1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Làm người là khó - Đoàn Duy Thành

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi chimawan, 11/05/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Khi phục vụ cho đồng chí Nguyễn Tài và các đồng chí Ban liên hiệp đình chiến TƯ ở Trung Giã, tôi có làm một việc, chủ ý gây cho địch lúng túng, mất thì giờ, ta có cớ để đấu với chúng. Đó là việc lập danh sách tù binh Việt Nam. Tôi cứ để tên tôi là Duy vào danh sách tù chưa được thả, phái đoàn ta phụ trách về tù cứ đòi, địch phải mất công tìm hết nơi này nơi khác về tên Duy tù binh. Phái đoàn ta nói: ?oKhông thấy tù nhân tên Duy được trao trả về?. Cuối cùng tìm không thấy, địch đem những văn bản, quyết định tha tôi cho phái đoàn ta để xác minh giúp, còn chúng sẽ xác minh xem tên Duy có ở lại khu chúng kiểm soát không? Ý định tôi lúc đó ra sao tôi có nói với cán bộ phụ trách tù binh: chỉ là ?ođánh lừa? để chúng mất thời giờ truy tìm...v.v. Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện ấy sau này gây phiền phức. Đó là trong đơn vu khống lí lịch tôi, kẻ xấu đã viết: ?oChính Duy là tay sai địch nên địch đã truy tìm bằng nhiều văn bản, gửi các địa phương của chúng, tìm Duy để sử dụng...?. Những hồ sơ của địch sau khi đã có kết luận, tôi đã xin các đồng chí sao lục cho một bản. Câu cách ngôn: ?ogậy ông lại lập lưng ông? cũng là bài học cho những ai chỉ đơn giản nghĩ điều thuận mà không thấy điều nghịch như tôi.
    Về tiếp quản Hải Phòng
    Ngày 13-5-1955, Văn phòng Ban chỉ đạo và văn phòng Thành uỷ nhập làm một, về trước một ngày, đóng tại Sở dầu - Hạ lí. Ngủ một đêm tại đây, sáng hôm sau tất cả theo đại quân vào tiếp quản Hải Phòng.
    Anh Mười hỏi tôi vào thành sẽ ở đâu, tôi nói đã chuẩn bị với bộ phận vào trước, chuẩn bị cho anh và văn phòng ở số 9 phố De La République, nay là số 1 Hoàng Diệu, là trụ sở của Đốc Lí Hải Phòng. Còn Thành uỷ về ở số 11 Négrier, phòng Nhì của bộ tư lệnh Pháp miền Duyên Hải, nay là phố Lí Tử Trọng, sau chuyển cho Bộ tư lệnh Quân khu, rồi chuyển tiếp cho Bộ Tư lệnh Hải Quân. Còn Thành uỷ chuyển về số 5 Đinh Tiên Hoàng ngày nay, là một cơ sở hậu cần của quân đội Pháp đóng tại Hải Phòng.
    Tôi về làm thư kí văn phòng Thành uỷ và được bầu là Bí thư chi bộ, do đồng chí Nguyễn Mạnh Giao làm Chánh văn phòng, đồng chí Trần Phương (Phương xích) Thành uỷ viên phụ trách văn phòng. Tôi được phân công theo rõi khối nội chính.
    Lúc đó tiếp quản công việc bề bộn, giải quyết chưa xuể thì ngày 26-9-1955 Hải Phòng bị một cơn bão lớn, gió đông vào lúc thủy triều dâng, tràn hết các con đê oèo oặt do thực dân Pháp để lại. Nước ngập tràn thành phố. Do nước cường tràn vào nhanh, những xã ven đê như Tràng Cát có tới 327 người chết, hầu hết là người già và trẻ em. Anh hùng Phạm Minh Đức đã xả thân cứu giúp đồng bào, bị nước cuốn trôi. Khi nước rút phải vận động cán bộ toàn thành phố đi cạo mặn giúp dân. Những xã ven sân bay Cát Bi, chúng tôi đi giải quyết hậu quả, phải vào sát hàng rào dây thép gai kéo các em bé ra, cháu nào cũng chúc đầu vào dây thép gai, chết rất thê thảm. Lúc nước cường, anh Mười, anh Hoàng Mậu và tôi đi xe Jeep của anh Mười xuống nhà thờ Nam Pháp. Đến đó thì nước đang dội vào thành phố, có nguy cơ xe chết máy không về được. Tôi bảo chú lái xe chở anh Mười về trước, còn anh Hoàng Mậu và tôi cùng đồng chí Vân bảo vệ anh Mậu sẽ về sau. Nước tràn vào mỗi lúc một lớn, chúng tôi không thể nào xuống được xã Sâm Bồ, Hạ Đoạn. Ba anh em phải khoác tay nhau đi hàng ba về nội thành. Về đến đầu cầu Rào nước đã lên ngang thắt lưng. Ba anh em đi về đến nội thành, thì nội thành biến thành bể nước, không còn chỗ nào hở cả. Về đến văn phòng đã trưa, mọi người chờ đợi. Chúng tôi phải một mẻ ướt sũng. Nhưng khi nước thủy triều rút, bão cũng gần tan nên nước rút nhanh. Lúa bị chết hết vì nước mặn. Đê không đủ cống để thoát nước. Thật là trời thử thách lòng kiên định của nhân dân Hải Phòng.
    Theo các cụ cao niên kể lại: ?oĐây là trận hồng thủy lớn nhất sau 150 năm mới lại xảy ra? (Khi quai đê lấn biển đường 14 Đồ Sơn, tôi đã lấy mực nước lớn nhất năm 1955 làm Tiêu chuẩn cho đê biển Hải Phòng. Đê cao 71 hơn mốc nước năm 1955 là 2 mét, chân đê rộng 60 mét, có kè đá hoặc xi măng cốt thép bên ngoài bảo đảm 150 năm sau nếu lịch sử thủy triều lập lại thì nhân dân ven biển sẽ tránh được tại hoạ).
    Mọi công việc tiếp quản ngày một ổn định. Nhưng Cải cách ruộng đất đợt 5 lại đến. Thành phố có đỡ hơn. Ngoại thành làm mạnh. Tôi phụ trách nội chính nên phải theo rõi tình hình Cải cách ruộng đất. Hồ sơ cán bộ do các đoàn Cải cách ruộng đất gửi về Thành uỷ, xin bắt đồng chí này, đồng chí khác... ngày càng nhiều. Còn riêng tôi, nghĩ gia đình chỉ là trung nông nên tôi cũng chẳng để ý đến gia đình là thành phần gì. Một hôm tôi cùng một vài đồng chí trồng một cây bàng ở sân văn phòng Thành uỷ (cây bàng nay vẫn còn), đồng chí Hoàng Mậu nhìn tôi cười cười và nói: ?oCậu trồng cây đó làm gì??. Linh tính báo cho tôi biết có điều gì chẳng lành, tôi đoán chắc mình cũng có hồ sơ của đoàn Cải cách ruộng đất gửi về nhưng văn thư giữ kín không chuyển cho tôi. Tôi vẫn bình tĩnh. Mấy đồng chí thư kí khác như anh Hưng, anh Quảng, anh Minh Sơn cũng có danh sách là gia đình địa chủ. Trông đi trông lại văn phòng đều là con cái địa chủ cả. Nhưng ban thường vụ chẳng thấy nói gì. Tôi vẫn làm việc bình thường. Khoảng tháng sau, người chị dâu nhà tôi ?ogiả vờ? đi chợ xuống Hải Phòng vào thăm tôi, nhà tôi nhắn tin xuống: ?oNhà bị qui là địa chủ thường. Em tuy con nhà cố nông, nhưng vì liên quan, không được sinh hoạt đảng. Anh bị họ tố là Bí thư chi bộ Quốc dân đảng, nhưng họ tố bí mật với nhau, không nói công khai, đội Cải cách ruộng đất không thấy nói gì, anh yên tâm công tác. Em phản đối kịch liệt họ tố sai. Đội họ bảo em cứng đầu cứng cổ, chẳng sợ gì cả. Em nghĩ họ làm bậy, tố bậy, nên em coi họ rất thường!?.
    Khi sửa sai gia đình tôi được hạ xuống trung nông, còn nhà tôi đến khi sửa sai mới được khôi phục đảng tịch. Nhà tôi được cả xã, cả khu vực khen ngợi là dám chống lại những việc làm sai trái của Cải cách ruộng đất, nói thẳng nói thật, không như một số đảng viên khác cùng về làm dâu ở làng tôi như chị C. (còn sống), đấu bố chồng và gọi tên bố chồng chửi... nhà tôi rất khinh. Sau này tuy là chị em trong họ, nhưng khi chị C. đến chơi, nhà tôi vẫn lảng tránh, tỏ ra khinh bỉ. Tôi cũng nhắc nhà tôi nhiều lần ?oĐảng đã sửa sai, biết bao nhiêu kẻ cơ hội, đâu có riêng gì chị C...?.
    Trong lúc phong trào Cải cách ruộng đất đang lên, du kích và cốt cán Cải cách ruộng đất vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức Nhà nước. Họ đã bắt được một vài người. Tôi báo cáo anh Mười cứ để thế này thì không nên. Thành phố mới tiếp quản, lòng dân còn nhiều điều suy nghĩ về chế độ mới, đề nghị anh nhắc các Đoàn uỷ Cải cách ruộng đất không để cốt cán vác súng vào nội thành tìm địa chủ... Anh Mười nổi nóng tuyên bố: ?oBắt trói tất cả đứa nào vác súng vào bắt cán bộ nghi là địa chủ. Muốn làm loạn à? ?o. Công an ra tay, tóm được mấy nhóm giải về Đoàn uỷ xử lí. Từ đó không có cốt cán nào dám vào nội thành nữa. Nhưng họ tung tin: ?oTay Bí thư Thành uỷ Hải Phòng *********, chống lại Cải cách ruộng đất, nhưng nó to lắm, Đoàn uỷ cũng không làm gì được...?. Đến khi phát hiện sửa sai, đi họp Trung ương về, anh Mười phấn khởi gọi tôi bảo: ?oMình đúng, mình đúng? Làm sai hết rồi! Sửa sai mới mệt cơ!?.
  2. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Trong Cải cách ruộng đất ở Hải Phòng còn một chuyện: Đón đồng chí Mi-cai-ăng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Đồng chí Mi-cai-ăng lúc đó là nhân vật thứ 3 của những nhà lãnh đạo Liên Xô. Ta mới được giải phóng một nửa nước, được đón tiếp một cán bộ cao cấp của Liên Xô lúc đó là một điều rất vinh dự. Trong chuyến thăm này, chương trình của Đoàn có đến thăm Thành phố Hải Phòng, vào ngày 12-3-1956. Hải Phòng thành lập ban đón tiếp do anh Mười trực tiếp chỉ đạo. Tôi được giao trách nhiệm đi báo cáo, liên lạc với Ban đón tiếp Trung ương. Từ ngày bắt đầu chuẩn bị hơn một tháng trời, tôi được giao chiếc Moscovic Liên Xô kiểu cũ với đồng chí lái xe là anh ruột đồng chí Nguyễn Mạnh Giao, Chánh Văn phòng Thành uỷ, sáng đi chiều về, lên Hà Nội nghe chỉ thị, lúc thì gặp anh Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, khi thì gặp anh Vũ Tuân, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, có hôm phải gặp cả hai người để báo cáo tình hình chuẩn bị đón tiếp đồng chí Mi-cai-ăng ở Hải Phòng. Rồi nghe truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Trung ương.
    Vì là lần đầu tiên đón khách quan trọng, nên anh Mười bảo tôi phải hỏi kĩ cách thức đọc diễn văn chào mừng ra sao, bắt tay, đi đứng ra sao? Anh Ung Văn Khiêm đều hướng dẫn cho tôi, để tôi về báo cáo anh Mười. Anh Ung Văn Khiêm còn cho dịch quyển Tự điển Ngoại giao từ tiếng Nga sang tiếng Việt của đồng chí Vi-sanh-ky, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô, để tôi đọc và báo cáo tóm tắt với anh Mười.
    Mọi việc chuẩn bị rất khẩn trương. Hàng ngày tôi đi Hà Nội, qua quê tôi, nhìn cây gạo đầu làng cao nhất vùng, đang mùa nở hoa đỏ ối, thấy nhớ vợ, nhớ nhà da diết. Vì từ khi bắt đầu Cải cách ruộng đất, cán bộ không được phép về thăm nhà. Tôi cho xe đi chậm chậm, mỗi khi qua quê. Tôi nhìn mọi người sao thấy họ đều lo âu, trầm tư. Cũng có người nhìn thấy tôi, khẽ nghiêng đầu chào thầm lặng. Tôi biết là tình hình đấu tranh rất căng thẳng. Chiều từ Hà Nội về, khoảng 16 giờ mà đã vắng tanh, không ai qua lại đường 5, chỉ còn những chiếc xe tô lác đác chạy ngược xuôi Hà Nội - Hải Phòng.
    Ít ngày sau đó tôi được tin xã tôi đã bắn ông Đào Quang Xương mối lái trâu thuần, có hơn một mẫu ruộng. Cả nhà cụ Tổng Toạ, gia đình toàn đi kháng chiến, con gái lớn là cô Đàm làm chủ tịch, con gái thứ hai là cô Địch làm xã đội trường, chiến đấu rất dũng cảm, vì nhà có 3 mẫu ruộng cũng bị đấu tố sỉ vả... Không chịu đựng được sự oan ức, sáng sớm ngày mồng một Tết năm đó, cả nhà đã giả vờ đi tát nước sớm, đến bờ sông Tường, 4 người đều nhảy xuống sông tự tử. Riêng cô Bùi Thị Địch, khi chết hai chân còn để trên bờ. Mọi người đoán là cô Địch bố trí cho bố, mẹ và chị nhảy xuống sông tự tử trước, còn cô Địch nhảy xuống sau. Nhưng do quá uất ức nên chân còn trên bờ, đầu đâm xuống nước chết ngay! Đối với tôi, tôi còn phải gọi cô Đàm, cô Địch bằng dì, hai cô với mẹ tôi là con cô con cậu ruột. Trước khi Cải cách ruộng đất có lần tôi về nhà, hai dì đến nhà tôi chơi có hỏi: ?oTình hình Cải cách ruộng đất sắp đến, chắc gay go lắm? Cậu Quảng (tức Phạm Chí Dũng nay là Đại tá về hưu, là em cùng bố khác mẹ với các dì), cậu Quảng đã viết thư về đoạn tuyệt với gia đình?. Hai dì bảo tôi cho vài lời khuyên. Tôi nói: ?oGia đình ta chỉ có 3 mẫu ruộng, cụ chỉ có chức Phó tổng mua, gia đình hiền lành tử tế, đều tham gia kháng chiến rất tích cực, hai dì chiến đấu ở xã ai mà chẳng biết. Theo ý cháu, đối chiếu với chính sách gia đình chỉ là phú nông là cùng thôi. Hai dì cứ yên tâm, tin tường vào chính sách Cải cách ruộng đất và Bác Hồ...? Hai dì vẫn tỏ ra rất buồn, nhất là chuyện cậu em ruột viết thư đoạn tuyệt gia đình. Hai dì ngồi suy nghĩ hồi lâu rồi đứng dậy ra về: ?oAnh nói tôi cũng thấy tin, nhưng ông bà (ý nói cụ ông, cụ bà Tổng Đàm) thì vẫn lo lắm anh ạ?. Tôi động viên hai dì mấy câu và gửi lời thăm hai cụ. Rất thương là hai dì đều chưa có gia đình. Khi Cải cách ruộng đất, không phải ai xa lạ mà chính là bà vợ hai với cô con dâu vợ cậu Quảng là cốt cán Cải cách ruộng đất, đấu tố hai cụ quyết liệt nhất...
    Sáng ngày 12-3-1956 toàn dân Hải Phòng, quần áo chỉnh tề tay cầm cờ hoa đứng dọc đường từ Sở dầu về đến Hải Phòng, đón đồng chí Mi-cai-ăng và Đoàn từ Hà Nội xuống.
    Tôi cũng rất phấn khởi vì sắp làm tròn nhiệm vụ được giao. Nếu hôm nay không có chuyện gì xảy ra là toàn thắng. Mọi người hào hứng, phấn khởi chờ đợi. Anh Mười, anh Mậu và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt Hải Phòng quần áo chỉnh tề chuẩn bị đón đoàn. Tôi đi kiểm tra lại một lần nữa ở chung quanh trụ sở Uỷ ban Quân quản thành phố. Không khí Cải cách ruộng đất ở ngoại thành căng thẳng, nhưng trong thành phố rất vui.
    Khoảng 10 giờ bỗng có điện từ Hà Nội về báo tin Đoàn không xuống nữa làm mọi người rất thất vọng. Anh Mười chuẩn bị micro phát biểu một vài ý kiến cảm ơn đồng bào. Giữa lúc anh Mười sắp nói, thì anh Trần Quốc Hoàn; Bộ trưởng Bộ Công an và anh Lê Quốc từ Hà Nội xuống. Anh Hoàn nhanh nhảu nói: ?oĐoàn sắp đến nơi rồi?. Anh Mười vỗ vai anh Hoàn nói: ?oĐoàn không xuống rồi?. Anh Hoàn cãi lại: ?oTôi vừa ở chỗ Đoàn, đang chuẩn bị đi. Xe tôi đi trước để kiểm tra?. Anh Mười nắm hai vai anh Hoàn bảo: ?oThôi, thôi xong rồi... Để tôi nói với đồng bào vài lời cảm ơn...?.
  3. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Thế mới biết đón một đoàn Quốc tế đầu tiên sang thăm Việt Nam, nó quan trọng đến chừng nào. Tổ chức bảo vệ thật là kì công. Thế mà bạn không chiếu cố. Sau tôi được biết là cán bộ tùy tùng bảo vệ đề nghị đồng chí Mi-cai-ăng không đi, vì Hải Phòng mới giải phóng, tình hình Cải cách ruộng đất đang căng thẳng, không an toàn, do đó Đoàn quyết định không đi thăm Hải Phòng nữa.
    Anh Mười bảo tôi xuống nhà máy Tơ giải tán buổi nói chuyện của Ban tuyên huấn. Tuy với danh nghĩa bề ngoài như vậy, nhưng thực chất tập trung gần 1000 cán bộ quân đội, dân chính có vấn đề nghi vấn tới nghe nói chuyện. Khi đón đoàn xong sẽ giải tán. Lúc đó tôi mới biết cuộc họp ?ođặc biệt kì lạ? này vì an ninh cho phái đoàn. Khi đến nhà máy tôi lại gặp đồng chí Hồng Vũ, Vũ Hạnh là bạn tù Côn Đảo, một số cán bộ của Quân khu Tả ngạn.v.v. Tôi nghĩ may mà mình về trước được mấy tháng, nếu ra tù sau với hồ sơ ghi ?oT.T? (trao trả), chắc mình cũng nằm trong diện các đồng chí này đây. Nghĩ thế vừa buồn vừa mừng.
    Đến cuối năm 1956, đầu năm 1957, thời kì sửa sai Cải cách ruộng đất, Trung ương điều anh Mười lên làm Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp, anh Hoàng Hữu Nhân, bí thư Khu uỷ Hồng Quảng về thay làm Bí thư thành uỷ Hải Phòng. Trước khi về Trung ương công tác, anh Mười nói với tôi: ?oTôi lên Trung ương công tác, cậu ở lại, nếu được bố trí làm phó chủ tịch Uỷ ban thành phố thì tốt, chí ít cũng làm Giám đốc một sở?.
    Sang công tác thương nghiệp
    Anh Mười đi khoảng hai tháng, tôi nhận được quyết định sang làm phó chủ nhiệm công ti Bách hoá, do đồng chí Nguyên Danh Huyền làm chủ nhiệm. Tôi cầm quyết định đi ngay, không nói một lời.
    Sang Sở thương nghiệp gặp đồng chí Dương Văn Mùi, Phó Giám đốc, đồng chí Dương Văn Mùi cầm quyết định xem, có vẻ không vui (đồng chí Mùi hiện đang ở Hải Phòng), đồng chí nói: ?oThành uỷ cứ quyết định, không bàn gì với Sở. Trước đã điều anh Nguyễn Hoài, Thư kí văn phòng Uỷ ban về làm chủ nhiệm công ti Bông vải sợi, anh em trong ngành thắc mắc...? Tôi cũng không nói gì. Đồng chí Mùi giới thiệu tôi về công ti Bách hoá gặp đồng chí Huyền. Đồng chí Huyền cũng tỏ vẻ không vui, phân công tôi phụ trách nghiệp vụ kinh doanh, ra ngồi riêng ở 31 Hoàng Văn Thụ. Còn đồng chí Huyền chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Hữu Huân phó chủ nhiệm ngồi ở số 5 Trần Quang Khải. Đồng chí Huân tiếp tôi vui vẻ. Nếu nói về trình độ nghiệp vụ thì tôi chưa quen công tác thương nghiệp, nhưng nói về chính trị thì tôi đã kinh qua Bí thư Quận uỷ, vào Đảng từ 1946, được thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhì; còn đồng chí Huyền mới vào Đảng năm 1950 được thưởng Huy chương Kháng chiến chống Pháp, lương kém tôi 2 bậc.
    Nhưng đồng chí Huyền là con người cũng dễ gần. Sau vài cuộc họp, nhất là sau đại hội chi bộ, tôi được giới thiệu tham gia chi uỷ. Tôi không bầu cho mình, điều đó nhiều đồng chí trông thấy, nhưng tôi vẫn được phiếu cao nhất.
    Tôi làm việc được khoảng nửa năm, công việc đã quen dần. Tôi sống hoà mình, ngày ngày cùng đi lao động, tối đi học bổ túc văn hoá với anh em. Tôi vào học lớp 5 cùng với anh Huyền, anh Huân, anh Hoài, anh Tốn, anh Hân (Sở Thương nghiệp) và nhiều đồng chí trong ngành. Mọi người chưa biết trình độ nhau ra sao. Qua hai tuần học tập, thầy giáo bổ túc dạy toán giảng về ?othừa số nguyên tố?. Sau bài giảng, giáo viên hỏi có đồng chí nào xung phong lên phân tích ?othừa số nguyên tố??. Giáo viên nhắc mãi, chẳng ai lên, tôi buộc phải giơ tay lên phân tích 3 con số thầy cho trước. Tôi phân tích cả ba số cũng khá nhanh. Thầy bảo tôi chắc đã học trước rồi. Tôi cười. Từ hôm đó mọi người ?okháo? nhau tôi học giỏi lắm. Khi đến giờ toán, giáo viên gọi lên bảng là mọi người chỉ tôi. Lúc đó tôi nhớ lại việc cụ Phan Bội Châu kiên quyết đi thi, sau khi hết tang mẹ, lấy văn bằng Thủ khoa Thi hương, cốt để thuyết phục được các nho sĩ làm cách mạng theo mình.
  4. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Đi Hà Nội học nghề buôn bán
    Tôi được Sở Thương nghiệp Hải Phòng cử đi học lớp ?ocao trung thương nghiệp? ở Hà Nội. Có 6 đồng chí đi học lớp này. Chúng tôi tập trung về số 66 Hoàng Hoa Thám. Trưòng làm bằng tre nứa lá, tường nhà và các phòng ngăn cách nhau cũng bằng nứa, khung tre; trống tuyền, trống toàng. Đêm đông, đắp cái chăn chiên rét thấu xương, nhưng mọi người rất chăm học. Chúng tôi vừa củng cố nhà trường mới xây, chủ nhật đi kéo xe bò xây dựng ?ođường Thanh niên? (đường Cổ Ngư cũ). Tôi được cử làm Bí thư Chi bộ kiêm Chi trưởng Chi G (trường có 6 chi gồm hơn 300 học sinh). Trong 7 tháng chúng tôi học tập nghiệp vụ, đồng thời học xong chương trình lớp 6 bổ túc văn hoá. Trường có mời một số giáo viên Liên Xô và trường Nguyễn Ái Quốc sang giảng. Mỗi môn học đều kiểm tra rất kĩ. Các đồng chí giáo vụ cũng rất chăm lo hướng dẫn cho học viên. Tôi vừa học cho mình, vừa lãnh đạo anh em trong chi, trong tổ học tập nghiêm túc, nên mỗi đợt kiểm tra mọi học viên trong chi, trong tổ đều đạt điểm cao. Thi hết khoá tôi được là học sinh xuất sắc toàn diện, đỗ thủ khoa, được đồng chí Hoàng Quốc Thịnh thứ trưởng, trao giấy khen của Bộ Thương mại cho tôi và 2 đồng chí thứ nhì, thứ ba. Tôi trở lại Hải Phòng với số vốn kiến thức sơ đẳng thương mại, nhưng dù sao cũng là người có học. Vì tất cả các đồng chí làm công tác thương nghiệp khác chưa ai đi học nghề buôn bán cả. Đây là lớp đầu của Bộ Thương nghiệp, và trường 66 Hoàng Hoa Thám cũng là tiền thân của hai trường Đại học Thương nghiệp và Ngoại thương sau này. Cho nên tôi không còn là ?olính mới? nữa.
    Trong khi tôi đi học vắng, công ti bách hoá đã tách làm hai: công ti bách hoá bán buôn, công ti bách hoá bán lẻ. Tôi vẫn là Phó chủ nhiệm công ti bách hoá bán buôn, anh Nguyễn Hoài làm chủ nhiệm công ti. Sau hai tháng anh Hoài sang làm chủ nhiệm công ti ăn uống, phục vụ. Còn công ti bách hoá bán buôn chuyển thành công ti Bông vải sợi may mặc, do tôi làm chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Văn Tích và đồng chí Trương Giám làm phó chủ nhiệm.
    Những mặt hàng kinh doanh bách hoá chuyển sang công ti bách hoá đảm nhiệm, những mặt hàng bông, vải, sợi của công ti bách hoá chuyển lại cho công ti tôi kinh doanh. Việc sáp nhập các công ti lúc đó còn do Bộ Thương nghiệp quyết định, UBND thành phố tham gia, nhưng thường là nghe ý kiến của Bộ cả, cho nên lúc đó có câu ca dao (vận Kiều):
    Trong tay sẵn có đồng tiền
    Tách ra rồi lại nhập liền như chơi...
    Tôi xây dựng công ti Bông vải sợi may mặc trở thành đơn vị tiên tiến với khẩu hiệu đề ra: ?oVui lòng khách đến, vừa lòng khách đi?. Bộ đã lấy làm khẩu hiệu chung cho toàn quốc.
    Phong trào xây dựng Tổ lao động xã hội chủ nghĩa, cửa hàng may mặc Hồng Bàng kéo dài được 20 năm. Toàn là chị em nữ mậu dịch viên, với những tên tuổi nổi tiếng lúc đó như: Mai Thị Đảm, Trần Thị Phương... đã một thời được nhân dân và mậu dịch viên cả nước biết đến.
    Tôi cũng là chiến sĩ thi đua nhiều năm liền. Khi còn ở Văn phòng Thành uỷ cũng là chiến sĩ thi đua, sang thương nghiệp cũng là chiến sĩ thi đua, nên năm 1960 được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng II cho công ti và cá nhân tôi được tặng Huân chương Lao động hạng III. Năm 1959 tôi được vinh dự Bác Hổ tặng bằng khen, là một trong những cán bộ được thưởng huân chương lao động sớm nhất của Thành phố Hải Phòng.
    Năm 1959-1960 Công ti Bông vải sợi may mặc được Bộ Thương nghiệp và UBND Thành phố lấy làm đơn vị thí điểm cải tiến quản lí. Chúng tôi đã xây dựng một nếp làm việc mới cho toàn công ti. Kiểm kê, kiểm soát hàng hoá bán hàng, cập nhật hàng ngày, kho tàng ngăn nắp, các phiếu kho công khai để theo ô hàng, ai muốn kiểm tra có thể biết ngay. Do cung cách làm ăn khoa học như thế, chúng tôi đã đào tạo nên những chiến sĩ thi đua thủ kho toàn quốc Nguyễn Văn Nổi (khi về tiếp quản miền Nam, làm Giám đốc Công ti thương mại tỉnh An Giang), chiến sĩ bảo vệ Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Phát (người Việt gốc Hoa) v.v... đều rất tận tâm với công việc.
    Năm 1959 do cải tiến quản lí hàng hoá nhập kho, đo đếm cẩn thận, nên cuối năm số dư tồn kho 800.000 tiền mới (800 triệu tiền cũ), Bộ cho là kinh doanh phục vụ tốt, nhưng tài sản thừa lớn như vậy là quản lí để hỗn loạn tài sản. Tôi trình bày thế nào Bộ và Thành phố cũng không nghe. Tôi đã nói: ?oNếu chúng tôi tham ô hết số hàng hoá này, chắc sẽ được khen thưởng. Nhưng vì chúng tôi quá thật thà mới có số dư này. Lí do vì vải popeline sanford nhập từ Nhật Bản, mỗi tấm nhập chỉ tính 30m/tấm, nhưng khi đo thực tế là 33m đến 35m/tấm. Khi bán hàng, mậu dịch viên đo đúng, còn thừa lại nhập kho. Các hàng hoá khác nhập ngoại cũng tương tự như vậy, nên nó thừa ra. Tôi mời cán bộ kế toán tài vụ, kho vận của Bộ về xác minh, các đồng chí không nghe, bảo đợi năm sau kiểm kê sẽ kết luận. Năm 1959 đáng lẽ công ti và tôi đều được Huân chương nhưng bị dừng lại, riêng tôi được bằng khen của Bác Hồ.
    Sang năm 1960 trước khi kiểm kê tôi mời Bộ, UBND và Sở Thương nghiệp đến chứng kiến, tôi trực tiếp chỉ đạo, kiểm kê hết 40 ngày. Kết thúc kiểm kê, hội đồng đánh giá là chính xác, và sự thừa ra đúng là do quản lí tốt, không để thất thoát, không để mậu dịch viên tham nhũng. Cho nên trong công ti tôi lúc đó, mặc dù chính sách lương bổng, khen thưởng giải quyết thích đáng, nhưng vẫn có tiếng kêu làm thương nghiệp chỉ có ?otiền đền, không có tiền đồ?. Nhưng chỉ hơn 10 năm sau, tôi trở lại làm Giám đốc Sở Thương nghiệp, thì chẳng còn tiếng kêu đó nữa, mọi người đua chen xin vào thương nghiệp với bất cứ giá nào! Tôi nghĩ: quả là có nhiều vấn đề trong quản lí thương nghiệp rồi!
    Khi làm Chủ nhiệm công ti tôi rất quan tâm đến xây dựng cơ sở vật chất cho công ti, mở rộng màng lưới bán lẻ, may đo, như cửa hàng 44 Hoàng Văn Thụ, Gi-long, Phúc Vĩnh Xương v.v. làm cho màng lưới ngày càng rộng, chiếm lĩnh thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ, sắp xếp tư thương có nề nếp. Tôi còn trực tiếp đi khai thác các nguồn hàng, trao đổi với các nơi, nhất là thị xã Móng Cái- Hải Ninh lúc đó. Kế hoạch phân phối hàng hoá của các tổng công ti rất có hạn nên phải tìm nguồn hàng. Tôi cùng với cán bộ nghiệp vụ, nhất là với đồng chí San (hơn tuổi tôi, nhưng là cán bộ nghiệp vụ biết việc, chịu khó), lần nào đi Móng Cái mua hàng, đồng chí San cũng đi với tôi. Lúc đó giao thông khó khăn, chỉ có đường thủy. Tàu Hải Đông đóng bằng gỗ, do Trung Quốc đóng giúp, trọng tải khoảng 15 tấn, chạy từ Hải Phòng - Móng Cái phải mất khoảng hơn 12 giờ. Chúng tôi cứ tối đi, sáng đến Núi Ngọc, nếu nước to thì tàu chạy đến sông Can Long, không phải đi bộ hơn 10 km từ Núi Ngọc đến Móng Cái. Môi chuyến đi mua hàng là rất vất vả hàng tuần. Ra đến Móng Cái phải nhờ các đồng chí tỉnh Hải Ninh trao đổi với bên Trung Quốc giúp, hoặc các đồng chí mua vải của Trung Quốc về Việt Nam rồi bán cho Hải Phòng bằng chuyển khoản hoặc đổi hàng. Mỗi lần cũng mua được hàng trăm nghìn mét, chủ yếu là vải hoa và ka ki Trung Quốc. Mặc dù lúc đó ở Trung Quốc rất nghèo, sang thị trấn Đông Hưng (nay là Thành phố Đông Hưng) chỉ có lèo tèo vài rổ ốc, cá tôm tép lặt vặt. Có một cửa hàng ăn duy nhất, không có khách.
    Các đồng chí Trung Quốc cho biết: nhân dân chỉ được phân phối 0,4 mét vải/người để vá quần áo. Thế mà bạn vẫn tiết kiệm vải bán cho ta! Có lần hai anh em đi tàu Hải Đông, đến cửa Vạn Hoa, sóng to gió lớn, tàu không thể nào vượt được sóng để sang vịnh Hạ Long, lái tàu quay ngược, quay xuôi mãi xuýt đắm mới qua được cửa Vạn Hoa, thật là hú vía.
  5. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Khi có hàng về, tôi phân phối cho các cửa hàng may đo, may thêu quần áo trẻ em. Bán miễn tem phiếu, hoặc miễn một nửa, cũng làm cho người mua lúc đó phấn khởi lắm rồi. Nhưng bán được ít ngày, Sở thương nghiệp có lệnh phải thu đủ tem phiếu, nếu không thu các tỉnh kéo về mua làm gì có quần áo trẻ em mà bán? Tôi nghĩ cũng đúng, vì nhiều nơi có tem phiếu cũng không mua được vải, được quần áo... Chế độ tem phiếu của mô hình kế hoạch hoá tập trung bao cấp, đã để lại trong tôi bao ấn tượng, ví như ngày mời Thứ trưởng Thường trực Bộ Nội thương Trần Văn Hiển về chứng kiến kho tem phiếu, được coi giá trị bằng tiền, đã mốc meo, hôi thối... mà chẳng ai quản lí, kiểm kê, kiểm soát. Ngoài thị trường thì ?ocon phe? đầy rẫy, xếp hàng mua bán đủ mọi thứ tem phiếu... Nhờ vậy vụ đốt tem phiếu được coi như một cuộc cách mạng ghê gớm trong ngành thương nghiệp.
    Sang công tác thương nghiệp được hơn 4 năm, tôi phụ trách cả 3 công ti: Bông vải sợi may mặc, bách hoá, bách hoá bán buôn. Công việc đã để lại trong tôi rất nhiều suy nghĩ về tổ chức này, tính chất phục vụ nhân dân của nó, với đầy đủ ý nghĩa của một Nhà nước CNXH. Tôi hết sức làm việc, xây dựng cơ sở vật chất tính toán, đồng thời đi học tiếp văn hoá, nghiệp vụ... để nâng cao kiến thức với mong muốn phục vụ tốt hơn và tìm được cách thay đổi phương thức làm ăn. Tạm biệt nghề buôn bán, sang nghề sản xuất công nghiệp.
    Tôi đang say sưa công tác thương nghiệp thì 1962 tôi nhận được quyết định sang làm Phó Giám đốc Sở Công nghiệp, chuyên lo phụ trách khối Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Giám đốc lúc đó là đốc Hồng Cẩn.
    Mối quan hệ giữa Liên hiệp xã thủ công nghiệp với Sở công nghiệp vốn không được tốt đẹp lắm.
    Anh em bên Liên hiệp xã thủ công nghiệp cho là Sở chèn ép, phụ thuộc Sở quá nhiều. Tôi là Phó Giám đốc Sở kiêm Phó Chủ nhiệm Liên hiệp xã thủ công nghiệp, còn chủ nhiệm là đốc Nguyễn Thị Minh Nhã, Bí thư Hội phụ nữ Hải Phòng, Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ. Tôi phải làm việc với 2 thủ trưởng, Văn phòng sở riêng, Văn phòng Liên hiệp xã riêng, tôi vẫn ngồi làm việc tại số 3 Cù Chính Lan, trụ sở của Sở Công nghiệp. Còn Hồng Bàng trụ sở Liên hiệp xã thủ công nghiệp có Đồng chí Thịnh làm 78 Phó Chủ nhiệm Liên hiệp xã làm ở bên đó. Tôi phải có kế hoạch tốt để làm việc vì Đồng chí Hồng Cẩn muốn nhập hẳn Liên hiệp xã vào Sở công nghiệp, còn Liên hiệp xã thì chị Nhã và anh chị em không muốn. Tôi cố gắng thu xếp làm việc cho có hiệu quả. Sau hơn một năm công việc dần dần ổn định. Công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng đều phát triển mạnh mẽ. Có lá cờ đầu Hợp tác xã Hồng Quang nổi tiếng lúc đó. Do vậy Thường vụ Thành uỷ thấy cần thành lập Sở Tiểu công nghiệp + Thủ công nghiệp riêng để chỉ đạo cho sát, xứng với tầm của một thành phố công nghiệp lớn ở miền Bắc.
    Thành lập hai sở: Sở Công nghiệp, Sở Tiểu công nghiệp - và thủ công nghiệp. Năm 1964 Thành phố tách Sở Công nghiệp ra làm 2 sở: Sở Công nghiệp và Sở Tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp. Thực chất là Sở xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và sở Hợp tác xã sản xuất công nghiệp và thủ công. Lúc đó có những hợp tác xã như Hồng Quang, Sông Lô, Kim Sơn v.v... còn lớn hơn một số xí nghiệp quốc doanh.
    Đồng chí Nguyễn Hữu Cẩn (Hồng Cẩn) làm Giám đốc Sở công nghiệp, tôi làm Giám đốc sở tiểu, thủ công nghiệp, kiêm Chủ nhiệm Liên hiệp hợp tác xã thủ công nghiệp.
    Lúc đó Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của thành phố có khoảng trên dưới 30 đơn vị (không kể quốc doanh Trung ương đóng tại Hải Phòng). Còn hợp tác xã Thủ công nghiệp thì có hàng trăm đơn vị, chưa kể tổ sản xuất và cá thể. Hai sở liên kết với nhau chặt chẽ. Tôi thường nói vui với đồng chí Hồng Cẩn là: ?oHai sở thi đua nhau xem sở nào hơn...? Tuy nói vui, nhưng tôi thực sự cố làm cho ngành phát triển nhanh chóng. Tôi cùng các đồng chí trong sở và Liên hiệp xã tổ chức sắp xếp qui hoạch lại các hợp tác xã. Tất cả các hợp tác xã cơ khí nội thành tổ chức thành hơn 30 hợp tác xã có qui mô lớn từ 100 xã viên trở lên, tập trung vào một khu vực ở An Dương (Khu đường Thiên lôi, kéo đến Lán bè ngày nay). Các hợp tác xã sản xuất hàng bách hoá tiêu dùng, tập trung về khu miếu Hai xã...v.v. Trong khi đó, xí nghiệp quốc doanh địa phương vẫn còn ở rải rác trong các đường phố. Các hợp tác xã của tôi thì ở tập trung, những ngôi nhà mới lợp tôn, khung sắt vững chãi, mọc lên ở 2 khu trên, làm cho ngành thủ công nghiệp lúc đó mọi người đều nhìn thấy là đang vươn lên so với xí nghiệp quốc doanh địa phương.
    Ngành thủ công nghiệp Hải Phòng được lấy làm thí điểm cải tiến quản lí. Liên hiệp xã thủ công nghiệp Trung ương coi thủ công nghiệp Hải Phòng như ?ocon cưng? của mình. Các vấn đề nghiên cứu chính sách đối với công nghiệp, Ban công nghiệp Trung ương lúc đó đều xuống Hải Phòng nghiên cứu, hoặc có các hội nghị về chính sách đối với sản xuất công nghiệp, Hải Phòng thường được Trung ương giao chuẩn bị báo cáo thực tế và đề xuất chính sách.
    Sự nghiệp phát triển tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp Hải Phòng rất nhanh, đa ngành nghề. Nhiều mặt hàng mới được tổ chức sản xuất như: cúc bấm của hợp tác xã Quần Lực, khoá Thăng Long, giầy vải Hợp Lực, nồi nhôm Toàn Thắng và Quần Lực, đúc đồng chân vịt máy tàu của 19-5, vành xe đạp Hồng Quang và các phụ tùng xe đạp của Quyết Tiến, Quyết Thắng... được người tiêu dùng ưa thích, kể cả việc chế biến hạt nhân ngọc trai bán cho đảo Cô Tô để nuôi ngọc trai xuất khẩu v.v... Tôi đã chỉ đạo xây dựng một mô hình ?oxí nghiệp hợp tác xã?, lấy một số thợ kĩ thuật đúc đồng của ngành quân giới, như bố con cụ Chiếu ở 40 ngõ Cấm, bố con ông Mỹ Long... về xây dựng một xí nghiệp hợp tác xã đúc đồng. Lúc đó cả phía bắc chưa đúc được chân vịt (Hê-lít) cho canô và tàu biển, phải nhập ngoại. Đồng chí Nguyên, cán bộ miền Nam tập kết, phụ trách việc nghiên cứu đúc thử chân vịt. Đêm đúc thử 5 chân vịt, đường kính dài 25 cm, tôi cùng anh chị em thợ đúc đồng thức suốt đêm để xem kết quả. Đúc xong, khi dỡ khuôn mẫu ra hỏng 4 cái, còn một cái tuy đủ hình thù nhưng rỗ nhiều, phải dùng que hàn đồng để hàn cho hết rỗ... Mọi người tỏ ra bi quan. Vì đúc không có máy đo độ lỏng của đồng, phải thử bằng ?oque cời?, độ xoắn của cổ chân vịt dùng dây rơm để đo... Tôi động viên anh em yên tâm, sau hai ngày nghỉ ngơi, rút kinh nghiệm, lại đúc tiếp. Lần này đúc 5 cái, chỉ hỏng 2, còn 3 cái rỗ cũng ít hơn. Như vậy coi là thắng lợi. Tôi cho đúc tiếp hàng loạt, vì lúc đó phương tiện giao thông đường thủy đang phát triển, nhất là loại chạy trên sông ven biển. Nhà nước thiếu ngoại tệ nhập chân vịt của Liên Xô, Ba Lan... nên mặt hàng chân vịt bán khá chạy. xí nghiệp hợp tác xã đúc đồng ngày càng nổi tiếng, không những đúc chân vịt loại nhỏ, mà nâng lên đúc loại 50 cm, rồi đến một mét. Đến nay đã đúc được chân vịt 2,2 mét cho tàu một vạn tấn... Trong quá trình trưởng thành của xí nghiệp đúc đồng 19-5, năm nay là hơn 40 tuổi, nhưng năm nào công nhân và lãnh đạo xí nghiệp cũng nhớ đến người sáng lập ra nó. Nay xí nghiệp đã trưởng thành, đúc tượng đồng đứng nữ tướng Lê Chân tại vườn hoa công viên thành phố cao lom, tượng ngồi Nguyễn Bỉnh Khiêm, là những tác phẩm đáng kể của xí nghiệp đúc đồng Hải Phòng. Một vài năm, tôi lại đến thăm xí nghiệp.
    Có câu chuyện mang tính ?oduy tâm?, anh chị em công nhân kể cho tôi nghe: Có hai đồng chí Giám đốc đều chết trẻ, vì bệnh ung thư cả. Anh em cho rằng những năm trước ta không nhập nguyên liệu đồng để sản xuất, anh chị em mua đủ mọi loại đồng, như tượng phật, chuông chùa, đồ cúng tế bằng đồng... đem về đúc thành chân vịt... nên trời Phật phạt các Giám đốc. Từ ngày nhập đồng lanh-gô về đúc thì giám đốc mạnh khoẻ. Tôi bảo ?oCó khi các đồng chí làm vệ sinh không kĩ khi đúc?. Các đồng chí nói: ?oCông nhân trực tiếp đúc lại không việc gì!? Tôi nói: ?oVấn đề tâm linh còn phải bàn tiếp, dài lắm, khoa học chưa chứng minh được, ta không nên phủ nhận mà cũng không nên công nhận. Đợi khoa học kết luận cho thận trọng...?.
    Trong quá trình xây dựng ngành tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng, mỗi khi nghĩ đến, tôi lại càng căm thù đế quốc Mỹ, không khác gì căm thù thực dân Pháp, kẻ bắt mình tra tấn gần chết... Đó là, Giôn-xơn thả bom, đánh phá kinh tế miền Bắc. Chúng thả bom B52 và các loại bom vào khu vực An Dương, san bằng thành bình địa khu vực các hợp tác xã cơ khí thủ công nghiệp. Đồng chí Hiệu chủ nhiệm hợp tác xã cơ khí Kim Sơn hi sinh. Mặc dù các máy móc của hợp tác xã đã chuyển đi sơ tán ra vùng ngoại thành và huyện Kim Thành thuộc tỉnh Hải Dương, chỉ còn vỏ nhà máy mà thôi, nhưng đối với kinh tế hợp tác xã, thì đó cũng là tổn thất rất lớn. Tôi cứ nghĩ nếu không xảy ra chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ, chắc chắn ngành tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng phải tiến nhanh vượt bậc 80 so với xí nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương. Các xã viên trong ngành cũng nói như vậy. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngành hợp tác xã thủ công nghiệp Hải Phòng vẫn phát huy được truyền thống của mình, vẫn giữ vững được sự phát triển với tốc độ cao.
  6. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tham gia Thành uỷ Hải Phòng
    Tháng 2-1968, giữa lúc chiến tranh phá hoại bằng máy bay địch ác liệt, một kì đại hội rất đặc biệt họp trong hang núi Voi. Trời mưa suốt. Nhưng đại hội rất sôi nổi, nhất là những phiên họp bầu cử, làm việc đến 2 giờ sáng mới xong. Vì việc kiểm phiếu thủ công, lại tranh thủ họp để kết thúc hội nghị sớm, các đại biểu dự đại hội rất vất vả. Trong một bữa cơm chiều, đồng chí Quốc Hiệu, Giám đốc Sở thương nghiệp mời tôi đi ăn thịt bò thui do thị đội thị xã Kiến An mời, đúng là hơn 20 năm tôi mới lại được ăn bữa thịt bò thui rất ngon. Trời mưa tầm tã. Có lẽ anh em cũng không giữ được vệ sinh, hay là do tôi ăn nhiều, mới bị ?oTào tháo? đuổi. Lo quá, phải uống nhanh mấy viên thuốc. May mà ổn định, nên vẫn tiếp tục về họp đại hội suôn sẻ. Thật bất ngờ, tôi được đại hội bầu vào ban chấp hành Thành phố.
    Tạm biệt sở thủ công nghiệp và liên hiệp hợp tác xã, sang làm Trưởng ban Tài mậu Thành uỷ.
    Sau đại hội, tôi được phân công làm trưởng ban Tài mậu, đồng chí Nguyễn Đỉnh Khôi cùng là thành uỷ viên, thay tôi làm Giám đốc Sở thủ công nghiệp. Lần này tôi trở lại công tác thương nghiệp, ngân hàng, giá cả, tài chính, nhưng chủ yếu là tổng kết, nghiên cứu, đề xuất chính sách với thành uỷ và Trung ương.
    Sau khi tổng kết 10 năm công tác tài mậu ở Hải Phòng, có nhiều vấn đề thành công và tồn tại.
    Tôi đặc biệt thấy nổi bật vấn đề lãng phí trí tuệ chất xám là lãng phí lớn nhất. Ban Tài mậu Trung ương lúc đó đồng chí Nguyễn Thanh Bình là trưởng ban, đồng chí Tô Duy là phó ban. Tháng 7-1968 đồng chí Tô Duy xuống làm việc với ban Tài mậu Hải Phòng, đồng chí nói: ?oBan tài mậu sắp mở lớp bồi dưỡng cho các đồng chí phụ trách tài mậu tỉnh, thành phố, huyện thị. Mới sang làm tài mậu, nên anh Thành cần đi học vì chưa làm tài mậu bao giờ.? Tôi đồng ý đi học gần 2 tháng ở Hưng Yên. Lúc đó sơ tán, không học ở Hà Nội. Đến lớp học chỉ có mình tôi là cấp tỉnh thành, còn đều là cán bộ huyện cả. Hình như thành phố Hà Nội không có ai đi học. Khi xem chương trình tôi thấy thấp hơn khoá học cao trung thương mại của Bộ thương nghiệp. Nhưng tôi vẫn học nghiêm túc. Chương trình đã học rồi nên có thì giờ đọc sách, nghiên cứu, khảo sát, tối đốt đèn dầu đánh ?otổ tôm? với Ban giáo vụ. Đồng chí Tô Duy cũng giảng mấy bài, đem giáo án ra đọc rồi phân tích. Trong các bài giảng khác, tôi chỉ tiếp thu được một ý của đồng chí Đoàn Trọng Truyến về ?oPhân công lao động mới trong CNXH?. Khi kết thúc lớp học, viết thu hoạch, tôi viết kĩ và sâu về các vấn đề ban giáo vụ nêu ra, tôi viết và phân tích cả những vấn đề nhà trường không đề cập tới. Viết xong chuyển lên ban giáo vụ. Mấy hôm sau đồng chí Tô Duy gặp tôi cười và nói: ?oChắc anh đã học những vấn đề này rồi phải không??
    Tôi cười, không nói gì. Sang đầu năm 1969 tôi đi học lớp chính trị cao cấp khoá V, trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Các khoá trước học có 18 tháng, khoá V học hai năm. Khoá học lại vào thời gian Mỹ tập kích vào Sơn tây nhằm giải phóng ?ogiặc lái Mỹ?, nhưng thất bại do ta mới di chuyển tù binh đi nơi khác. Trường lại bắt đầu đào giao thông hào chiến đấu, đêm phải cử học sinh trực đêm canh gác trên mái trường. Tôi trong Ban chi uỷ và Tổ trưởng học tập, tôi tự lập kế hoạch học lập lí luận, học văn hoá ngoại ngữ, tranh thủ đọc sách, 3 tháng mới về thăm nhà một lần. Khi còn ở địa phương công việc rất bận rộn, không có nhiều thì giờ nghiên cứu học tập. Nhất là thư viện trường Nguyễn Ái Quốc lúc đó sách nước ngoài rất nhiều, kể cả sách kinh tế của chủ nghĩa tư bản như của: Recardo, Adam Smith, Keynes v.v... tôi ham đọc sách quên cả mọi việc, chủ nhật nào cũng ở lại trường mượn sách đọc, đọc đến vàng mắt, khi ra ngoài trời chỉ thấy màu vàng hàng mấy giờ liền. Ngoài học tập, nhà trường còn cho mỗi tổ 10 m2 đất để tăng gia cải thiện. Tổ tôi có hai đồng chí Đặng Việt và Nguyễn Văn Hân rất chăm chỉ lao động. Tuy có 10 m2 đất mà chúng tôi trồng hơn mười thứ rau, mùa nào thứ ấy, đủ rau ăn cho tổ, còn bán cho bếp nhà trường. Khi bế mạc, chúng tôi có đủ tiền để liên hoan mời cán bộ nhà trường đến dự, tiêu chuẩn mỗi người một con vịt. Còn thừa 75 đồng, chúng tôi gửi biếu tạp chí Học tập nay là tạp chí Cộng sản.
    Nói về tăng gia, tôi phải nhắc đến đồng chí Đặng Việt, con ông Đặng Hướng, Tổng đốc Nghệ An. Cải cách ruộng đất qui gia đình đồng chí Việt là đại địa chủ, cường hào gian ác. Đồng chí Đặng Việt lúc ấy là Trung đoàn trưởng trung đoàn Cao Bắc Lạng, nổi tiếng một thời đánh Pháp trên đường số 4, đoạn Cao Bằng - Lạng Sơn được gọi ?oVua đường 4?. Vì thành phần, đồng chí Đặng Việt phải chuyển ngành sang Tổng cục Thủy sản. Trong học tập đồng chí rất chăm chỉ, cùng học tiếng Anh với tôi, nhưng đồng chí rất giỏi tiếng Pháp nên cũng giúp tôi được nhiều. Ưu điểm nổi bật nhất là thành tích tăng gia trồng rau. Cứ tối đến, anh tranh thủ xách cái thùng lấy phân, sang khu chung cư của Ban Lịch sử Đảng phía bên kia đường, đối diện với trường Nguyễn Ái Quốc, lấy phân bắc về bón rau. Đồng chí chịu khó cả lao động lẫn học tập. Tôi với đồng chí Đặng Việt ngày nào cũng nấu canh rau đủ loại. Chúng tôi lấy cơm tập thể của trường, đem về phòng nấu thêm thức ăn. Nhất là năm thứ hai, các lớp khác bế mạc, nên học viên được ở nới rộng 2 người/phòng, thay vì 4 người/phòng. Có phòng chỉ có một người, nên cuộc sống tinh thần, vật chất của trường được cải thiện rõ rệt. (Nay đồng chí Đặng Việt đã hơn 80 tuổi, người rất khoẻ và đánh tenis rất giỏi, thỉnh thoáng vẫn lại chơi với tôi và cho sách mới viết của đồng chí).
    Hai năm học tập nghiên cứu ở Học viện, thực sự tôi có thì giờ nghiên cứu lí luận có hệ thống, về lí luận Marx-Lénine. Tư tưởng Hồ Chí Minh, triết học trước Marx và các học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế tư bản chủ nghĩa, tạo cái vốn lí luận để sau khi ra trường xử lí các vấn đề yên tâm hơn, không sợ sai như trước. Khi học, tôi rất chú ý so sánh cái cũ, cái mới, những cái Marx kế thừa, những cái Marx sáng tạo, để thấy rõ thiên tài của Marx là ở chỗ nào. Cả Lénine cũng vậy. Tôi phân tích và ghi chép những cái mới của các vị và suy ngẫm vận dụng vào thực tế Việt Nam, nên ít giáo điều hơn. Khi viết thu hoạch hoặc kiểm tra, các giáo viên thường thích những lập luận mới của tôi.
  7. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tham gia Thành uỷ Hải Phòng
    Tháng 2-1968, giữa lúc chiến tranh phá hoại bằng máy bay địch ác liệt, một kì đại hội rất đặc biệt họp trong hang núi Voi. Trời mưa suốt. Nhưng đại hội rất sôi nổi, nhất là những phiên họp bầu cử, làm việc đến 2 giờ sáng mới xong. Vì việc kiểm phiếu thủ công, lại tranh thủ họp để kết thúc hội nghị sớm, các đại biểu dự đại hội rất vất vả. Trong một bữa cơm chiều, đồng chí Quốc Hiệu, Giám đốc Sở thương nghiệp mời tôi đi ăn thịt bò thui do thị đội thị xã Kiến An mời, đúng là hơn 20 năm tôi mới lại được ăn bữa thịt bò thui rất ngon. Trời mưa tầm tã. Có lẽ anh em cũng không giữ được vệ sinh, hay là do tôi ăn nhiều, mới bị ?oTào tháo? đuổi. Lo quá, phải uống nhanh mấy viên thuốc. May mà ổn định, nên vẫn tiếp tục về họp đại hội suôn sẻ. Thật bất ngờ, tôi được đại hội bầu vào ban chấp hành Thành phố.
    Tạm biệt sở thủ công nghiệp và liên hiệp hợp tác xã, sang làm Trưởng ban Tài mậu Thành uỷ.
    Sau đại hội, tôi được phân công làm trưởng ban Tài mậu, đồng chí Nguyễn Đỉnh Khôi cùng là thành uỷ viên, thay tôi làm Giám đốc Sở thủ công nghiệp. Lần này tôi trở lại công tác thương nghiệp, ngân hàng, giá cả, tài chính, nhưng chủ yếu là tổng kết, nghiên cứu, đề xuất chính sách với thành uỷ và Trung ương.
    Sau khi tổng kết 10 năm công tác tài mậu ở Hải Phòng, có nhiều vấn đề thành công và tồn tại.
    Tôi đặc biệt thấy nổi bật vấn đề lãng phí trí tuệ chất xám là lãng phí lớn nhất. Ban Tài mậu Trung ương lúc đó đồng chí Nguyễn Thanh Bình là trưởng ban, đồng chí Tô Duy là phó ban. Tháng 7-1968 đồng chí Tô Duy xuống làm việc với ban Tài mậu Hải Phòng, đồng chí nói: ?oBan tài mậu sắp mở lớp bồi dưỡng cho các đồng chí phụ trách tài mậu tỉnh, thành phố, huyện thị. Mới sang làm tài mậu, nên anh Thành cần đi học vì chưa làm tài mậu bao giờ.? Tôi đồng ý đi học gần 2 tháng ở Hưng Yên. Lúc đó sơ tán, không học ở Hà Nội. Đến lớp học chỉ có mình tôi là cấp tỉnh thành, còn đều là cán bộ huyện cả. Hình như thành phố Hà Nội không có ai đi học. Khi xem chương trình tôi thấy thấp hơn khoá học cao trung thương mại của Bộ thương nghiệp. Nhưng tôi vẫn học nghiêm túc. Chương trình đã học rồi nên có thì giờ đọc sách, nghiên cứu, khảo sát, tối đốt đèn dầu đánh ?otổ tôm? với Ban giáo vụ. Đồng chí Tô Duy cũng giảng mấy bài, đem giáo án ra đọc rồi phân tích. Trong các bài giảng khác, tôi chỉ tiếp thu được một ý của đồng chí Đoàn Trọng Truyến về ?oPhân công lao động mới trong CNXH?. Khi kết thúc lớp học, viết thu hoạch, tôi viết kĩ và sâu về các vấn đề ban giáo vụ nêu ra, tôi viết và phân tích cả những vấn đề nhà trường không đề cập tới. Viết xong chuyển lên ban giáo vụ. Mấy hôm sau đồng chí Tô Duy gặp tôi cười và nói: ?oChắc anh đã học những vấn đề này rồi phải không??
    Tôi cười, không nói gì. Sang đầu năm 1969 tôi đi học lớp chính trị cao cấp khoá V, trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Các khoá trước học có 18 tháng, khoá V học hai năm. Khoá học lại vào thời gian Mỹ tập kích vào Sơn tây nhằm giải phóng ?ogiặc lái Mỹ?, nhưng thất bại do ta mới di chuyển tù binh đi nơi khác. Trường lại bắt đầu đào giao thông hào chiến đấu, đêm phải cử học sinh trực đêm canh gác trên mái trường. Tôi trong Ban chi uỷ và Tổ trưởng học tập, tôi tự lập kế hoạch học lập lí luận, học văn hoá ngoại ngữ, tranh thủ đọc sách, 3 tháng mới về thăm nhà một lần. Khi còn ở địa phương công việc rất bận rộn, không có nhiều thì giờ nghiên cứu học tập. Nhất là thư viện trường Nguyễn Ái Quốc lúc đó sách nước ngoài rất nhiều, kể cả sách kinh tế của chủ nghĩa tư bản như của: Recardo, Adam Smith, Keynes v.v... tôi ham đọc sách quên cả mọi việc, chủ nhật nào cũng ở lại trường mượn sách đọc, đọc đến vàng mắt, khi ra ngoài trời chỉ thấy màu vàng hàng mấy giờ liền. Ngoài học tập, nhà trường còn cho mỗi tổ 10 m2 đất để tăng gia cải thiện. Tổ tôi có hai đồng chí Đặng Việt và Nguyễn Văn Hân rất chăm chỉ lao động. Tuy có 10 m2 đất mà chúng tôi trồng hơn mười thứ rau, mùa nào thứ ấy, đủ rau ăn cho tổ, còn bán cho bếp nhà trường. Khi bế mạc, chúng tôi có đủ tiền để liên hoan mời cán bộ nhà trường đến dự, tiêu chuẩn mỗi người một con vịt. Còn thừa 75 đồng, chúng tôi gửi biếu tạp chí Học tập nay là tạp chí CS.
    Nói về tăng gia, tôi phải nhắc đến đồng chí Đặng Việt, con ông Đặng Hướng, Tổng đốc Nghệ An. Cải cách ruộng đất qui gia đình đồng chí Việt là đại địa chủ, cường hào gian ác. Đồng chí Đặng Việt lúc ấy là Trung đoàn trưởng trung đoàn Cao Bắc Lạng, nổi tiếng một thời đánh Pháp trên đường số 4, đoạn Cao Bằng - Lạng Sơn được gọi ?oVua đường 4?. Vì thành phần, đồng chí Đặng Việt phải chuyển ngành sang Tổng cục Thủy sản. Trong học tập đồng chí rất chăm chỉ, cùng học tiếng Anh với tôi, nhưng đồng chí rất giỏi tiếng Pháp nên cũng giúp tôi được nhiều. Ưu điểm nổi bật nhất là thành tích tăng gia trồng rau. Cứ tối đến, anh tranh thủ xách cái thùng lấy phân, sang khu chung cư của Ban Lịch sử Đảng phía bên kia đường, đối diện với trường Nguyễn Ái Quốc, lấy phân bắc về bón rau. Đồng chí chịu khó cả lao động lẫn học tập. Tôi với đồng chí Đặng Việt ngày nào cũng nấu canh rau đủ loại. Chúng tôi lấy cơm tập thể của trường, đem về phòng nấu thêm thức ăn. Nhất là năm thứ hai, các lớp khác bế mạc, nên học viên được ở nới rộng 2 người/phòng, thay vì 4 người/phòng. Có phòng chỉ có một người, nên cuộc sống tinh thần, vật chất của trường được cải thiện rõ rệt. (Nay đồng chí Đặng Việt đã hơn 80 tuổi, người rất khoẻ và đánh tenis rất giỏi, thỉnh thoáng vẫn lại chơi với tôi và cho sách mới viết của đồng chí).
    Hai năm học tập nghiên cứu ở Học viện, thực sự tôi có thì giờ nghiên cứu lí luận có hệ thống, về lí luận Marx-Lénine. Tư tưởng Hồ Chí Minh, triết học trước Marx và các học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế tư bản chủ nghĩa, tạo cái vốn lí luận để sau khi ra trường xử lí các vấn đề yên tâm hơn, không sợ sai như trước. Khi học, tôi rất chú ý so sánh cái cũ, cái mới, những cái Marx kế thừa, những cái Marx sáng tạo, để thấy rõ thiên tài của Marx là ở chỗ nào. Cả Lénine cũng vậy. Tôi phân tích và ghi chép những cái mới của các vị và suy ngẫm vận dụng vào thực tế Việt Nam, nên ít giáo điều hơn. Khi viết thu hoạch hoặc kiểm tra, các giáo viên thường thích những lập luận mới của tôi.
  8. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Khoá V coi như khoá có nhiều cải tiến trong học tập, thảo luận, đọc nhiều hơn giảng, thoải mái hơn, viết thu hoạch kiểm tra cũng thoáng hơn trước, không cho điểm, viết đạt yêu cầu trung bình là xong. Sau hai năm học tập, thực sự tôi thấy mình trưởng thành, hiểu biết lí luận có hệ thống, so sánh được cái hay cái dở của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Vì tôi công tác hành động cụ thể nhiều ở địa phương, làm thiết thực, nên đối chiếu với lí luận nhìn vấn đề đúng sai rất rõ. Không còn ?otù mờ? như trước. Ngoài học tập lí luận tôi học xong chương trình văn hoá lớp 7 và lớp 8. Anh, Pháp văn cũng được nâng lên. Hán tự tôi cũng đọc xong cuốn Gia (nhà) của nhà văn Mao Thuẫn (ta dịch sang tiếng Việt sau này là Gia đình), do đồng chí Lâm Bá Cương cùng tổ cho mượn. Khi còn nhỏ tôi học chữ nho, văn viết theo văn phạm cổ điển Trung Quốc, gọi là ?oVăn ngôn?, còn văn nói gọi là ?oVăn bạch thoại? hoặc gọi văn phạm ?ophổ thông?, nên nhiều đoạn hành văn tôi không hiểu, phải hỏi đồng chí Cương. Lúc nhỏ tôi đã đọc hết các chuyện Tam quốc, Đông chu Liệt quốc, Tây Hán chí, Phong Thần, Thủy hử (108 anh hùng Lương Sơn Bạc), văn họ viết theo ngữ pháp văn ngôn, tuy thế lúc đầu cũng phải có người hướng dẫn... nhưng dễ đọc. Tôi không nói tiếng Trung Quốc được nhiều, nhưng đọc thì tốt, nên sau này tôi vẫn mua Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh để đọc.
    Kết thúc lớp học dài hạn chính trị cao cấp, tôi về Hải Phòng, lúc này đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ lần thứ III (Đại hội Đảng tỉnh, thành phố 2 năm hoặc 2 năm rưỡi họp một lần, không phải 5 năm một lần như bây giờ)
    Đại hội lần này diễn ra không suôn sẻ lắm!
    Đại hội dự kiến bầu 35 uỷ viên Ban Chấp hành, Đại hội chỉ bầu được 22 đồng chí. Nhiều đồng chí Thành uỷ viên cũ không trúng cử (trong số hơn 10 đồng chí trong Thành uỷ cũ không trúng cử, có 4 đồng chí uỷ viên thường vụ, một Phó Bí thư Thường trực). Tôi vẫn được bầu vào Thành uỷ và được phân làm Trưởng ban công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học kĩ thuật. Số Thành uỷ viên bầu được ít nên các đồng chí thành uỷ phải kiêm nhiệm nhiều công việc, rất bận rộn.
    Khi chiến tranh phá hoại miền Bắc mở rộng, tôi được phân công sơ tán triệt để các xí nghiệp và nhân dân thành phố ra ngoại thành, trừ xí nghiệp xi măng không thể chuyển ra ngoại thành được, ta phải bám trụ để sản xuất tiếp.
    Đồng thời xây dựng một xí nghiệp xi măng sản xuất theo kiểu nửa thủ công, nửa cơ giới ở Minh Đức (sau này thường gọi là xi măng Minh Đức). Công việc chuẩn bị sơ tán lần này rất khẩn trương và triệt để. Tôi phải huy động hầu hết cán bộ Ban công nghiệp và Ban Khoa học kĩ thuật làm công tác sơ tán, phối hợp với các đồng chí Phó Chủ tịch khối bên Uỷ ban nhân dân Thành phố như đồng chí Hồng Cẩn, đồng chí Kim Tái. Công việc sơ tán nhân dân và xí nghiệp cơ bản xong.
    Đêm 16-4-1972 Mỹ đem máy bay vào đánh phá Hải Phòng. Ta biết trước địch sẽ dùng B52 ném bom khoảng 10 tiếng. Ta huy động mọi lực lượng để vận động nhân dân sơ tán. Nhưng nhiều người còn do dự, vì những năm trước địch chỉ đánh bom bằng máy bay thường, đánh rồi lại nghỉ, nên nhân dân coi thường... không chịu đi sơ tán triệt để, nhất là lần này đi sơ tán gặp rất nhiều khó khăn về đời sống. Khu công nhân xi măng thì phải bám trụ để sản xuất.
    Tối hôm đó khu phố đã huy động tổng lực cán bộ đi vận động nhân dân sơ tán trước 10 giờ đêm, nhưng vẫn còn người ở lại.
    Đúng 12 giờ đêm 16-4-1972 Mỹ cho hàng loạt máy bay B52 thả bom rải thảm khu thượng Hạ Lí, An Dương. Chúng tập trung vào khu Thượng Lí, có nhà máy xi măng và kho Thượng Lí, Sở Dầu... Nhà máy xi măng coi như thiệt hại lớn nhất, chỉ còn 3 ống khói (nhưng chỉ sau 3 ngày, khói trắng xi măng lại nhả khói lên bầu trời cao). Nhà cửa của nhân dân bị san bằng, bom Mỹ đã giết hại dân thường, hầu hết bà già trẻ em chui trong hầm kèo tre, không kiên cố. Riêng khu Thượng Hạ Lí có 960 người bị chết, còn khu An Dương sơ tán triệt để hơn, mật độ bom rải mỏng hơn, nên thiệt hại về người không lớn.
    Trận ném bom ác liệt này làm cho đoạn đường số 5 từ cầu xi măng đến ga Thượng Lí hỏng nặng. Đường bị phá, đất lật lên ngập đường, có những đống đất cao hàng mét. Khi đến để giải quyết hậu quả, xe tôi phải bỏ lại sau, đi bộ. Lúc đó còn chưa sáng rõ, tôi thấy một đồng chí bộ đội lò mò đi về hướng tôi. Đến gần mới biết là tướng Đặng Kinh, Tư lệnh quân khu III vừa ở trong nhà máy xi măng đổ nát ra. Chúng tôi gặp nhau, trao đổi một vài việc cần làm ngay, rồi chia tay nhau, để đi vào công việc của mỗi người.
    Thời gian từ tháng 4-1972 đến ngày kí Hiệp định Paris tháng 1-1973 là những tháng ngày chống chiến tranh phá hoại ác liệt nhất của Hải Phòng. Sau trận ném bom B52 rải thảm đầu tiên, địch thả thủy lôi phong toả Cảng. Đêm ngày chúng cho các loại máy bay vào ném bom, bắn phá. Chúng đánh không theo một qui luật nào, nên việc sơ tán nhân dân nội thành lúc này hết sức khẩn trương và triệt để. Có những đêm tôi kiểm kê nhân dân ở nội thành, chỉ còn 7.000 người, đều là những người có trách nhiệm phải ở lại.
  9. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Cơ quan tôi không ở số 7 Đinh Tiên Hoàng mà phải sơ tán xuống số 44 Lạch Tray, là trụ sở của Ban Khoa học kĩ thuật, xa Cảng và nhà máy xi măng hơn. Lúc này các con tôi đều đi sơ tán, nhà tôi là Bí thư Đảng uỷ kiêm Phó Giám đốc Công ti Kho vận nội thương, hàng ngày vẫn phải nhận hàng, bảo quản kho hàng hoá ở rải rác khắp nội thành. Chúng tôi cùng ở 44 Lạch Tray, phải đào hai hố tránh bom cách nhau khoảng 50m ở ngay trong cơ quan, đề phòng rủi ro, còn có người trông nom 4 con nhỏ. Có lần chúng tôi chuẩn bị bữa cơm chiều, mua được con vịt chưa cắt tiết, để ở giữa sân, thì máy bay đến thả bom ngay nhà bên, mảnh bom văng cắt đứt đầu con vịt. Cũng may chúng tôi đã xuống hầm, mọi người không việc gì! Khi ?omáy bay địch đã bay xa, mọi việc trở lại bình thường? tiếng loa của Đài phát thanh thành phố vừa phát, chúng tôi chui ra khỏi hố cá nhân, thì thấy con vịt mất đầu, lăn ra chết ở giữa sân Ban Khoa học kĩ thuật. Sự sống chết lúc này, cảm thấy nó nhẹ nhàng quá! Chẳng ai quan tâm đến con vịt, mà mọi nhà xoay quanh vào bữa cơm chiều cho nhanh, đề phòng máy bay địch trở lại đánh ban đêm...
    Giặc Mỹ muốn biến Việt Nam trở lại thời kì đồ đá. Hải Phòng là cửa ngõ của miền Bắc ra biển, Hạm đội 7 của Mỹ luôn luôn túc trực ở đây. Các loại máy bay đi đánh phá miền Bắc, khi về qua Hải Phòng, còn quả bom, viên đạn nào chúng đều trút xuống, ?ogóp phần đưa Việt Nam về thời kì đồ đá? vừa nhẹ máy bay, đỡ nguy hiểm khi hạ cảnh xuống ?oHàng không mẫu hạm? đỗ ngay trên vịnh
    Những ngày này cho đến kết thúc cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, kí hiệp định Paris, không đêm nào tôi vắng mặt ở Hải Phòng. Có những đêm tôi đi kiểm tra việc sơ tán của nhân dân ở các khu phố, ra đến Bến Bính thì còi báo động vang lên, đèn thành phố tắt hết. Có đồng chí cùng ngồi trên xe với tôi, bảo tôi chạy vào số 3 Cù Chính Lan, trụ sở của Sở Công nghiệp, xưa là nhà Bank của Pháp, xây dựng kiên cố, chui xuống tầng hầm là yên tâm. Tôi bảo đồng chí lái xe, tắt đèn chạy về số 44 Lạch Tray. Tôi nói đùa với các đồng chí: ?ocứ về đất Thánh...?.
    Đến 44 Lạch Tray chúng tôi vừa chui xuống hầm thì bom nổ khắp nơi trong thành phố. Sau khi máy bay địch đã bay xa, tôi được thông tin địch ném bom đúng vào số 3 Cù Chính Lan, sụp hẳn một gian nhà 2 tầng, mọi người ?ohú vía?. Từ đó anh em bảo tôi là tạng người ?osống dai?, đã chết hụt khi bị tra tấn, vứt nhà xác Côn Đảo cũng không chết... Trong chiến tranh, trước cái sống cái chết quá dễ dàng, ?otâm linh? mờ ảo, chẳng có cơ sở khoa học gì, đôi khi chỉ dựa vào những suy đoán vớ vẩn cũng làm cho người ta yên tâm hơn... Đồng chí Tấn thường nói với mọi người: ?oCứ đi với ông Thành là yên tâm, không chết đâu mà lo...?. Lòng tin không có căn cứ khoa học ấy đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh, gọn.
    Như khi đồng chí Bí thư Thành uỷ Trần Kiên giao nhiệm vụ cho tôi làm Trưởng đoàn ra Cát Bà kiểm tra đôn đốc phân tán kho tàng ở thị trấn Cát Bà, di dân vào trong núi, đề phòng địch tập kích bất ngờ bằng không quân... Những người ra đi cùng tôi không hề ngại ngần. Lúc này cảng Hải Phòng bị giặc Mỹ phong toả bằng các loại thủy lôi, loại hẹn giờ, loại do chấn động sẽ nổ. Chúng làm cho tàu của thế giới không dám vào Cảng. Hôm trước ta khai thông được luồng nào, hôm sau chúng lại rải thủy lôi tiếp. Ta dùng mọi kĩ thuật để phá thủy lôi, nên cũng hạn chế được ít nhiều tác hại của chúng.
    Các cửa sông ra vào cảng như cửa Nam Triệu, Lạch Huyện, chúng rải thủy lôi rất dày. Ta phải đặt nhiều chòi canh ven các cửa sông, nhất là từ Phao số 0 trở vào. Các chòi canh phải đếm từng quả thủy lôi địch rải xuống, đánh dấu toạ độ vị trí có thủy lôi để thông báo cho các tàu qua lại. Do đó không một tàu nào bị nạn thủy lôi cả. Một vài tàu đánh cá nhỏ chủ quan, cho là chấn động của máy nhẹ, thủy lôi không nổ, nên có một vài trường hợp đụng phải thủy lôi nổ, nhưng thiệt hại không lớn. Đoàn tôi gồm 14 cán bộ, do tôi làm Trưởng đoàn, đồng chí Vũ Minh Chính, Phó Ban Tuyên huấn, đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Phó Ban Tổ chức làm Phó trưởng đoàn. Đoàn ra Cát Bà phải đi làm 2 chặng đường: đoạn 1 bằng thuyền buồm, và chèo rất nhẹ nhàng, vượt qua sông Bạch Đằng sang đảo Cát Hải, rồi đi bộ qua đảo Cát Hải. Đến xã Lương Năng, tàu hải quân hoá trang đưa chúng tôi qua bến Gót, đi ra thị trấn Cát Bà, hết 2 tiếng đồng hồ, theo ven núi ít có thủy lôi. Nguy hiểm nhất là qua bến Gót. Thủy lôi giặc thả rất dày, tàu vượt qua bãi thủy lôi, mọi người im phăng phắc. Đồng chí nào cũng được hải quân cho mượn một phao buộc ngang ngực. Các đồng chí hướng dẫn ngồi lên mui tàu, nếu thủy lôi nổ nó tung người lên, các đồng chí sẽ vớt. Trong lúc mọi người lo lắng, đồng chí Tấn là cán bộ Ban Công nghiệp thường đi công tác với tôi, người Bình Định, lại nói vui: ?oĐi với ông Thành thủy lôi nó không nổ đâu!.? Mọi người phá lên cười, quên cả sự nguy hiểm.
    Ai ở lâu Hải Phòng thời trước, mới thấy hết khó khăn của đường ra đảo Cát Bà, Cát Hải như thế nào. Mỗi tuần chỉ có 3 chuyến ca nô chở khách, còn lại là đi nhờ thuyền đánh cá, đi ?ođâm độ? từ bến Bính, hoặc cửa Cấm ra Cát Hải, rồi lại thuê thuyền đánh cá ra Cát Bà, không có lối đi bộ... Mới thấm thía vì sao con đường xuyên đảo ngày nay được nhân dân đón nó như sự ?ođổi đời? của mình.
    Đoàn tôi ra đảo công tác hơn ba tuần, mọi người rất hăng hái làm việc. Ở thị trấn rồi về các xã Trần Châu, Gia Luận, Xuân Đám, Việt Hải... toàn đi bộ leo núi. Giữa Đảo cá, mà ngày nào cũng chỉ có rau cải, rau muống luộc chấm nước mắm và ít cá khô. Mãi đến hôm Đoàn ra về, đồng chí Lê Nam, Bí thư Huyện uỷ mới bắt con gà mái của nhà nuôi, làm thịt chiêu đãi đoàn. Trong hơn 3 tuần làm việc ở thị trấn Cát Bà, việc đầu tiên là chuyển nhanh 300 tấn gạo dự trữ và chuyển hết dân vào hang sâu, giáp với vườn Quốc gia. Chúng tôi cùng huyện uỷ, UBND huyện Cát Hải, tổ chức các cuộc nói chuyện về âm mưu địch, việc chúng đánh bom thị trấn Cát Bà chỉ còn là ngày một, ngày hai. Nhân dân cần đi sơ tán triệt để. Sau một tuần toàn cơ quan Huyện uỷ, Uỷ ban, lui vào sâu trong xã, làm việc trong các hang núi an toàn. Sau đó chúng tôi đi xuống các xã thuộc đảo Cát Bà để tuyên truyền chiến thắng ở miền Nam và chiến thắng ở miền Bắc, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Cát Bà xa thành phố theo đường ?ochim bay? khoảng 45 km, cách Đồ Sơn 30 km, đi phải hết 4 giờ bằng đường thủy, trong thời bình, còn trong chiến tranh đi lại rất vất vả không biết đâu mà tính. Việc đi bộ leo trên vách núi từ thị trấn Cát Bà, qua đèo Khế vào các xã Trân Châu, Xuân Đám nếu người yếu tim cũng có thể rơi xuống biển. Đoàn chúng tôi lặn lội về hết các xã, xã xa nhất là Việt Hải, vừa đi vừa có dân quân đi trước chặt cây, dọn lối cho đoàn đi, phải hết 4 giờ mới đến được xã. Nếu sang xóm Trà Báu phải mất thêm 1 giờ leo núi nữa. Mọi công việc được giao, chúng tôi đã hoàn thành trong hơn 3 tuần. Hôm ra về, chúng tôi đi bộ đến xã Hiền Hào rồi sẽ có thuyền của thành phố ra đón ở bến Hiền Hào.
    Đoàn chúng tôi chào tạm biết đồng chí Lê Nam và các đồng chí Huyện uỷ, Uỷ ban huyện Cát Hải.
  10. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Đồng chí Lê Nam nói đã điện về Thành uỷ, khoảng 4-5 giờ sáng sẽ có thuyền đón Đoàn ở bến Hiền Hào. Tôi hỏi đồng chí Nam điện bằng điện thoại hay mật mã? Đồng chí Nam nói đánh điện thường (claire). Tôi nói ngay ?oThế thì nguy hiểm quá, địch sẽ phục kích chúng ta?. Chúng tôi quyết định cách đi, không đến Hiền Hào nữa, mà ở xóm trong gần lâm trường Cát Bà, leo qua núi sang xí nghiệp muối Phù Long, nhờ thuyền buồm của xí nghiệp chở đoàn về bến Máy Chai, ô tô của Thành uỷ sẽ ra đón. Ngay đêm đó, chúng tôi báo cho xã Hiền Hào biết và đề 86 phòng địch oanh kích sáng sớm, chuẩn bị dân sơ tán, không đốt lửa sớm, không đi làm ra phía bến Hiền Hào. Các thuyền đánh cá phải sơ tán hết, không cho bất cứ thuyền nào tập trung ở bến Hiền Hào... Đúng như dự đoán, sáng sớm hôm sau chúng tôi chuẩn bị ra hầm thì máy bay Mỹ đã đến bến Hiền Hào. Chúng bay đi bay lại, rà sát mặt biển, nhưng mọi vật đều yên lặng, chúng tìm kiếm nhiều lần rồi ?ocút?. Sau khoảng 1 giờ, chúng tiếc rẻ, bay trở lại. Lúc đó chúng tôi đã ra đến chân núi, vượt núi sang Phù Long, xí nghiệp muối. Mọi người cũng ?ohú vỉa? vì một sơ suất nhỏ! Lúc đó trời đã sáng, chúng tôi nhìn rõ 2 máy bay Mỹ lượn vài vòng rồi sau mới bay đi.
    Đường vượt qua núi rừng sang xí nghiệp muối lần này hoàn toàn mới, không giống như sang Việt Hải. Đi Việt Hải tuy phải phá cây cối, nhưng đã có lối mòn, thỉnh thoảng có người qua lại. Còn đường này phải sử dụng một tiểu đội dân quân của xã Hiền Hào và tự vệ lâm trường đi mở đường, mang theo cả dây leo, thậm chí còn phải làm cả thang tạm để bắc đi qua khe. Chúng tôi đem cơm nắm đi theo, ăn dọc đường, mãi đến 2 giờ chiều mới sang đến xí nghiệp muối, gặp đồng chí Kích, Giám đốc xí nghiệp, tổ chức cho bữa cơm toàn ?ocá và muối?. Không có cá to, chỉ có cá lụn vụn khô, nấu ?ocanh chua? và rán. Chúng tôi bày cơm nắm còn lại, và cơm nóng xí nghiệp chiêu đãi đoàn, ăn rất ngon lành. Mọi người nghỉ ngay tại các hang núi Phù Long để chờ tôi đến. Giám đốc Kích trực tiếp lái thuyền buồm của xí nghiệp đưa đoàn về cảng Máy Chai Hải Phòng.
    Đi thuyền cũng phải lướt qua bến Gót, bên bãi thủy lôi, nhưng bớt nguy hiểm hơn tàu chiến của thủy quân, vì không có động cơ, chạy bằng buồm và lái bằng gỗ. Lúc đó chưa có kênh Cái Tráp, phải qua sông ?oRuột lợn?, sông Chanh của Quảng Ninh, qua cửa sông Bạch Đằng, qua kênh Vũ Yên mới về sông Cấm. Đường đi rất dài, chưa đi tắt kênh Cái Tráp mới đào 1982-1983 như ngày nay được.
    Thuyền vừa lướt qua bãi thủy lôi, cửa sông Lạch Huyện (bến Gót) thì gặp sự cố rất nguy hiểm. Nước triều đang xuống mạnh, trời tối, chỉ có ánh trăng lờ mờ, nhìn không rõ, thuyền đâm thẳng vào hàng cọc cắm đăng cá trên sông, với hướng gió buồm đang căng. Đồng chí Kích hỏi đồng chí quan sát: ?oCó cái gì đen...đen phía trước...?. Đồng chí quan sát vội nói to: ?oĐâm vào đăng rồi?. Tôi ngồi bên đồng chí Kích, thấy đồng chí không nói gì, dùng hết sức vừa lái, vừa buông dây buồm cho thuyền quay ngoắt 180 độ. Con thuyền nghiêng ngả 2, 3 lần như sắp lật úp xuống nước. Nhưng với tay lái vững của đồng chí Kích, thuyền trở lại bình thường, hướng về thành phố. Đến Máy Chai cho Đoàn lên bờ đồng chí Kích lái tàu về ngay, vì nếu chậm đến sáng, máy bay địch đánh Hải Phòng sẽ không có chỗ ẩn nấp. Khi bắt tay tôi, đồng chí nói: ?oLúc đó em không nói gì, nhưng rất lo. Nếu nước đang chảy xiết, thuyền chạy đâm vào cọc và đăng chỉ còn nước thuyền lật úp xuống nước. Lúc đó ai biết bơi bám vào cọc xăm, có người vớt ngay thì sống. Nhưng ban đêm, chưa biết có thoát được ai! Em rất bình tĩnh, cắn răng bẻ lái, chùng dây buồm cho thuyền quay 180 độ mà không để lật thuyền. Thế mới khó. Em là dân Thủy Nguyên, quen sông nước, bình tĩnh mới xử lí được tình huống hôm nay?. Tôi cảm ơn đồng chí Kích.
    Về đến trụ sở Đảng, tôi mới nói lại với các đồng chí trong Đoàn, mọi người lại ?ohú vía? lần nữa.
    Tôi gọi điện đến nơi sơ tán của đồng chí Bí thư Thành uỷ Trần Kiên xin đến báo cáo. Đồng chí Kiên bảo tôi: ?oKhuya rồi, về nhà nghỉ, sáng mai đến báo cáo sớm?.
    Đoàn chúng tôi về Hải Phòng, sau 3 ngày thì máy bay Mỹ đánh phá thị trấn Cát Bà, cuộc đánh phá mang tính chất hủy diệt. Liền trong một tuần, suốt từ sáng đến chiều, chúng cho từng đoàn máy bay đánh phá liên tục, từ biển vào đánh Cát Bà, qua Long Châu, rồi Bạch Long Vĩ. Chúng tàn sát tất cả cái gì nổi trên mặt đất của thị trấn Cát Bà. Chỉ sau một tuần Cát Bà biến thành bình địa. Sau hoà bình trở lại, ta mới xây dựng cơ quan huyện vào phía trong, là cơ quan đầu não của huyện Cát Hải. Còn thị trấn, mặt bằng do bom Mỹ tạo nên trở thành mặt bằng xây dựng khu du lịch và Cảng hiện nay, chạy chung quanh vịnh Cát Bà, nơi còn có cái tên quen thuộc của nhân dân địa phương là ?oTùng Dinh, Tùng Vụng?.
    Thương tiếc thay, đồng chí Kích, một con người đẹp trai, tháo vát, có tài như thế lại gặp một thảm nạn hết sức vô lí, ở hiền mà không gặp lành. Hôm đó có cơn lốc và một đám mây tích điện lớn đã gây ra tiếng sét kinh hoàng. Sét đánh trúng xí nghiệp muối, là nguyên nhân cái chết rất thương tâm của Kích. Chao ôi, trong tích tắc Xí nghiệp muối Phù Long mất đi người Giám đốc trẻ đang sung sức mà anh chị em công nhân hết sức mến yêu. Đã bao năm qua anh lãnh đạo hơn 300 nhân viên, hầu hết phụ nữ chưa chồng, ở một nơi xa thành phố, xa thị trấn Cát Bà anh dành hết thời gian nhiệt huyết vào việc quản lí kinh doanh, quản lí tổ chức nhân sự để mọi người yên tâm sản xuất, chiến đấu giỏi, góp phần bắn rơi máy bay và bắt sống giặc lái trên biển. Riêng tôi càng tiếc một cán bộ dưới quyền năng động, có nhiều triển vọng như anh.
    Từ chuyến đi dài ngày ra công tác ở Cát Bà - Cát Hải, qua thực tế cuộc sống của nhân dân, tôi biết ước mơ của mọi người trên đảo là có một con đường bộ nối với thành phố. Tôi hình thành một ý tưởng là khi có điều kiện sẽ xây dựng một con đường ?oxuyên đảo?. Ước mơ, ý tưởng ấy cứ dằn vặt trong tôi từ lần đi công tác dài ngày đầy gian nan và khó khăn này. Các đồng chí trong Đoàn hiện nay hầu hết còn đủ mặt, trừ đồng chí Nguyễn Đình Nhiên mới qua đời năm 2003.
    Hôm sau tôi đến báo cáo với đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ, đồng chí khen Đoàn chúng tôi đã làm tốt nhiệm vụ, sáng tạo, nên đã trở về thành phố an toàn. Sau được mấy ngày, giặc Mỹ đánh phá hủy diệt Cát Bà, toàn bộ cán bộ công nhân viên của huyện Đảo và nhân dân thị trấn không có ai thương vong. Ngay tối hôm đó, sau khi được báo cáo của Huyện uỷ Cát Hải, đồng chí Trần Kiên gọi điện cho tôi, tỏ vẻ rất mừng và nói: ?oĐồng chí thấy không? Nếu tôi không cử Đoàn ra Cát Bà chuẩn bị sơ tán thì thiệt hại biết bao nhiêu?. Tôi động viên đồng chí Bí thư: ?oAnh rất sáng suốt...?.
    Tôi về tiếp tục công việc cũ là phụ trách việc sơ tán và chuẩn bị kế hoạch xây dựng lại thành phố khi hoà bình trở lại. Nhưng việc chính trước mắt vẫn là chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
    Trong những tháng cuối năm, Hội nghị Paris đang đi vào thời kì cao trào. Địch càng đánh phá quyết liệt miền Bắc. Hàng ngày từng đàn máy bay vào đánh phá các khu kinh tế, quân sự Hải Phòng, đánh cả vào khu dân cư Cầu Đất, Thượng, Hạ Lí, An Dương, Máy Chai... dù sơ tán đã rất triệt để, số người trong thành phố vẫn còn trên dưới một vạn người có trách nhiệm và lực lượng võ trang, nên ngày nào ít nhiều cũng có người thương vong! Do đó, công việc phòng không nhân dân suốt 24/24 giờ rất căng thẳng. Có khi vừa cất tiếng còi báo yên, tiếng loa phát thanh vừa thông báo: ?oMáy bay địch đã đi xa, mọi hoạt động trở lại bình thường? thì tiếng còi báo động đã cất lên. Tiếng loa phát thanh lại gấp gáp: ?oĐồng báo chú ý! đồng bào chú ý! Máy bay địch đang ở phía đông, cách thành phố 30 km... mọi người về nơi trú ẩn an toàn!.? Ngày nào cũng lặp đi lặp lại như vậy. Những người còn ở lại thành phố vì trách nhiệm cũng quen dần, coi rất bình thường cái chuyện báo an, báo động. Nhưng cũng có việc rất mệt, nhức đầu, không phải chiến tranh phá hoại của Mỹ, mà do mất đoàn kết nội bộ. Tôi phụ trách khối công nghiệp, được phân công chỉ đạo hội nghị kiểm điểm nội bộ của Công ti Gỗ Hải Phòng do đồng chí Hiệp làm giám đốc. Nơi đây nội bộ mất đoàn kết kéo dài giữa các đồng chí trong Đảng uỷ và Ban Giám đốc. Cuộc họp kiểm điểm một tuần tại Xí nghiệp gỗ Hiệp Hưng, khu Hạ Lí. Hầm tránh máy bay ở đây khá tốt. Đang kiểm điểm phê bình, tự phê bình, lại có báo động. Cuộc họp đút quãng, tất cả xuống hầm... hết báo động lại họp tiếp. Tôi không phải người trong cuộc mà là người chủ trì cho các đồng chí kiểm điểm, thế mà người tôi lúc nào cũng như bị sốt, nhức đầu, trán hâm hâm nóng, mồ hôi âm ỉ chảy ra!. Sau khi kết thúc kiểm điểm, tôi tâm sự với một vài đồng chí: ?ochiến tranh phá hoại của Mỹ cũng không nguy hiểm phức tạp bằng ?ochiến tranh nội bộ?, thiệt hại đủ mọi thứ, nhất là mặt tinh thần, sức khoẻ?. Tôi bị mệt mất mấy tuần, nhưng mệt hơn cả là nghĩ lại những lời nói của các đồng chí đối với nhau, thật khó có lời văn ?otả chân? nào nói hết được!

Chia sẻ trang này