắm thì cũng ngồi chơi, uống một chai nước suối nhỏ, ăn một cái bánh mì kẹp chừng một ngàn won (10.000 VNĐ). Hỏi có bị tiểu đường không thì trả lời là không. Tim mạch cũng không, thận rất tốt. Chẳng có gì phải kiêng cữ. Vậy mà ăn nhín nhịn thèm, tiết kiệm từng đồng won, đồng đô la?
    Thôi, cứ tạm cho gã là một cán bộ mẫu mực, cần kiệm liêm chính.
    30 THÁNG TÁM 2001
    Chúng tôi đến Seoul, dạo chơi phong cảnh, ăn kim chi, ăn gà giò hầm sâm. Và đi tàu điện ngầm.
    Tại sao tôi lại nhắc đến tàu điện ngầm ở Seoul?
    Tàu điện ngầm ở New York thì rộng lớn, ?ohoành tráng? nhưng cũ. Tàu điện ngầm ở Paris thì ồn ào, rổn rảng, chỉ đáng vứt sọt rác. Tàu điện ngầm ở Bắc Kinh tạo ấn tượng quái đản với những cái giỏ cần xé đan bằng tre to tổ bố để người soát vé ném vé cũ vào đó. Tàu điện ở Hong Kong, Singapore thì tương đối văn minh hiện đại hơn với nhà ga sạch sẽ, hệ thống bán vé và soát vé tự động, tàu điện ngầm ở Moskva từ lâu vẫn là niềm tự hào của nước Nga với những nhà ga rộng lớn, có chạm trổ tranh tượng như ga Kievskaia với vài ba tác phẩm điêu khắc mỹ thuật? nhưng có lẽ công tác bảo quản kém nên đã xuống cấp trầm trọng, thậm chí nhiều chỗ bị dột nát, nước rỉ từ trần vòm ướt cả lối đi. Tàu điện ngầm Moskva là sự thất vọng lớn nhất khi đến nước Nga. Ngược lại tàu điện ngầm Seoul là sự ngạc nhiên lớn nhất khi đến Hàn Quốc.
    Nó lướt đi êm ái trong mơ. Mỗi nhà ga là một khách sạn năm sao lộng lẫy, không đâu có thể rực sáng hơn. Nếu như có một con kiến đi lạc trong sân ga có lẽ chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy nó.
    Tàu điện ngầm ở Seoul là một vương quốc dưới lòng đất. Với 600 won (sáu ngàn đồng VN) bạn có thể mua một tấm vé điện tử đi được 15 ga vòng quanh thủ đô Seoul.
    Làng truyền thống Hàn Quốc là một nơi khá độc đáo phản ánh phong tục tập quán, nghề nghiệp, trang phục, ẩm thực, luật pháp của xã hội xưa? bằng những mô hình lớn và sinh động như thật.
    Nhà cửa trong làng đều lợp bằng tranh, mái dày được xén rất đều, giống hệt những mái tranh của các làng quê miền Trung Việt Nam. Cũng vách đất trộn rơm trét bên ngoài những cái khung bằng tre.
    Seoul là một thành phố có nhiều cây ngô đồng và cây bách ở hai bên đường giống như các thành phố ở Trung Quốc.
    Những kiến trúc trong hoàng cung cũng tương tự như Cố cung Bắc Kinh nhưng quy mô nhỏ hơn và màu sắc u nhã hơn. Trang phục của vua quan, quý tộc Hàn Quốc cũng trầm hơn, nhã hơn, sang hơn Trung Quốc. Nếu như y phục Trung Quốc chuộng những gam màu đỏ, vàng và xanh lục thì Hàn Quốc thích sự phối màu giữa đen và tím than hoặc đỏ Bordeaux, giữa màu lá úa và trắng, giữa sắc xanh lục và xám tro?
    Các triều phục của vua quan không thêu rồng phượng, không đeo kim tuyến, lục lạc, đai ngọc. Đơn giản nhưng sang trọng.
    31 THÁNG TÁM 2001
    Thăm sứ quán Việt Nam tại Seoul. Đại sứ là bạn cũ của một người trong đoàn, trước đây ông từng làm đại sứ tại Bình Nhưỡng. Đây là một biệt thự rộng lớn và đẹp. Toà nhà do chế độ Việt Nam Cộng hoà để lại. Trong khuôn viên có một Chùa Một Cột do Lý Xương Căn - cháu 31 đời của Lý Thái Tổ - xây tặng.
    Danh ngôn: Người Trung Quốc thích tạo ra huyền thoại, người Việt Nam thích tạo ra anh hùng còn người Hàn Quốc thích tạo ra bi kịch.
    Điều này thể hiện rất rõ trong các bộ phim truyền hình của Hàn Quốc được chiếu trên truyền hình Việt Nam.
    *
    Ông quan lớn nọ vẫn thít chặt hầu bao mặc dù cứ vô tư thưởng thức các đặc sản của Seoul do giám đốc nhà xuất bản chi trả. Tôi đi du lịch tự túc vì thế tôi không biết cụ thể công tác phí của những người trong đoàn là bao nhiêu nhưng khi đến Moskva thì những thành viên trong đoàn Hà Nội cho biết là mỗi ngày 70 đô la tiền tiêu vặt.
    Riêng gã, quan lớn của một công ty nhà nước đồ sộ như thế thì tiêu chuẩn phải cao hơn nhiều.
    Vậy gã tiết kiệm tiền để gởi về cho vợ sao?
    NGÀY 4 THÁNG 9 NĂM 2001
    Đến Moskva và ở trong nhà khách của toà đại sứ Việt Nam.
    Buổi chiều gã quan lớn tự nhiên đến khều tôi:
    "Đi loanh quanh một chút cho biết Moskva chứ."
    Tôi ngạc nhiên nhưng thấy nụ cười của gã rất thân thiện, bèn OK. Gã đi với một nhân viên của sứ quán, cùng một cán bộ của đoàn Hà Nội.
    Nơi đến là một cái hầm rượu ngầm dưới đất. Chúng tôi ăn thịt cừu nướng, trứng cá caviar và cá hồi xông khói nhắm với rượu vang đỏ. Anh bạn Hà Nội hỏi tôi:
    "Trước đây ông có học ở Nga không?"
    "Tôi không biết gì về nước Nga cả. Cũng không biết tiếng Nga."
    "Nước Nga có nhiều cái hay lắm đấy."
    Tôi nói:
    "Nước Nga thật vĩ đại."
    Gã quan lớn khều tôi:
    "Thôi, dẹp ba cái vụ ?~vĩ đại?T đi. Tôi hỏi ông có chịu chơi không?"
    Không biết cái gã keo kiệt này muốn gì. Tôi nói:
    "Chịu chơi chứ. Nhưng tôi không buôn lậu đâu nhé."
    "Ôi giời! Sao ông lại nghĩ vớ vẩn thế?"
    "Vậy là chuyện em út?"
    Gã nói một cách trang trọng:
    "Đúng thế. Đó chính là linh hồn của chuyến công tác này. Đây mới là lúc tiêu tiền nhé. Thế ông còn bao nhiêu?"
    "Chừng năm trăm đô."
    "Tạm được. Thế này nhé! Tôi sẽ lo cho đồng chí thổ địa ở đây. Còn hai vị chúng ta tự túc. Ăn xong chúng ta đi liền."
    Tôi nói:
    "Nghe đồn cảnh sát Nga hay trấn lột người Việt. Họ nói người Việt là bánh mì của cảnh sát Nga. Vừa rồi có một người Việt giết vợ, chặt ra thành nhiều mảnh nhỏ bỏ vô bao bố thả xuống sông. Đài truyền hình Nga loan tin đó và bình luận đầy ác ý về người Việt. Vậy các anh không sợ sao?"
    "Yên tâm. Chỗ này có bảo kê hết rồi. Cảnh sát Nga sẽ gác cho mình chơi."
    Và đúng như thế. Họ cũng mặc sắc phục và đeo súng. Các cô gái tóc vàng còn rất trẻ, tuổi từ 15 đến 22 da trắng, mắt xanh. Những nàng Ludmila, Natasha? được giới thiệu là sinh viên đại học. Họ nói tiếng Anh khá trôi chảy nhưng khi hỏi họ về Dos hay Tolstoy thì không cô nào biết cả. Các cô uống bia rất cừ và bia thật là ngon. Đến Nga có lẽ chỉ nên uống bia tươi, từ trong thùng rót ra cái ly vại lớn. Hồi ở Dresden bên Đức, tôi từng uống những loại bia ngon nhất thế giới, nhưng cũng không bằng Nga.
    Đấm bóp cho bạn là đàn ông, nhưng những cô Ludmila sẽ tiếp bạn trên giường. Tất cả đều trống trải, không cần cửa nẻo!
    Vì tôi xài tiền túi của mình nên chỉ đến đó có một lần. Còn gã thì khác. Những ngày sau đó gã biến mất. Suốt một tuần lễ không hề thấy mặt. Không ai biết rằng gã đang vi hành cùng mấy tay của phái đoàn miền Bắc. Trong túi gã còn năm ngàn đô. Giá ăn chơi ở Moskva lại rẻ. Gã phải sống cho hết mình, phải tiêu hết số tiền đó, phải hoàn thành tốt ?onhiệm vụ Đảng giao? bởi vì đó là ?olinh hồn của chuyến công tác này?.
    Sáng ngày 10 tháng 9 năm 2001 gã vác xác về. Mắt lim dim, chân bước trên mây, miệng ẩn nụ cười tự tại của một bậc đại hiền vừa đạt tới cảnh giới của sự giải thoát.
    Tôi chưa thấy người nào đáng yêu như gã.
    Gã đã đến Niết Bàn bằng con đường riêng của mình. Gã không cần ngồi thiền, không cần tụng kinh hay giữ giới. Gã đã ?okiến tánh thành Phật?.
    Giám đốc nhà xuất bản vừa thấy mặt gã đã nói móc:
    "Coi chừng thân bại danh liệt."
    Gã chỉ cười. Lại kéo tôi đi ăn thịt cừu ở dưới hầm rượu. Gã nói:
    "Cái ?~em?T Giám đốc đó hay lên mặt đạo đức nhưng cũng chịu ăn lắm."
    "Nó làm xuất bản sách mà ăn được gì?"
    "Ăn chia với tụi đầu nậu phát hành."
    "Nhà xuất bản của nó cũng có một phòng phát hành rất ?~hoành tráng?T mà?"
    "Ba chục nhân viên, đầy đủ các chức danh: trưởng phòng, phó phòng, kế toán, thủ quỹ, có cả bộ phận tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu sách, nhưng chỉ để? chở sách đi ký gởi."
    "Ký gởi cho ai?"
    "Cho đầu nậu."
    "Có nghĩa là phải chia cho đầu nậu 40 phần trăm chiết khấu phát hành?"
    "Không sai!"
    "Có nghĩa là không thu được tiền mặt?"
    "Đúng vậy. Cứ đem tài sản cơ quan ra trao vô tay đầu nậu, khi nào nó thích thì nó trả cho chút ít, không thích thì nó nói bán không được. Đa số đầu nậu là chiếm dụng vốn để mở rộng kinh doanh hoặc kinh doanh địa ốc."
    "Lẽ ra nhà xuất bản phải có hệ thống bán lẻ. Hay là nó không có vốn?"
    "Hoạt động 25 năm nay nó cũng có vốn chứ. Nhưng nó lấy tiền đó mua đất làm kho sách thay vì phát triển hệ thống bán lẻ. Như vậy thay vì sách in xong chở thẳng ra nhà sách bán cho người tiêu dùng thì lại cất vô kho. Rồi đi chào hàng. Người ta chịu nhận thì mới đem đi ký gởi. Ký gởi phải chịu mất 40 phần trăm chiết khấu. Nếu tự phát hành thì không phải mất một số tiền lớn như vậy."
    Tôi hỏi:
    "Sao nó ngu vậy?''
    "Nó không ngu đâu. Vì nó có ăn chia với tụi đầu nậu. Nhưng ăn bạo nhất là vụ mua đất làm kho sách. Nó bỏ ra 3 tỷ chỉ để mua một cái nghĩa địa rộng chừng 300 mét vuông. Có nghĩa là giá mỗi mét vuông là 10 triệu đồng. Mua xong, một thằng trong chi bộ của tụi nó phát biểu: ?~Nhà tui ở gần cái nghĩa địa đó. Tui biết đất ở đó người ta chỉ bán có 2 triệu rưởi một mét vuông!?
    Cú đó tụi nó kiếm hơn hai tỷ đồng. Dư luận trong cơ quan cũng rùm beng. Tưởng nó co vòi. Té ra nó đếch sợ. Nó chơi luôn 900 mét vuông nữa kế bên, giá 9 tỷ đồng!
    Cú thứ hai này chúng nó đớp thêm gần 7 tỷ! Kế toán trưởng thì cất nhà mới. Phó giám đốc thì xin về hưu non để ?~hạ cánh an toàn?T, giám đốc thì ?~ngày nào đầu nậu còn tín nhiệm, tôi còn làm giám đốc.?
    Gã quan lớn còn muốn nói thêm nữa nhưng tôi vuốt lưng gã:
    "Té ra bây giờ tôi mới biết anh là người trong sạch nhất."
    "Tớ cũng đếch trong sạch, Vì thời đại này thằng nào có quyền mà trong sạch đều là những thằng cù lần. Vì thế tớ cũng đớp chút đỉnh nhưng chỉ để chia cho em út thôi! Cũng giống như hiệp sĩ Robin Hood hay các anh hùng Lương Sơn Bạc vậy mà!"
  7. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    23. Con cá voi trong ly nước
    Có thể một ngày nào đó tôi không còn trí nhớ. Tôi sẽ quên đường về nhà, quên cả người thân, bạn bè. Tôi sẽ không còn nhớ mình là ai. Nhưng chắc chắn tôi không bao giờ quên những giai điệu lạ lùng của nhà soạn nhạc thiên tài Nga: Shostakovich.
    Thực ra tôi biết rất ít về ông, về âm nhạc của ông, thậm chí những tác phẩm của ông - mà tôi ôm ấp trong lòng nhiều thập kỷ qua ?" tôi cũng không biết tên. Nhưng đó là những tác phẩm thần thoại, nó lay động tôi, nó lan toả và lập tức chiếm lĩnh tâm thức tôi, hoà tan vào trí nhớ, vây phủ xúc cảm và chìm đắm bản ngã tôi vào những cơn sóng cuộn chảy, mờ mịt, réo gọi, ngân nga, gào thét?
    Tiếc thay, tôi chỉ được nghe những giai điệu ấy có vài lần khi xem bộ phim Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
    Đó là một bộ phim tài liệu vĩ đại nhất trong tất cả các phim tài liệu mà loài người có được. Và âm nhạc của Shostakovich đã đóng vai trò quyết định. Đạo diễn Karmen cũng là một tài năng lớn nhưng ông chỉ có công dựng lên hình hài, tầm vóc của bộ phim, còn linh hồn và nhan sắc của tác phẩm điện ảnh kỳ ảo đó phải là âm nhạc của Shostakovich.
    Tôi đã sục sạo hàng giờ trong các trang Web âm nhạc để cố tìm lại giai điệu của 30 năm về trước nhưng rốt cuộc chỉ được mấy dòng này:
    ?oShostakovich (1906-1975), nhà soạn nhạc người Nga được xem như một nhà viết nhạc giao hưởng vĩ đại nhất giữa thế kỷ 20. Ngoài thể loại giao hưởng ông còn viết concerto, nhạc kịch opera, ballet và nhạc phim.?
    Còn đạo diễn Karmen thì tôi cũng tìm được mấy dòng tiểu sử ngắn ngủi:?Roman Karmen Lazarovich sinh ngày 29 tháng 11 năm 1906 tại Odessa. Ông được trao giải Oscar năm 1943 với bộ phim tài liệu Thất bại của quân Đức ở ngoại ô Moskva. Sau đó ông làm bộ phim sử thi dài 12 tập mang tên Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Bộ phim này đã đưa tên tuổi của Karmen lên hàng những nhà làm phim tài liệu vĩ đại nhất thế kỷ 20.?
    Tháng Chín năm 2001 tôi đến nước Nga để tìm một chút âm vang của Shostakovich.
    Nhưng nước Nga lại có quá nhiều thứ bất ngờ.
    NGÀY 5 THÁNG 9 NĂM 2001
    Khởi hành từ Seoul, chúng tôi đến Moskva sau một chuyến bay dài mệt mỏi. Sân bay tên gì vậy? Serechavo, sân bay quốc tế của thủ đô nước Nga đây sao? Tôi tưởng mình đang ở phi trường Tân Sơn Nhất. Chật hẹp. Đông nghẹt người. Chen lấn. Ồn ào.
    Trời âm u. Không có ý niệm về thời gian. Mấy giờ vậy? Không ai biết. Đồng hồ chúng tôi đang chỉ giờ của Seoul. Trời ơi! Làm sao có thể làm thủ tục nhập cảnh giữa một rừng người hỗn độn như vậy? Không biết người của đại sứ quán Việt Nam đã đến chưa? Làm sao có thể nhận ra nhau giữa cái đống hổ lốn này?
    Tôi chạy đi tìm cái đồng hồ treo tường. Trong tất cả các sảnh của sân bay không có chỗ nào treo đồng hồ. Tôi hỏi một ông già da trắng:
    "What time is it, please?"
    Ông ta không hiểu. Một cô tiếp viên hàng không ở đàng kia đi lại:
    "What time, ma?Tam?"
    Lại không hiểu. Giương mắt ra nhìn. Tôi bực mình, chụp lấy cổ tay cô tiếp viên hàng không, lật ngửa lên: Hai giờ mười lăm phút. Ở Nga, muốn coi đồng hồ có lẽ chỉ còn cách đó.
    Tiếp theo là chen lấn, xếp hàng, rồi lại chen lấn. Người ta làm gì mà đổ xô đến Moskva nhiều như vậy? Chẳng phải nước Nga đang thiếu nhu yếu phẩm, đang không có đường mà ăn, đang phải xếp hàng để mua bánh mì sao?
    Ấn tượng mà cái phi trường sì-trum này tạo ra là: nước Nga không sẵn sàng, nước Nga là một căn nhà khổng lồ nhưng chỉ có một cái cửa ra vào nhỏ như cái hang thỏ, nước Nga đang quay lưng lại với thế giới và nước Nga không có ngành du lịch.
    Và tôi, không biết tiếng Nga, không có xe hơi, không biết đường đi? đành lẩn quẩn trong khu nhà khách toà đại sứ Việt Nam.
    Nhưng tôi không thất vọng vì tôi biết nước Nga ẩn giấu nhiều thần thoại, nhiều bất ngờ.
    NGÀY 6 THÁNG 9 NĂM 2001
    Mười giờ rưỡi sáng thứ năm, thăm Quảng trường Đỏ. Một người đàn bà nói: Hôm nay không cho vào vì đang sửa chữa. Lát sau người đàn bà nọ giới thiệu một bà già 70 tuổi. Bà ta bảo mỗi người đóng 60 rúp. Bà lấy ra một nửa, gói trong tờ giấy, bảo mọi người gom máy ảnh lại để bà ta giữ, xong dẫn đoàn vào cổng.
    Đến cổng mới hay là quảng trường vẫn mở cửa đón khách bình thường vì hiện đang có một đoàn khách quốc tế đang xếp hàng chờ. Chỉ riêng đoàn Việt Nam khỏi xếp hàng vì đã đưa tiền cho ba già!
    Lăng Lenin lát đá cẩm thạch đen. Những bậc thang đen. Hình như bên ngoài người ta đã bỏ toán lính gác. Thi hài Lenin nằm trong ***g kính giống như một tượng bằng thạch cao. Trên tường đá đen lạnh lẽo có lát những phiến đá đỏ.
    Có người to tiếng bên ngoài lăng. Một du khách Trung Quốc bị giữ lại để kiểm tra giấy tờ.
    Nước Nga có một quá khứ huy hoàng, một nền nghệ thuật vĩ đại, một cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Nhưng những cái vĩ đại ấy bây giờ bị nhốt trong một cơ chế chật hẹp, trong sự bảo thủ và nạn tham nhũng lan tràn.
    Nước Nga giống như một con cá voi nằm trong ly nước. Nó ý thức được hoàn cảnh của mình cũng như con cá lớn muốn vùng thoát khỏi ly nước để bơi ra biển nhưng bằng cách nào? Nếu vùng mạnh, cái ly sẽ vỡ nát và nó rơi xuống Quảng trường Đỏ, không đủ sức để trườn ra biển.
    Một ngôi nhà tranh sẽ dễ dàng phá bỏ để xây dựng một cao ốc hiện đại, nhưng nước Nga lại là một lâu đài cũ kỹ rêu phong và có nhiều người ở, sinh con đẻ cái ở đó. Nếu đập ngôi nhà, những người đó sẽ ở đâu?
    NGÀY 8 THÁNG 9 NĂM 2001
    Tôi tặng cho ông già gác cổng mấy chai rượu Jinro Soju mua ở Seoul vì ông ta đã giúp đỡ tôi xách hành lý lên phòng khi tôi mới đến đây. Dường như trong phái đoàn Viêt Nam chỉ có mình tôi làm chuyện đó.
    Ông ta trực ca sáng và tôi thường đến chơi với ông. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng những hình vẽ trên giấy và bằng cách ra dấu.
    Quanh khu nhà khách có rất nhiều cây phong, bóng mát như rừng. Tôi hỏi ông vì sao có nhiều quạ đen đậu trên những cây phong đó. Ông nói rằng hôm qua có người vứt xác một con mèo chết dưới gốc cây và tụi quạ bu đến.
    ĐÊM 11 THÁNG 9 NĂM 2001
    Moskva khổng lồ với những đường phố rộng thênh thang và xe chạy vun vút không dứt. Một thành phố rất nhiều xe cũ và không có taxi nhưng bạn chỉ cần đưa tay đón là những chiếc xe ấy lập tức biến thành taxi.
    Moskva đơn điệu với những bloc nhà khổng lồ màu gạch được xây hàng loạt giống hệt nhau, thỉnh thoảng mới gặp một ngôi biệt thự sơn màu ngọc bích viền trắng. Sự phối màu ấy sao chép từ quần thể các lâu đài Cung điện Mùa đông ở Saint Petersburg.
    Nhưng nếu đi thuyền trên sông Moskva để ngắm nhìn thành phố, bạn sẽ gặp một thủ đô khác hẳn. Một Disney Land khổng lồ với các nhà thờ mái củ hành vàng rực như những lâu đài trong truyện thần tiên. Những tháp chuông ngọc bích thấp thoáng phía sau cụm rừng bạch dương.
    Trong bóng hoàng hôn, tất cả nhạt nhoà, lẩn khuất? Phố xá, đồi trọc, rừng cây? hoà quyện thành một phông màu tím than của khói sóng, chỉ có nắng xế là cháy rực, ngời ngời trên những lâu đài nguy nga và những thánh đường diễm ảo. Người ta không còn thấy những lô nhô bận rộn của phố phường bối rối, của tiếng bánh xe rít trên đường phố. Chỉ là cái im lặng thanh thản của bầu trời xám mênh mông cùng mặt sông phẳng lặng.
    Du thuyền đi trong bóng tối, ngân nga khúc nhạc quen thuộc.
    Chiều thanh vắng là đây, âm thầm gió rì rào.
    Nhưng cũng không còn tiếng rì rào nữa. Chỉ có tiếng bọt nước vỡ dưới mạn thuyền và ngàn mắt lấp lánh sắc vàng, tím, xanh của đèn trên bờ sông ngái ngủ.
    Moskva mờ ảo đang thấm vào tâm hồn tôi bằng sự tan chảy rất chậm, rất nhẹ, rất ngây ngất của hoàng hôn.
    Đi trên sông Moskva tôi gặp Pie Đại đế sừng sững như một trái núi. Ông là người anh hùng lớn của nước Nga, từng giả làm công nhân sang Thuỵ Điển để học nghề đóng tàu. Ông được ví như một Tần Thuỷ Hoàng của nước Nga, nhưng đó là sự ví von của một thằng khùng, bởi vì gã Doanh Chính kia chỉ là một sát thủ bần tiện đang thối rữa trong lịch sử.
    Khoảng bảy giờ tối ngày 11 tháng 9 năm 2001 chiếc du thuyền nhỏ ghé bến. Người bạn đón một chiếc ?otaxi?.
    Cánh cửa xe vừa đóng lại thì anh tài xế đã hỏi:
    "Có biết gì không?"
    "Gì vậy?"
    "Bin Laden tấn công nước Mỹ!"
    "Lúc nào?"
    "Cách đây 5 tiếng đồng hồ."
    Xe của anh ta lao đi như điên. Tất cả xe con của Moskva đều lao đi như điên.
    "Hai chiếc Boeing đâm thẳng vào toà nhà WTC ở New York. Cả hai đều sụm xuống như cái đèn xếp. Ba chục ngàn người chết."
    "Ba chục ngàn sao?? Anh bạn tôi hỏi và dịch lại cho tôi nghe.
    "Thì cứ tính đi. Hàng ngày mỗi toà nhà chứa khoảng mười lăm ngàn người vừa nhân viên vừa khách hàng."
    "Chính xác vậy sao?"
    "Về nhà lẹ đi. Tôi cũng về nhà để coi tivi đây! Các ông ở đâu?"
    "Ở đại sứ quán Việt Nam."
    *
    Nơi căntin của nhà khách đông nghẹt người đang bu quanh một chiếc tivi màu 16 inches. Đoạn phim về hai chiếc máy bay đâm vào toà nhà đang được chiếu đi chiếu lại. Tin tức nóng hổi đến độ người ta không có thì giờ dịch ra tiếng Nga, cứ để nguyên lời bình tiếng Anh. Người ta vừa uống bia vừa bàn tán về Bin Laden.
    Trước đây có đôi lần tôi nghe nói về nhân vật này nhưng ông ta không gây ấn tượng với tôi. Ngờ đâu trên cái đất Nga xa lạ và lạnh lẽo này ông lại xuất hiện như một vụ nổ làm rạn nứt cả bầu trời và vỡ vụn trí tưởng tượng của tôi.
    Bin Laden đã làm thay đổi nhận thức của tôi về thế giới, đã đập nát mọi hy vọng nhỏ nhoi còn sót lại trong tôi về loài người.
    Ông đã phá tan mọi hệ thống triết học tư tưởng, vô hiệu hóa mọi niềm tin, làm cho các tôn giáo phải hoảng hốt. Bin Laden đã vứt mọi chuẩn mực đạo đức vào cống rãnh, xé nát bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ và Hiến chương Nhân quyền.
    Bin Laden là ngọn gió lạnh buốt, cuồng nộ bay qua sa mạc hoang tàn, là đám mây hạch nhân trùm xuống nền văn minh Âu Mỹ.
    Bin Laden một mình cầm thanh gươm man rợ đi gieo rắc cái chết kinh hoàng để xua đuổi, trong vô vọng, một thế lực hùng mạnh gấp triệu lần ông.
    Và cũng trong buổi chiều ấy, Bin Laden đã làm sụp đổ toà tháp WTC thứ ba của hành tinh này: đó là tôi.
  8. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    24. Cuộc hội ngộ ở Saint Petersburg
    Phía trước tôi là một mảng đen bát ngát và bất động. Tôi chạy ra khỏi những khu rừng dày đặc, bị cái mảng đen ấy hút vào vòng xoáy của nó.
    Đó là một ngày mưa dầm ở Cung điện mùa Hè. Con đường nhựa ướt sũng chạy dọc theo kênh đào. Dòng kênh dẫn vào cái mảng đen ấy. Nó là sa mạc, đồng cỏ hay biển?
    Tôi chạy. Nước mưa đầm đìa trên mặt. Cái áo gió không ngăn nổi nước. Ngực ướt sũng. Trời xám xịt. Hàng cây đen rõ dần và cái mảng đen ấy cũng rõ dần. Đó là biển. Vịnh Phần Lan. Nước biển đen lánh như than đá.
    Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn cái mảng đen mênh mông ấy. Trời thấp. Cung điện ở phía sau lưng, lấp lóa những đài nước phun và những pho tượng thếp vàng ngời sáng.
    Trong khoảnh khắc, tôi quên Bin Laden. Nhưng khi trở lại Cung điện mùa Hè thì ông ta lại hiện ra và hỏi tôi vì sao lại đến cái nơi ******** này. Bọn nhà giàu đã xây dựng cung điện này, những hoa viên này, những đài phun nước này, những pho tượng thếp vàng này? chỉ để phục vụ cái giống đực của chúng.
    "Nhưng ông cũng là một tỷ phú",tôi nói -"ông còn giàu hơn các Sa hoàng nữa mà."
    "Đúng thế. Tài sản của ta có thể xây vài cái Cung điện mùa Hè này nhưng ta thích sống trong hang đá."
    "Đó là vì ông đang lẩn trốn biệt kích Mỹ."
    Cái bóng của Bin Laden mờ ảo trong mưa bụi nhưng ngón tay trỏ của ông chỉ thẳng vào mặt tôi:
    "Trước đây ngươi cũng từng lẩn trốn biệt kích Mỹ. Ngươi là một thằng cộng sản mà!"
    "Nhưng bây giờ tôi không phải là cộng sản nữa."
    "Ta cũng vậy. Trước đây ta theo Mỹ, đã cùng Mỹ thành lập các trường huấn luyện chiến binh Hồi giáo ở Pakistan. Thời kỳ đó, tổ chức của ta đã mở văn phòng ở Detroit và Brooklyn trên đất Mỹ."
    "Nhưng vì sao ông bỏ Mỹ?"
    "Thời đó ta chơi với chúng vì muốn có một đồng minh đánh đuổi Liên Xô ra khỏi Afghanistan. Khi Liên Xô tháo chạy về nước thì kẻ thù còn lại là Mỹ. Năm 1990 Mỹ đưa quân vào quê hương Ảrập Xêút của ta. Làm chủ các mỏ dầu của ta. Và chiếm luôn các mỏ dầu ở Kuwait. Hàng trăm tỷ đô la đã chảy vào túi của bọn tài phiệt Mỹ. Chúng nuôi béo bọn cầm quyền tay sai. Còn nhân dân Ảrập Xêút được gì?
    Và bây giờ chúng làm chủ hệ thống dẫn dầu ở Afghanistan và những mỏ dầu khổng lồ ở Iraq. Vừa chiếm dầu mỏ vừa bán được vũ khí. Sao ta có thể ngồi yên được? Và ngươi biết đấy, Mỹ treo giá 50 triệu đô la cho cái đầu của ta."
    "Nhưng gia đình ông làm ăn với Mỹ hàng trăm tỷ đô la. Sau khi người của ông tấn công hai toà nhà WTC thì chính Tổng thống Bush đã cung cấp nhiều máy bay để đưa cả gia đình ông rời nước Mỹ an toàn. Thế thì việc treo giá 50 triệu đô la cho cái đầu của ông là thật hay giả?"
    "Đó là chuyện của dòng họ Bin Laden. Ta đã cắt đứt mọi liên hệ với họ. Và họ cũng vậy."
    "Ông đã xem phim The Kid của Charlot chưa?"
    "Xem rồi."
    "Người cha là thợ sửa cửa kính. Đứa con dùng đá ném bể cửa kính để tạo công ăn việc làm cho cha. Có người cho rằng Bin Laden và giới tài phiệt Mỹ đã ?~hợp đồng tác chiến?T kiểu hai cha con Charlot. Ông nghĩ thế nào?"
    "Ngươi muốn nói là ta tạo ra những vụ khủng bố để cho giới tài phiệt Mỹ lấy cớ gây chiến tranh, chiếm các mỏ dầu và tiêu thụ vũ khí?"
    "Đúng vậy. Người Mỹ làm bộ ra giá 50 triệu đô la cho cái đầu của ông nhưng trên thực tế có vài lần suýt bắt được ông thì lại để vuột mất một cách khó hiểu. Mùa Đông 2004 biệt kích Mỹ đã tiến hành một cuộc truy bắt ông tại vùng biên giới giáp ranh giữa Pakistan và Afghanistan. Báo chí Mỹ đưa tin: ?~Các lực lượng Mỹ đã truy đuổi gắt gao Bin Laden khiến tên trùm khủng bố gần như không còn lối thoát và đã tính đến nước cuối cùng là tự sát.
    Khi đó Bin Laden đã ra lệnh cho các thuộc hạ một khi nhận được mật khẩu thì phải lập tức ra tay giết chết y rồi tự sát, nhằm tránh bị Mỹ bắt giữ. Tuy nhiên, đúng lúc mật khẩu chuẩn bị được phát ra thì các binh sỹ Mỹ lại chuyển hướng truy tìm sang hướng khác khiến Bin Laden thoát hiểm.?T Sự thực về chuyện đó như thế nào?"
    "Đó là chuyện bịa đặt. Ta hỏi ngươi câu này: Ta là một tỷ phú, ta có thể sống như một ông hoàng, việc gì ta phải ?~hợp đồng tác chiến?T với Mỹ để phải sống đời gian khổ của một chiến binh?"
    "Một chiến binh? Vậy ông chiến đấu cho một mô hình nhà nước nào?"
    "Có 4 loại mô hình: Loại thứ nhất là chính quyền đế quốc, đứng đầu là Mỹ, chuyên gây chiến tranh để tiêu thụ vũ khí và chiếm tài nguyên của các nước khác. Loại thứ hai là chính quyền bán nước đứng đầu là Ảrập Xêút, Kuwait, Iraq. Afghanistan? đem tài nguyên của đất nước mình trao cho Mỹ để đổi lấy địa vị và giàu sang cho gia tộc mình. Loại thứ ba là chính quyền trộm cướp đang lộng hành ở một số nước vùng Đông Nam Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Chúng là bọn tham nhũng chuyên nghiệp, ăn chặn tiền thuế của dân, ăn cắp tài sản quốc gia, bòn rút tiền viện trợ, rút ruột công trình để làm giàu cho cá nhân, gia đình và bè đảng của chúng. Loại thứ tư là chính quyền dịch vụ như các nước Bắc Âu, coi việc cai trị như một nghề hái ra tiền. Dịch vụ ấy được giới hạn bởi các nhiệm kỳ bầu cử. Còn ta, hiện nay còn quá sớm để nói về một chính quyền. Nhiệm vụ của ta bây giờ là gieo kinh hoàng cho bọn da trắng để chúng cút khỏi những lãnh thổ của người Hồi giáo."
    "Ông có chắc là làm được chuyện đó không?"
    "Ta phải làm được."
    "Tôi nghĩ nếu ông từ bỏ chủ nghĩa khủng bố, lập Mặt trận Giải phóng Ảrập Xêút và tiến hành một cuộc chiến tranh du kích thì ông có thể được ngưỡng mộ như Che Guevara."
    "Ta không cần ngưỡng mộ. Và ta cũng không muốn thất bại như Che Guevara. Hơn nữa đất nước ta không có rừng như Bolivia hay Việt Nam, không thể tiến hành chiến tranh du kích được. Ta không còn chọn lựa nào khác ngoài khủng bố."
    "Nhưng cách thức tiến hành cuộc chiến của ông quá tàn bạo và bừa bãi. Dân thường chết quá nhiều. Chết gấp mười lần kẻ thù của ông."
    "Cuộc chiến tranh nào cũng vậy. Ví dụ như hai trái bom nguyên tử thả xuống Nhật Bản năm 1945. Đa số người chết là dân thường vô tội."
    "Ông muốn biện hộ cho chính quyền Mỹ sao?"
    "Không. Nhưng ta muốn chứng minh rằng chính quyền Mỹ còn tàn bạo hơn ta gấp ngàn lần.''
    Cái bóng của Bin Laden thở dài. Tôi hỏi một câu cuối cùng:
    "Người ta đồn ông có vũ khí nguyên tử. Đúng hay sai?"
    Cái bóng mờ dần trong sương mù nhưng giọng của ông vẫn nghe được trong tiếng mưa rào rào:
    "Bom nguyên tử không có gì ghê gớm. Hai chục triệu đô la một quả, nào có đáng gì!"
    *
    Tôi đang ở trong ngôi biệt thự tại một góc nào đó của Saint Petersburg. Chiếc cổng sắt của ngôi nhà dẫn ra cây cầu nhỏ bắc ngang một nhánh của sông Neva.
    Đã nửa đêm mà tôi không ngủ được. Cái bóng của Bin Laden vẫn ám ảnh tôi. Dường như có một ma lực nào đó dẫn dụ tôi ra chiếc cầu đá đơn độc lạnh lẽo ngoài kia. Cũng không xa lắm. Tôi tựa thành cầu nhìn xuống dòng nước đen thẫm và gần như bất động.
    Gió từ cửa sông thổi tới, lạnh buốt. Gió làm tôi tê dại, tâm thức tôi mù mịt, tăm tối. Tôi đã hình dung chuyến đi Saint Petersburg sẽ rất hào hứng, rất thú vị nhưng dường như ngoại giới đã đổi khác. Bin Laden đã làm hỏng cuộc hành trình của tôi về thành phố huyền thoại này. Lòng tôi trĩu nặng, xót xa. Lúc sáng sớm tôi đi một mình trên đường phố vắng ngắt và sũng ướt, tôi thấy mình xa lạ và tự hỏi tại sao mình lại ở đây? Cái thành phố cổ kính xinh đẹp và nổi tiếng này mang ý nghĩa gì? Trước những quyền lực láo xược và ngạo mạn đang thống trị hành tinh này, trước bom đạn, tù đày và đói rách, trước những bữa tiệc tanh tưởi của lũ ruồi nhặng? thì những tác phẩm nghệ thuật đang bày trong viện bảo tàng Hermitage kia không còn ý nghĩa nữa. Chúng trơ trẽn trong một thế giới bạo ngược, dối trá và rỗng tuếch. Chúng vô nghĩa trong một hành tinh ma quỷ.
    Mặt nước đen phía dưới đang nhìn tôi bằng con mắt chế giiễu. Con mắt từng trải của dòng sông Neva đã chứng kiến ngàn năm binh lửa, ngàn cuộc đổi thay, ngàn trò hề nhảm nhí. Dòng sông đang dừng lại, đang ngạc nhiên khi thấy có con người bé nhỏ hèn mọn và cô độc kia đang ôm nỗi tuyệt vọng lạnh buốt của mình.
  9. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    25. Cha tôi
    Hai cha con ngồi bên bếp lửa nhỏ. Sáng mùa đông ở miền Trung trời rất lạnh, ông trùm đầu bằng một chiếc khăn lông màu trắng đã cũ, ông nhắc lại những kỷ niệm về mẹ tôi, về ông cố tôi là cụ Đào Doãn Địch, một lãnh đạo lỗi lạc của phong trào Cần vương tại tỉnh Bình Định, được vua Hàm Nghi sắc phong Phụng Nghị Đại Phu năm 1885, cũng năm ấy ông bị thương nặng trong một trận đánh lớn với quân Pháp tại huyện Tuy Phước. Ông phải rút quân về An Khê cố thủ, nhưng vì vết thương quá nặng nên đã qua đời tại đó. Trước khi mất ông giao binh quyền lại cho Mai Xuân Thưởng.
    Tôi ngồi nghe, thương cha già yếu, nhưng trong đầu tôi không hề có ý nghĩ rằng đó là buổi gặp gỡ cuối cùng.
    Hôm trở về, tôi mang tặng cha một chai rượu. Một người bạn cùng cơ quan nói đó là rượu nho do người nhà cô cất. Hồi đó nhu yếu phẩm rất hiếm nên có được chai rượu làm quà, tôi rất mừng. Cha tôi nói để khui ra uống thử.
    Nhưng đó chỉ là một chai nước lã có màu.
    Đó là món quà đầu tiên trong đời làm con của tôi tặng cho cha ruột của mình. Ngoài ra không hề có gì cả dù chỉ một đồng bạc.
    Tôi mang nỗi ân hận về chai rượu ra đi. Hai cha con chở nhau trên chiếc xe đạp từ trong làng đi ra quốc lộ 19. Gần đó có một cái đồi trọc, hai cha con dẫn xe lên đồi ngồi chờ xe đò. Chiếc xe cũ kỹ chạy bằng than đá lạch bạch đi qua. Chúng tôi chia tay nhau. Không khóc, không ôm nhau, nhưng lòng tôi tràn ngập nỗi buồn. Hồi ấy tôi nghèo quá, cha tôi còn khốn cùng hơn. Ông gầy yếu đen đúa và run rẩy. Ông đứng trên đồi nhìn theo tôi, không vẫy tay, không một tiếng nói, ông đứng như pho tượng đá ngóng nhìn vào hư vô. Một chút sương sớm phảng phất trên mái tóc bạc. Nắng chưa lên và một chút gió vẫn còn hiu hắt.
    Chiếc xe đò mang tôi đi.
    Tại sao tôi lại phải đi?
    Cũng như những đứa con khác trong cuộc mưu sinh khốn nạn của kiếp người, tôi đã phải ra đi.
    Giờ đây tôi có thể ra phố mua một trăm chai rượu, nhưng đâu còn cha. Mà nếu có còn thì chắc ông cũng không cần những thứ ấy. Ông chỉ cần sự có mặt của tôi bên cạnh, ít ra thì cũng trong giờ phút lâm chung.
    Nhưng điều đó vĩnh viễn đã không bao giờ có được.
    Giờ đây tôi về quê để thăm những nấm mồ. Những nấm đất hiu quạnh, những bia mộ cũ kỹ, xám xịt, rêu phủ.
    Tôi về đây, ngồi trong bóng tối của căn phòng ngày xưa, nằm trên chiếc võng gai cha tôi thường nằm gãy đàn Nguyệt. Có lẽ không mấy người biết cây đàn Nguyệt. Trong tay cha tôi, nó như một linh hồn. Nó nói bằng giai điệu của sâu thẳm, bằng tiếng buồn của thiên thu, bằng cơn nấc nghẹn của kiếp người. Nó là cây đàn kỳ lạ nhất của nhân loại, nó không phải là một nhạc cụ, nó là một linh vật. Một vị thần.
    Những năm sau ngày thống nhất, tôi có ý định về quê đem cây đàn Nguyệt và những bút tích của cha vào Sài Gòn nhưng đã chậm một bước. Một cơn lũ lớn đã quét ngang căn nhà, xoáy thành một cái hố sâu và cuốn tất cả trôi theo dòng sông Kôn.
    Tôi tiếc cây đàn Nguyệt của cha tôi.
    Nó biết nói tiếng người.
    *
    Rồi những lớp người cứ nối tiếp nhau ra đi. Và không trở lại. Cái chết buồn và đáng sợ vì cái sự không trở lại ấy. Nhưng không ai cứu vãn được. Tôi cũng vậy.
    Lúc sống thì phải sống chung với lũ ruồi nhặng mà mình căm ghét. Lúc chết thì phải xa lìa những người mình thương yêu.
    Đó là bi kịch lớn của nhân loại.
    Nhân loại có những bi kịch mà không ai thay đổi được. Sống và chết là một bi kịch. Nghèo và giàu là một bi kịch. Đẹp và xấu là một bi kịch. Bi kịch luôn đứng giữa hai cực mâu thuẫn nhau.
    Nhưng sự mâu thuẫn cũng chính là động lực của mọi sáng tạo và phát triển. Vì thể nhân loại vừa rất vĩ đại vừa rất nhảm nhí.
    Và đó chính là bản chất của loài người.
    *
    Hiểu được bản chất đó tôi biết mình đang sống.
    Giữa trưa một mình bơi ra biển. Lặng thinh lẫn khuất vào sóng nước. Nổi trôi bềnh bồng, phiêu bạt như chiếc lá mỏng.
    Biển nâng đỡ, ve vuốt, rồi vùi dập. Nước vây bọc xung quanh như căn phòng xanh bằng thuỷ tinh ngời sáng. Rồi vỡ tung toé. Mặt trời sáng loà. Tôi chỉ nhìn thấy đám mây nhỏ trong vài giây rồi lại bị nhận chìm xuống, lăn lóc trong cơn xoáy.
    Tôi nằm ngửa, duỗi dài, buông thả, nhìn ngắm thân thể trần truồng của mình lấp lóa nắng. Cái ********* dài, suôn, dập dềnh theo mảng lông đen ngời như rong rêu. Tôi không còn là một ông già sáu mươi tuổi mà là một con cá voi nhỏ đang thưởng thức sự cường tráng của mình.
    Tôi đang sống. Đang hoà nhập. Đang hóa thân, Đang vô danh.
    Và tôi đang hạnh phúc. Quá khứ đã qua rồi, tương lại thì chưa tới. Quá khứ đã chết và tương lai không hiện hữu. Chỉ có hiện tại là có thực, là sống.
    Tôi đang hoà nhập với sóng. Đang đánh mất mình trong vô định. Đang rỗng không. Chỉ có tôi một mình với sóng. Sóng che lấp núi non, những tàn cây và những ngôi nhà trong phố. Sóng che lấp bầu trời. Che lấp cuộc đời. Sóng che lấp bản ngã tôi. Dường như tôi đã chết. Nhẹ như một chiếc lá. Tan biến như một gợn sóng.
    Cái ********* vẫn dập dềnh. Dường như tôi đã ngủ thiếp đi cùng với sự dập dềnh ấy trong trí nhớ.
    Trôi đi, trôi đi thật xa. Hãy rời bỏ loài người, hãy đến chỗ của vô tận, chỗ của phi thời gian?
  10. ngtoithuong

    ngtoithuong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    78
    Đã được thích:
    0
    26. Nhìn đâu cũng thấy núi
    Có nhiều khi, đang ngồi, chợt thèm một cơn bão. Những cơn bão của tuổi thơ tôi thân quen hơn bây giờ. Chúng giống như cơn hờn dỗi của trời đất, một chút thác loạn của dòng sông. Bão đến lúc nửa đêm, lúc tôi còn đang ngủ. Nên khi thức dậy bão chỉ để lại một chút gió, một chút mưa dầm rả rích. Những con đường ngập nước. Cành cây gãy trôi giạt. Mặt sân đầy lá xanh. Mái rạ tốc lên nham nhở. Trời âm u. Ướt sũng. Thuyền đi trên quốc lộ 19. Trẻ con bơi lội trên vỉa hè?
    Những cơn bão làm thay đổi mặt đất. Thay đổi làng mạc, thay đổi phố chợ. Đường sá biến mất. Chòm xóm đầy tiếng cười trẻ nhỏ. Có ai đó vừa bắt được một con cá chép ngay trên đường phố. Trẻ con thích thú vì sự thay đổi. Vì mưa và lạnh.
    Ngày xưa, đến cơn bão cũng hiền lành, đến lũ lụt cũng như ngày hội.
    Và những ngày mưa dầm triền miên trong nương rẫy. Cái nhà sàn xiêu vẹo. Một bếp lửa. Cái ấm đất. Và những trái bắp vùi trong than hồng. Mưa rả rích, cứ sột soạt trên lá khoai, lá chuối. Những con giun đất rất to bò ngang lối đi. Xách cần câu, mang áo tơi ra ruộng câu cá rô hột bí. Móc một cái trứng kiến, nhắp nhắp trên mặt bèo. Cú đớp mồi nhói tim.
    Chỗ tôi thường câu cá rô là ngõ nhà của Hạ. Hạ ơi! Bao nhiêu năm rồi anh không gặp em? Anh đi và em ở lại. Anh học nhiều, đọc nhiều, suy nghĩ nhiều nên đã biến thành ma quỷ, còn em vẫn ngồi sau những sạp vải ở khu chợ cũ, không học, không đọc, không suy nghĩ gì nên em vẫn là em.
    Dù sao anh vẫn nhớ em mỗi lần về thăm sông Kôn, thăm bãi dâu, những đám mía. Cát ở đó ngày xưa rất là trắng. Anh dẫn em lội qua sông giữa trưa nắng. Cả một vùng sông nước mênh mông với nương rẫy, gò đống, đồi cây? chỉ có anh và em. Chúng ta đã tìm một chỗ để hôn nhau, một chỗ để yêu nhau. Năm ấy anh hai mươi tuổi, con em thì mười tám. Chúng ta đã nằm trên đệm lá tươi xanh nồng nàn mùi cây cỏ. Buổi trưa im lặng như cõi trời. Núi vây chung quanh. Nhìn đâu cũng thấy núi. Phía xa có một cái ao cá diếc và những hàng cây, treo đầy những ổ chim giồng giộc.
    Ba mươi năm sau gặp lại em ở Sài Gòn, em khóc. Em có chồng giàu lắm mà. Sao em lại khóc? Hắn đem nhà đi thế chấp cho ngân hàng để đánh bạc. Bây giờ em không còn nhà. Em về ở với mẹ.
    Phải chi tôi có thể nói được: Thôi, em về ở với anh. Thời gian đã xía vô mọi thứ. Thời gian làm hỏng bét mọi thứ. Nó là kẻ mạnh nhất, cố chấp và lạnh lùng nhất trên cõi đời này. Trong cuộc hành trình bất tận của nó, nó đã lấy đi sinh mạng của hàng tỷ người mà không ai dám chống lại, chỉ có Trịnh Công Sơn van nài nó cách tuyệt vọng:
    Một ngày như mọi ngày
    Xin trả lại đời tôi.
    Xin hãy trả lại! Hãy trả lại! Trả lại tôi cái ngày mà ngươi vừa cướp đi. Tiếng kêu thảng thốt thất lạc giữa ?ongày lên hấp hối?. Nhưng thời gian vẫn lừng lững bước tới, kéo cả nhân loại thêm một bước đến gần vực thẳm.
    Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết.
    Nhân sinh đắc ý tu tận hoan.
    (Lý Bạch "Tương tiến tửu?)
    Buổi sáng tóc hãy còn xanh, chiều đã trắng như tuyết. Cuộc đời sao quá phù du! Hãy uống cho hết cuộc vui. Nhưng chắc chắn Lý Bạch cũng không tin vào cuộc vui giả tạo ấy. Bởi nó là cuộc vui trong cõi vô thường.
    Còn tôi, tôi thích ngồi uống rượu một mình nơi quán lá bên bến sông hiu quạnh, nơi ngày xưa tôi vẫn thường ngồi với một người đàn bà đã từng yêu tôi mười năm. Mái tranh lụp xụp của một bà cụ già. Một cái quán xơ xác, trống trải. Cái bàn xếp và hai cái ghế gỗ thấp. Một đĩa cóc xanh, muối ớt. Và xị rượu. Hồi ấy chúng tôi rất nghèo. Và chúng tôi rất hạnh phúc. Gió thổi rạp những hàng dừa nước. Con nước thầm lặng trôi qua chân người. Bến đò vàng nắng xế. Trẻ con đi học về bước xuống con đò tròng trành? Mái chèo khua nước. Hoàng hôn trôi theo sóng lấp lóa.
    Bây giờ tôi ngồi một mình nhìn bến đò vắng không. Con thuyền đã đi rồi, chỉ còn một bãi đất trống phù du. Bóng xế đọng trong tròng mắt. Cơn say tràn ra không gian. Mặt trời ngất ngưởng lặn xuống chân trời xa tắp. Tôi nhìn cánh cò bay cho tới khi nó mất hút trong chân trời. Nhưng tôi vẫn ngồi đó. Vẫn uống. Bà lão vẫn ngồi đó. Vẫn nhìn tôi. Sao lâu nay cậu đến đây có một mình? Tôi vẫn uống. Không còn cánh cò nữa. Không còn chân trời. Hàng dừa nước cũng tan biến. Chỉ còn lại ngọn đèn dầu nhỏ như một con đom đóm. Và gió. Lao xao trên mái tranh, rì rào trong rừng dừa và thỉnh thoảng hú lên khi chạy dọc theo con nước.
    "Tôi thấy tóc cậu bạc trắng. Còn tôi thì cũng sắp xuống mồ."
    "Tôi sẽ đến đây uống rượu cho đến khi bà xuống mồ."
    "Tôi xuống mô rồi, cậu sẽ làm gì?"
    "Sẽ đến lượt tôi."
    "Đời buồn quá phải không cậu?"
    "Đời buồn. Người ta thường uống rượu để quên nỗi buồn nhưng chỉ trong giây lát. Cũng như ngồi thiền vậy. Có thể tìm thấy Niết Bàn, nhưng chỉ trong giây lát."
    "Không phải Niết Bàn là Phật sao?"
    "Phải. Nhưng Phật cũng chỉ là một khoảnh khắc."
    "Không phải Phật là Đức Thế Tôn sao?"
    "Có một lúc nào đó bà cũng là Phật, tôi cũng là Phật. Rồi sau đó không là gì cả. Ngay cả Phật cũng có lúc không phải là Phật."
    "Vậy sao? Thế còn Niết Bàn?"
    "Niết Bàn là chết như một chiếc lá. Chắc bà không hiểu đâu?"

Chia sẻ trang này