1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Làm người là khó - Đoàn Duy Thành

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi chimawan, 11/05/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tôi ra về rất phấn khởi, báo cáo lại với anh Phạm Hùng và anh Võ Văn Kiệt. Hai anh phân công tôi phụ trách. Tôi đề nghị: Bộ Ngoại thương làm cũng được, nhưng mặt hàng vàng để Ngân Hàng nhà nước làm thì phù hợp với chuyên ngành hơn. Anh Phạm Hùng bảo tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, lúc đó chưa gọi là ?oThống đốc?. Tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, anh Châu nói: ?oĐây là vấn đề mới, nên để bên Bộ Ngoại thương làm. Anh là Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, phụ trách trực tiếp tốt hơn...?. Tôi về báo cáo lại anh Hai Hùng. Anh Hùng, anh Sáu Dân cùng nói: ?oÔng Thành và Bộ Ngoại thương làm là hợp lí...? Tôi phải nhận và tổ chức bộ phận chuyên trách nhập vàng do đồng chí Đinh Phú Định, thứ trưởng, đồng chí Uyển, Vụ trưởng xuất nhập khẩu giúp tôi thực hiện cụ thể. Để lấy thực tế chứng minh, tôi giao đồng chí Lạc, Tổng Giám đốc Tổng công ti xuất nhập khẩu Kĩ thuật dầu khí (Petechim) nhập nhanh một chuyến để rút kinh nghiệm.
    Công ti đã nhập lần đầu từ Hồng Kông, chở bằng máy bay 15 tấn vàng 999 JSC của Thuỵ Sĩ về Thành phố Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân đến xếp hàng mua từng thỏi vàng từ 5 kg đến 50 kg về chế biến ra từng cây vàng bán lẻ. Chuyến đầu lãi tới 3 lần, có tiền trả nợ chuyến trước và nhập chuyến sau, một phần nộp vào ngân sách. Mọi người yên tâm là nhập vàng có lãi lớn cho Ngân sách Trung ương và địa phương. Sau đó mở rộng ra cả nước nhưng chủ yếu vẫn là Thành phố Hồ Chí Minh và các công ti xuất nhập khẩu các tỉnh phía Nam. Còn các tỉnh phía Bắc chỉ có Hà Nội xin nhập 10 tấn. Nhưng thủ tục vay tiền, mở L/C cũng như giao dịch chậm trễ, phải hết 6 tháng mới nhập được 900 kg từ Hồng Kông, bằng tàu thuỷ về Hải Phòng. Đồng chí Vũ Ngọc Phương thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Trần Tấn, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội. Khi chở vàng về Hà Nội, các đồng chí sợ đi đường số 5 bị cướp, các đồng chí phải cử công an áp tải đi qua Nam Định, qua đường số 1 về Hà Nội để đánh lạc hướng bọn trộm cướp dọc đường số 5. Về Hà Nội ban đêm, nên để tạm ở văn phòng UBND Thành phố một đêm, làm cho một số người tò mò, thắc mắc tại sao không đem gửi Ngân hàng ngay mà lại để ở văn phòng UBND Thành phố...
    Khi tôi biết việc này, tôi bảo đồng chí Vũ Ngọc Phương: ?oCó gần một tấn vàng, cho vào cái xe U-oát chạy một mạch ban ngày về Hà Nội, rồi đem đến Ngân hàng gửi, làm gì phải đi đêm, qua Nam Định về Hà Nội, vòng vo tốn thì giờ, lại sinh thắc mắc cho một số người... Chú là người cảnh giác cao độ, thời bình mà cứ làm như thời chiến...?.
    Các công ti xuất nhập khẩu miền Bắc cũng được thông báo, nhưng vì không kinh doanh quen, còn sợ mọi thứ, nên không dám nhập. Ngay Hải Phòng, tôi gọi báo mấy lần, nhưng cũng không dám nhập vàng. Riêng các tỉnh phía Nam chạy xô ra Bộ Ngoại thương xin quota nhập vàng. Để thuận tiện cho Thành phố Hồ Chí Minh, anh Sáu Dân kí uỷ nhiệm cho đồng chí Nhật Hồng, Giám đốc Vietcombank Sài Gòn, kí giấy phép nhập cho thành phố là 50 tấn. Còn tỉnh khác vẫn phải ra Bộ Ngoại thương xin quota. Tính đến tháng 4-1990, trước khi tôi thôi giữ chức Bộ Trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, cả nước nhập được khoảng 160 tấn, tính ra USD Ngân sách Trung ương và các tỉnh, thành phố có nhập vàng lãi khoảng hơn 1 tỉ USD góp phần rất quan trọng vào chống lạm phát, từ 780% năm 1986, năm 1990 còn 67% giảm hơn 10 lần.
    Xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
    Sau 8 tháng thực hiện Nghị quyết 2 của Trung ương, tôi thấy xu hướng và thực hiện bước đầu có kết quả, tôi đề nghị Trung ương cần ra một Nghị quyết toàn diện chuyển kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế Thị trường định hướng XHCN.
    Hội nghị liên tịch Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng định vào ngày 1 và 2-2-1988. Đồng chí Phạm Hùng giao cho tôi cùng 6 Bộ trưởng trong ngành và một số chuyên viên kinh tế chuẩn bị. Tôi đã chủ trì xây dựng một phương án, có mô hình để dễ chỉ đạo.
    Mô hình này thể hiện chuyển dần từng bước, toàn diện của cả nền kinh tế sang kinh tế thị trường. Việc chuẩn bị rất công phu. Khi được quyết, bất cứ đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị nào cũng có thể chỉ đạo theo mô hình đó được. Nó vừa đồng bộ, dễ nhìn thấy diễn biến tình hình qua ngày tháng cập nhật, các ngành các cấp không lúng túng. Thực sự tôi rất phấn khởi khi đưa ra Hội đồng Bộ trưởng tham gia. Các thành viên Chính phủ đều hoan nghênh, anh Phạm Hùng phân công tôi báo cáo dự thảo Nghị quyết 4 này trước hội nghị liên tịch (gọi là liên tịch nhưng thực chất là Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng).
    Ngày 1-2-1988 tôi trình bày xong, Hội nghị có 14 uỷ viên Bộ Chính trị họp, 12 đồng chí phát biểu đồng tình, đồng chí Nguyễn Văn Linh sơ kết ý kiến của 12 đồng chí đã phát và phát biểu bổ sung, anh Linh cũng đồng tình với dự thảo Nghị quyết 4.
    Đến cuối giờ chiều ngày 1-2-1988 anh Đỗ Mười phát biểu. Anh không đi vào đề án, anh phát biểu phê phán trực tiếp tôi, với những ý chính sau đây:
    - Một Phó Thủ tướng và 5, 6 Bộ trưởng không chịu đi cơ sở, cứ ngồi ở bàn giấy nghiên cứu mô hình nọ, mô hình kia để làm gì? Vấn đề mới quá, tôi đề nghị gác lại đến tháng 9-1988 sẽ bàn.
    Vân vân và vân vân, xoay quanh phê phán tôi.
  2. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Hội nghị nghỉ, hôm sau bàn tiếp. Tôi nghĩ vấn đề tôi và các Bộ trưởng trong khối đã tính toán bàn kĩ, được cả Hội đồng chính phủ thông qua. Dự thảo nghị quyết 4 mang tính lí luận cao và mô hình chuyển dịch nền kinh tế có cơ sở khoa học. Nghị quyết này tiếp nối Nghị quyết II rất có hệ thống. Nay đồng chí Thường trực Ban Bí thư đề nghị để tháng 9-1988 mới bàn, các đồng chí Bộ Chính trị cũng đồng ý, tôi thấy không còn cơ sở để làm việc có hiệu quả cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 đổi mới, có tầm sâu rộng, khắc phục nhanh khủng hoảng kinh tế, đưa kinh tế nhanh ổn định và phát triển. Tôi quyết định sẽ xin từ chức vào ngày hôm sau.
    Tối hôm đó tôi trao đổi kĩ với nhà tôi và đồng chí Ngô Hải thư kí của tôi về thái độ của anh Đỗ Mười. Anh Đỗ Mười không thực hiện được ý định loại tôi khỏi Ban Chấp hành Trung ương khoá 6, tôi lại còn làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, như vậy sẽ cản bước tiến của anh Mười. Nếu tôi từ chức vừa thoả lòng anh Mười và giữ được đoàn kết nội bộ, vừa cũng là tấm gương chung: Khi không còn điều kiện để thực thi nhiệm vụ thì nên rút lui cho người khác thay thế, mình làm việc khác, nếu hết việc thì về nghỉ, vì lúc này tôi đã 59 tuổi. Nhà tôi và chú Ngô Hải hiểu ý tôi và lòng anh Mười nên cũng đồng tình với tôi.
    Tôi viết đơn xin từ chức để đọc vào chiều mai 2.2.1988. Tôi dự kiến phát biểu bổ sung, sau đó sẽ đọc đơn xin từ chức.
    Sáng 2-2-1988 thế nào tôi cũng phải báo cáo đồng chí Tổng Bí thư và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng trước, để bảo đảm ý thức tổ chức, kỉ luật...
    Sáng hôm sau vào giờ giải lao, tôi báo cáo với anh Linh việc tôi xin từ chức để giữ gìn đoàn kết nội bộ. Anh Linh bảo tôi cần suy nghĩ thêm. Tôi nói đã suy nghĩ kĩ rồi. Anh Linh không nói gì thêm. Khi tôi báo cáo anh Hai Hùng, anh Hùng nói: ?oKhông nên, để bàn thêm?. Tôi báo cáo rằng đã suy nghĩ kĩ rồi. Tôi không thể làm việc tốt được nếu anh Mười còn cản trở. Tôi đề nghị anh cho phép tôi từ chức, anh Hùng hơi cười vui: ?oĐể xem xem...?.
    Khi tôi đọc đơn từ chức, hai anh mới cho là thật. Các anh cứ tưởng tôi bực tức với anh Mười nên nói vậy thôi. Anh Hùng còn bảo: ?oTôi tưởng anh nói đùa?. Vì khi đề nghị xin từ chức, thái độ tôi vẫn vui vẻ bình thường, không có thái độ tức giận gì cả, nên anh vẫn nghĩ tôi chỉ nói cho đỡ bực mình với anh Mười thôi.
    Khi tôi đọc đơn xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, hội nghị có khoảng hơn 60 người, họp ở Hội trường T78, tại thành phố Hồ Chí Minh, mọi người đều lắng nghe với vẻ bất ngờ. Sau đó, anh Linh đứng lên luôn, phê bình anh Đỗ Mười một cách nghiêm khắc, với mấy ý chính sau đây:
    -Ông Mười tưởng rằng Uỷ viên Bộ Chính trị là to lắm, muốn nói gì cũng được, muốn phê bình ai cũng được. Hồi tôi làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần vào Thành phố là ông Mười đòi gặp tôi. Nhiều lần tôi từ chối không gặp. Ông tưởng là Uỷ viên Bộ Chính trị muốn làm gì thì làm...
    Khi anh Linh dứt lời, anh Mười nói:
    -Tôi nói đó là tinh thần Bôn-xê-vích...
    Tôi xuýt nữa bật cười to...
    Tối hôm đó tôi sang chào anh Trường Chinh (Anh Trường Chinh đang nghỉ ở T78), đồng thời xin ý kiến anh về đôi câu đối, tôi định viết ở lăng cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh. Vì ngày hôm sau, 3-2 ngày thành lập Đảng, tôi xuống thắp hương tại nhà lưu niệm cụ Phó bảng và viết ngay tại đó cho có ý nghĩa. Nội dung:
    ?oThiên hồng địa tử đô Sinh Sắc
    Giải phóng sơn hà hiển Chí Minh?
    Đọc xong hai câu thơ và tôi nói thêm ý của nó, anh Trường Chinh nghe xong khen: ?oHay lắm! hay lắm! Khí phách lắm! Khí phách lắm!? Tôi yên tâm. Anh Trường Chinh mà Đảng ta và nhân dân ta thường gọi anh là: ?oAnh Thận? vì anh rất cẩn thận trong từng lời nói và bài viết, đối nhân xử thế, việc gì cũng thận trọng, nên mới được nhân dân và cán bộ đặt cho anh chữ ?oThận? làm tên gọi thân mật, nay anh đã khen thì tôi có thể yên tâm.
    Câu đối này tôi cũng đưa cụ Minh, một nhà ?ouyên thâm túc Nho? xem trước. Cụ Minh góp ý với tôi thay chữ ?ogiai? bằng chữ ?ođô?, chữ ?orực? bằng chữ ?ohiển?. Cụ giải thích chữ ?ođô? đắt nghĩa hơn chữ ?ogiai?, dù chúng đều có nghĩa là ?ođều?. Chữ ?ohiển? thay chữ ?orực? để khỏi hiểu lầm đối với người ít biết chữ Hán. Vì trong câu đối viết chữ ?orực? là bay lên; nhưng đọc mà không trông chữ viết thì nghĩ chữ ?orực? là ?orực rỡ?, hiểu sai ý, nên thay bằng chữ ?ohiển?. Tôi đồng ý với cụ Minh.
  3. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Năm 1987 mất mùa nên ảnh hưởng đến năm 1988. Lương thực lúc đó chỉ dựa vào sản xuất trong nước, tiền nhập lương thực không có, viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu về lương thực không đáng kể.
    Ảnh hưởng vụ mùa thất thu đã kéo dài đến năm 1988, nhất là những nơi mất mùa nặng như Thanh Hoá, Nghệ An. Tết âm lịch, đầu năm 1988, Thanh Hoá đã có hơn 100 người chết đói. Anh Phạm Hùng dự định về miền Năm ăn Tết, nhưng tình hình lương thực căng thẳng, anh ở lại Hà Nội ăn Tết, đến mùng 6 Tết mới vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày mùng 2 Tết anh đến thăm tôi. Vì không được báo trước, nên tôi về Hải Phòng. Sáng 4 Tết tôi đến chúc tết anh ở nhà riêng, anh bảo tôi: ?oMấy hôm nay ở lại Hà Nội lo gạo, lương thực cho Thanh Hoá và những tỉnh thiếu đói nặng. Nay đã hòm hòm, mốt tôi vào Thành phố.?. Tôi thấy anh vất vả quá.
    Mới làm Thủ tướng được hơn 6 tháng mà anh già hẳn đi. Hai anh em ngồi nói chuyện gần hết buổi sáng, hết chuyện nước, đến chuyện nhà, rồi lại đến chuyện tù Côn Đảo... Tôi thấy anh dáng vẻ mệt mỏi và buồn, đôi khi nói đến tình hình đói ở Thanh Hoá anh lại rơi nước mắt. Rồi anh nhắc lại chuyện tôi xin từ chức tuần trước. Tôi động viên anh rằng tôi vẫn ra sức làm việc, không vì xin từ chức mà nản việc. Anh bảo tôi: ?oTôi mừng vì anh vẫn giữ được thái độ bình thường. Việc anh từ chức là độc nhất vô song?. Tôi nói: ?oTôi xin từ chức là thực sự có lỗi với anh, vì anh mới làm Chủ tịch được hơn 6 tháng. Tôi từ chức có thể có người hiểu sai, mong anh thông cảm?. Anh nhắc lại một vài ý hôm họp và vài ý trách anh Mười. Rồi anh nói: ?oTôi hoàn toàn thông cảm với anh. Trong điều kiện này rất khó làm việc với anh Mười...?.
    Không ngờ ngày 6 Tết anh vào Thành phố Hồ Chí Minh ăn Tết với gia đình và thăm bà con bạn bè thân thiết, ngày mồng 8 Tết, một cơn đau tim đột ngột đã cướp đi người chiến sĩ cách mạng lão thành. Ngày xưa giặc Pháp kết án anh với án tử hình, sau giảm án đày ra Côn Đảo nhưng chúng không cướp được sinh mạng anh. Với sức khỏe tốt, được rèn võ, luyện ?ogồng trà kha?, nay anh đang say mê với công việc mới, đầy trọng trách, trong hoàn cảnh kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn, anh mất đi để lại bao thương tiếc cho nhân dân, cho Đảng. Tôi thực sự quý mến anh và anh cũng yêu mến tôi như những người ruột thịt thân thiết. (Tôi sẽ nói kĩ về anh ở chương ?ocác đồng chí Bộ Chính trị với Hải Phòng?).
    Anh Phạm Hùng qua đời, anh Võ Văn Kiệt làm quyền Thủ tướng, đến tháng 6-1988 Quốc hội họp bầu anh Đỗ Mười làm Thủ tướng.
    Tháng 3-1988 Bộ Ngoại thương sáP nhập với Uỷ ban hợp tác Lào - Kampuchia, do anh Đặng Thí làm Chủ nhiệm, Uỷ ban Hợp tác đầu tư với nước ngoài do anh Võ Đông Giang làm Chủ nhiệm. Bộ mới ra đời có tên là Bộ kinh tế đối ngoại do tôi làm Bộ trưởng.
    Còn tôi đến 2-5-1988 được chuẩn y miễn nhiệm cùng với hai đồng chí Nguyễn Ngọc Trìu, Nguyễn Văn Chính (Chín Cần), cũng không tuyên bố rõ lí do tôi xin từ chức, mà chỉ nói chung: cả ba người thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng để nhận nhiệm vụ khác. Tôi thấy viết thế nào cũng được, miễn là mình được thôi chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.
    Hôm đưa ba đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra Quốc hội phê chuẩn, tôi thấy anh Nguyễn Ngọc Trìu, hai tay vắt sau, vừa đi vừa suy nghĩ trong giờ giải lao. Tôi mời anh Trìu vào uống cà phê và bảo: Suy nghĩ làm gì cho tổn thọ, ?onhất đại vi quan, vạn đại vi dân?. Khi hai anh em ngồi uống cà phê, thấy có cảnh có tình, tôi làm 4 câu thơ tặng anh Trìu:
    ?oHai thằng miễn nhiệm uống cà phê,
    Thế sự xem ra vẫn ê chề.
    Dân đói, dân no còn lắm chuyện
    Việc nhà, việc nước vẫn còn mê?.

    Anh Trần Hoàn ngồi bàn bên cạnh, thấy tôi đọc thơ ngó sang bảo đọc to cho nghe. Tôi nói đùa: ?oMuốn kiểm duyệt phải không??. Anh Trần Hoàn cười. Tôi đọc to cho anh Trần Hoàn nghe, anh Hoàn nói: ?oHay đấy. Vẫn còn có hậu?. Tôi nói lại: ?oBọn tớ làm cách mạng đến cùng, không bao giờ nản chí?.
  4. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tôi làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế, anh Mười làm Thủ tướng, tôi vẫn giữ thái độ bình thường. Anh Mười đối với tôi bề ngoài cũng thấy dễ chịu hơn, nhưng tôi nghĩ sẽ có ngày cũng phải chia tay. Chắc anh Mười cũng không muốn tôi làm lâu.
    Đúng như vậy, khi tôi nhập vàng anh còn là Thường trực bên Đảng, nay sang làm Thủ tướng, hàng năm đi đâu anh cũng rêu rao: ?oĐoàn Duy Thành Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại đấy, không nhập phân bón, nguyên liệu, đi nhập vàng...? Anh em các ngành, các địa phương thông tin cho tôi biết, tôi thấy chẳng có gì phải suy nghĩ, vì đó là tất yếu. Anh Mười không hiểu rằng lúc đó lấy tiền đâu mà nhập phân bón, nguyên liệu? Phải nhập vàng chịu, trả nhanh; vòng sau có lãi để nhập phân bón, nguyên liệu. Khi họp Hội đồng Bộ trưởng, anh tuyên bố: ?oAnh Thành nghỉ Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhưng tôi vẫn thực hiện bài của anh Thành?. Họp Thường vụ Hội đồng bộ trưởng anh cũng tuyên bố như vậy.
    Nhưng sang năm 1989 tình hình khá hơn. Anh gặp tôi hai lần khi họp Hội đồng bộ trưởng, anh Mười nói: ?oBài của cậu tính cũng sai?. Tôi nghiêm nét mặt nhưng không nói gì. Lần sau có mặt anh Đoàn Trọng Truyến, anh Mười lại nói: ?oBài của cậu cũng tính sai...? Tôi hơi khó chịu, trả lời anh Mười: ?oAnh đã nói nhiều lần, anh thực hiện bài của tôi. Bài của tôi, tôi tính rất kĩ. Chỉ có thể do người thực hiện sai, còn tôi tính không sai?. Anh không nói gì và đi chỗ khác.
    ***
    Tính tỉ suất lãi ngân hàng với đồng Việt Nam và tỉ giá giữa đồng Việt Nam với đồng đô-la Mỹ và ngoại tệ khác, là vấn đề khó trong quản lí kinh tế. Điều này lúc nào tôi cũng quan tâm suy nghĩ. Khi có lạm phát phi mã lại càng khó. Lúc đó Hội đồng bộ trưởng họp nhiều lần, có những đề xuất rất táo bạo, phi kinh tế, như đưa lãi suất đồng Việt Nam lên 20%/tháng của anh Nguyễn Cơ Thạch. Anh còn nói mạnh mẽ rằng phải đem bom đánh tan nhà máy in bạc đi, in quá nhiều để gây lạm phát. Tôi rất thích tính anh Thạch. Tuy là nhà ngoại giao có tài, nhưng anh rất quan tâm đến kinh tế, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tôi nói với anh Thạch đưa lãi suất lên 20% tháng thì bán cả nước Việt Nam đi mà trả lãi. Anh tranh luận với tôi rất thoải mái. Anh luôn luôn giữ chữ ?olên? với tôi. Cái gì hứa, làm đúng lời hứa. Anh Nguyễn Cơ Thạch và anh Mai Chí Thọ hay bảo tôi là có hai ông Thành. Ông Thành ở Hải Phòng thì thoáng, còn ông Thành lên Trung ương lại quá chặt chẽ. Tôi nghĩ các anh rất có tình cảm với tôi nhưng các anh ít nghiên cứu sâu về kinh tế. Trong lúc khủng hoảng kinh tế, sản xuất đình đốn, vay tiền của dân, cho ai vay lãi được 5%/tháng? Doanh nghiệp không ai dám vay vì làm sao ra lãi 5%/tháng để trả nợ ngân hàng? còn Nhà nước lấy tiền đâu bù chênh lệch khoảng 15%/tháng? Tôi nói vui với anh Thạch: ?oNghe anh chỉ có đổ thóc giống ra mà ăn...? Anh cười vui vẻ, nhưng vẫn tranh luận tiếp.
    Sau đó anh Mười quyết định lãi suất 12%/tháng. Hỏi ý kiến tôi, tôi bảo: ?oChống lạm phát mà nâng lãi suất như thế này thì chỉ kéo dài được chu kì lạm phát?. Nhưng chu kì sau sẽ lạm phát cao hơn chu kì trước. Nếu nâng lãi suất đồng nội tệ lên quá cao để chống được lạm phát và kinh tế khủng hoảng thì thế giới họ đã làm từ lâu rồi, và không bao giờ có khủng hoảng kinh tế cả. Theo ý tôi trong trường họp đặc biệt này chỉ nên 4% một tháng là đã quá bạo tay rồi. Thử hỏi có xí nghiệp nào làm ra lãi 2% tháng không? Khi tôi làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, năm 1985, Thành phố đã vay của nhân dân Hải Phòng 150 triệu với lãi suất 4%/tháng, được Ngân hàng Trung ương đồng ý. Chúng tôi dự kiến trong một tháng rưỡi vay đủ số tiền trên. Nhưng thật bất ngờ chỉ trong một tháng nhân dân đem đến cho vay tới 200 triệu. Chúng tôi phải kết thúc ngay. Sau tháng 9-1985 Thành phố phải trả hết cho nhân dân, vì sợ đồng tiền Việt Nam đang bị mất giá sau đổi tiền nhân dân sẽ thiệt thòi. Từ kinh nghiệm và thực tế lúc đó, tôi đề xuất lãi suất không nên quá 4%/tháng. Nhưng Hội đồng bộ trưởng vẫn quyết định 12%/tháng.
    Có một số anh chị em quen thân đến hỏi tôi lãi suất gửi tiền tiết kiệm cao, có nên gửi không? Tôi trả lời anh chị em nên gửi, lãi lớn đấy.
    Có anh chị em gửi chỉ hơn một năm đã lãi 2, 3 lần. Vì vàng bán lúc đó rất đắt, lấy tiền mặt gửi ngân hàng, khi rút ra mua vàng giá rẻ. Ngay đồng chí Quản Đức Khiêm, thư kí của tôi ở Hải Phòng, gửi tiết kiệm hơn một năm, khi rút ra cũng lãi gần 3 lần, được 10 lạng vàng.
  5. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tôi làm Bộ trưởng Kinh tế công việc đang suôn sẻ, đưa doanh số xuất khẩu từ 600 triệu Rúp và đô la/năm, nay lên hơn 2 tỉ đô la và Rúp. Kinh tế đất nước đang đi vào thế ổn định, thì lại có kế hoạch sáp nhập các bộ, Bộ kinh tế đối ngoại sáp nhập với Bộ Nội thương và Bộ Vật tư thành Bộ Thương mại. Việc này đúng như tôi dự đoán, có sáp nhập mới có lí do để loại tôi ra khỏi thành viên Chính phủ.
    Trong khi đang chuẩn bị, anh Hoàng Minh Thắng sang bàn với tôi, đề nghị tôi nhường cho anh làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Anh Thắng nói: ?oAnh làm việc gì cũng được, nhường tôi làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi chỉ thích làm Bộ trưởng Bộ Thương mại...?. Tôi với anh Thắng là bạn với nhau, khi tôi làm Bí thư Hải Phòng, anh Thắng làm Bí thư Quảng Nam -Đà Nẵng, có quan hệ hợp tác với nhau rất chặt chẽ. Nhất là trong kháng chiến chống Mỹ, Hải Phòng kết nghĩa với Đà Nẵng quan hệ chúng tôi càng khăng khít hơn. Anh Thắng khi làm Bộ trưởng Bộ nội thương, tôi làm Phó chủ tịch phụ trách khối Lưu thông phân phối, Tài chính, Ngân hàng. Nay anh Thắng đã đề nghị, tôi đồng ý ngay. Vì anh đã là cấp dưới của tôi, nay có việc này tại sao tôi lại không nhường anh? Anh Thắng rất phấn khởi.
    Nhưng công việc không phải bình thường như thế. Hôm họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ở nhà ?oCon rùa? bên bờ Hồ Tây, anh Đỗ Mười gặp tôi trao đổi việc nhân sự. Qua trao đổi, anh Mười bảo tôi về chuẩn bị tổ chức, để tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi rất phân vân, nhưng điều trước hết là tôi phải thông tin cho anh Hoàng Minh Thắng biết. Tôi gặp anh Thắng báo chuyện anh Đỗ Mười bảo tôi tiếp tục làm Bộ trưởng.
    -Anh liệu mà chạy, kẻo lại thất vọng, rồi lại bảo tôi tranh nhau với anh cái chức Bộ trưởng Bộ Thương mại.
    Chúng tôi vẫn nhắc lại chuyện này với nhau một cách đùa vui. Nhưng việc anh Mười bảo tôi làm tiếp Bộ trưởng Bộ Thương mại cũng chỉ là câu chuyện ?olàm quà? cho vui vẻ thôi. Vì trước và sau khi quyết định anh Thắng làm Bộ trưởng Bộ Thương mại, anh Mười không hề nói lại với tôi một lời. Đó cũng là điều dễ hiểu.
    Trong 3 năm 8 tháng làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương rồi làm Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, biết bao công việc phải làm.
    Trước hết là ổn định tổ chức, xây dựng cơ sở vật chất của Bộ Ngoại thương quá cũ, xây dựng Nghị định 164 của Chính phủ về xuất nhập khẩu -đầu tư. Tôi đã cùng các đồng chí lãnh đạo Bộ lo toan công việc, rồi lo từ bữa ăn sáng, ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức thuộc Văn phòng
    Khi còn ở Hải Phòng, tôi nghĩ lên Bộ Ngoại thương chắc chắn sẽ có tiện nghi tốt hơn. Không ngờ lên đến Bộ cái gì cũng thiếu, tôi không thể tưởng tượng được. Ở Hải Phòng phòng làm việc của Bí thư, Chủ tịch Thành phố... đều có điều hoà. Lên Bộ chỉ mỗi phòng khách ngoại trên lầu 2 nhà 31 Tràng Tiền là có điều hoà nhiệt độ do Liên Xô sản xuất. Các phòng làm việc thì che chắn. Riêng phòng tròn ở nhà chính của Bộ, ngăn làm 2, một phòng dành cho Vụ xuất nhập khẩu, còn một nửa để nguyên liệu xây dựng xi măng, sắt thép...
    Lối lên phòng khách ngoại trên lầu 2 có hai lối. Lối cho khách đi lên bằng cầu thang chính, vì là nhà ?obăng? cũ nên tầng rất cao. Có lần ông Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Phi-líp-pin đến gặp tôi, khi đến phòng khách ông thở rất to và nói: ?oTôi không cảm động đâu, nhưng cầu thang cao quá, tôi mệt?.
    Còn một lối riêng cho Bộ trưởng đi lên tiếp khách, với một cầu thang phụ chật hẹp, phải đi qua cửa ?ohố xí? quá hẹp, phải đi nghiêng để quần áo chỉnh tề tiếp khách, không bị nhàu. Hôm anh Lê Khắc dẫn tôi đi xem lần đầu để bàn giao, tôi bật cười nghĩ lại chuyện bàn giao với đồng chí Nguyễn Quốc Hiếu, Giám đốc Sở Thương nghiệp Hải Phòng, cơ quan cũng phải có lối phụ lên phòng Giám đốc. Lần này có khác là lối phụ để lên tiếp khách nước ngoài...
    Trong 44 tháng công tác tại Bộ, tôi đã vạch kế hoạch cho từng năm và ba năm làm những việc gì cho Bộ, cho đất nước.
    Việc giải quyết bữa ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức, là vấn đề bức xúc vì lúc đó đã bắt đầu làm thông giờ. Sáng nào anh chị em đến làm việc đều mang cạp ***g đựng bữa cơm trưa. Tất cả đều đi xe đạp, duy có một đồng chí đi cái xe máy ?oBabetta?, đó là đồng chí mạnh bạo nhất. Một số anh chị em đi nước ngoài cũng mua được xe máy Nhật, nhưng không dám đi, sợ cho là giàu có, cứ phải cho xe đắp chiếu để trong buồng. Có đồng chí mua được 2, 3 xe máy phải tháo rời ra để ở gầm giường, tôi đến chơi, thấy lủng củng đồ đạc dưới gầm giường, hoặc cất giấu vào góc nhà, lỉnh cà lỉnh kỉnh. Tôi bảo các đồng chí đem ra mà đi, hoặc bán đi gởi vào tiết kiệm, việc gì phải giấu như ?othuốc phiện lậu? vậy. Tôi nói mãi, dần dần các đồng chí thấy quen, đem hết xe ra đi. Năm 1988 hầu hết không còn ai đi xe đạp đến Bộ làm việc, quần áo ăn mặc chỉnh tề hơn. Đồng chí Phối, Vụ trưởng Vụ II, đã làm Tham tán Thương mại ở Nhật Bản 2 khoá, một cán bộ gương mẫu giữ gìn, nhưng tiền lương tiết kiệm mua được xe máy cũ của Nhật rất rẻ cũng không dám mang ra đi công tác, quần áo chỉ có một bộ com-lê để ở trong tủ làm việc, khi tiếp khách mới mặc, còn đi làm chỉ mặc bộ quần áo ?ođại cán? sĩ quan ka ki, mùa hè mặc sơ-mi xanh, hoặc trắng, với quần ka-ki Trung Quốc. Các đồng chí khác cũng vậy. Tôi bảo anh Phối cứ mặc quần áo đàng hoàng, thắt ?ocravate? cẩn thận. Mình là cơ quan đối ngoại, việc gì phải kiêng kị? Sau đó ít lâu mới hình thành phong trào ăn mặc chỉnh tề hơn.
  6. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Còn ăn trưa, tôi bàn với xí nghiệp làm kinh tế, cải thiện đời sống của Công đoàn. Tôi bảo đồng chí Dương, giám đốc thôi nghề ép than và cán mì đi, tổ chức sản xuất thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Xí nghiệp khá lên, cung cấp bữa ăn trưa cho anh chị em 50đ/người, bỏ được cảnh mang theo cạp ***g cơm, đến trưa đem ra hâm nóng ăn trong phòng, vừa nhếch nhác vừa mất vệ sinh. Số tiền trên ra hiệu ăn bữa trưa còn dư, đem về bổ sung cho bữa ăn sáng và tối.
    Còn trụ sở Bộ, tôi cho đập 3 nhà rất cổ, xây lâu năm, có nhà tường đã nứt, chỉ đợi chấn động nhẹ thì trần và nhà sụp đổ. Tôi quyết định cho xây nhà 3 tầng làm việc hiện nay, cải tạo nhà chính, nhà phụ làm việc, phá hầm phòng không, xây một tầng làm Hội trường hiện nay, có thể họp được 350 người. Nay các đồng chí trong Bộ ngăn làm nhiều phòng làm việc, bắc quạt và điều hoà cho các phòng, cải tạo phòng tròn làm nơi hội thảo ít người, xây thêm phòng khách ngoại ở tầng dưới, lấy hai ngà voi dài nhất nước từ Công ti Thủ công mỹ nghệ Sài Gòn về trưng bày ở phòng nhà tròn... tạo cảnh quan và bộ mặt, thật đàng hoàng đối với khách trong nước và nước ngoài. Trước khi đập 3 nhà cũ, tôi phải cho quay phim chụp ảnh. Kể cả khi nhờ xe xích của Bộ Nội vụ đến kéo đổ 3 nhà cũng quay phim hiện trạng, kẻo nếu có người không đồng tình với mình, khiếu nại, sẽ có bằng chứng giải trình. Trước khi xe xích kéo sụp 3 nhà, tôi cũng đứng xem. Xe mới hơi chuyển bánh, nhà đã đổ sụp, gạch vữa lả tả, nhiều thanh sắt làm cốt đã mục nát, trông rất sợ. Vì tôi làm cẩn thận nên sau xây dựng không có đơn kiện cáo về việc này.
    Để giảm đầu mối và bớt độc quyền về ngoại thương, tôi bàn giao những Tổng công ti xuất nhập khẩu chuyên ngành cho các Bộ chuyên ngành, chỉ giữ lại những Tổng Ti tổng hợp xuất nhập khẩu, những công ti mà không có Bộ chuyên ngành nhận. Sau khi củng cố lại các công ti và thành lập những công ti cần thiết, như công ti Tổng hợp II miền Trung (Centrimex), tôi bàn với Bộ Ngoại giao nâng cấp các tùy viên Thương mại là cán bộ của Bộ Ngoại thương, sau này là Bộ kinh tế đối ngoại cử, lên chức Tham tán. Được anh Nguyễn Cơ Thạch cử anh Nguyễn Di Niên Thứ trưởng phụ trách tổ chức sang làm việc, đi tới thống nhất đề cử các đồng chí Tùy viên Thương mại làm Tham tán Thương mại. (Trước đó Bộ Ngoại thương chỉ có đồng chí Đinh Xuân Trâm Thứ trưởng làm Tham tán Thương mại tại Liên Xô). Thế là tôi giải quyết xong việc phân biệt đối xử giữa cán bộ ngoại giao và cán bộ ngoại thương trong nhiều năm.
    Về tổ chức cán bộ, Bộ Ngoại thương đề bạt thêm 2 thứ trưởng là các đồng chí Đinh Phú Định và Lê Kim Lăng, đề bạt 113 cán bộ từ Trưởng phòng đến Vụ trưởng, Vụ phó, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc các Tổng công ti và công ti, hầu hết là cán bộ trẻ có học vấn... Tiếp đó tôi xây dựng khu nhà cho cán bộ công nhân, viên chức ở Láng Hạ với phương thức Bộ xin đất, bỏ tiền một nửa ra xây dựng, cán bộ bỏ một nửa tiền đóng góp với Bộ. Chủ trương này cũng có người không tán thành và còn thách đố ?oông Thành làm sao được...?. Nhưng khi có kết quả, thì những ý phản đối thành ý kiến ủng hộ. Hai khu nhà chung cư của Bộ kinh tế đối ngoại cũ hiện nay, trông vẫn khang trang (sau nhà Seaprodex Hà Nội).
    Rồi khu nhà tập thể của Bộ ở Văn Chương cũng được nhanh chóng hoàn thiện đưa vào sử dụng. Riêng trụ sở của Bộ được thiết kế xây dựng 11 tầng, đã được Chính phủ duyệt, trích số tiền cấp phép cho nước ngoài lập cơ quan đại diện tại Việt Nam (mỗi giấy phép phải nộp 5.000 USD) do tôi đề xuất với Chính phủ và Bộ Tài chính. Số tiền này nộp ngân sách 20%. Còn lại dành cho Bộ xây dựng trụ sở, được khoảng 8 triệu USS.
    Thiết kế đã được duyệt, khoan đất khảo sát để xây dựng đã làm. Đến khi chuẩn bị khởi công, tôi thôi làm Bộ trưởng, và đến nay đã 15 năm, trụ sở mới vẫn chưa được xây dựng!
    Gần đây, nhiều báo chí nhắc đến chuyện nhập 160 tấn vàng. Có đồng chí phóng viên hỏi tôi: ?oNhiều công ti nhập vàng lãi nhiều, có công ti nào biếu ?oquà? bác không??. Tôi kể lại cho các đồng chí phóng viên nghe rằng lúc đó chỉ có công ti nhà nước được nhập vàng, lãi nộp ngân sách Trung ương hoặc địa phương, cuối năm trích phần thưởng theo chế độ. Nếu công ti nào có tấm lòng ?ophong bì? cho Bộ trưởng, tôi cũng không nhận. Ngay quota thời đó người ta cũng tung tin Bộ Ngoại thương nhận tiền cho xuất sắt thép phế phẩm, một vạn $US/một quota/một vạn tấn v.v... Tôi đề nghị Quốc hội cho kiểm tra.
    Còn tôi và thứ trưởng của tôi không bao giờ làm như vậy. Nếu có đồng chí nào nhận tiền cấp quota, tôi là Bộ trưởng, tôi chịu trách nhiệm. Tôi đề nghị các vị không nên tự ?otầm thường? mình rồi ?otầm thường? luôn cả chúng tôi. Quốc hội lúc đó đã phân công đồng chí Trần Quyết, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, lập đoàn đi kiểm tra. Đoàn dự kiến kiểm tra 10 tỉnh, thành phố trọng điểm, sau kiểm tra toàn bộ 40 tỉnh, thành phố trong cả nước và đã có báo cáo trước Quốc hội về vấn đề này. Không tìm ra hiện tượng tiêu cực trong việc cấp quota xuất sắt thép phế phẩm, cũng như mặt hàng khác...
    Đầu năm 1990 trong chuyến vào công tác ở các tỉnh phía Nam (lúc này tôi cũng sắp thôi làm Bộ trưởng), đồng chí Lạc, Tổng giám đốc CTI Pétechim đến thăm tôi ở nhà khách, khi về đồng chí có đưa cho tôi một phong bì, ngoài đề kính gửi Bộ trưởng Đoàn Duy Thành. Tôi nghĩ chắc là thư, vì từ khi về làm Bộ trưởng đến hôm đó, không có công ti nào biếu tôi tiền cả. Đến khi đồng chí Lạc về, tôi bóc thư ra xem trong thư có 300.000 đồng, và lá thư nhỏ: ?oKính biếu đồng chí để mua quà cho các cháu?. Tôi nghĩ Cti Petechim là công ti kinh doanh khá, lại được giao nhập vàng sớm với khối lượng lớn, lãi cho ngân sách nhà nước nhiều, chắc đồng chí Lạc nghĩ Bộ trưởng sắp nghỉ, gửi quà cho Bộ trưởng. Tôi viết thư cảm ơn và trả lại số tiền trên cho đồng chí Lạc. Ngay lúc đó, có một đứa cháu gọi nhà tôi bằng bà cô ruột đến chơi, xin tôi một trăm nghìn để mua xe đạp, cháu chỉ thiếu có một trăm nghìn thôi. Nhân có tiền của đồng chí Lạc cho, tôi rút ra một trăm nghìn cho cháu. Còn hai trăm nghìn đồng, tôi bỏ vào phong bì dán kín cùng lá thư, nói rõ tôi lấy 100.000 đồng cho cháu mua xe đạp. ?oTôi gửi lại đồng chí 200.000 đồng. Tôi đã có tiền mang theo để mua quà cho cháu khi về Hà Nội, xin cảm ơn đồng chí?. Đồng chí Lạc hiện nay mới về hưu và sinh sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.
    Để thúc đẩy sản xuất phái triển, mở rộng cho các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã được trực tiếp xuất khẩu, xoá bỏ dần dần độc quyền ngoại thương, tôi đã kí thí điểm cho hợp tác xã sản xuất giày Bình Tiên (Biti''s) xuất giày sang Liên Xô (cũ) và một số hợp tác xã, doanh nghiệp khác xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, trước hết là xuất sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Việc đó giúp cho các cơ sở sản xuất phát triển nhanh hơn. Đến nay, mọi tổ chức, thành phần cứ hội tụ đủ điều kiện qui định, đều được xuất nhập khẩu.
    Đến 30-4-1990 tôi thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Nguyễn Văn Linh, anh Nguyễn Thanh Bình, Thường trực Ban Bí thư, anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương bảo tôi ở lại làm việc. Anh Đỗ Mười bảo tôi lại nhà chơi, anh bảo tôi làm một số việc nào là làm Bộ trưởng Bộ Tài chính thay anh Hoàng Quy, làm bí thư Thành uỷ Hà Nội... Tôi báo cáo anh Mười: ?oChả lẽ tôi lại tranh việc của anh Hoàng Quy hay sao??. Còn Bí thư Thành uỷ, tôi nghĩ lúc này anh Mười cũng nói cho vui thôi, không có tính khả thi, nên tôi xin phép anh Mười ra về. Anh Mười giữ ở lại bàn thêm, nhưng tôi cho là anh Mười chỉ động viên tôi thôi. Nếu anh có thiện chí thì tôi chẳng phải xin từ chức và ?othất cơ lỡ vận? như hiện nay. Bởi vậy tôi đứng dậy ra về. Khi anh Qui chất chất anh Mười tại sao không xếp việc cho tôi, anh Mười bảo: ?oMình giữ cậu ấy ở lại bàn nhưng cậu ấy giật tay mình bỏ về?.
    Còn tôi đối với anh em trong khối lúc nào cũng có quan hệ tốt, cùng làm cùng chịu trách nhiệm, không ai đổ trách nhiệm cho ai. Có một lần họp Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng, đồng chí Hoàng Quy, Bộ trưởng, trình ra Thường vụ một việc bị đồng chí Chủ tịch Phạm Hùng phê phán gay gắt. Đồng chí Phạm Hùng quay sang hỏi tôi: ?oBộ Tài chính đã xin ý kiến anh Thành chưa??. Thực ra Bộ chưa hỏi ý kiến tôi, nhưng tôi đứng ngay dậy: ?oBáo cáo anh Phạm Hùng, Bộ Tài chính đã xin ý kiến tôi rồi, và hôm nay xin ý kiến Thường vụ. Chúng tôi sẽ viết lại theo ý kiến Chủ tịch kết luận?. Anh Phạm Hùng vui vẻ ngay, bảo về làm lại trình Thường vụ và Hội đồng Bộ trưởng vào thảo luận sau... Câu chuyện này anh em Bộ Tài chính và đồng chí Ngô Hải khi gặp tôi thường hay nhắc lại câu chuyện ?ođỡ đòn? hôm ấy.
  7. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tôi thường nghĩ, mình là cấp trên thì không bao giờ tranh công cấp dưới. Phải thương anh em và che chắn cho anh em. Nếu anh em sai, có khi còn phải nhận khuyết điểm về mình, vì anh em ?othấp cổ bé họng? hơn mình, dễ bị thiệt thòi. Làm điều này tất nhiên phải nhận phần thiệt về mình, có khi còn mang tiếng ?oanh hùng rơm?, có khi mang vạ vào thân.
    Từ tháng 5-1990 tôi xin nghỉ, các đồng chí không giải quyết, nhưng xếp việc rõ rệt cũng không, chỉ giao những việc vặt, kiểm tra nơi này nơi khác về báo cáo. Tôi chắc các đồng chí khó xếp việc cho tôi, tôi bèn đến chào tạm biệt đồng chí Nguyễn Văn Linh ở nhà khách Hồ Tây. Đồng chí Nguyễn Văn Linh ôm tôi khóc, và nói: ?oTôi không bảo vệ được anh...?. Tôi cảm ơn anh, đề nghị anh ủng hộ tôi về nghỉ. Tôi có làm gì sai đâu mà anh phải bảo vệ? Anh lại khóc thực sự. Tôi vừa buồn, vừa thương anh và tự hỏi: ?oSao thế này nhỉ? Làm cách mạng là sự tự nguyện, nay cách mạng thành công rồi thì phân công nhau mà làm. Nay hết công việc nguy hiểm rồi, hoà bình rồi, ai làm cũng được...?.
    Tôi nhớ lại khi tôi làm Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại, luật đầu tư nước ngoài đã được thông qua Quốc hội cuối năm 1987. Chẳng ai triển khai. Đến khi thành lập Bộ kinh tế đối ngoại, lại giao tôi phụ trách. Khi có luật đầu tư nước ngoài, các nhà doanh nghiệp nước ngoài nộp hồ sơ hàng đống chờ đợi, chẳng ai giải quyết, đùn đẩy nhau. Tôi phải đứng ra làm. Tập hợp một số cán bộ, trời nóng bức, không có điều hoà, cởi trần ra làm hơn 2 tháng trời mới chọn được 25 doanh nghiệp. Tôi kí giấy phép cho 25 doanh nghiệp đầu tiên vào đầu tư ở Việt Nam. Giấy phép số 1 là Công ti Wicarent Hồng kông đầu tư ở Vũng Tàu... Khi đã đi vào nề nếp, Vụ Đầu tư của Bộ kinh tế đối ngoại lo công việc này rất chu đáo. Nhưng chưa được bao lâu thì có quyết định lập Bộ Đầu tư đối ngoại tách ra khỏi Bộ kinh tế đối ngoại (nhập vào Bộ kinh tế đối ngoại chưa đầy một năm lại tách ra?). Tôi nghĩ đây là một ý định không tốt đẹp gì với tôi. Nhưng không sao cả, mình không vụ lợi, vì đất nước, vì nhân dân mà làm chả việc gì phải bực. Nhưng ngầm nghĩ cũng thấy người đời lắm ?omưu mẹo? mà quá đơn giản, không có chiều sâu. Đến cán bộ bình thường ở Bộ tôi lúc đó cũng nhìn thấy bước đi của các đồng chí cấp trên muốn gì ở Bộ trưởng của mình. Các đồng chí hỏi tôi, tôi bảo: ?oCác đồng chí nhìn thấy vấn đề rồi còn hỏi tôi làm gì nữa...?.
    Đến tháng 9-1990, đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi, bảo tôi về làm Viện trưởng Nghiên cứu Kinh tế Trung ương thay anh Nguyễn Văn Trân về hưu. Tôi bảo để tôi suy nghĩ đã, anh cứ đi tìm đồng chí khác, tôi còn xem anh em ở Viện có muốn tôi về hay không? Nếu cất nhắc anh em tại chỗ lên được thì tốt. Anh Tâm bảo tôi: ?oĐã tìm tại chỗ và nơi khác không có. Anh suy nghĩ kĩ và phản ứng tích cực nhé!?. Sau khi đi chuyến tàu hoả vào miền Nam họp, tôi lại gặp anh Nguyễn Đức Tâm. Anh Tâm gặp tôi lần trước đã hơn 2 tháng rồi. Anh lại hỏi: ?oAnh đồng ý về Viện cho nhé?. Tôi bảo: ?oNếu tổ chức không tìm được ai và anh em ở Viện đồng ý tôi về, tôi sẽ nhận?. Sau một tuần, tôi nhận được quyết định của Thủ tướng Đỗ Mười kí cử tôi về làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lí Trung ương.
    Tôi đến họp Hội đồng bộ trưởng trở lại. Anh Mười tuyên bố: ?oAnh Thành sẽ làm Bộ trưởng - Viện trưởng để làm việc trong Hội đồng Bộ trưởng cho thuận lợi?. Rồi Văn phòng chuẩn bị đề nghị với Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm tôi làm Bộ trưởng - Viện trưởng. Khi đưa ra Hội đồng Nhà nước phê chuẩn, có ý kiến của đồng chí Nguyễn Việt Dũng đưa vấn đề đồng chí Tô Duy ra yêu cầu cần phải xác minh, nên Hội đồng Nhà nước do dự, đề nghị làm rõ. Anh Mười về phổ biến lại với tôi và nói: ?oChính phủ đã đề nghị nhưng Hội đồng Nhà nước không duyệt...? Tôi đứng dậy nói với anh Mười một câu: ?oLà âm mưu của chúng nó cả?, rồi tôi đi chỗ khác (chuyện này xảy ra trong giờ giải lao của cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng).
    Đi sứ Trung Quốc
    Tháng 1-1991 tôi và anh Vũ Oanh được cử sang Trung Quốc nghiên cứu tình hình kinh tế Trung quốc do Trung ương Đảng và Chính phủ Trung Quốc mời. Đồng chí Vũ Oanh làm trưởng đoàn, tôi làm phó đoàn. Đoàn còn có đồng chí Vũ Quang, đồng chí Lê Quý An và một phiên dịch cấp vụ trưởng của Ban Đối ngoại trung ương Đảng.
    Đoàn chúng tôi sang Trung Quốc trong tình hình hai nước chưa bình thường quan hệ ngoại giao, mới có cuộc gặp gỡ Trùng Khánh giữa các đồng chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Đỗ Mười với các đồng chí Giang Trạch Dân, Lí Bằng của Trung Quốc. Trong chuyến đi này còn có đồng chí Đinh Nho Liêm, Thứ trưởng bộ Ngoại giao cùng đi. Khi về, đồng chí Đinh Nho Liêm có chép lại 2 câu thơ trong bữa tiệc tiếp Đoàn Việt Nam, do đồng chí Giang Trạch Dân đọc, đó là:
    Độ tận khiếp ba huynh đệ tại,
    Tương phùng nhất tiểu dẫn ân cừu
    Nghĩa là: Đò qua hết sóng dữ anh em vẫn là anh em. Gặp nhau cười một tiếng là trôi hết hận.
    Tôi nghĩ hai câu thơ đó hay. Nếu đồng chí Tổng bí thư Giang Trạch Dân, trong bữa tiệc thân tình đã ứng tác làm 2 câu thơ đó thì thật là tuyệt. Nhưng tôi tra cứu thì 2 câu thơ đó của một nhà thơ đời Thanh, không rõ tên. (Thanh mạt thi nhân, khuyết danh) gồm 4 câu:
    Nhân tình vong liệm vô kiêm ái,
    Thế đạo không hoài mạc cộng ưu
    Độ tận khiếp ba huynh đệ tại
    Tương phùng nhất tiễu dẫn ân cừu.

    Đồng chí Giang Trạch Dân đem thơ của cổ nhân đọc để nói hộ tấm lòng mình đối với các đồng chí Việt Nam, thể hiện tình cảm thân thiết nghĩa tình, vừa là đồng chí, vừa là anh em.
  8. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Nhưng hãy kể đường đi sang Trung Quốc trước đã. Chúng tôi đi ô tô đến Hữu nghị quan, các đồng chí Trung Quốc phải rỡ rào dây thép gai, cho xe đón chúng tôi về Nam Ninh, thủ phủ Quảng Tây. Từ đây chúng tôi đi máy bay đến Bắc Kinh.
    Đoàn chúng tôi được đón tiếp thân tình, trọng thị, ở tại nhà khách Điếu ngư đài một tuần, nghiên cứu và nghe các chuyên gia đầu ngành và cán bộ cao cấp giới thiệu kinh nghiệm cải cách, mở cửa của Trung Quốc. Đồng chí Trần Cẩm Hoa, nguyên Chủ tịch thành phố Thượng Hải, làm Chủ nhiệm Uỷ ban cải cách toàn Trung Quốc, đón tiếp và trao đổi với chúng tôi rất tận tình. Chúng tôi đi thăm và làm việc với một số ngành như ngân hàng, Uỷ ban Kế hoạch, Bộ Ngoại giao. v.v. Chúng tôi đi thăm Vạn Lí trường thành, Cố cung và một số nơi danh lam thắng cảnh ở Bắc Kinh.
    Có một câu chuyện đáng nhớ, lúc chúng tôi đến thăm Cố cung (Thiên An Môn), khi đến cung Tiền, nơi vua chuẩn bị ra ngự triều, các Hoàng hậu, Hoàng phi, con cháu ra chúc tụng vua buổi sáng, chúng tôi thấy sau ghế vua ngồi, có một đại tự viết hai chữ ?oVô vi? nghĩa là ?okhông làm gì?. Cùng đi có Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành và một số cán bộ đại sứ quán. Phía Trung Quốc lúc đó có các đồng chí Lí Gia Trung, Tề Kiến Quốc (sau này đều là Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam) và một số đồng chí Trung Quốc khác.
    Vì biết tôi có học chữ ?ohán?, một số đồng chí hỏi tại sao sau ghế vua ngồi lại viết chữ ?oVô vi?. Tôi bảo các đồng chí Việt Nam hỏi các đồng chí Trung Quốc. Hai đồng chí Lí và Tề bảo hỏi đồng chí Thành. Tôi nói các đồng chí cứ thử đoán xem các vua Trung Quốc tại sao lại viết chữ ?oVô vi?. Các đồng chí Việt Nam nhanh nhảu nói: ?oVô vi? chắc là của Lão Tử. Rồi các đồng chí bảo tôi ?ogiảng? cho nghe. Tôi bảo các đồng chí cứ suy nghĩ kĩ đi, ta đi thăm xong Cố cung khi quay lại ?oCung tiến?, tôi sẽ nói cho các đồng chí nghe.
    Tôi cũng định lờ đi, không giải thích, nhưng khi quay lại ?oCung tiền? các đồng chí Việt Nam cũng như Trung Quốc vẫn nhắc tôi giải thích cho nghe hai chữ ?oVô vi?. Tôi mới nói chữ ?oVô vi? là của Khổng Tử, ca ngợi đạo đức của vua Nghiêu, vua Thuấn đời nhà Hạ, thường gọi là Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Điểm nổi bật là hai ông đã dùng nhân nghĩa quản lí đất nước, được nhân dân Trung Quốc thời đó ca ngợi là bậc ?oThánh quân?. Các ông chọn người ?ohiền tài? trong thiên hạ để kế nghiệp, không truyền ngôi cho con... Cho nên Khổng Tử đã dùng một câu nói để khen cả Vua Nghiêu và vua Thuấn, câu đó trong sách Luận ngữ: ?oVô vi nhi trị giả kì Thuấn giả dư!? nghĩa là: ?oKhông làm việc gì lớn trong thiên hạ mà trị vì được thiên hạ, chỉ có vua Thuấn mà thôi?. Khi vua Nghiêu chọn vua Thuấn thay mình, vua Thuấn chỉ là người quản lí một trang trại, có cha là Cổ Tẩu mắc tội giết người, có em là Tượng, một tên lưu manh. Thế mà vua Nghiêu thấy được tài đức của vua Thuấn; gả hai con gái cho rồi truyền ngôi cho làm Hoàng đế. Vua Thuấn đã cai trị đất nước rất giỏi, nổi tiếng Trung Quốc. Mãi mãi sau này nhân dân Trung Quốc ca ngợi công đức của hai vua. Cho nên Khổng Tử chỉ nói vua Thuấn, nhưng hàm ý vua Nghiêu có tài mới chọn được vua Thuấn, con nhà thường dân, và mặc dù Cổ Tẩu bố vua Thuấn: ?oPhụ tiện nhi hành ác? nghĩa là loại ti tiện và làm điều ác.
    Còn nói ?oVô vi? là của đạo Lão, sẽ không phù hợp với thực tế Trung Quốc. Xây dựng cố cung từ thời nhà Tống, nhà Minh tiếp tục hoàn thiện. Nhà Tống và nhà Minh lấy đạo Khổng làm quốc đạo, coi Lão Tử là kẻ chống lại đạo Khổng. Do đó không thể có việc vua các nhà Tống - Minh rồi đến nhà Thanh lại viết ?ovô vi? của đạo Lão để trên đầu mình. Các đồng chí Trung Quốc và Việt Nam đều đồng ý.
    Người ta hay nói ?othâm nho? chẳng qua học chữ Nho (hoặc có người gọi là học chữ Hán), khi học một câu nói của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tăng Tử, Tử Tư.v.v... dưới câu nói đó có lời bàn của các triết gia, các nhà lí luận đời sau giải thích ý nghĩa, để cho người học hiểu được câu nói ngắn gọn của ?oThánh hiền?. Nghĩa là muốn hiểu được các câu nói của Thánh hiền, người ta phải học kĩ các bài bàn, mới hiểu được toàn diện và sâu sắc. Nói: ?oThâm nho? khi có ý chê ghét. nên người ta phải dùng chữ ?ouyên thâm túc Nho? nghiêm túc hơn.
    Trong dịp đi thăm này, đồng chí Lí Bằng, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc có buổi tiếp và làm việc với đồng chí Vũ Oanh, Uỷ viên Ban Bí thư Trung ương Đảng CS Việt Nam.
    Trong câu chuyện rất thân tình giữa hai đồng chí, đồng chí Vũ Oanh trình bày rất nhiều vấn đề, nhất là vấn đề bình thường quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần làm sớm, để nhân dân hai nước có điều kiện làm ăn buôn bán thông thương. Đồng chí Vũ Oanh kể lại những câu chuyện rất buồn ở biên giới giữa hai nước. Nhân dân đi buôn bán, phải gánh gồng, đội vác qua núi non hiểm trở, đã có người ngã lăn xuống suối chết. Đồng chí Lí Bằng rất cảm động nhưng nói:
    - Bây giờ hết giờ, mai sẽ làm tiếp... Đồng chí Thư kí của đồng chí Lí Bằng bảo:
    - Mai Thủ tướng đã có lịch làm việc rồi. Đồng chí Lí Bằng suy nghĩ một lát và nói:
    - Việc bình thường hoá quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần có một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian chuẩn bị làm việc lớn, chúng ta hãy làm những việc nhỏ. Việc buôn bán làm ăn ở biên giới, mai tôi sẽ cử đồng chí Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao đến làm việc với đồng chí ở Điếu Ngư Đài.
  9. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Tôi liền nảy ra ý nghĩ làm bài thơ tứ tuyệt tặng hai đồng chí, Lí Bằng và Vũ Oanh và để hưởng ứng bài thơ của đồng chí Giang Trạch Dân đọc hồi tháng 9-1990 ở Trùng Khánh mừng Đoàn cấp cao của ta sang Trung Quốc. Nội dung bài thơ của tôi:
    Song điểu Tề phi
    Hoàng Oanh phi đáo Bắc Kinh đô,
    Hội ngộ kim Bằng diệc lạc hồ!
    Đại sự vị thành hành tiểu sự,
    Song điểu tề phi chí thiện đỗ.
    Tạm dịch:
    Hai con chim cùng bay
    Hoàng Oanth bay đến Bắc kinh đô,
    Gặp gỡ chim Bằng thoả ước tình,
    Việc lớn chưa thành, làm việc nhỏ
    Vỗ cánh cùng bay đến điểm lành.
    Hai đồng chí đều có tên theo âm Hán là 2 loài chim đẹp, nên tôi dùng đầu đề bài thơ là: ?oSong điểu Tề phi?4.
    Sau khi rời Bắc Kinh, các đồng chí đưa đoàn chúng tôi thăm Thẩm Quyến, Khu kinh tế tự do thuộc tỉnh Quảng Đông, đối diện với Hồng Kông. Chúng tôi ở đây nghiên cứu 3 ngày rồi đi ô tô về thăm Quảng Châu, thăm khu công nghệ mới và nhiều nhà máy lớn ở Quảng Châu cũng như Khu kinh tế Chu Hải... Sau đó chúng tôi đi ô tô về Nam Ninh, thăm Nam Ninh một ngày, rồi đi xe trở về Lạng Sơn, Hữu Nghị Quan. Các đồng chí Trung Quốc đưa tiễn chúng tôi về đến tận địa phận Việt Nam. Các đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn cùng các đồng chí lãnh đạo khác của tỉnh, các phóng viên đến đón chúng tôi tại cửa khẩu. Thế là chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ chuyến đi ?osứ? nghiên cứu kinh tế một nước XHCN, qua một thời gian gián đoạn quan hệ, nay bắt đầu khôi phục.
    Trong những ngày ?otrăng mật? chúng tôi được đón tiếp chân tình, trọng thị, nước bạn tạo mọi điều kiện cho chúng tôi làm việc có kết quả. Về đến nhà đã là 27 tết âm lịch. Anh Vũ Oanh bảo tôi viết nhanh báo cáo để vào thành phố Hồ Chí Minh báo cáo với anh Linh, Tổng Bí thư. Anh Vũ Oanh bảo tôi cùng đi. Tôi xin ở lại. Ngày 29 tết anh Oanh vào báo cáo với anh Linh và ngày 30 Tết về Hà Nội. Một cuộc đi vất vả nhưng có nhiều kết quả, nhiều suy nghĩ.
    Mồng hai tết anh Oanh đến chúc tết tôi, phàn nàn rằng: ?oHôm tôi đến báo cáo anh Đỗ Mười, trước khi vào báo cáo anh Linh, anh Mười tỏ ý không vui và bảo tôi vào báo cáo anh Linh, nói anh ấy ở lại làm khoá nữa. Tôi suy nghĩ tại sao anh Mười lại có thái độ như vậy? Khi đến gặp anh Linh mới biết các ông ở nhà đã bàn, anh Linh nghỉ, anh Mười thay làm Tổng bí thư. Tôi nghĩ anh Mười sợ tôi vào khuyên anh Linh ở lại làm khoá nữa, có nghĩa anh Mười sợ mất chân Tổng bí thư. Thế đấy anh Thành ạ!?. Tôi chỉ cười không bình luận gì.
    Tôi về làm việc ở Viện Quản lí Trung ương được 19 tháng 20 ngày. Tôi cố gắng thu xếp cách nghiên cứu và lề lối làm việc. Trong điều kiện Viện có 115 cán bộ công nhân viên, hầu hết là đại học, phó tiến sĩ và tiến sĩ nhưng đời sống rất khó khăn, lương bình quân có 42.000 đ/tháng. Viện có một công ti xuất nhập khẩu, hàng năm chỉ kiếm thêm được triệu đồng để cải thiện cho anh em, bằng cách xin chặt củi ở Phú Thọ lấy củi xuất khẩu, mặt khác cho anh em đi mua dừa, chuối. về gửi các nhà hàng ăn uống giải khát để lấy lãi Có khi không bán được, nhà hàng trả lại, đem về phân phối nội bộ ăn cho hết. Tôi thấy việc làm rẻ rúng quá, lại không đúng ngành nghề. Tôi đề nghị giải tán công ti xuất nhập khẩu chuyên làm kinh tế của Viện. Các đồng chí đều đồng ý. Tôi tổ chức cho anh em nghiên cứu các đề án, như xây dựng khu kinh tế mở cho Móng Cái, Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh trả cho 3,5 triệu/tháng, xây dựng đề án cải tiến quản lí cho công ti OSC Vũng Tàu được trả cho 4 triệu tháng, xây dựng cải tiến cho Công ti Tradico, cho Tổng cục Bưu điện tách ra khỏi Bộ Giao thông vận tải, trực thuộc Chính phủ... mỗi đề án cũng được trả hàng triệu đồng.
    Tết âm lịch sắp đến, tôi hỏi anh em có tiền ăn tết không? Anh em bảo quĩ không có. Quĩ Công đoàn có 20 triệu đồng, vừa qua đã phân phối cho anh em hết rồi. Tôi hỏi anh em có cần tiến ăn tết không? Đồng chí nào cũng nói rất cần nhưng không tìm đâu ra tiền. Tôi đã tính toán trước, tôi bảo anh em hiện nay chưa có tiền trong quĩ, tôi tạm vay ở Công ti Tổng hợp I Bộ Thương mại 15 triệu đồng phân phối cho anh em tiêu Tết. Sau Tết thu được tiền các dự án sẽ trả. Thế là anh chị em có tiền ăn tết.
    Tháng 3-1991 thu tiền các nơi gửi về trả xong nợ, mọi người phấn khởi. Từ tháng 51991 liền ăn trưa cho anh chị em cơ quan đài thọ mỗi tháng 150.000 đồng/tháng (Hiện nay tôi đã rời khỏi viện hơn 10 năm, mức ăn trưa vẫn giữ nguyên không thay đổi). Tôi hỏi đồng chí Doanh, Viện trưởng sao không nâng thêm cho anh chị em. Đồng chí bảo tôi: ?oQuĩ phúc lợi anh xây dựng, tổ chức kỉ niệm 20 năm thành lập Viện, chi gần hết rồi?. Còn từ hồi đồng chí An về làm viện trưởng tôi chưa có dịp hỏi lại. Tôi đã xếp sắp bộ máy và đề bạt 27 cán bộ vào các chức vụ như vụ trưởng, vụ phó, chánh phó văn phòng. Đồng chí Vũ Tiến Lộc từ cán bộ của Viện Quản lí kinh tế Trung ương, tôi sử dụng làm thư kí và đào lạo nay trở thành Chủ tịch VCCI.
  10. chimawan

    chimawan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2006
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    0
    Trong những tháng đầu năm 1991, chuẩn bị Đại hội 7 những người có ý định xấu với tôi lại tung ra những dư luận xuyên tạc để loại tôi khỏi Trung ương khoá 7. Tôi đã tiên liệu trước tình hình này nhưng không ngờ các đồng chí đó dùng đủ mọi hành động không tốt đẹp đến thế đối với tôi. Đến Đại hội Hải Phòng, anh Mười và tôi cùng một số đồng chí khác về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc.
    Ngày khai mạc, anh Đạt, đại tá, đứng lên tố tôi khai man lí lịch và một vài việc lặt vặt khác. Đại hội phải cho thẩm tra, lấy bản kết luận của đồng chí Võ Chí Công ra đọc và đồng chí Trưởng ban kiểm tra tư cách đại biểu khẳng định việc tố cáo của anh Đạt là không đúng. Nhưng khi bầu cử tôi cũng bị mất hơn một trăm phiếu. Còn ở Trung ương, Bộ Chính trị không giới thiệu tôi vào danh sách Trung ương khoá 7. Đồng chí Nguyễn Thanh Bình và đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi để đả thông tư tưởng. Anh Bình nói:
    - Lá thư anh gửi cho các giám đốc công ti trực thuộc về việc thôi làm Bộ trưởng là có ảnh hưởng không tốt.
    Tôi nói lại:
    - Thư của tôi chẳng có gì làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng cả, chỉ có một câu: Trong 44 tháng tòng chính ở Thủ đô Hà Nội, tôi mới hiểu thế nào là nhân tình thế thái. Chỉ có thế thôi. Lúc này một số dư luận không tốt về tôi, xuyên tạc Hội nghị tổng kết của Bộ tại Hội trường Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh, các anh chẳng ai bảo vệ tôi, tôi phải viết thư nói rõ việc đó.
    Hai anh Bình và Tâm không nói gì. Hôm đó có cả anh Văn Phác, cũng là người được làm tư tưởng để thôi Trung ương khoá 7. Tôi hiểu đây chỉ là cuộc gặp mang tính thủ tục, tôi không nói gì thêm, vì việc đã ?oan bài? ở chỗ khác rồi. Thế là kết thúc cuộc gặp giữa anh Nguyễn Thanh Bình, anh Nguyễn Đức Tâm với tôi và anh Văn Phác.
    Ngay trong cuộc họp Trung ương để chuẩn bị Đại hội, anh Linh gọi tôi bảo:
    - Tôi vẫn giới thiệu anh vào Trung ương khoá 7, nhưng anh Đỗ Mười bảo để Ban Cán sự Chính phủ bàn thêm. Hai lần tôi nhắc, bên Chính phủ đều đề nghị anh thôi không ứng cử khoá 7.
    Tôi cảm ơn anh Linh, và nói:
    - Tôi biết rõ ý định của các đồng chí đó lâu rồi. Anh đừng bận tâm đến việc của tôi, ảnh hưởng đến công việc của anh.
    Anh Linh lại khóc.
    Một sức ép khác, là căn nhà của tôi ở Hải Phòng, tôi đã trả thành phố. Còn căn nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần tôi mượn ở tạm, khi Nhà nước chưa xếp nhà cho tôi theo tiêu chuẩn. Mà cái nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần do tôi xây dựng bằng số tiền đền của công ti Du lịch vì xây nhà làm ảnh hưởng đến nhà tôi đang ở, cộng thêm 10 triệu kinh phí của Bộ, xây dựng làm chỗ làm việc cho Bộ trưởng. Nhưng lúc đó không hiểu sao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cử cán bộ đến thúc giục tôi phải di chuyển ngay vì Đại hội đến nơi rồi... Tôi biên thư trả lời, đại ý nói: ?oKhi việc tày đình đối với tôi là chuyện vu khống bỉ ổi việc tôi bị bắt, bị tù... sao các đồng chí không giải quyết? Còn cái nhà nó sù sù ra đấy, không cho tôi ở, tôi sẽ đi nơi khác. Nay chưa có nhà, tôi ra đường đứng hay sao? Các đồng chí không nên giục tôi. Tôi là người ?oTri sỉ?, không táng tận lương tâm cướp nhà của Nhà nước đâu. Mà cướp cũng không được với các đồng chí?.
    Thế mới yên. Cho đến khi có công văn chính thức của Bộ Thương mại giải quyết cho tôi xây nhà, tôi đi ngay, không chần chừ một ngày. Nghĩ lại cái khẩu hiệu ?oMình vì mọi người, mọi người vì mình? tôi thấy nó ?orỗng?, ngay cả giữa đồng chí với nhau.
    Nhưng nhà tôi, cô Phí Thị Tâm không giữ được bình tĩnh, đã đem đốt hết Huân chương, bằng khen của cả hai vợ chồng, một bó to bằng bắp đùi. Khi tôi biết chuyện liền trách nhà tôi: ?oSao em vội vàng thế? Làm thế có ích gì. Có khi người ta lại hiểu lầm...? Nhà tôi to tiếng: ?oSắp ra đứng đường còn nhà đâu mà treo huân chương, huy chương, bằng khen. Em đốt đi để dọn nhà cho nhanh gọn?. Rồi nhà tôi khóc. Tôi bảo: ?oKhóc là không có bản lĩnh. Họ đối với mình như vậy, mình bình tĩnh xử lí, chân lí sẽ thuộc về mình. Nếu mình làm khác thì mình cũng như họ thôi. Em nên bình bĩnh. Còn anh Mười đối với anh, anh đã bảo em là ?oNhân dục vô nhai?, anh ở địa vị anh Mười có khi anh cũng làm như anh Mười?. Nhà tôi lại to tiếng với tôi: ?oAnh đừng lấy anh ra để an ủi em. Em ở với anh gần 50 năm, đã có 4 mặt con, em hiểu anh không bao giờ làm những điều thất đức như các anh khác đâu. Anh đúng lấy việc đó ra nói với em, để em bớt giận. Anh hi sinh cho đất nước thế nào, dám chết, dám bỏ chức vụ nhường quyền cho người khác, không hề tranh chấp với bất cứ ai về quyền lợi, em biết rõ chứ. Sao anh tự hạ thấp anh xuống, ví anh cũng như họ là thế nào? Mai em sẽ đến chất vấn ông Nguyễn Văn Linh về việc này?. Tôi nói: ?oAnh Linh quý anh lắm em đừng làm phiền anh Linh và làm ồn ào sự việc. Chẳng hay ho gì cho Đảng, cho các anh ấy khi đang lãnh đạo đất nước...?.
    Từ đó nhà tôi phát bệnh. Hết bệnh này đến bệnh khác. Đến 3-5-1999 (tức 18-3 Quý Mão) nhà tôi qua đời, chưa được đến ở ngôi nhà mới 216 Đội Cấn mà cách mạng đem lại hạnh phúc cho chúng tôi.
    Trong những tháng nhà tôi ốm đau, không rõ đồng chí Lê Đăng Doanh báo cáo với anh Mười thế nào, một hôm đồng chí Lê Đăng Doanh bảo tôi: ?oChiều hôm nay khoảng 5 giờ, anh Mười đến thăm chị Tâm. Anh ở nhà đón ông ấy một tí? Tôi trả lời: ?oTất nhiên tôi ở nhà đón anh Mười?. Tới đợi gần 6 giờ, anh Mười không thấy đến. Tôi nghĩ chắc lại có việc đột xuất. Lúc đó tôi có điện thoại của ông lang Chấn, ở Hoàng Hoa Thám gọi đến lấy thuốc. Tôi đi đến nhà ông lang Chấn lấy thuốc xong về ngay. Về đến nhà thì anh Mười đến thăm nhà tôi vừa về. Tôi hỏi qua nhà tôi, nhà tôi bảo: ?oEm không dậy được, chỉ ngồi nói chuyện với anh Mười một vài câu, rồi anh Mười về?. Tôi vội đi xe lại nhà anh Mười để cảm ơn và nói rõ sự vắng mặt, kẻo anh hiểu lầm. Anh bảo tôi sang ngay anh Trần Vỹ, nguyên Chủ tịch UBND Hà Nội hỏi về chữa bệnh ?otiểu đường?. Anh Mười lại gọi điện cho anh Trần Vỹ để tôi đến đỡ bất ngờ. Tôi cảm ơn anh Mười đã đến thăm nhà tôi, rồi tôi vội đi ngay đến nhà anh Trần Vỹ. Anh Vỹ hướng dẫn tôi chữa bệnh ?otiểu đường? bằng cách uống nước chè tươi. Giã chè tươi, pha với nước sôi để nguội rồi uống ngày 3 lần. Tôi ngồi nói chuyện với anh Trần Vỹ khoảng 15 phút, rồi về làm theo sự chỉ dẫn của anh Trần Vỹ ngay tối hôm đó.
    Khi nhà tôi qua đời, anh Đỗ Mười công tác tại thành phố Hồ Chí Minh, cũng gửi điện chia buồn với gia đình tôi.
    Khi Đại hội 7 họp, một số đoàn vẫn giới thiệu tôi ứng cử vào ban chấp hành. Tôi nghĩ Trung ương khoá 6 không giới thiệu tôi, nên tôi gặp báo cáo với anh Nguyễn Văn Linh xin rút khỏi danh sách ứng cử cho đúng ý thức kỉ luật. Anh Linh bảo tôi: ?oCứ để vậy, đừng rút?. Khi bầu tôi được hơn 260 phiếu đạt hơn 25% số đại biểu đi dự Đại hội. Các đồng chí ứng cử tự do không ai trúng cử. Hai đồng chí được Trung ương giới thiệu cũng không trúng.
    Trước khi họp Đại hội 7 vấn đề tiểu sử của anh Văn cũng lại được đem ra thảo luận, có thêm một vài việc mới, thiếu cứ liệu. Có một hôm anh Văn họp Trung ương khoá 6, anh Văn phải đứng lên thanh minh cho mình và nói: ?oMột vị tướng cầm quân đánh thắng ở Điện Biên Phủ mà còn bị nghi ngờ thân Pháp...? Giọng nói của anh vừa rung động vừa chân thành. Tôi thực sự không cầm được nước mắt. Tôi nghĩ nội bộ với nhau, cứ thắng thắn bảo nhau, ai làm thì làm, ai nghỉ thì nghỉ, giữ sao cho được tình cảm chân thành là chính, chả thế một nhà thơ đã viết:
    Tất cả trên đời đều trôi nổi,
    Còn lại non sông một chữ tình...

    Với tinh thần đó, trong khoá 6 đã hai lần tôi phát biểu tại phiên họp toàn thể của Trung ương là: ?oKhi cần, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cứ gọi điện cho tôi, là tôi nghỉ ngay, không cần phải giải thích vì sao.?

    Xem tiếp

Chia sẻ trang này