1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Làm người là khó - Đoàn Duy Thành

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi chimawan, 11/05/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Cuộc phong toả Cảng Hải Phòng bằng thủy lôi của Mỹ cũng không đem lại kết quả theo mong muốn của chúng. Hàng ngày vẫn có tàu Liên Xô và các nước XHCN ra vào cảng. Việc phá thủy lôi, khai thông luồng lạch cho tàu vào cảng vẫn làm thường xuyên. Địch thả, ta lại phá bằng mọi phương tiện... Đến khi kết thúc chiến tranh, theo Hiệp định Paris, phía Mỹ phải có trách nhiệm phá hết thủy lôi mà họ thả xuống biển nhằm phong toả cảng Hải Phòng, và họ phải luyên bố trước thế giới là đã phá hết thủy lôi. Thực tế thì ta đã phá hết thủy lôi thả theo lòng lạch tàu ra vào. Khi chúng đem phương tiện của Mỹ đến phá, chỉ còn lại những quả thủy lôi thả chệch ra khu vực không có lòng lạch tàu ra vào mà thôi!
    Trước diễn biến ở chiến trường miền Nam, trước khi Hiệp định Paris kí kết, canh bạc ?okhát nước? của Ních-sơn và Kit-sing-giơ đến hồi căng thẳng. Chúng phản bội những điều thoả ước, cho ngừng đàm phán, và dùng B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.
    Trong những ngày này tôi và 5 cán bộ dưới quyền với một cái xe Ru-ma-ni ?ođít vuông? (mà lúc đó có cái tên ?oxe Rumani vừa đi vừa đẩy?) chạy ***g khắp nơi. Đi đâu người ta cũng biết là xe ?oBan sơ tán?. Nói vậy thôi, chứ xe chạy tốt, với tài xế Hồng (Ngảnh) thường gọi là ?otài Ngảnh? chăm sóc, bảo vệ xe nên mọi chuyến đi do trung uý chuyển 89 ngành ?otài Ngảnh? lái đều suôn sẻ. Nhất là những buổi lên Hà Nội báo cáo, phải đi tắt mấy cầu phao, qua phà rất vất vả. Nhiều lúc cầu, phà chỉ cho xe ưu tiên đi. Tài Ngảnh thay áo thường lấy áo bộ đội 4 túi ra mặc, chễm chệ ngồi cầm tay lái. Tôi ngồi bên cạnh cũng bật cười. Nhưng quả thật rất có tác dụng. Anh em bảo vệ cầu phà vẫy tay cho đi ngay. Với bộ quần áo sĩ quan, không đeo lon mà lúc đó cũng rất ?ohiệu quả?, được qua cầu, phà nhanh; đến họp đúng giờ, lại tránh được nguy hiểm khi xếp hàng qua cầu phà, tâm lí thủ trưởng nào cũng khoái. Đồng chí Ngảnh còn bảo tôi: ?oKhi chuyển ngành em vẫn giữ lại phù hiệu trung uý, nhưng sợ thủ trưởng mắng không dám đeo?. Tôi bảo đồng chí Ngảnh: ?oNộp lại cho đơn vị, kẻo phạm quân pháp, ảnh hướng đến cả tôi nữa đấy!?. Tài Ngảnh đồng ý ngay.
    Trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? của quân dân ta đánh B52, khiến con chủ bài cuối cùng ấy của Mỹ đem ra thi thố, đã thất bại. Hiệp định Paris được kí kết, hoà bình được lập lại. Phương án sắp xếp dân về hồi cư, qui hoạch lại đường xá, khu phố, những nơi bị bom Mỹ san bằng như khu Thượng, Hạ Lí, khu Sở Dầu, khu An Dương, tôi trình ra Ban Thường vụ, nhưng không được thông qua, vì khó khăn về tài chính. Nhân dân tự do về tranh cướp lại chỗ ở cũ, không ai ngăn cản nổi, nên kế hoạch qui hoạch, cắm mốc cho dân xây dựng không thành công, cứ mạnh ai người ấy làm.
    Sau này qui hoạch tốn kém quá! Nghĩ lại rất tiếc. Nếu lúc đó Ban Thường vụ Thành uỷ kiên quyết và UBND thực hiện tốt, thì thành phố sẽ đi vào qui hoạch từ những năm giữa thập kỉ 70 rồi!
    Sang đầu năm 1973 với thắng lợi Hiệp định Paris lập lại hoà bình ở Việt Nam, quân Mỹ phải rút hết về nước. Một nửa nước đã có hoà bình, chỉ miền Nam còn tiếp tục chiến đấu, chúng ta có nhiều thuận lợi hơn trước. Tình hình giải phóng miền Nam rất sáng sủa và đã có thể dự đoán được ngày thống nhất đất nước.
    Sau 9 năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Hải Phòng là điểm số 1 đánh phá của máy bay Mỹ, từ ngày 5-8- 1964 cho đến 31-1-1973. Tuy còn phải cảnh giác với âm mưu tráo trở của đế quốc Mỹ, nhưng trong tâm trí mọi người đã có thể nghĩ đến ý tưởng của Bác Hồ: ?o... sẽ xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn...?.
    Đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Đỗ Chính, Phó Bí thư đã tổ chức một đoàn cán bộ chủ chốt thành phố đi thăm Thủy điện Thác Bà, thành phố Việt Trì, Đền Hùng và tỉnh Vĩnh Phú. Tôi là một thành viên trong đoàn với chức danh Trưởng ban Công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học. Một cuộc đi khá lí thú; vừa đông vừa gặp nhiều sự kiện. Đồng chí Đỗ Chính, người gốc Hưng Yên nhưng đã nhiều năm công tác tại Phú Thọ, đã làm Bí thư huyện uỷ Vũ Ẻn, nơi có rất nhiều truyền thuyết về phụ nữ Vũ Ẻn. Cùng với Phong Châu, Vũ Ẻn là nơi của những con cháu ?ochính hiệu? Hồng Lạc. Tôi đi cùng xe với đồng chí Đỗ Chính, được nghe đồng chí kể hết chuyện phụ nữ huyện bắt nạt Bí thư Huyện uỷ, đến chuyện các vị ?othầy chùa? đã có hàm sắc Hoà thượng, Thượng toạ, đến cách đi xe đạp, lái xe đạp, nhảy xe đạp của phụ nữ... làm cho chúng tôi cười tưởng ?ovỡ bụng?.
    Trưa hôm đó được Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú Kim Ngọc, Phó Bí thư Thường trực Hoàng Quy, đồng chí Đô, Chủ tịch UNDN, tiếp đoàn ở cơ quan nơi sơ tán, cách thị xã Phú thọ khoảng 20km, ở trong rừng.
    Lần đầu tôi gặp đồng chí Kim Ngọc, con người nổi tiếng ?okhoán hộ? trong nông nghiệp từ năm 1965, đã bị phê phán và cấm. Tôi thấy đồng chí có vẻ một thầy đồ ?onho?, người gầy, mặc bộ quần áo nâu, nói chuyện ít khi cười, kể cả ?omỉm cười? cũng không. Tôi tự hỏi đồng chí còn nặng tâm tư hay tính người nghiêm nghị? Đến khi ăn cơm xong, đồng chí Kim Ngọc về phòng làm việc (cũng là nơi ăn nghỉ), tôi đi theo đồng chí và dừng ở cái bàn bằng mấy cây tre làm chân, một tấm phản gỗ để trên. Đồng chí gọi người phục vụ pha trà cho tôi uống. Hồi đó tôi chưa uống trà, chỉ uống nước sôi để nguội, nên xin đồng chí không phải pha trà. Tôi đi vào câu chuyện mà trước khi ăn cơm đã đề nghị với đồng chí, được đồng chí nhận lời tiếp sau khi cơm nước xong. Chung quy vẫn cáu chuyện khoán chui trong nông nghiệp... Tôi đề nghị đồng chí cho tôi xem Nghị quyết khoán của Tỉnh. Đồng chí chậm rãi, mặt tươi lên, nhưng vẫn không cười, bảo tôi: ?oĐồ quốc cấm, ông xem làm gì??. Tuy nói vậy song đồng chí vẫn đứng dậy đi vào nơi để tài liệu lấy đưa cho tôi xem. Đồng chí ngồi kiên nhẫn đợi tôi đọc xong, dù có những đoạn tôi phải đọc đi đọc lại để suy ngẫm. Đồng chí Kim Ngọc ngồi xỉa răng, vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ. Khi tôi đọc xong, trả lại, đồng chí Kim Ngọc hỏi tôi: ?oÔng thấy thế nào?? Tôi trả lời: ?oHay đấy!?. Đồng chí bảo tôi: ?oCũng dám khen cơ à ??. Rồi chúng tôi chuyển sang câu chuyện làm ăn sau hoà bình lập lại, chuyện Hải Phòng bị đánh phá, thủy lôi phong toả v.v... khoảng 30 phút, tôi cảm ơn đồng chí về nghỉ cùng với đoàn ở một lán trong rừng.
    Sau cuộc gặp đồng chí Kim Ngọc, tôi suy nghĩ rất nhiều về nông nghiệp. Mặc dù tôi phụ trách công nghiệp. Một con người cố nông, tá điền, học hành không nhiều mà suy nghĩ sâu sắc. Xem qua văn bản Nghị quyết, nội dung đơn giản, nhưng điều cốt yếu đã đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên hết, thậm chí trên cả tính mạng người ra Nghị quyết.
    Tôi nghĩ lại, cuối năm 1950, khi tôi là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, cơ quan Quận uỷ đóng ở nhà ông Hạp, Châu Xá, Kinh Môn. Xã tổ chức tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản để chuẩn bị Đảng ra công khai 1951. Cán bộ huyện Kinh Môn có mời tôi đến nói chuyện. Tôi nhớ rất kĩ một câu nói của tôi: ?oKhi đất nước được giải phóng khỏi thực dân Pháp, chúng ta sẽ không còn có nhà tranh vách đất lụp xụp như nhà ông Hạp...?. Mọi người hồ hởi tin tưởng Cách mạng. Cách làm của đồng chí Kim Ngọc khi còn là Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã giúp nông dân có nhà ngói, xoá bỏ được nhà tranh vách đất... tại sao lại bị cấm?
    Trở lại làm công tác thương nghiệp lần thứ ba
    Cuối năm 1973-1974 tôi lai được phân công sang làm Giám đốc Sở Thương nghiệp. Những năm trước tôi làm thương nghiệp (Lúc đó trong xã hội còn coi khinh nghề ?othương?). Sự quản lí rất chặt chẽ, hàng hoá còn dồi dào, việc bán hàng, kiểm kê hàng ngày đã vào nề nếp. Tôi nhớ lại khi tôi làm Phó Chủ nhiệm Công ti bách hoá, ngày mồng một Tết tôi bán hàng cho anh chị em nghỉ Tết. Chỉ bán 3 mặt hàng: pháo rời, kèn te-te cao xu và kẹo, mà đến tối kiểm kê mất 2 đồng 30 xu, tôi phải móc túi ra đền... Sau này hàng tuần mới kiểm kê, nếu thiếu ghi sổ chịu, còn thừa không bao giờ có cả (?).
    Tôi sang nhận chức Giám đốc, xuống các công ti thuộc sở, thấy tình hình khác lắm! Anh chị em bán hàng thì cửa quyền, đời sống khá hơn trước nhiều, không có ai xin ra khỏi ngành... Tôi về tổ vải sợi Hồng Bàng thăm chị em, được chị Mai Thị Đảm và cô Phương cho biết: ?oBây giờ khác xa thời thủ trưởng ở đây, bây giờ chỉ có ?otiền đồ?, không có ?otiền đền? như trước đâu...?.
    Thế ra quá trình làm ?ocải tiến?, rồi ?o3 xây 3 chống?, những kết quả đi đâu hết, mà càng ngày tệ tham nhũng càng phát triển. Tôi nghĩ chữ ?oNhân dục vô nhai? của thánh hiền để lại quả là sâu sắc. Chế độ gì đi nữa, không có cơ chế quản lí nghiêm, con người biết quản lí, tạo ra giá trị gia tăng cho toàn xã hội, và phân phối đúng đối tượng tham gia làm ra giá trị gia tăng, thì không có khả năng phát triển sản xuất và không hạn chế tối đa được tham ô lãng phí! Tôi suy nghĩ tìm cách làm cho mậu dịch viên bớt cửa quyền, bán hàng theo tem phiếu, phục vụ bữa ăn sáng cho cán bộ công nhân viên tốt hơn, khai thác nguồn hàng ở các nơi về bán... Cũng phải thay đổi cả cách tiếp dân, cả sổ mua hàng và tem phiếu. Sở Thương nghiệp có trụ sở to nhất thành phố, nhà băng ?oNăm sao?, trên đường Trần Phú. Tôi được đồng chí Giám đốc Nguyễn Quốc Hiệu bàn giao. Đồng chí Quốc Hiệu sang làm Giám đốc Sở Thủy sản. Đồng chí Quốc Hiệu cho biết làm thương nghiệp phức tạp lắm! Hàng ngày nhân đến đến đợi mua hàng hoá, tất nhiên phải có tem phiếu nhưng đến cửa hàng, mậu dịch viên bảo: ?oHàng hết, hoặc chưa có, về nhà đợi khi có hàng đến mua?. Nhân dân kéo đến Sở khiếu nại. Nhất là anh em thương binh đến Sở tỏ thái độ rất gay gắt, đôi khi làm mất trật tự nữa. Khi đồng chí bàn giao phòng làm việc cho tôi, Giám đốc Quốc Hiệu chỉ cho tôi hai lối đi, để khi cần phải đi lối hậu, thoát ra ngoài.
    Có 4 Phó giám đốc (một là nữ) còn 3 là bạn cũ cả. Hai đồng chí Bùi Ngọc Tiễn và Hoàng Văn Được là Phó Giám đốc khi tôi còn làm Chủ nhiệm công ti, các đồng chí đều hợp tác với tôi để thực hiện nhiệm vụ chung rất tốt. Ngày nay chúng tôi vẫn còn lại những tình cảm nồng nàn với nhau, nhất là đồng chí Vũ Hồng Quảng thường xuyên lên Hà Nội thăm tôi với tình đồng nghiệp.
    Sang Thương nghiệp sau cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ, các công ti, cửa hàng hầu hết bị đánh phá. Tôi tập trung giải quyết ý thức phục vụ khách hàng của mậu dịch viên, trở lại khẩu hiệu: ?oVui lòng khách đến, vừa lòng khách đi? của thời kì ?ocải tiến? thương nghiệp ở Công ti Bông vải sợi may mặc.
    Tôi tập trung xây dựng cửa hàng bách hoá tổng hợp Minh Khai, xây dựng lại chợ Sắt, xây dựng lò mổ lợn An Dương v.v..., đồng thời xây dựng hơn 30 ki-ốt, hoặc gian hàng nhỏ bán ăn sáng cho cán bộ công nhân viên. Mỗi buổi sáng phải bảo đảm 150.000 suất ăn sáng trở lên với 4 món ăn mà lúc đó coi là phong phú lắm rồi: phở, cháo, xôi, bánh mì; góp phần cải thiện cho cán bộ công nhân viên, không phải chạy vạy nơi này, nơi khác mới có ăn sáng để kịp giờ đi làm. Từ 4 giờ sáng các cửa hàng đã mở cửa, cũng làm cho không khí sôi động sau bao năm chiến tranh phá hoại ác liệt, giúp cho mọi người thấy thoải mái chút ít.
  2. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Cuộc phong toả Cảng Hải Phòng bằng thủy lôi của Mỹ cũng không đem lại kết quả theo mong muốn của chúng. Hàng ngày vẫn có tàu Liên Xô và các nước XHCN ra vào cảng. Việc phá thủy lôi, khai thông luồng lạch cho tàu vào cảng vẫn làm thường xuyên. Địch thả, ta lại phá bằng mọi phương tiện... Đến khi kết thúc chiến tranh, theo Hiệp định Paris, phía Mỹ phải có trách nhiệm phá hết thủy lôi mà họ thả xuống biển nhằm phong toả cảng Hải Phòng, và họ phải luyên bố trước thế giới là đã phá hết thủy lôi. Thực tế thì ta đã phá hết thủy lôi thả theo lòng lạch tàu ra vào. Khi chúng đem phương tiện của Mỹ đến phá, chỉ còn lại những quả thủy lôi thả chệch ra khu vực không có lòng lạch tàu ra vào mà thôi!
    Trước diễn biến ở chiến trường miền Nam, trước khi Hiệp định Paris kí kết, canh bạc ?okhát nước? của Ních-sơn và Kit-sing-giơ đến hồi căng thẳng. Chúng phản bội những điều thoả ước, cho ngừng đàm phán, và dùng B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.
    Trong những ngày này tôi và 5 cán bộ dưới quyền với một cái xe Ru-ma-ni ?ođít vuông? (mà lúc đó có cái tên ?oxe Rumani vừa đi vừa đẩy?) chạy ***g khắp nơi. Đi đâu người ta cũng biết là xe ?oBan sơ tán?. Nói vậy thôi, chứ xe chạy tốt, với tài xế Hồng (Ngảnh) thường gọi là ?otài Ngảnh? chăm sóc, bảo vệ xe nên mọi chuyến đi do trung uý chuyển 89 ngành ?otài Ngảnh? lái đều suôn sẻ. Nhất là những buổi lên Hà Nội báo cáo, phải đi tắt mấy cầu phao, qua phà rất vất vả. Nhiều lúc cầu, phà chỉ cho xe ưu tiên đi. Tài Ngảnh thay áo thường lấy áo bộ đội 4 túi ra mặc, chễm chệ ngồi cầm tay lái. Tôi ngồi bên cạnh cũng bật cười. Nhưng quả thật rất có tác dụng. Anh em bảo vệ cầu phà vẫy tay cho đi ngay. Với bộ quần áo sĩ quan, không đeo lon mà lúc đó cũng rất ?ohiệu quả?, được qua cầu, phà nhanh; đến họp đúng giờ, lại tránh được nguy hiểm khi xếp hàng qua cầu phà, tâm lí thủ trưởng nào cũng khoái. Đồng chí Ngảnh còn bảo tôi: ?oKhi chuyển ngành em vẫn giữ lại phù hiệu trung uý, nhưng sợ thủ trưởng mắng không dám đeo?. Tôi bảo đồng chí Ngảnh: ?oNộp lại cho đơn vị, kẻo phạm quân pháp, ảnh hướng đến cả tôi nữa đấy!?. Tài Ngảnh đồng ý ngay.
    Trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? của quân dân ta đánh B52, khiến con chủ bài cuối cùng ấy của Mỹ đem ra thi thố, đã thất bại. Hiệp định Paris được kí kết, hoà bình được lập lại. Phương án sắp xếp dân về hồi cư, qui hoạch lại đường xá, khu phố, những nơi bị bom Mỹ san bằng như khu Thượng, Hạ Lí, khu Sở Dầu, khu An Dương, tôi trình ra Ban Thường vụ, nhưng không được thông qua, vì khó khăn về tài chính. Nhân dân tự do về tranh cướp lại chỗ ở cũ, không ai ngăn cản nổi, nên kế hoạch qui hoạch, cắm mốc cho dân xây dựng không thành công, cứ mạnh ai người ấy làm.
    Sau này qui hoạch tốn kém quá! Nghĩ lại rất tiếc. Nếu lúc đó Ban Thường vụ Thành uỷ kiên quyết và UBND thực hiện tốt, thì thành phố sẽ đi vào qui hoạch từ những năm giữa thập kỉ 70 rồi!
    Sang đầu năm 1973 với thắng lợi Hiệp định Paris lập lại hoà bình ở Việt Nam, quân Mỹ phải rút hết về nước. Một nửa nước đã có hoà bình, chỉ miền Nam còn tiếp tục chiến đấu, chúng ta có nhiều thuận lợi hơn trước. Tình hình giải phóng miền Nam rất sáng sủa và đã có thể dự đoán được ngày thống nhất đất nước.
    Sau 9 năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Hải Phòng là điểm số 1 đánh phá của máy bay Mỹ, từ ngày 5-8- 1964 cho đến 31-1-1973. Tuy còn phải cảnh giác với âm mưu tráo trở của đế quốc Mỹ, nhưng trong tâm trí mọi người đã có thể nghĩ đến ý tưởng của Bác Hồ: ?o... sẽ xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn...?.
    Đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Đỗ Chính, Phó Bí thư đã tổ chức một đoàn cán bộ chủ chốt thành phố đi thăm Thủy điện Thác Bà, thành phố Việt Trì, Đền Hùng và tỉnh Vĩnh Phú. Tôi là một thành viên trong đoàn với chức danh Trưởng ban Công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học. Một cuộc đi khá lí thú; vừa đông vừa gặp nhiều sự kiện. Đồng chí Đỗ Chính, người gốc Hưng Yên nhưng đã nhiều năm công tác tại Phú Thọ, đã làm Bí thư huyện uỷ Vũ Ẻn, nơi có rất nhiều truyền thuyết về phụ nữ Vũ Ẻn. Cùng với Phong Châu, Vũ Ẻn là nơi của những con cháu ?ochính hiệu? Hồng Lạc. Tôi đi cùng xe với đồng chí Đỗ Chính, được nghe đồng chí kể hết chuyện phụ nữ huyện bắt nạt Bí thư Huyện uỷ, đến chuyện các vị ?othầy chùa? đã có hàm sắc Hoà thượng, Thượng toạ, đến cách đi xe đạp, lái xe đạp, nhảy xe đạp của phụ nữ... làm cho chúng tôi cười tưởng ?ovỡ bụng?.
    Trưa hôm đó được Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú Kim Ngọc, Phó Bí thư Thường trực Hoàng Quy, đồng chí Đô, Chủ tịch UNDN, tiếp đoàn ở cơ quan nơi sơ tán, cách thị xã Phú thọ khoảng 20km, ở trong rừng.
    Lần đầu tôi gặp đồng chí Kim Ngọc, con người nổi tiếng ?okhoán hộ? trong nông nghiệp từ năm 1965, đã bị phê phán và cấm. Tôi thấy đồng chí có vẻ một thầy đồ ?onho?, người gầy, mặc bộ quần áo nâu, nói chuyện ít khi cười, kể cả ?omỉm cười? cũng không. Tôi tự hỏi đồng chí còn nặng tâm tư hay tính người nghiêm nghị? Đến khi ăn cơm xong, đồng chí Kim Ngọc về phòng làm việc (cũng là nơi ăn nghỉ), tôi đi theo đồng chí và dừng ở cái bàn bằng mấy cây tre làm chân, một tấm phản gỗ để trên. Đồng chí gọi người phục vụ pha trà cho tôi uống. Hồi đó tôi chưa uống trà, chỉ uống nước sôi để nguội, nên xin đồng chí không phải pha trà. Tôi đi vào câu chuyện mà trước khi ăn cơm đã đề nghị với đồng chí, được đồng chí nhận lời tiếp sau khi cơm nước xong. Chung quy vẫn cáu chuyện khoán chui trong nông nghiệp... Tôi đề nghị đồng chí cho tôi xem Nghị quyết khoán của Tỉnh. Đồng chí chậm rãi, mặt tươi lên, nhưng vẫn không cười, bảo tôi: ?oĐồ quốc cấm, ông xem làm gì??. Tuy nói vậy song đồng chí vẫn đứng dậy đi vào nơi để tài liệu lấy đưa cho tôi xem. Đồng chí ngồi kiên nhẫn đợi tôi đọc xong, dù có những đoạn tôi phải đọc đi đọc lại để suy ngẫm. Đồng chí Kim Ngọc ngồi xỉa răng, vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ. Khi tôi đọc xong, trả lại, đồng chí Kim Ngọc hỏi tôi: ?oÔng thấy thế nào?? Tôi trả lời: ?oHay đấy!?. Đồng chí bảo tôi: ?oCũng dám khen cơ à ??. Rồi chúng tôi chuyển sang câu chuyện làm ăn sau hoà bình lập lại, chuyện Hải Phòng bị đánh phá, thủy lôi phong toả v.v... khoảng 30 phút, tôi cảm ơn đồng chí về nghỉ cùng với đoàn ở một lán trong rừng.
    Sau cuộc gặp đồng chí Kim Ngọc, tôi suy nghĩ rất nhiều về nông nghiệp. Mặc dù tôi phụ trách công nghiệp. Một con người cố nông, tá điền, học hành không nhiều mà suy nghĩ sâu sắc. Xem qua văn bản Nghị quyết, nội dung đơn giản, nhưng điều cốt yếu đã đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên hết, thậm chí trên cả tính mạng người ra Nghị quyết.
    Tôi nghĩ lại, cuối năm 1950, khi tôi là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, cơ quan Quận uỷ đóng ở nhà ông Hạp, Châu Xá, Kinh Môn. Xã tổ chức tuyên truyền chủ nghĩa CS để chuẩn bị Đảng ra công khai 1951. Cán bộ huyện Kinh Môn có mời tôi đến nói chuyện. Tôi nhớ rất kĩ một câu nói của tôi: ?oKhi đất nước được giải phóng khỏi thực dân Pháp, chúng ta sẽ không còn có nhà tranh vách đất lụp xụp như nhà ông Hạp...?. Mọi người hồ hởi tin tưởng Cách mạng. Cách làm của đồng chí Kim Ngọc khi còn là Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã giúp nông dân có nhà ngói, xoá bỏ được nhà tranh vách đất... tại sao lại bị cấm?
    Trở lại làm công tác thương nghiệp lần thứ ba
    Cuối năm 1973-1974 tôi lai được phân công sang làm Giám đốc Sở Thương nghiệp. Những năm trước tôi làm thương nghiệp (Lúc đó trong xã hội còn coi khinh nghề ?othương?). Sự quản lí rất chặt chẽ, hàng hoá còn dồi dào, việc bán hàng, kiểm kê hàng ngày đã vào nề nếp. Tôi nhớ lại khi tôi làm Phó Chủ nhiệm Công ti bách hoá, ngày mồng một Tết tôi bán hàng cho anh chị em nghỉ Tết. Chỉ bán 3 mặt hàng: pháo rời, kèn te-te cao xu và kẹo, mà đến tối kiểm kê mất 2 đồng 30 xu, tôi phải móc túi ra đền... Sau này hàng tuần mới kiểm kê, nếu thiếu ghi sổ chịu, còn thừa không bao giờ có cả (?).
    Tôi sang nhận chức Giám đốc, xuống các công ti thuộc sở, thấy tình hình khác lắm! Anh chị em bán hàng thì cửa quyền, đời sống khá hơn trước nhiều, không có ai xin ra khỏi ngành... Tôi về tổ vải sợi Hồng Bàng thăm chị em, được chị Mai Thị Đảm và cô Phương cho biết: ?oBây giờ khác xa thời thủ trưởng ở đây, bây giờ chỉ có ?otiền đồ?, không có ?otiền đền? như trước đâu...?.
    Thế ra quá trình làm ?ocải tiến?, rồi ?o3 xây 3 chống?, những kết quả đi đâu hết, mà càng ngày tệ tham nhũng càng phát triển. Tôi nghĩ chữ ?oNhân dục vô nhai? của thánh hiền để lại quả là sâu sắc. Chế độ gì đi nữa, không có cơ chế quản lí nghiêm, con người biết quản lí, tạo ra giá trị gia tăng cho toàn xã hội, và phân phối đúng đối tượng tham gia làm ra giá trị gia tăng, thì không có khả năng phát triển sản xuất và không hạn chế tối đa được tham ô lãng phí! Tôi suy nghĩ tìm cách làm cho mậu dịch viên bớt cửa quyền, bán hàng theo tem phiếu, phục vụ bữa ăn sáng cho cán bộ công nhân viên tốt hơn, khai thác nguồn hàng ở các nơi về bán... Cũng phải thay đổi cả cách tiếp dân, cả sổ mua hàng và tem phiếu. Sở Thương nghiệp có trụ sở to nhất thành phố, nhà băng ?oNăm sao?, trên đường Trần Phú. Tôi được đồng chí Giám đốc Nguyễn Quốc Hiệu bàn giao. Đồng chí Quốc Hiệu sang làm Giám đốc Sở Thủy sản. Đồng chí Quốc Hiệu cho biết làm thương nghiệp phức tạp lắm! Hàng ngày nhân đến đến đợi mua hàng hoá, tất nhiên phải có tem phiếu nhưng đến cửa hàng, mậu dịch viên bảo: ?oHàng hết, hoặc chưa có, về nhà đợi khi có hàng đến mua?. Nhân dân kéo đến Sở khiếu nại. Nhất là anh em thương binh đến Sở tỏ thái độ rất gay gắt, đôi khi làm mất trật tự nữa. Khi đồng chí bàn giao phòng làm việc cho tôi, Giám đốc Quốc Hiệu chỉ cho tôi hai lối đi, để khi cần phải đi lối hậu, thoát ra ngoài.
    Có 4 Phó giám đốc (một là nữ) còn 3 là bạn cũ cả. Hai đồng chí Bùi Ngọc Tiễn và Hoàng Văn Được là Phó Giám đốc khi tôi còn làm Chủ nhiệm công ti, các đồng chí đều hợp tác với tôi để thực hiện nhiệm vụ chung rất tốt. Ngày nay chúng tôi vẫn còn lại những tình cảm nồng nàn với nhau, nhất là đồng chí Vũ Hồng Quảng thường xuyên lên Hà Nội thăm tôi với tình đồng nghiệp.
    Sang Thương nghiệp sau cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ, các công ti, cửa hàng hầu hết bị đánh phá. Tôi tập trung giải quyết ý thức phục vụ khách hàng của mậu dịch viên, trở lại khẩu hiệu: ?oVui lòng khách đến, vừa lòng khách đi? của thời kì ?ocải tiến? thương nghiệp ở Công ti Bông vải sợi may mặc.
    Tôi tập trung xây dựng cửa hàng bách hoá tổng hợp Minh Khai, xây dựng lại chợ Sắt, xây dựng lò mổ lợn An Dương v.v..., đồng thời xây dựng hơn 30 ki-ốt, hoặc gian hàng nhỏ bán ăn sáng cho cán bộ công nhân viên. Mỗi buổi sáng phải bảo đảm 150.000 suất ăn sáng trở lên với 4 món ăn mà lúc đó coi là phong phú lắm rồi: phở, cháo, xôi, bánh mì; góp phần cải thiện cho cán bộ công nhân viên, không phải chạy vạy nơi này, nơi khác mới có ăn sáng để kịp giờ đi làm. Từ 4 giờ sáng các cửa hàng đã mở cửa, cũng làm cho không khí sôi động sau bao năm chiến tranh phá hoại ác liệt, giúp cho mọi người thấy thoải mái chút ít.
  3. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Còn đối với tem phiếu, đặc biệt là phiếu thịt lợn, vải, tôi tuyên bố công khai trong Đại hội Đảng toàn thành phố là: ?oAi không mua được thịt và vải cứ mang tem phiếu đến bắt đền Giám đốc Sở thương nghiệp...?. Khi tôi phát biểu xong, có một vài đồng chí bảo tôi chủ quan, sau đại hội họ mang tem phiếu đến đòi, giám đốc không có hàng bán sẽ mất tín nhiệm. Có một đồng chí Thường vụ (nay còn sống, tôi không tiện nêu tên) bảo tôi: ?oÔng mất hơn chục phiếu vì câu tuyên bố đó đấy...?. Tôi chỉ cười không nói gì. Vì trước khi phát biểu ở Đại hội, tôi đã cân đối thịt, vải... với số lượng phiếu phát ra thấy trước vẫn đủ và thừa. Tại sao nhân dân kêu ca? Con phe bán tem phiếu xếp hàng mua tem phiếu của nhân dân, cán bộ công nhân viên chức rất đông. Thiếu hàng là giả tạo, do mậu dịch viên thông đồng với con phe không bán hàng cho người có tem phiếu mà dành hàng hoá bán cho con phe kiếm lời đấy thôi.
    Thật là bất ngờ! Sau lời hứa của tôi ở Đại hội Đảng bộ Thành phố, không có một ai đem tem phiếu đến bắt đền Giám đốc Sở Thương nghiệp vì không có hàng cả. Tôi xuống kiểm tra các cửa hàng bán 2 mặt hàng chủ yếu thịt và vải, lúc nào cũng đủ hàng bán, nhân dân không phải xếp hàng dài như trước. Sau một năm, số các đồng chí có ý nghi ngờ cho là tôi ?ođại ngôn? đã bớt hẳn, tôi gây được lòng tin, ?olời nói đi đôi với việc làm?, dần dần khôi phục lại uy tín của ngành thương nghiệp. Tôi làm Giám đốc Thương nghiệp 23 tháng thì được cử làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố.
    Trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Hải Phòng, mặc dù công việc bận rộn, gia đình có 4 con nhỏ, nhà tôi cũng phải lo công việc kho hàng rất lớn của Bộ Nội thương, trăm công nghìn việc, nhưng tôi vẫn học văn hoá, học ngoại ngữ. Chiến tranh phá hoại không có lớp học lớn, tôi tổ chức một số anh em cùng học, mời thầy giảng ban đêm, tôi đã học xong lớp 10, để chuẩn bị vào học đại học. Tôi tổ chức học hết chương trình ?otoán học đại cương? để vào học đại học cho vững, hơn nữa toán sẽ giúp cho công tác chỉ đạo, làm việc khoa học hơn, thiết thực với công việc hàng ngày. Sự học hành của tôi liên tục, không nghỉ lúc nào đến một tháng cả. Do đó, cũng lạo ra được thói quen không bỏ dở, tư duy kiến thức không ngừng nâng cao.
    Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
    Từ đầu năm 1975 việc chuẩn bị cho giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước rất sôi nổi. Chiến công nối tiếp chiến công. Từ chiến trường miền Nam đưa về, hàng ngày tin chiến thắng giòn giã. Nhất là sau khi giải phóng Buôn-mê-thuật, mọi sự chuẩn bị cho việc giải phóng miền Nam, tiếp quản các tỉnh, thành phố, được chuẩn bị ráo riết. Ngành thương nghiệp Hải Phòng phải chuẩn bị hàng nghìn cán bộ cho việc tiếp quản thành phố từ Huế, đến Đà Nẵng...
    Khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Hải Phòng một lúc cử hơn 800 cán bộ vào tiếp quản thành phố Sài Gòn. Các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc đi hết. Cán bộ gốc miền Bắc bổ sung. Bộ máy của Sở cạn kiệt nhân lực. Lúc đó thực sự mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba nhưng cũng không thấy mỏi mệt. Sự phấn khởi sung sướng trong toàn dân, trong cán bộ công nhân viên chức, không lời nào tả hết. Bao nhiều năm chờ đợi, một trăm mười ba năm mới có ngày độc lập hôm nay. 93 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và 20 năm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ, biết bao sự chết chóc, hi sinh, bao nhiều lần nhà cửa bị đốt phá, làm đi làm lại biết bao nhiêu lần! Cơm rau, cháo chia nhau đi sơ tán... nay về sum họp trọn đời, ai mà không cười rơi nước mắt!
    Riêng tôi càng nhớ miền Nam, nhớ Côn Đảo dữ dội. Tôi chỉ ở tù Côn Đảo và các nhà tù miền Nam tròn một năm, nhưng sao nó để lại cho tôi biết bao kỉ niệm, buồn vui lẫn lộn. Tôi nhớ thế, chỉ muốn bay ra Côn Đảo, xem lại nơi bị địch giam cầm. Không có sự đùm bọc của đồng chí, đồng đội chắc tôi cũng để ?onắm xương tàn? trên bãi Hàng Dương - Hàng Keo. Không hiểu có ai giống tôi không? Ở những chiến trường gian khổ, ở nơi bị đày ải, nếu tôi chưa đến được đó thăm lại, thì chẳng mấy đêm ngủ ngon. Trong những giấc mơ, các nơi ấy hiện về như thật. Có giấc mơ vượt đảo, tôi bơi thế nào về đến ao nhà tôi. Khi ở Côn Đảo cũng có nhiều lần tôi mơ vượt đảo, bơi về đến tận sông Tường Vu. Những nơi đó nếu tôi được đến thăm lại thì sau này mới không mơ tới nữa...
    Tôi nóng lòng được vào thăm miền Nam được thăm ?oMá Năm? (bà Nguyễn Thị Phương Lan) một cơ sở cách mạng kiên cường, đã nuôi cán bộ cách mạng từ những năm 1930, như đồng chí Phan Bôi, (năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội vụ với tên là Hoàng Hữu Nam) rồi đến anh Lê Đình Thụ, Trần Mạnh tức Vũ Quang Đạo và tôi, cùng nhiều đồng chí khác sau này.
    Tháng 6-1975 tôi nhận được lá thư, ngoài bì đề: ?oGửi chú Duy (tù Côn Đảo), nhờ Thành uỷ Hải Phòng chuyển giúp?.
    Bóc thư ra xem, là thư của ?oMá Năm?. Tôi phấn khởi quá. Tôi biên thư cho Má và mời Má ra Bắc chơi. Trong thư gửi cho tôi Má cũng dự kiến ra miền Bắc thăm em gái là bà Nguyễn Thị Phương Hoa, Vụ trưởng cơ quan Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khoá I, đơn vị tỉnh Kiến An cũ.
    Tháng 8-1975, má Năm được bác sĩ Trần Huy Bích đưa ra thăm tôi. Vợ chồng tôi và các cháu, bố mẹ tôi, rất mừng được đón bà Năm ra thăm. Má ở chơi miền Bắc khoảng hơn 2 tháng, được đồng chí Lê Đức Thịnh, Chủ tịch UBND Hải Phòng tiếp và mời cơm thân mật. Má chỉ lên Hà Nội chơi 2 lần gồm hơn một tuần với bà Phương Hoa. Còn Má ở Hải Phòng với vợ chồng tôi và các cháu. Nhà tôi và Má rất ?oý hợp tâm đầu?, không lúc nào rời nhau, như mẹ con vậy! Vợ chồng tôi đưa Bà đi chơi khắp Hải Phòng, về quê tôi ở Hải Dương, đi thăm danh lam thắng cảnh ở Hà Nội và vùng chung quanh. Khi ở nhà, bà thêu thùa, may vá cho các cháu đủ loại quần áo. Bốn cháu trai của bà còn nhỏ, nghịch nhiều, quần áo rách đến đâu bà vá đến đó. Lúc ấy vải cung cấp hạn chế, nên bà đùm hai áo rách thành một áo lành. Các cháu mặc khen bà vá đẹp, bà - cháu cùng phấn khởi...
    Thăm Côn Đảo sau thống nhất đất nước
    Tháng 9-1975, tôi biên thư xin phép đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ vào thăm miền Nam và thăm Côn Đảo, đồng thời đồng chí Lê Đức Thịnh, Chủ tịch UBND 94 Thành phố giao cho tôi vào miền Nam để mua một số hàng hoá với chức danh là Giám đốc Sở Thương nghiệp. Lúc này má Năm còn đang ở chơi với gia đình tôi tại Hải Phòng.
    Tôi đến Sài Gòn bằng máy bay quân sự. Lúc đó máy bay chở khách cũng do quân đội quản lí.
    Sài Gòn mới giải phóng. Sau 22 năm tôi trở lại Sài Gòn, thấy thành phố đổi thay khá nhiều. Những con đường trước đây tôi qua lại nhiều là Căng Phú Lâm, nhà thương Chợ Quán nay đã mở rộng. Riêng chỗ chữa bệnh cho tù nay làm kho thuốc, vẫn còn nguyên hiện trạng. Căng Phú Lâm, khu hầm giam tù còn nguyên, nhưng bên trên đã thay đổi bằng nhà xây mới.
    Tôi đến Thành uỷ Sài Gòn gặp đồng chí Lê Đình Thụ, là bạn tù, cùng trong Đảo uỷ vượt đảo khi xửa. Nay đồng chí Thụ đổi tên là Vũ Hồng, Thành uỷ viên Thường trực Thành uỷ, kiêm Chánh Văn phòng Thành uỷ. Công việc của anh rất bận, nhất là ta vừa tiếp quản thành phố được hơn ba tháng, nhưng anh sốt sắng chuẩn bị cho tôi cùng vợ chồng đồng chí Cao Hồng Lãnh ra thăm ngay Côn Đảo bằng máy bay trực thăng MI 6.
    Đi từ sân bay Tân Sơn Nhất ra Côn Đảo chỉ hết 45 phút. Hơn nửa tiếng lúc này bỗng dài dặc biết mấy. Bởi tôi nao nức mong sao thật chóng đến giấy phút gặp lại Côn Đảo, nơi địa ngục trần gian mang tên ?oPénitencier de Poulo-condore?.
    Khi máy bay hạ cánh, một xe Jeep ra đón, đưa thẳng tôi và anh chị Hồng Lãnh đến thăm các trại giam, thăm nhà lao số III và nhà xác Côn Đảo. Lao III lúc đó đang nhốt sĩ quan nguỵ, nên chúng tôi chỉ đứng ngoài ngó xem thôi. Côn Đảo từ lâu đã không chỉ có bốn nhà tù như thời tôi ở đó, giờ cả thảy 9 nhà tù lớn với nhiều nhà tù phụ. Thời tôi, lúc tù đông nhất là 2.300 người, sau này thời Mỹ nguỵ các đồng chí hướng dẫn cho biết có lúc lên đến 2 vạn người. Thật kinh khủng. Đi thăm 4 tiếng liền rồi chúng tôi phải rời Côn Đảo về lúc 15 giờ vì sợ máy bay gặp mưa to gió lớn sắp ập đến không bay được. Đành bịn rịn chia tay Côn Đảo!
    Khi chưa được thăm Côn Đảo, chỉ mới tới sân bay Tân Sơn Nhất, tôi hào hứng, phấn khởi bao nhiều, giờ trên đường về lại buồn bấy nhiêu. Đàn ông ít khi khóc, vậy mà suốt 45 phút ngồi trên máy bay nhìn xuống biển cả, tôi miên man suy nghĩ tới từng đồng chí trong số 81 anh em hi sinh trong cuộc vượt ngục ngày 12-12-1952...càng nghĩ càng không cầm được nước mắt chứa chan. Anh chị Hồng Lãnh thắc mắc hỏi han khi thấy tôi cứ khóc. Nhưng có lời nào có thể giãi bày cho anh chị Lãnh hiểu được lòng thương cảm của tôi đối với anh em hi sinh trong chuyến vượt đảo kinh hoàng ngày ấy?
  4. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tối hôm đó Thành uỷ Sài Gòn chiêu đãi chúng tôi bữa cơm thân mật. Anh chị Lãnh bảo tôi tường thuật câu chuyện vượt đảo, Nghe xong anh chị Cao Hồng Lãnh cũng ngậm ngùi tiếc cho cuộc vượt đảo không thành. Anh nói: ?oCác đồng chí dũng cảm mưu trí hơn chúng tôi thời kì 1930-1945?. Tôi nói: ?oThưa anh, chúng tôi là tù binh, có điều kiện hơn các anh thời trước. Các anh đều là cán bộ chính trị. Còn mưu trí, dũng cảm thì cũng thế cả...? Anh cười vui và nói: ?oHậu sinh khả uý?... Thế mà sau này một số người xấu vu khống tôi, họ đặt điều: ?oSau ngày giải phóng miền Nam, tôi vội vàng vào miền Nam và ra Côn Đảo để sắp xếp che giấu...??. Từ ngày ra thăm Côn Đảo về, tôi hết nằm mơ vượt Côn Đảo, nằm mơ về tù ở Côn Đảo. Những giấc mơ như thế rất mệt đối với tim và bàng hoàng khi tỉnh dậy hàng giờ! Trong dịp đi thăm miền Nam sau giải phóng, tôi đã kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ 3 việc mà tôi rút ra từ thực tế tiếp quản miền Nam và kinh nghiệm tiếp quản Hải Phòng.
    1. Tập trung thu thập chiến lợi phẩm, các kho tàng quân sự, dân dụng, các phương tiện trang bị mà các công sở không dùng hết, đặc biệt các loại hàng tiêu dùng, kể cả ô tô dân dụng, thiết bị xây dựng... đem bán theo giá thị trường, chuyển ra thành vàng hoặc đô la Mỹ gửi vào ngân hàng. Tôi thấy hàng nghìn xe con bỏ khắp sân bay Tân Sơn Nhất, kho quân sự Long Thành.v.v. Ngay khách sạn Oscar, nơi tôi và đồng chí Tích trưởng phòng nghiệp vụ Sở thương nghiệp được Bộ Nội thương bố trí cho ở, chỉ trong 2 tuần, người quản lí khách sạn đến tháo vật dụng mang đi 2 lần. Lần đầu tháo điều hoà nhiệt độ, lần thứ hai tháo đi một quạt trần. Hai chúng tôi ở chung một phòng chỉ còn một quạt trần. Không rõ người quản lí tháo điều hoà và quạt đem đi đâu?
    2. Tiền và hàng hoá một số nước viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam, (như Thái Lan lúc đó viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam 2 vạn tấn gạo.v.v.) đều nên bán theo giá thị trường, rồi chuyển thành vàng, đô la Mỹ gửi vào ngân hàng. Tất cả các khoản tiền trên, đợi sau khi qui hoạch, đem ra xây dựng lại đất nước. Không nên vội vàng đem chia, hoặc ?ogạt? cho mỗi tỉnh một ít, mỗi ngành sử dụng một ít, để sửa chữa xây dựng như lúc đó đang làm.
    3. Tập trung cán bộ kĩ thuật thiết kế, xây dựng con đường xuyên Việt, tập trung vốn vào xây dựng để thể hiện ý chí thống nhất đất nước. Mặt khác, về kinh tế, văn hoá xã hội, con đường sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho cả nước, nhất là những tỉnh liên quan đến đường xuyên Việt. Con đường này sẽ có các con đường ?orăng lược? hoặc ?oxương cá? chạy rẽ sang 2 bên đến các tỉnh biên giới Campuchia, Lào, Trung Quốc. Tỉnh nào cũng có đường bộ đi đến biển và đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long.
    Tháng 6-1976 tôi tham gia Ban Thường vụ Thành uỷ và được phân công làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố phụ trách thương nghiệp - tài chính ngân hàng - giá cả - khoa học kĩ thuật. Đến khi vấn đề ?onạn kiều? xảy ra, tôi được phân công phụ trách huyện Cát Hải, xây dựng lại hệ thống phòng thủ đảo Cát Bà. Bởi khi chống chiến tranh phá hoại của Mỹ các công sự, hầm ngầm trong núi, cảng Gia Luận... đều do Trung Quốc giúp xây dựng.
    Từ lần đưa Đoàn ra Cát Bà, chỉ đạo sơ tán nhân dân, cơ quan, kho tàng ở thị trấn, chống chiến tranh hủy diệt và phong toả Cảng của đế quốc Mỹ, trong suy nghĩ của tôi đã hình thành ý tưởng đề xuất xây dựng một con đường bộ từ Hải Phòng ra Cát Bà. Nay có điều kiện, tôi đề xuất phương án ?oxây dựng đường xuyên đảo?. Ban Thường vụ Thành uỷ bàn. Bàn đi bàn lại mãi, mấy kì họp không thành, vì lí do không có tiền và có ý kiến cho rằng Hải Phòng đi thẳng ra Cát Bà sao được? Biển to, sông rộng, đi thế nào? Có đồng chí bảo tôi: viển vông, duy ý chí, đại ngôn (nói khoác).
    Đến tháng 8-1978, các đồng chí Thường vụ nể tôi quá đồng ý một phần kế hoạch, còn tôi cũng thoả hiệp với các đồng chí chỉ cần có quyết định về chủ trương, để có kinh phí xây dựng phần trên đảo, còn các đoạn khác tính sau. Đa số ý kiến Thường vụ Thành uỷ về con đường bộ phải qua bến Bính, qua Phà Rừng, sang Quảng Yên, qua phà sông Chanh, sang nông trường Hoà Bình thuộc khu Hà Nam phong Cốc thuộc tỉnh Quảng Yên cũ, qua phà Cái Tráp đến Cát Hải, qua phà bên Gót sang Cát Bà. Tất cả phải qua 5 phà và qua đất của Quảng Ninh hơn 20km. Khi thông qua đề án tôi rất buồn nhưng phải chấp nhận vì thiểu số. Dù sao thế cũng đạt được 50%, tức là phần trên đảo Cát Bà, Cát Hải sẽ làm trước, còn lại tính sau...
    Chiến tranh biên giới nổ ra. Nhân dân thị trấn Cát Bà chủ yếu là bà con Hoa kiều, đã bỏ về Trung Quốc hơn 7.000 người, còn lại hơn 10 người là đảng viên, cán bộ người Việt gốc Hoa. Dân số Cát bà lúc đó chỉ còn khoảng hơn 6.000 người, chủ yếu ở các xã làm nông, lâm nghiệp. Nghề đánh cá ?ovó đèn? hầu hết của bà con người Việt gốc Hoa, nay bỏ về Trung Quốc hết. Bởi vậy nghề đánh cá ?ovó đèn? từ đây cũng kết thúc vai trò lịch sử của nó. Lúc đó thành phố phải huy động nhân dân các xã huyện An Thuỵ, Tiên Lãng ra Cát Bà canh tác, đánh cá. Một số bà con tuy cũng có nghề cá, nhưng ra Gia Minh, Bến Gót, không quen với nghề cá biển nên bỏ về, trừ nông dân xã Trường Sơn huyện An Thuỵ còn ở lại Khe Sâu để cày cấy, trồng trọt, cung cấp rau quả cho thị trấn. Tôi ở lại đảo 6 tháng liền, chỉ về Hải Phòng một vài lần trong những ngày nghỉ, kể cả Tết âm lịch 1978-1979, tôi cũng ăn Tết với nhân dân ở đảo. Nhà tôi ở nhà một mình, vì 2 cháu đi bộ đội, 2 cháu đi học xa. Đêm ba mươi rạng mồng một Tết, chị Huyền, Giám đốc Công ti vật tư, phu nhân của tướng Đặng Kinh đến đón giao thừa với nhà tôi cho đỡ buồn? Tết năm đó đón Xuân ở Cát Bà, người không đông như mọi năm, nhưng tôi cùng với cấp uỷ, cơ quan địa phương vận động tổ chức Tết cho nhân dân rất chu đáo. Pháo nổ suốt đêm, làm tan đi cái không khí vắng vẻ của một thị trấn vốn có gần một vạn người, nay chỉ còn hơn nghìn người. Nông dân các xã cũng ra thị trấn vui Tết, cùng với lực lượng vũ trang Trung đoàn 174 góp phần làm cho không khí thị trấn ?oTưng bừng khói lửa?.
    Tôi cùng đồng chí Quốc Hiệu, Bí thư huyện uỷ, đồng chí Thơm, Chủ tịch Cát Hải, đồng Trần Khoát, Chính uỷ, đồng chí Thông, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 và cán bộ chủ chốt trên Đảo, đi khảo sát kiểm tra toàn bộ các hệ thống phòng thủ để tổ chức bố phòng lại, bảo đảm nếu có chiến sự xảy ra sẽ không bị động.
    Tôi có 3 cán bộ cùng đi ra công tác ở Đảo là đồng chí Ngấn, Phó Giám đốc Tài chính, đồng chí Tô Xuân Hồ, sau này là Chánh Thanh tra Thành phố, cùng đồng chí Chính bảo vệ. Đoàn chúng tôi được trang bị 2 tiểu liên K54, 2 súng lục.
    Đi lại khắp trên đảo, mòn hết hai đôi giày bộ đội Liên Xô viện trợ, mà lúc đó thường gọi là ?ogiầy Kôt-xư-ghin? (tên Thủ tướng Liên Xô lúc đó). Chân tôi bị hỏng mất móng chân trái, do đi liên tục, không để ý, khi tháo giày ra thì móng chân đã đen và rụng luôn. Đến nay nghĩ đến vết thương móng chân bị hỏng tôi lại nghĩ đến đường xuyên đảo... Để chuẩn bị cho việc thi công tuyến đường trên đảo, Sở Giao thông vận lải cử đồng chí Luận, Trưởng phòng, ra làm Phó Chủ tịch UBND huyện phụ trách giao thông, cùng với đồng chí Phòng phụ trách kinh tế, tham gia ban chỉ huy công trường xây dựng tuyến đường trên đảo.
    Tôi đề nghị UBND thành phố chuyển ngay cho một máy xúc, 2 xe tải, dùng phà chuyển ra bến Bèo để cùng lực lượng thủ công thi công xẻ núi, san đường chạy quanh thị trấn. Khi xe xúc, xe tô tải ra đến thị trấn, nhân dân trong các xã kéo ra xem mấy ngày liền. Đầu tiên có xe chạy trên đảo, nó như dấu hiệu một ước mơ dần dần được thực hiện. Trong khi thi công xẻ núi, làm đường ở thị trấn, tôi cùng các đồng chí lãnh đạo Huyện đi khảo sát con đường từ Đèo Khế vào xã Trân Châu, Xuân Đám... Đây là con đường mòn, đi lại mang hàng hoá, đồ dùng, phải ?othồ? trên vai. Đi bộ cũng rất khó khăn. Đồng chí Ngấn đã có lần trượt chân rơi ?otõm? xuống biển, may vớt kịp, không việc gì, chỉ quần áo ướt sũng. Đồng chí giơ tay bắt tay tôi: ?oMay quá! Không bị va đầu vào đá?. Các cụ trong 2 xã Trân Châu, Xuân Đám, kháo nhau: lần này ông Thành làm được con đường vào xã dân sẽ làm ?ođền thờ?. Có người lại nói: ?oÔng Thành làm được con đường này thì chó nó cũng đi được guốc!.?. Khi làm xong đoạn đường này, tôi đi xe com-măng-ca vào thông đường và thăm nhân dân 2 xã. Nhân dân reo mừng sung sướng. Tôi nói đùa: ?oCó ai đem chó đi guốc ra đón tôi không?? Mọi người cùng cười hả hê thoải mái.
    Đến nay thì con đường này đã trở thành đường ?ocao tốc? của Đảo, đi suốt từ bến phà Cái Viềng qua đoạn đường này để vào thị trấn Cát Bà, điểm du lịch của Hải Phòng và cả nước. Đến tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBDN Thành phố. Tôi vẫn tiếp tục xây dựng huyện đảo. Tôi đề nghị Ban Thường vụ ra quyết định bổ sung xây đường xuyên đảo đi trên đất Hải Phòng, không qua đất Quảng Ninh, đào kênh Cái Tráp, không phải qua sông Ruột lợn và sông Chanh, rút ngắn hơn 20 km. Như vậy đường bộ, đường thủy ra Cát Bà đều đi trên đất Hải Phòng, rút ngắn tuyến vận chuyển than từ Hòn Gai về cảng Hải Phòng, các tỉnh thành phố khác cũng rút được phí vận chuyển, không phải qua sông Chanh và sông Ruột Lợn.
    Để thực hiện được chủ trương xây dựng Đảo, tôi xin với Quân khu III cho đồng chí Trần Khoát về làm Bí thư huyện uỷ, kết hợp với kinh tế quốc phòng. Đồng chí Trần Khoát rất tích cực thực hiện chủ trương của Thành uỷ và UBND thành phố và sau này là đồng chí Nhật.
    Dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ và UBND thành phố qua các thời kì, dần dần Cát Bà trở thành như hôm nay, xứng đáng là khu du lịch của cả nước, Trung tâm đánh cá của vịnh Bắc Bộ. Đó cũng là ước mơ bao đời nay của nhân dân trên 2 đảo Cát Hải - Cát Bà (tên cũ là Các Bà), niềm tự hào của nhân dân thành phố Cảng ?oTrung Dũng quyết thắng?.
    Xem tiếp
  5. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Chương 6: Thời kì đổi mới ở Hải Phòng
    Sau 29 năm, từ tháng 6-1950, tôi sang làm Bí thư quận uỷ Ngô Quyền.
    Hai mươi chín năm, hơn một phần tư thế kỉ đối với một đời người là dài. Trải biết bao thăng trầm, tôi luôn rèn luyện đạo đức, đặc biệt là học tập, làm thế nào để khi mình làm cán bộ lãnh đạo, cấp dưới không phải phàn nàn: ?olàm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại?. Làm đầy tớ thằng dại, thì còn khổ biết bao nhiêu!
    Tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBND Thành phố. Lúc này tôi đã học xong đại học quản lí kinh tế, học xong bằng C tiếng Anh, và học thêm 2 năm chương trình đại học Anh văn. Về lí luận chính trị, kinh tế tôi đã học tập nghiên cứu và đọc kĩ các tác phẩm kinh điển của các bậc hiền triết thời phong kiến, thời tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các học thuyết về Chủ nghĩa cộng sản, Chủ nghĩa xã hội và cả học thuyết của các nhà triết học trước Marx... cộng thêm những vốn liếng có được qua 35 năm tham gia cách mạng. Tôi đinh ninh trong dạ khi có điều kiện sẽ thực hiện những kiến thức đã học và kinh nghiệm đã trải qua.
    Hoàn cảnh kinh tế, chính trị nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng lúc đó gặp nhiều khó khăn. Về chính trị, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung và Tây Nam Nam Bộ đang lên đỉnh điểm. Kinh tế bước vào thời kì khủng hoảng, viện trợ từ bên ngoài cắt giảm nhiều, trật tự xã hội trong thành phố hết sức rối ren. Trong thời bình mà riêng phường Vạn Mỹ (Cầu Tre) có 53 lối đi trong phường, phải rào bớt 36 lối còn lại 17 lối để dễ kiểm tra người qua lại. Ban đêm ở thành phố cũng như ngoại thành phải dùng 3 công cụ, lúc đó gọi là: cái gậy an ninh, cái đèn an ninh, cái kẻng an ninh. Người đi đêm là người ngay thẳng phải mang 1 trong 3 công cụ trên để phòng thân, gặp công an, bảo vệ đi tuần tra sẽ cho đi ngay, chẳng khác gì thời loạn lạc.
    Cảng Hải Phòng phải quân sự hoá, tất cả bộ đội vào làm bốc vác. Đại tá Võ An Đông, Tư lệnh F350, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hải Phòng được cử làm Giám đốc cảng. Còn thành phố, một số cán bộ cao cấp ở Trung ương cũng đề nghị xem xét có nên quân sự hoá thành phố không (gọi là quân quản như thời kì mới vào tiếp quản), hoặc phải giới nghiêm từ 10 giờ tối đến 5 giờ sáng.
    Trong lúc đó mọi việc tôi bàn với đồng chí Bí thư Bùi Quang Tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, mới được cử về làm Bí thư Thành uỷ. Đồng chí mới về, nên cần nắm tình hình thành phố, mọi việc điều khiển đồng chí Tạo phân cho tôi cứ làm bình thường.
    Cảng Hải Phòng khi chưa có vấn đề ?oNạn kiều? (Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước), công nhân bốc xếp ở cảng chủ yếu là người Việt gốc Hoa, rất quen với bốc vác hàng có trọng lượng 100 kg/kiện. Thế mà lúc đó cứ 3 tháng, có khi 1, 2 tháng, đồng chí Đỗ Mười, Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng) lại phải xuống cảng để giải toả cảng. Hàng bốc ra để rải rác khắp đường phố, nhất là khu bãi cổng cảng và vườn hoa Bon-nan. Lãng phí và ăn cắp rất ghê gớm. Chuyển hàng ra khỏi cảng còn để ở ngoài trời, trong cảng hàng hoá đã đến tiếp. Không bốc dỡ kịp, tàu nước ngoài có khi đậu tại cảng chờ giải phóng hàng tháng. Họ kêu ca, ta phải nộp phạt cho một ngày tàu chậm bốc xếp khoảng 13 kg vàng/ngày tùy theo tàu to nhỏ, hết sức lãng phí.
    Trong những lần giải toả cảng, Chính phủ cử các bộ trưởng, thứ trưởng, cán bộ thuộc các bộ liên quan xuống theo. Một số tỉnh thành có liên quan đến vận tải hàng hoá như Hà Nội, Quảng Ninh cũng đến Hải Phòng họp hàng tuần... Thành phố bận rộn, lại phục vụ các cuộc họp giải toả. Họp giải toả nhiều quá cũng nhàm, ít tác dụng. Anh Mười rất vất vả về công tác giải toả hàng mấy năm liền...
    Lúc đó ở Hải Phòng, mỗi đợt giải toả xong, đoàn xe Anh Mười rời Hải Phòng về Hà Nội, công nhân Cảng và nhân dân thành phố đùa tếu nói: ?oÔng Mười đã đi xa, mọi việc ở Cảng trở lại bình thường...?. Hàng hoá lại ùn tắc, bốc hàng lên không có chỗ để, tàu cứ điều vào, đỗ hết cầu tàu. Tàu vào sau phải đậu ở dọc sông Bạch Đằng, Cửa Nam Triệu ra đến phao số 0. Đêm đến đèn các tàu bật lên sáng như một thành phố trên biển.
    Đến khi công nhân bốc xếp là người Việt gốc Hoa rút về Trung Quốc hết, còn lại toàn công nhân Việt Nam sức yếu, chưa quen việc, xảy ra đổ vỡ mất mát rất nhiều... Bởi vậy trên mới có sáng kiến quân sự hoá Cảng cho bộ đội vào bốc thay công nhân. Nhưng tình hình không được cải thiện. Sau gần 2 tháng quân sự hoá, thì xảy ra vụ cháy kho 5, thiệt hại rất lớn, vì đây là kho vải. Ai cũng biết vải lúc bao cấp nó quan trọng đối với mọi người như thế nào. Chính quyền thành phố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn chuyện giải quyết hậu quả. Đã khó khăn lại thêm khó khăn. Vậy mà Trung ương cho Hải Phòng các loại vải bị cháy dở, hoặc đã bị vòi cứu hoả phun nước hoặc hoá chất vào, thì cả nước có câu ca dao:
    Cả nước đau lòng
    Hải Phòng phấn khởi (?)
    Đấy là bề nổi. Mọi nơi nghĩ như vậy, còn chúng tôi thì cực khổ suốt hàng mấy tháng trời, xử lí bao nhiêu công việc do cháy kho 5 sinh ra. Đồng chí Cao Văn, Phó Chủ tịch Uỷ ban phải bận vào công việc này 6 tháng liền mới giải quyết xong hậu quả.
    Nhưng cả nước không bị thiệt, vì kho của ta có mua bảo hiểm. Khi cơ quan bảo hiểm nước ngoài đến xác định thiệt hại để đền bù, số tiền đền bù vượt hơn thiệt hại chút ít.
    Sau khi đã giải quyết xong hậu quả cháy kho 5, Ban Thường vụ Thành uỷ họp, kiến nghị với Trung ương thôi quân sự hoá Cảng và giao việc tổ chức bốc xếp cho địa phương phụ trách. Chính phủ đồng ý ngay. Khi có quyết định, anh Bùi Quang Tạo bàn với tôi tổ chức lại việc bốc xếp Cảng. Hàng ngày sáng nào cũng giao ban tại Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Tạo và tôi cùng dự, anh Tạo rất say sưa với công việc này. Chúng tôi bàn nhau, đặt chỉ tiêu bảo đảm bốc một vạn tấn hàng/ngày. Chỉ sau hơn một tháng chúng tôi đạt mục tiêu đề ra, và những tháng sau từng bước tăng lên. Công nhân có thu nhập, trộm cắp giảm hẳn, tàu không phải chờ đợi, ta không bị nộp phạt. Mọi người hào hứng phấn khởi, và cũng kết thúc ách tắc trong khâu bốc dỡ.
    Xong việc giải toả Cảng anh Tạo và Thành uỷ, UBND thành phố, Cảng đều vui mừng, sự quản lí Cảng đã sang trang, kết thúc giai đoạn lịch sử ?ogiải toả?.
  6. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Chương 6: Thời kì đổi mới ở Hải Phòng
    Sau 29 năm, từ tháng 6-1950, tôi sang làm Bí thư quận uỷ Ngô Quyền.
    Hai mươi chín năm, hơn một phần tư thế kỉ đối với một đời người là dài. Trải biết bao thăng trầm, tôi luôn rèn luyện đạo đức, đặc biệt là học tập, làm thế nào để khi mình làm cán bộ lãnh đạo, cấp dưới không phải phàn nàn: ?olàm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại?. Làm đầy tớ thằng dại, thì còn khổ biết bao nhiêu!
    Tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBND Thành phố. Lúc này tôi đã học xong đại học quản lí kinh tế, học xong bằng C tiếng Anh, và học thêm 2 năm chương trình đại học Anh văn. Về lí luận chính trị, kinh tế tôi đã học tập nghiên cứu và đọc kĩ các tác phẩm kinh điển của các bậc hiền triết thời phong kiến, thời tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các học thuyết về Chủ nghĩa CS, Chủ nghĩa xã hội và cả học thuyết của các nhà triết học trước Marx... cộng thêm những vốn liếng có được qua 35 năm tham gia cách mạng. Tôi đinh ninh trong dạ khi có điều kiện sẽ thực hiện những kiến thức đã học và kinh nghiệm đã trải qua.
    Hoàn cảnh kinh tế, chính trị nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng lúc đó gặp nhiều khó khăn. Về chính trị, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung và Tây Nam Nam Bộ đang lên đỉnh điểm. Kinh tế bước vào thời kì khủng hoảng, viện trợ từ bên ngoài cắt giảm nhiều, trật tự xã hội trong thành phố hết sức rối ren. Trong thời bình mà riêng phường Vạn Mỹ (Cầu Tre) có 53 lối đi trong phường, phải rào bớt 36 lối còn lại 17 lối để dễ kiểm tra người qua lại. Ban đêm ở thành phố cũng như ngoại thành phải dùng 3 công cụ, lúc đó gọi là: cái gậy an ninh, cái đèn an ninh, cái kẻng an ninh. Người đi đêm là người ngay thẳng phải mang 1 trong 3 công cụ trên để phòng thân, gặp công an, bảo vệ đi tuần tra sẽ cho đi ngay, chẳng khác gì thời loạn lạc.
    Cảng Hải Phòng phải quân sự hoá, tất cả bộ đội vào làm bốc vác. Đại tá Võ An Đông, Tư lệnh F350, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hải Phòng được cử làm Giám đốc cảng. Còn thành phố, một số cán bộ cao cấp ở Trung ương cũng đề nghị xem xét có nên quân sự hoá thành phố không (gọi là quân quản như thời kì mới vào tiếp quản), hoặc phải giới nghiêm từ 10 giờ tối đến 5 giờ sáng.
    Trong lúc đó mọi việc tôi bàn với đồng chí Bí thư Bùi Quang Tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, mới được cử về làm Bí thư Thành uỷ. Đồng chí mới về, nên cần nắm tình hình thành phố, mọi việc điều khiển đồng chí Tạo phân cho tôi cứ làm bình thường.
    Cảng Hải Phòng khi chưa có vấn đề ?oNạn kiều? (Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước), công nhân bốc xếp ở cảng chủ yếu là người Việt gốc Hoa, rất quen với bốc vác hàng có trọng lượng 100 kg/kiện. Thế mà lúc đó cứ 3 tháng, có khi 1, 2 tháng, đồng chí Đỗ Mười, Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng) lại phải xuống cảng để giải toả cảng. Hàng bốc ra để rải rác khắp đường phố, nhất là khu bãi cổng cảng và vườn hoa Bon-nan. Lãng phí và ăn cắp rất ghê gớm. Chuyển hàng ra khỏi cảng còn để ở ngoài trời, trong cảng hàng hoá đã đến tiếp. Không bốc dỡ kịp, tàu nước ngoài có khi đậu tại cảng chờ giải phóng hàng tháng. Họ kêu ca, ta phải nộp phạt cho một ngày tàu chậm bốc xếp khoảng 13 kg vàng/ngày tùy theo tàu to nhỏ, hết sức lãng phí.
    Trong những lần giải toả cảng, Chính phủ cử các bộ trưởng, thứ trưởng, cán bộ thuộc các bộ liên quan xuống theo. Một số tỉnh thành có liên quan đến vận tải hàng hoá như Hà Nội, Quảng Ninh cũng đến Hải Phòng họp hàng tuần... Thành phố bận rộn, lại phục vụ các cuộc họp giải toả. Họp giải toả nhiều quá cũng nhàm, ít tác dụng. Anh Mười rất vất vả về công tác giải toả hàng mấy năm liền...
    Lúc đó ở Hải Phòng, mỗi đợt giải toả xong, đoàn xe Anh Mười rời Hải Phòng về Hà Nội, công nhân Cảng và nhân dân thành phố đùa tếu nói: ?oÔng Mười đã đi xa, mọi việc ở Cảng trở lại bình thường...?. Hàng hoá lại ùn tắc, bốc hàng lên không có chỗ để, tàu cứ điều vào, đỗ hết cầu tàu. Tàu vào sau phải đậu ở dọc sông Bạch Đằng, Cửa Nam Triệu ra đến phao số 0. Đêm đến đèn các tàu bật lên sáng như một thành phố trên biển.
    Đến khi công nhân bốc xếp là người Việt gốc Hoa rút về Trung Quốc hết, còn lại toàn công nhân Việt Nam sức yếu, chưa quen việc, xảy ra đổ vỡ mất mát rất nhiều... Bởi vậy trên mới có sáng kiến quân sự hoá Cảng cho bộ đội vào bốc thay công nhân. Nhưng tình hình không được cải thiện. Sau gần 2 tháng quân sự hoá, thì xảy ra vụ cháy kho 5, thiệt hại rất lớn, vì đây là kho vải. Ai cũng biết vải lúc bao cấp nó quan trọng đối với mọi người như thế nào. Chính quyền thành phố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn chuyện giải quyết hậu quả. Đã khó khăn lại thêm khó khăn. Vậy mà Trung ương cho Hải Phòng các loại vải bị cháy dở, hoặc đã bị vòi cứu hoả phun nước hoặc hoá chất vào, thì cả nước có câu ca dao:
    Cả nước đau lòng
    Hải Phòng phấn khởi (?)
    Đấy là bề nổi. Mọi nơi nghĩ như vậy, còn chúng tôi thì cực khổ suốt hàng mấy tháng trời, xử lí bao nhiêu công việc do cháy kho 5 sinh ra. Đồng chí Cao Văn, Phó Chủ tịch Uỷ ban phải bận vào công việc này 6 tháng liền mới giải quyết xong hậu quả.
    Nhưng cả nước không bị thiệt, vì kho của ta có mua bảo hiểm. Khi cơ quan bảo hiểm nước ngoài đến xác định thiệt hại để đền bù, số tiền đền bù vượt hơn thiệt hại chút ít.
    Sau khi đã giải quyết xong hậu quả cháy kho 5, Ban Thường vụ Thành uỷ họp, kiến nghị với Trung ương thôi quân sự hoá Cảng và giao việc tổ chức bốc xếp cho địa phương phụ trách. Chính phủ đồng ý ngay. Khi có quyết định, anh Bùi Quang Tạo bàn với tôi tổ chức lại việc bốc xếp Cảng. Hàng ngày sáng nào cũng giao ban tại Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Tạo và tôi cùng dự, anh Tạo rất say sưa với công việc này. Chúng tôi bàn nhau, đặt chỉ tiêu bảo đảm bốc một vạn tấn hàng/ngày. Chỉ sau hơn một tháng chúng tôi đạt mục tiêu đề ra, và những tháng sau từng bước tăng lên. Công nhân có thu nhập, trộm cắp giảm hẳn, tàu không phải chờ đợi, ta không bị nộp phạt. Mọi người hào hứng phấn khởi, và cũng kết thúc ách tắc trong khâu bốc dỡ.
    Xong việc giải toả Cảng anh Tạo và Thành uỷ, UBND thành phố, Cảng đều vui mừng, sự quản lí Cảng đã sang trang, kết thúc giai đoạn lịch sử ?ogiải toả?.
  7. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Trong quá trình thực hiện các chính sách quản lí kinh tế, kế hoạch tập trung, tôi có rất nhiều suy nghĩ về cách quản lí của ta. Làm thế nào để xây dựng được cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cho dân giàu lên, không thiếu thốn như hiện nay? Làm thế nào cho ?odân giàu, nước mạnh?, nghe khẩu hiệu này khi tôi mới nói ra, đã có người phản đối. Thực lòng ai cũng muốn khá giả, nhưng nói chữ ?ogiàu? hình như ai cũng coi là mất lập trường, rất kiêng kị. Có đồng chí cán bộ cao cấp còn uốn nắn lại thành: ?oNước giàu, dân mạnh?. Tôi buồn cười, nhưng không dám cười, chỉ lắng nghe.
    Có lần xuống xã, một đồng chí bí thư xã mời tôi về nhà chơi. Vừa vào đến sân đồng chí ấy nói: ?oTôi rất tự hào báo cáo với đồng chí Bí thư Thành uỷ: Trên 30 năm tham gia cách mạng, đến nay tôi cũng chỉ có một gian nhà tranh, vách đất, và cái giường 3 xà...?. Tôi hiểu ý đồng chí muốn nói mình liêm khiết. Tôi buột miệng: ?oTôi tưởng đồng chí khoe với tôi là cả xã đồng chí đều có nhà xây, có tiện nghi... và đồng chí cũng như vậy thì mới đáng lự hào. Chứ hoà bình bao nhiêu năm rồi mà vẫn nghèo như thế này là chúng ta dốt, ai còn theo chúng ta, nói gì đến xây dựng Chủ nghĩa xã hội...?.
    Tôi chậm được ra nước ngoài. Tháng 9-1974 lần đầu tôi thăm Quảng Châu và Hải Nam Trung Quốc. Tháng 8-1978 sang Nhật bản, tháng 10-1980 sang Liên Xô. Ba cuộc đi ra nước ngoài giúp tôi có sự so sánh và cách nhìn vấn đề khá lí thú.
    Tôi sang Trung Quốc thời kì đang cách mạng văn hoá rất mạnh ở Trung ương. Nhưng ở Quảng Đông, đồng chí Triệu Tử Dương, Bí thư Tỉnh uỷ thì làm khác, chỉ tập trung làm kinh tế, còn cách mạng văn hoá làm qua loa... Tôi xem nông dân Trung Quốc đào giếng trên các đồi ở Hải Nam để dự trữ nước tưới cho lúa. Lúa Hải Nam rất tốt do không làm theo các Công xã Trung ương. Đoàn chúng tôi được tiếp đón rất trọng thị...
    Rồi tôi thăm Thành phố Yokohama của Nhật do Thị trưởng Thành phố Asô-ka-ta mời. Sau một tuần tham quan nghiên cứu tôi thấy phong cách làm ăn của Nhật thiết thực, lời nói đi đôi với việc làm. Những nơi tôi được tiếp mục sở thị đều đẹp hoặc bằng trên ti-vi giới thiệu. Tinh thần khắc phục sau động đất của Thành phố Yokohama thật xúc động, đáng cảm phục. Tất cả đều hằn sâu trong kí ức tôi.
    Năm 1980 tôi đi hội thảo khai thác vùng Si-bi-ri Liên Xô, ở Kha-ba-rốp, thủ phủ Si-bi-ri, do đồng chí Trần Phương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch làm trưởng đoàn. Đoàn viên có đồng chí Phan Văn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Hiệp, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, cùng một số Thứ trưởng và chuyên viên cấp vụ của một số ngành Trung ương. Máy bay đưa thẳng đoàn từ Hà Nội đến Kha-ba-rốp, hết gần 7 giờ. Qua eo biển Nhật Bản, được 2 máy bay khu trục của Nhật Bản lên ?onghênh tiếp?, hai bên cánh đeo 2 quả tên lửa sơn vàng chói.
    Lần đầu tiên được sang Liên Xô, tôi nghiên cứu khá tỉ mỉ. Đặc biệt ở Kha-ba-rốp, tôi xuống các hộ nông dân tập thể, có gia đình chỉ còn các cụ già ở nhà, con cái đi lao động ở nông trường. Tôi hỏi thăm cuộc sống của các cụ hàng ngày, được biết các cụ chỉ ăn bánh mì với bơ, khoai tây. Riêng nho rất nhiều. Nhà ở xếp gỗ thành tường, mái lợp da thú như những cái lều, cái hầm... Chúng tôi trao đổi riêng với nhau: Nhân dân Liên Xô thế này mà giúp đỡ Việt Nam mỗi năm hàng tỉ rúp vàng, tương đương một tỉ đô la Mỹ, điều đó thật đáng suy nghĩ. Còn hội thảo chẳng đi đến kết quả rõ rệt. Các đồng chí Bộ Ngoại thương Liên Xô phát biểu rất bảo thủ, không những thế còn tỏ thái độ uốn nắn Việt Nam... Sau cuộc hội thảo, tôi có rất nhiều băn khoăn về kinh tế Liên Xô lúc đó...
    Với tất cả những gì hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, tôi suy nghĩ xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế và xã hội cho thành phố Hải Phòng mà tôi đã ấp ủ từ lâu. Nhưng tôi tự nhủ phải thận trọng, nhất là đối với Bí thư Bùi Quang Tạo, một uỷ viên Trung ương từ khoá II, hơn tôi 16 tuổi. Anh cũng bị tù trước 1945. Trong một thời gian rất ngắn làm việc, anh em tỏ ra ?oý hợp tâm đồng? rất dễ làm việc. Công việc tôi đề xuất anh Tạo ủng hộ rất nhanh. Còn ý kiến anh nêu ra tôi chấp hành nghiêm chỉnh, nếu có cái gì cần bàn thêm anh cũng nghe theo ý tôi.
    Vấn đề đầu tiên là an ninh trật tự, ổn định đời sống nhân dân. Còn các vấn đề kinh tế xã hội, văn hoá, giáo dục. tôi đã hình thành trong các bản dự thảo, tùy theo tình hình, thời cơ sẽ đưa ra Ban Thường vụ hoặc Thành uỷ bàn. Những vấn đề này trong các buổi giao ban hàng tuần giữa Bí thư và Chủ tịch Thành phố vào chiều thứ 7, sau khi kết thúc những việc chính, tôi đưa vào câu chuyện ngoài, nói với Bí thư để từng bước tạo sự nhất trí giữa 2 cán bộ chủ chốt của Thành phố, về con đường đi lên CNXH.
    Trong 30 tháng làm bí thư Thành uỷ Hải Phòng, cứ đến chiều thứ 7 giao ban xong, anh Tạo về Hà Nội, vì gia đình anh ở Hà Nội cả, chỉ có một người phục vụ ăn uống là ở Hà Nội xuống, còn lái xe cũng do Hải Phòng cử. Dù giao ban xong sớm 5, 10 phút; tôi ra về để anh về Hà Nội, nhưng anh bảo tôi: ?oChưa hết giờ..., ở lại bàn thêm?. Chúng tôi ở lại nói chuyện quốc sự mà hai anh em cùng quan tâm...
  8. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Việc đầu tiên tôi làm là xoá bỏ các rào dậu của một số phường, để các ngõ ngách thông thoáng cho dân đi lại bình thường, tăng cường lực lượng kiểm tra của bộ đội, công an, tự vệ về ban đêm, tổ chức phục kích một số bọn trộm cắp có tổ chức với lực lượng chiến sĩ ở các đồn công an Máy Chai, dọc sông Cấm. Ba công cụ ?oan ninh? thời chiến được xoá bỏ. Tôi trực tiếp vào trại giam xem xét 12 tên tù tử hình còn giam giữ nhiều năm ở trại giam mà không thực hiện án. Có tên đã trốn tù, mất bao công sức truy tìm mới bắt lại được. Qua đọc hồ sơ tội ác của bọn chúng, và trực tiếp gặp một số tên để cân nhắc, tôi bàn với anh Tạo đề nghị ************* (lúc đó là anh Trường Chinh) và Ban Bí thư giảm tội cho 6 tên xuống chung thân, còn 6 tên gian ác nhất cho thi hành án. ************* và Ban Bí thư đồng ý, giảm án cho 6 tên, còn 6 tên tàn ác nhất đã giết 2 người trở lên để cướp của... cho xử ngay trong một tháng.
    Thành phố tổ chức thi hành án tên đầu tiên để rút kinh nghiệm. Anh em Sở Công an và cơ quan thi hành án đem phạm nhân đến Tràng Cát, xa thành phố khoảng 6 km, bắn vào lúc 5 giờ sáng, chỉ có vài chục người đến xem, tác dụng giáo dục rất ít... Tôi nhắc các đồng chí, những tên xử tiếp, phải đem đến Nhà hát nhân dân xử cho toàn thành phố xem. Gọi 600 tên tiền án, tiền sự ngồi chung quanh nơi hành án, còn nhân dân đứng vòng ngoài. Xử vào lúc 7 giờ sáng, thông báo cho nhân dân biết trước đến xem. Nhân dân kéo đến xem tới hàng vạn người, đứng cả đường ngoài sông, ngăn cách với Nhà hát nhân dân. Sau vụ xử có những tên ?otiền án, tiền sự? đái cả ra quần, có tên sợ quá chết ngất đi. Quần chúng đi xem, hả hê, thấy pháp luật Nhà nước nghiêm minh. Khi công bố tội trạng tên tử tội, có người nói: ?oTên này phải bắn đến 3 lần mới đúng? hoặc ?ophải xử bằng hình thức cho dân tùng xẻo chúng hoặc phải lăng trì theo kiểu cổ điển của phong kiến mới hả dạ?. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng không nên xử ở Nhà hát nhân dân, nên chọn một chỗ khác. Có người còn làm ca dao đả kích cho thêm sức mạnh thuyết phục:
    ?oBiến nơi văn hoá thành nơi pháp trường...?
    Nhưng tôi nói với Thành uỷ và cán bộ chủ chốt là trong tình hình đặc biệt, phải có biện pháp tốt để giáo dục rộng rãi nhân dân. Chế độ ta nhân đạo, bắn một người để cứu hàng vạn người. Người xưa có câu ?oSát nhất nhân, thiên vạn nhân cụ?. Việc ngăn ngừa tội phạm phải được giáo dục, răn đe, ngắn ngừa từ gốc... Theo tôi lúc này, nếu Nhà hát lớn thành phố dựng được bức tường tránh đạn lạc, còn 3 tên tội phạm sẽ xử tiếp ở Nhà hát lớn mới có tác động tốt hơn cho cả thành phố và các tỉnh lân cận.
    Nhưng thế cũng là đủ, còn 3 tên nữa cho xử tiếp ở Nhà hát nhân dân, giải thích cho người làm ca dao, thấy hết ý nghĩa việc làm của thành phố ?oquang minh, chính, đại? để họ đồng tình. Thành uỷ và UBND Thành phố hi vọng rằng từ nay về sau không còn phải xử đại hình ở nơi văn hoá này nữa. Quả là từ đó đến khi tôi rời khỏi Hải Phòng không còn án tử hình.
    Tình hình trật tự trị an dần dần tốt lên, trộm cắp giảm hẳn. Nhưng vệ sinh đô thị chưa tốt, cuộc sống của dân, nhất là nông thôn, ?otháng ba ngày tám? thành phố phải phân chia cán bộ xuống xã để chống đói cho nông dân... Lúa chín nông dân không chịu thu hoạch, thành phố phải huy động cán bộ công nhân viên chức đi gặt giúp. Lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và khu phi nông nghiệp rất khó khăn. Do đó, một mặt phải đi mua lương thực ở miền Nam, mặt khác tìm cách khuyến khích nông dân tăng vụ, trồng màu, rau khoai chống giáp vụ... biết bao công việc đặt ra cấp bách.
    Tôi quyết định trước hết phải xuống với nông dân, đi vào thực chất xem tại sao trên đồng ruộng vựa thóc, một năm hai vụ chiêm mùa, xen một vụ mầu mà cứ đói triền miên. Những năm trước, tôi xuống theo dõi nông nghiệp cũng rất sâu, chứ không phải ?ocưỡi ngựa xem hoa?. Tôi nghĩ do quản lí, nếu có cày bừa máy vào làm, có giống mới... chắc năng suất có thể lên cao. Nhưng cày bừa máy, khoa học kĩ thuật, giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu...tất cả hợp lực hỗ trợ mà năng suất vẫn tụt. Có nơi ngày công 300gam/ngày. Quê tôi đồng đất Hải Dương ?oruộng tốt, cau sai?, không chua mặn, cũng vậy.
    Tháng 9-1977, cụ thân sinh ra tôi mất. Tôi đưa cụ ra cánh đồng loại nhất đẳng điền, lúa sắp chín mà trông như cỏ may. Khi tôi còn nhỏ, loại ruộng này, nhà tôi cày cấy bình thường cũng được 100 kg/sào. Nay chưa chắc được 40kg/sào. Tôi hỏi các bậc lão nông tri điền họ cũng nói như vậy. Tôi nghĩ tất cả do khâu quản lí, khi nào có điều kiện tôi sẽ đề xuất thay đổi cách quản lí mới xem sao.
    Tôi đi kiểm tra tất cả các huyện ngoại thành, từ những hợp tác xã làm ăn giỏi như Phục Lễ huyện Thủy Nguyên, Cổ Am huyện Vĩnh Bảo. Có cán bộ được nhân dân tín nhiệm như đồng chí Công, Bí thư Đảng uỷ xã Phục Lễ, có năng lực, có uy tín. Đánh một hồi trống họp Đảng bộ là 100% đảng viên đến họp. Họp hợp tác xã cũng vậy, xã viên đến đủ 100% trừ người ốm đau nặng. Thế mà năng suất cũng thất thường, ngày công cũng không khá, chỉ được trên 1 kg/ngày. Xem ra xã viên làm nhanh cho xong công việc hợp tác xã, còn công sức tập trung vào ruộng 5% và đi bắt tôm cá ngoài sông, biển, hoặc đi buôn bán lặt vặt. Kinh tế hợp tác xã chỉ cung cấp khoảng 20% cho cuộc sống của gia đình họ, bởi vậy họ phải bươn chải bên ngoài là chính.
  9. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Một hôm tôi xuống xã Hoà Nghĩa thuộc huyện An Thuỵ, xã lớn gần 600 ha, giáp với con đường 14 ra Đồ Sơn (nay là đường 353). Tôi vào thăm một số gia đình, thấy nhà nào cũng đói. Tôi đến một gia đình có 3 cháu đang đói, nằm ở trên giường. Tôi hỏi: ?oBố mẹ cháu đi đâu??. Các cháu trả lời: ?oBố mẹ chúng cháu ra bãi biển bắt tôm, cá về bán đong gạo?... Đồng chí Bí thư, Chủ tịch, Chủ nhiệm hợp tác xã, cùng đi với tôi cho biết: ?oXã có đất canh tác 500 ha, nhưng năm nào cũng không cày cấy hết, bỏ hoang cho cỏ năn mọc trên dưới 100 ha. Nông dân không cấy vì thu nhập thấp, lúa chín cũng không chịu đi thu hoạch, bỏ ruộng ra bãi biển kiếm sống. Tôi hỏi: ?oCác cháu bị đói là tại ai??. Đồng chí thì trả lời do nhà thiếu lao động, bố mẹ không chịu lao động cày cấy. Đồng chí Bí thư tự nhận là tại xã quản lí kém v.v.. Tôi nói: ?oLà tại tôi, tại Chủ tịch thành phố...?. Các đồng chí nhìn tôi tỏ vẻ sợ! ?oTôi nói thật đấy. Tôi sẽ cho lái xe về ngay nhà lấy mấy cân gạo cho các cháu, nấu cho các cháu ăn kẻo bị đói lả?. Các đồng chí vội ngăn lại, bảo xã có gạo. Rồi đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã vội về xuất kho lấy gạo nấu cơm cho các cháu. Mấy hôm tiện đường, tôi rẽ vào xã Hoà Nghĩa thì được biết thóc quỹ hợp tác xã còn, các đồng chí xuất cho những gia đình khó khăn vay. Thành phố hỗ trợ một ít, qua vụ đói. Các xã khác ngoại thành cũng làm tương tự, nhất là huyện Tiên Lãng và huyện An Lão, huyện thuần nông rất nghèo, gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống.
    Từ những vấn đề thực tế của nông dân, với cương vị Chủ tịch UBND thành phố, tôi đề xuất thay đổi cách quản lí nông nghiệp. Tôi đem vấn đề bức xúc này bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh tỏ ý đồng tình. Hai anh em trao đổi ngày này qua ngày khác, những buổi chiều thứ bảy hàng tuần, ngoài những việc phải giải quyết ngay, chúng tôi tập trung suy nghĩ và trao đổi vấn đề ?okhoán hộ?. Anh Tạo nói: ?oKhó nhất là anh Trường Chinh. Vụ khoán chui của anh Kim Ngọc tỉnh Vĩnh Phúc, lúc đó tôi ở Ban Tổ chức Trung ương thấy găng lắm!? Tôi đề nghị anh ở Hà Nội thăm dò xem liệu Vĩnh Phúc làm cách đây 15 năm rồi, nay có thể khác không. Tôi nói vui: ?oVạn vật biến chuyển, con người tư duy cũng phải biến chuyển. Nhất là lúc này lương thực không đủ ăn, ruộng nông dân bỏ hoang, ta phải vay đô-la nhập lương thực, nhập phân bón bao nhiêu dân vẫn đói, cán bộ công nhân viên phi nông nghiệp chỉ ăn mì. Rõ ràng có ruộng cấy ra thóc, mà không có gạo ăn?. Anh Tạo suy nghĩ, tỏ ra rất buồn. Tôi tin tưởng anh Tạo đã đồng tình với tôi. Anh nói chúng ta sẽ liệu và anh bảo tôi: ?oAnh thân với anh Ba, anh thăm dò ý anh Ba xem. Còn tôi sẽ thăm dò những anh em thân quen anh Trường Chinh?. Chúng tôi đi đến thống nhất tạm thời cho khoán màu ở ngoại thành, lấy xã Hưng Đạo làm thí điểm... rồi từng bước ta mở rộng sau. Còn những nơi khoán chui ruộng như Tiên Lãng, ta lờ đi, nhắc báo Hải Phòng không phê bình Tiên Lãng quá đà trệch hướng, Huyện cho khoán màu, xã lợi dụng khoán cả lúa. Đồng chí Lựu Bí thư Huyện uỷ thấy báo Hải Phòng phê bình, lo quá, đồng chí thanh minh với tôi. Tôi bảo cứ yên lâm, đừng cấm nông dân. Chúng ta sẽ xin với trên cho làm thử khoán lúa tới người lao động và nhóm lao động...
    Trong lúc lương thực thiếu, trên cung cấp không đủ, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng một số cán bộ của Văn phòng UBND thành phố vào miền Nam chạy gạo, bằng cách đổi hàng công nghiệp. Chúng tôi đến tỉnh Cửu Long kết nghĩa, được tiếp đón trọng thị, nhưng khi bàn đến mua thóc đổi hàng công nghiệp thì rất khó khăn. Trong lúc đồng chí Sáu Ức, Chủ tịch UBND tỉnh đang bàn giao để đi làm chuyên gia bên Campuchia, giao cho đồng chí Tuấn, Phó Chủ tịch bàn với chúng tôi. Tôi và đồng chí Hưng bàn đi bàn lại với tỉnh kết nghĩa, có cả đồng chí Văn Hiến tỉnh uỷ viên nguyên là Thành uỷ Hải Phòng làm Giám đốc sở nông nghiệp Cửu Long, nhưng đồng chí Phó Chủ tịch chặt chẽ quá. Tôi nghĩ chắc tỉnh cũng có khó khăn về lương thực, nên tôi đề nghị thôi không mua lương thực của tỉnh Cửu Long nữa. Về sau các đồng chí nghĩ sao không rõ, đồng chí Tuấn lại bán cho Hải Phòng 1.000 tấn thóc. Tôi nói với đồng chí Văn Hiến rằng, chúng tôi thông cảm, anh không nên áy náy về vấn đề này.
    Hôm sau Đoàn chúng tôi sang Hậu Giang, gặp đồng chí Chủ tịch Bảy Mạnh, đồng chí Đặng Toàn, Phó Chủ tịch, nguyên Chủ tịch thành phố Hải Phòng vào tăng cường cho Hậu giang. Chúng tôi chỉ bàn 2 tiếng đồng hồ, đồng chí Chủ tịch bán cho 2.000 tấn gạo bằng cách đổi hàng rất thuận lợi cho Hải Phòng.
    Kết quả mua được 2.000 tấn gạo và 1.000 tấn thóc. Chúng tôi ra về bằng đường bộ. Trong dịp đi công tác này, tôi gặp một số tỉnh để vừa học tập, vừa thăm dò việc ?okhoán? nông nghiệp. Có đồng chí rất bỡ ngỡ vì việc quá mới, có đồng chí trả lời: ?oChúng tôi phải tổ chức hợp tác xã xem sao đã. Chưa biết hợp tác xã ra sao, nói gì đến khoán?. Tỏ thái độ không đồng tình là Bến Tre và Thuận Hải, còn đa số trả lời chung chung: ?oCác anh cứ làm trước, nếu tốt chúng tôi sẽ làm?. Tôi chỉ dám trao đổi khéo léo, sơ sơ thôi, chứ không dám nói thẳng ra, vì vấn đề này vẫn là vấn đề ?oquốc cấm?.
    Trên đường về, chúng tôi làm việc với Khánh Hoà, đêm ngủ tại Cam Ranh. Bộ Tư lệnh Hải quân mời đến xem tàu ngầm Liên Xô. Sáng hôm sau trên đường về qua thành phố Nha Trang một sự cố đau lòng xảy ra: đồng chí Nguyên Văn Sinh, chuyên viên Văn phòng Uỷ ban bị nhồi máu cơ tim chết ngay trên xe trong lúc đang đi cùng với đồng chí Trịnh Thái Hưng. Chúng tôi đưa ngay đồng chí Sinh đến Bệnh viện Nha Trang, nhờ bệnh viện khám lại tử thi để xác định nguyên nhân. Đồng chí Sinh bị đau tim đã lâu. Khi đi vào miền Nam đồng chí Sinh đi bằng máy bay, đồng chí có cháu là bộ đội Hải quân nên kết hợp đi thăm cháu. Trước khi ra Bắc bằng đường bộ, tôi đã bảo đồng chí Sinh xem lại sức khoẻ rồi hãy đi. Đồng chí Sinh nói với tôi: ?oAnh yên tâm, sức khoẻ tôi khá rồi?.
    Tôi đến gặp đồng chí Hồ Ngọc Nhường, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh đề nghị giúp đỡ. Đồng chí Nhường giúp hết sức tận tình, chỉ thị cho bệnh viện làm mọi thủ tục, đóng cho một quan tài trong bằng kẽm, ngoài bằng gỗ, giải phẫu và làm vệ sinh tử thi đồng chí Sinh rất chu đáo. Chúng tôi nghỉ lại một đêm ở thành phố Nha Trang, một đêm biết bao buồn bã, không ai ngủ, chỉ mong sao chóng sáng để đưa đồng chí Sinh về Hải Phòng. Sáng sớm hôm sau, đồng chí Hồ Ngọc Nhường và Văn phòng UBND tỉnh Phú Khánh tiễn chúng tôi với sự cảm thông sâu sắc về chuyến công tác gặp nhiều trắc trở. Đoàn chúng tôi ra về với một xe tang bí mật (xe khách do Khánh Hoà chở giúp) trên chở quan tài đồng chí Sinh và một vài cán bộ ngồi phía trước. Còn xe tôi lúc đi trước, lúc lùi lại sau để bảo đảm thời gian và tốc độ đi vừa phải. Nó là cái xe Volga mầu mận tím trước của Giáo sư Tôn Thất Tùng (Giáo sư mua xe mới, chiếc xe cũ cho Hải Phòng). Đoàn xe đến Lăng Cô thì xe của tôi bị chết máy, đồng chí Chức lái xe chữa mãi không được. Tôi bàn với anh Hưng gọi điện cho anh Trần Hoàn, Uỷ viên Thường vụ Bình Trị Thiên, đề nghị cho xe đến đón, và kéo xe của tôi về Huế. Đồng chí Trần Hoàn lập tức mượn xe của đồng chí Vũ Thắng, Chủ tịch UBND tỉnh đến đón tôi, và cho xe kéo chiếc xe hỏng về Huế. Thật là:
    ?oPhúc bật trùng lai,
    Hoạ vô đơn chí!

  10. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Về đến Huế, đồng chí Vũ Thắng đã đón tôi tới khách sạn và mời cơm toàn đoàn. Chúng tôi giữ bí mật về chiếc xe khách chở hàng ?ođặc biệt? đi theo. Vì cả đêm chiếc xe đó phải đỗ ở sân khách sạn Sông Hương, ngại nói ra anh em khách sạn lại sợ, sinh ?orách việc?, cứ lặng yên không ai nói gì cả.
    Hôm sau chúng tôi cảm ơn, chào tạm biệt đồng chí Vũ Thắng, đồng chí Trần Hoàn, về Hải Phòng. Nhưng các đồng chí ở Huế cũng biết là chiếc xe khách trong chở quan tài, thấy chúng tôi không nói gì, các đồng chí ?otế nhị? cũng không hỏi. (Sau này đồng chí Vũ Thắng và đồng chí Trần Hoàn có nói lại với tôi). Viết đến đây, tôi muốn một lần nữa cảm ơn ba anh: Hồ Ngọc Nhường, Vũ Thắng, Trần Hoàn. Nhưng ba anh đã qua đời! Rất buồn và nhớ các anh, những ?ochiến hữu? không bao giờ quên nhau. Nhất là anh Trần Hoàn, một con người năng động, sôi nổi, tình cảm... luôn coi Hải Phòng là quê hương thứ hai của mình.
    Đến 15 giờ cùng ngày, đoàn xe chúng tôi về đến Hải Phòng. Gia đình đồng chí Sinh và Văn phòng Uỷ ban, Văn phòng Thành uỷ, các cơ quan, bạn bè thân thuộc đã đón đồng chí Sinh ở bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. Vừa buồn vừa tủi, vừa mừng lẫn lộn. Những ngày qua chị Sinh và các cháu lo lắng không biết bác Thành, bác Hưng... có mang được bố các cháu về không? Hay phải mai táng tại Nha Trang? Hôm sau, đám tang đồng chí Sinh được cử hành long trọng. Thi thể đồng chí do Khánh Hoà làm vệ sinh và ướp lạnh tốt, nên hình dáng vẫn như người nằm ngủ. Cả gia đình đều gặp tôi cảm ơn. Tôi bảo đây là trách nhiệm, là tình cảm của đồng chí với nhau, chỉ khi không còn điều kiện mới phải bó tay.
    Một thời gian đi công tác dài ngày ở các tỉnh phía Nam, tôi có thêm những suy nghĩ mới về đất nước. Trước đây so với 3 nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Liên Xô thì Việt Nam vẫn có ưu thế hơn. Thế mà sau hơn 5 năm thống nhất đất nước, dân vẫn cứ nghèo, thành phố Hồ Chí Minh mấy năm đầu thấy khá hơn các tỉnh phía Bắc nay xuống cấp quá nhanh, xe máy hết dần, chỉ còn xe cũ với loại Honda 50 là phổ biến, xe đạp xuất hiện nhiều. Từ ăn mặc, đến nhậu nhẹt giảm hẳn. Quần áo nâu sồng, dép lốp xuất hiện.
    Các tỉnh miền Trung còn khó khăn hơn. Đến Phan Rang, nóng ơi là nóng! Đồng chí Thư kí thấy tôi mồ hôi nhễ nhại, mệt mỏi, tìm mãi trong cặp ra đưa cho tôi một gói sâm chè cao ly và một cốc nước, nói khẽ: ?oAnh vào góc kia uống?. Đồng chí hướng dẫn tôi xé bao chè sâm, dốc vào miệng, uống cho đỡ mệt. Đúng là lần đầu tiên tôi uống chè sâm, uống xong thấy dễ chịu thật. Tôi suy nghĩ làm sao để dân giàu lên, mình được uống chè sâm với dân thì sướng biết bao! Phải làm và làm cho được.
    Về đến Hà Nội, buổi trưa nắng hè oi ả, lại thấy rặt xe đạp là xe đạp, với dép cao su. Nhiều người còn mặc quần áo vá. Tôi nghĩ bao giờ thì lên đến chủ nghĩa xã hội? ?oPhải quyết tâm làm cho nó đến...?
    Là người Hải Phòng không ai không hiểu Hải Phòng là thành phố Cảng, thành phố công nghiệp, và đường lối chung phải ưu tiên phát triển công nghiệp. Nhưng giữa lúc ngành công nghiệp đang đứng trước những thách thức lớn, công nghệ lạc hậu, vốn không có, nguyên liệu nhập về không đủ, phải chia nhau từng tấn sắt thép, mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cũng quên Hải Phòng là thành phố công nghiệp, nên những năm cuối thập kỉ 70, phân chia nguyên liệu sắt thép chỉ ngang Quảng Ninh và Thái Bình. Vậy Hải Phòng phải tìm hướng đi nào cho phù hợp và có hiệu quả nhất, không giáo điều, máy móc? Chúng tôi tạm thời vẫn duy trì những ngành công nghiệp khó khăn và phát triển những ngành công nghiệp có điều kiện, chờ thời. Khởi đầu bằng nông nghiệp lúc đó là thuận nhất, vì ngân sách trống rỗng, lương thực Nhà nước cấp có hạn. Đầu tư vào nông nghiệp là nhanh nhất. Sau 1 vụ khoảng 3, 4 tháng là có ăn. Thực tế phương hướng này rất đúng và đã giải quyết được nhiều khó khăn cho thành phố. Ấy thế mà lại có người cho Hải Phòng đi chệch hướng. Đến khi Hải Phòng được Trung ương đồng tình, ủng hộ và khuyến khích, thì họ lại tức tối, chống phá. Thế mới biết vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng đã là khó, nhưng vượt qua rào cản của những người thiển cận, bảo thủ còn phức tạp hơn nhiều.
    Hiện lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên thiếu quá, hết 10 ngày đầu tháng đã không có gạo bán. Trong khi tầu gạo đã đến Cảng. May gặp anh Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Giao thông vận tải kiêm Bộ trưởng Dầu khí (lúc đó là Bộ, sau này là Tổng cục Dầu khí), Thành uỷ và UBND đề nghị anh Thiện tạm xuất cho ít gạo để bán cho cán bộ, công nhân. Anh Thiện đồng ý xuất ngay cho Hải Phòng 2.000 tấn. Một tháng sau anh Thiện xuống Văn phòng Uỷ ban, vừa bước vào phòng làm việc của tôi, anh vừa nói: ?oCó thằng Bộ trưởng nào như tao không? Kiêm hai Bộ trưởng mà không cho lấy hai vợ. Có thằng Bộ trưởng nào như tao phải đến Chủ tịch thành phố hàng ngày? Chủ tịch bảo xuất gạo, phải xuất gạo ngay. Lập trường giai cấp ở chỗ đó đấy! Thế mà họp Chính phủ họ bảo tao xuất vô nguyên tắc, chưa nhập kho lương thực chưa có phiếu xuất kho đã xuất cứ xồn xồn như các bà hàng cá. Phê bình tao, tao bảo nếu để công nhân đói, họ lên kéo sụp ?ocổng nhà đỏ? này thì các anh không yên đâu. Để tôi làm Thủ tướng 15 phút, tôi sẽ giải quyết xong các vấn đề rắc rối, trì trệ của các anh. Tao nói xong, không họp nữa ra về, xuống thẳng Hải Phòng vào nói cho cậu biết...? Tôi chỉ còn biết cảm ơn anh đã gánh chịu những lời phê bình cho nhân dân Hải Phòng, chứ không dám bình luận gì thêm...

Chia sẻ trang này