1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

:: Làm quen với những đường phố Đất Cảng ::

Chủ đề trong 'Hải Phòng' bởi gianghobenbinh, 13/03/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Ký Con

    Ký Con kéo dài từ phố Tam Bạc đến phố Quang Trung, dài 210m, rộng 10m, cắt qua các phố Tôn Đản, Lý Thường Kiệt, Phan Bội Châu. Vỉa hè dài 190m, rộng 5m. Hệ thống thoát nước đoạn Tam Bạc - Phan Bội Châu dài 125m, đặt cống hộp 500 x 600mm; đoạn Phan Bội Châu - Quang Trung dài 90m, đặt cống ~ 500mm.

    Phố thuộc đất bãi xã An Biên trước kia. So với các phố nằm song song với phố Ký Con trong khu vực thì phố này có chiều rộng hơn cả. Tuy nhiên, việc buôn bán lại không sầm uất bằng các phố khác.

    Lúc mới mở phố được gọi là Phúc Châu (Rue Fou Tchéou). Sau Cách mạng tháng Tám, phố được đổi gọi là phố Phan Thanh Giản. Năm 1954 gọi là phố Hoàng Hoa Thám, thuộc khu Trung Ương. Sau giải phóng đổi là phố Ký Con.

    Thời Pháp thuộc, đây là phố buôn bán tương đối sầm uất của Hoa Kiều. Gần đây phố chủ yếu là chỗ ở của dân, không có cơ sở kinh tế quan trọng nào.
    Phố Kỳ Đồng

    Kỳ Đồng kéo dài từ phố Hoàng Văn Thụ đến phố Lý Thường Kiệt, dài 235m, rộng 6m, vỉa hè dài 235m, cả hai bên rộng 3m. Hệ thống thoát nước dài 235m đặt cống hộp 500 x 600mm.

    Phố dựng trên đất xã An Biên cũ. Trước giải phóng thuộc khu Trung Ương. Đây là một phố nhỏ, yên tĩnh. Lúc mới mở gọi là Ap-ba-di (Rue Abbadie). Tuy nhiên, nhân dân ta quen gọi là phố Nhà Lốp vì lúc đầu ở đây chỉ có kho chứa lốp của một hãng buôn Pháp.

    Sau Cách mạng Tháng 8, phố Ap-ba-di hợp với phố Giăng Đuypuy (Rue Jean Dupuis) và được gọi là phố Quang Trung. Khi Pháp trở lại xâm lược, hai phố lại được tách ra. Năm 1954, phố được đổi tên như hiện nay.

    Theo bản đồ qui hoạch thành phố năm 1887, phố Kỳ Đồng thẳng chứ không gấp khúc, hướng lên phía Tây Bắc ở đoạn giáp với phố Lý Thường Kiệt như hiện nay.

    Ở giữa phố, cho đến trước ngày tiếp quản vẫn còn một khoảng đất hoang lớn thông sang tới sát phố Phan Bội Châu. Năm 1953 xảy ra cháy lớn ở phố, lửa thiêu trụi toàn bộ những nhà tranh vách đất của nhân dân nghèo trên phố.

    Ở phố có ngõ Chè Chai, ngõ này thông suốt và chạy song song với phố Hoàng Văn Thụ, đầu kia của ngõ tới gần phố Trần Quang Khải. Trước đây là ngõ của nhân dân lao động, nhiều người sống bằng nghề chè chai lông vịtttt.

    Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, phố bị tàn phá. Ở ngã ba với phố Hoàng Văn Thụ, nhiều nhà bị đổ. Ngày nay, phố đã có thêm nhiều nhà mới xây và sầm uất hơn trước đây.
    Đường Hùng Vương

    Đường kéo dài tư cầu Tam Bạc (còn gọi là cầu Quay hoặc cầu Xe lửa) đến ngã ba với đường Tôn Đức Thắng và Quốc lộ 5 ở ngã ba Sở Dầu, dài 2040m, qua đầu đường Chi Lăng và đường Bạch Đằng. Đoạn từ cầu Tam Bạc đến ngã ba Thượng Lý nhân dân quen gọi là đường Mới. Có tài liệu chỉ tính đường Hùng Vương là đoạn này, dài 940m, rộng 8m.

    Đường Hùng Vương thuộc đất xã Hạ Lý và Thượng Lý cũ. Do nhu cầu của việc khai thác thuộc địa đầu thế kỷ XX, Pháp đã xây dựng tuyến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội chạy qua khu vực này và đưa vào sử dụng từ năm 1902. Toàn bộ đường Hùng Vương chạy song song với cung đường sắt từ cầu Quay đến An Lạc cũ, nay thuộc phường Sở Dầu.

    Cuối đường Hùng Vương là sở Dầu, vốn là bãi Vân nam cũ. Để phục vụ cho việc xây dựng tuyến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội - Vân Nam. Công ty Pháp hoả xã Hải Phòng - Vân Nam đã mua một khoảng đất của làng Thượng Lý và An Lạc để làm kho tập kết tà vẹt, đường ray... Bãi này gọi là bãi Vân Nam.

    Dân cư hai bên đường Hùng Vương trước đây thưa thớt. Ở ngã ba Thượng Lý trước kia có chùa Hạ Lý và đình Hạ Lý. Sau năm 1972, sông được hút bùn, tôn cao mặt bằng, mở rộng địa bàn cư trú cho nhân dân, sau đó lập thành phường Trại Chuối. Đường Hùng Vương chạy giữa địa bàn hai phường Thượng Lý và Trại Chuối.
    Đường Hùng Duệ Vương

    Hùng Duệ Vương kéo dài từ đường Bạch Đằng đến đường Chi Lăng, dài khoảng 703m, rộng 4,5m, không có vỉa hè. Nhân dân thường gọi nhầm là phố Hồng Duệ Vương.

    Đường này thuộc đất xã Hạ Lí cũ, nay thuộc phường Thượng Lý, mới được mở sau ngày tiếp quản. Khu chợ Hạ Lý hiện nay vốn là nền đình Hạ. Đình này đã bị chiến tranh tàn phá.

    Đây là một đường nhỏ, không có vỉa hè, hệ thống thoát nước cũng khá đơn giản, nhiều chỗ do nhân dân tự làm. Cư dân chủ yếu là người lao động, trong đó phần đông các nhà có người làm ở Nhà máy xi măng.

    Trên đường này có xí nghiệp 692 của ngành xây dựng, Công ty xây lắp, Trường phổ thông cơ sở cấp I và II Ngô Gia Tự. Ở điểm tiếp giáp với đường Chi Lăng là Nhà máy Đóng tàu Sông Cấm.

    Năm 1991, đường này mới được trải nhựa bổ sung, từ ngã ba với đường Nguyễn Hồng Quân đến khu vực Nhà máy đóng tàu Sông Cấm.

    Vốn là một xóm thợ nên trước Cách mạng, nơi đây có nhiều cơ sở cách mạng, những đảng viên xuất thân từ tầng lớp trí thức đã thực hiện việc vô sản hoá xóm thợ này.



    The world is small.Mai anh về em nhé.
  2. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Hồ Xuân Hương

    Phố Hồ Xuân Hương kéo dài từ phố Đinh Tiên Hoàng đến phố Lý Tự Trọng, dài 420m, rộng 6m. Vỉa hè hai bên phố dài 400m, rộng 3m. Hệ thống thoát nước dài 390m, đặt cống hộp 500 x 600mm, cắt qua phố Lê Đại Hành và Minh Khai.

    Phố thuộc địa phận xã Gia Viên cũ, trước giải phóng thuộc khu Trung Ương. Lúc mới mở phố có tên là Đôminê (Rue Dominé). Sau Cách mạng Tháng 8, phố đổi tên là Tán Thuật. Năm 1954 đổi gọi là phố Lữ Gia. Sau giải phóng phố mang tên như hiện nay.

    Ngay buổi đầu hình thành, vì gần cảng, các cơ quan an ninh và cơ quan chính quyền của Pháp, lại yên tĩnh nên nhiều công chức và nhà tư sản lớn người Pháp đã chọn phố này làm nhà riêng. Do vậy phố này có nhiều biệt thự đẹp. Nay những biệt thự đẹp đã được sử dụng làm trụ sở của một số cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, chỉ có ít nhà dân ở trên phố. Cùng với những biệt thự đẹp, không gian yên tĩnh là hai hàng cây xanh, tât cả tạo nên phố Hồ Xuân Hương đẹp và lãng mạn của Hải Phòng.
    Đường Hồ Sen

    Từ phố Tô Hiệu đến phố Nguyễn Công Trứ, dài 610m. Đoạn từ phố Tô Hiệu đến phố Chợ Con dài 155m, rộng 11; đoạn từ phố Chợ Con đến phố Nguyễn Công Trứ dài 455m, rộng 6m. Vỉa hè đoạn từ phố Tô Hiệu đến ngã ba với đường Dư Hàng bên trái dài 13m, rộng 2,5m, bên phải dài 201m, rộng 3m; đoạn cuối chưa hình thành vỉa hè. Hệ thống thoát nước từ phố Tô Hiệu đến miệng xẻ Hồ Sen dài 152m đặt cống F1000mm dưới lòng đường sát mép hè phải.

    Vùng Hồ Sen vốn là khu hồ ao của xã Hàng Kênh cũ. Cho đến năm 1925 vùng này vẫn là ngoại vi thành phố, Năm 1926 trên bản đồ qui hoạch thành phố, đường Hồ Sen nằm trong dự kiến sẽ được mở trong tương lai nhưng cho đến tận thời tạm chiếm (1947- 5/1955) vẫn chưa triển khai được bao nhiêu và nơi đây vẫn chỉ có một con đường mòn ngoằn ngoèo chạy qua một vùng đầm ao rộng.
    Trước khi tiếp quản đoạn từ ngã tư Trạí Cau đến ngã ba Hồ Sen - Chợ Con vẫn thuộc phố Chợ Con, thuộc khu Dư Hàng. Sau khi ta chính thức lập đường Hồ Sen đoạn nói trên mới được đưa về đường Hồ Sen.
    Hồ Sen trước đây trồng sen, ngoài ra những nhà ven hồ còn thả bèo, rau cần, rau dút, rau muống... nên hồ đem lại nguồn lợi không nhỏ cho nhân dân quanh hồ trong một thời gian khá dài. Khoảng mươi năm gần đây hồ hết sen, các loại rau cũng ít được thả.
    Cuối đường có Từ Vũ thờ Vũ Chí Thắng là người địa phương, đã theo giúp Trần Hưng Đạo làm nên chiến thắng Bạch Đằng năm 1288. Sau khi qua đời được nhân dân lập đền thờ.
    Gần đây trên vùng đất này đã mọc lên nhiều tòa nhà và nhiều công trình khá đẹp như Trung tâm du lịch công đoàn, cơ sở của Công ti xây dựng... Hồ Sen được nạo vét và kè lại, sẽ trở thành một trong nhưng nơi có cảnh quan đẹp của thành phố trong nay mai.
    Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ngã tư Trại Cau là một trong những tuyến phòng ngự của ta, chặn không cho địch triển khai chiến sự ra vùng ngoại vi thành phố. Ở đây cọc đóng ken dày bằng các thanh đường ray, thanh sắt và gỗ cây cao hai, ba mét để chống xe cơ giới Pháp.
    Trong chiến tranh phá hoại của Mĩ bến xe ôtô đi Hà Nội và một số tuyến khác có thời gian đã đặt gần ngã ba Hồ Sen - Chợ Con để tránh sự tập trung đông người ở những nơi công cộng, đồng thời tạo thuận tiện cho nhân dân.

    The world is small.Mai anh về em nhé.
  3. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Hoàng Văn Thụ

    Từ bến Ngự trên bờ sông Cấm đến ngã tư với phố Cầu Đất - Trần Phú, dài 1015m, rộng 10m. Vỉa hè hai bên dài 900m, rộng 5m. Hệ thống thoát nước dài 940m, đặt cống hộp 500 x 600mm, cắt qua các phố Thất Khê, Nguyễn Tri Phương, Điện Biên Phủ, Trần Quang Khải, Kì Đồng, Phan Bội Châu, Trần Hưng Đạo.

    Phố thuộc xã Gia Viên cũ. Trước giải phóng thuộc khu Trung Ương. Đây là một phố chính, đóng vai trò quan trọng về giao thông và đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố.
    Lúc mới mở phố gọi là đại lộ Amiran Cuốchê (Boulevard Amiral Courbet) tức đại lộ Đô đốc Cuốcbê. Sau cách mạng tháng Tám đổi gọi là đại lộ Trần Phú. Năm 1954 đổi gọi là đại lộ Trần Thái Tôn. Sau giải phóng mang tên Hoàng Văn Thụ.
    Từ trước đến nay Hoàng Văn Thụ luôn luôn là phố buôn bán sầm uất, đông vui vào loại hàng đầu trong thành phố. Thời Pháp thuộc và tạm bị chiếm ở đây có những hang buôn Iớn như : Sápphănggiông, Phúc Vinh Xương... Hiệu thuốc Vũ Đô Hồ, tiệm may Tân Tân, tiệm may Gi Long cũng là các cửa hiệu có tên tuổi. Trên phố còn có nhiều hiệu ảnh lớn. Rạp chiếu bóng Vĩnh Lợi (nay là 1-5) khai trương năm 1952 và rạp Luymino (Luminor), nay là hiệu sách quốc doanh và kho của Công ty Phát hành sách Hải Phòng cũng đặt trên phố này. Rạp 1-5 là rạp lớn nhất thành phố hồi đó, cũng là rạp đầu tiên được lắp máy điều hòa nhiệt độ vào những năm 80. Hiệu kem và giải khát Thủy Tinh (hiệu Tam Hoàn hiện nay) là một tòa nhà vào loại đẹp lúc ấy.
    Ở ngã tư với đại lộ Pôn Be (nay là phố Điện Biên Phủ) có một số hang buôn và ngân hàng của người Âu.
    Bến Ngự là điểm mút của phố Hoàng Văn Thụ. Tại đây có cầu tàu được xây dựng vào năm 1896. Vua Nguyễn Khải Định trong dịp kinh lí Bắc Kì qua Hải Phòng đã dừng chân ở đây vào tháng 5/1918 nên cầu gọi là cầu Ngự. Cầu này còn có tên là cầu Bệnh Viện hay cầu Muối. Cầu Ngự cũng là nơi chiếc tầu Đuymông Đuyếcvin (Dumont Durville) đưa Hồ Chủ tịch sang thăm Pháp về nước đã cập bến ngày 19/10/1946. Lễ đón được tổ chức trọng thể tại đây. Sau đó Hồ Chủ tịch lên xe ô tô theo đường Hoàng Văn Thụ (lúc đó gọi là đạl lộ Trần Phú) vào nội thành trong sự hân hoan đón chào của nhân dân suốt dọc đường.
    Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, phố này bị đánh phá ác liệt.
    Phố Hoàng Ngân

    Từ phố Tam Bạc đến phố Quang Trung, dài 2001n. Đoạn Tam Bạc Phan Bội Châu dài 115m, rộng 10m; đoạn Phan Bội Châu - Quang Trung dài 85m, rộng 6m. Hệ thống thoát nước đoạn Tam Bạc - Phan Bội Châu dài 115m, đặt cống hộp 400 x 500mm; đoạn Phan Bội Châu - Quang Trung dài 85m, đặt cống F400mm. Phố thuộc đất bãi xã An Biên cũ.

    Lúc mới mở tên là phố Sài Gòn (Rue de Saigon). Năm 1954 đổi gọi là phố Nguyễn Du thuộc khu Trung Ương... Sau giải phóng mang tên Hoàng Ngân.
    Thời Pháp thuộc phố này nằm trong khu vực sinh sống của người Hoa.
    Trên phố có đền Nhà Bà của Hoa Kiều. Vì là nơi thờ ba người phụ nữ Trung Hoa nên nhân dân ta quen gọi là đền Nhà Bà. Đền được dụng vào cuối thế XIX. Hồi đó do chủ trương của triều Tự Đức chiêu tập thương nhân Việt Nam và Hoa Kiều nên người Hoa đã tới đây sinh sống và buôn bán ngày một đông. Họ xây dựng đền Nhà Bà, vừa để thờ cúng, vừa lấy làm nơi hội họp, vui chơi. Do vậy đền còn có tên gọi khác là Hoa thương hội quán. Đây là công trình kiến trúc khá lớn xây theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc'''' bao gồm tám ngôi nhà với tám bộ mái đan xen liên tiếp nhau tạo ra cảm giác tầng tầng lớp lớp. Các bộ vỉ vỏ cua nối các lòng nhà với nhau thành khoảng không gian khép kín nên khi đứng trong nhà có cảm giác đứng giữa một ngôi nhà lớn chứ không phải tám ngôi nhà ghép lại. Cấu trúc vì kèo theo kiểu giả thư như kiểu cung đình ở Huế. Các bức cuốn diềm mái, cột kèo đều chạm khắc tinh vi hình hoa lá hoặc theo các đề tài của tích cổ Trung Quốc. Mái lợp ngói âm dương. Đền chia làm hai khu vực : một nơi thờ các bà, một nơi thờ Mã Viện, Quan Vũ, hai võ tướng đời Đông Hán và Tam Quốc. Theo tấm bia trong đền thì năm Thành Thái thứ ba (1891) đền được trùng tu.
    Ngày 8 - 5 - 1985 khu vực đền được xây dựng thành trung tâm buôn bán, sau gọi là chợ Tam Bạc.
    Năm 1991, đoạn đường từ phố Lí Thường Kiệt đến phố Phan Bội Châu đã cải tạo thành chợ Tam Bạc mở rộng. Hiện nay một ngôi nhà lớn ở đây đã hoàn thành với cột nhà bằng sắt, mái lợp tôn. Do vậy phố Hoàng Ngân trên thực tế chỉ còn hai đoạn ngắn ở hai đầu phố. Việc buôn bán ở chợ này và vùng xung quanh, kể cả dưới lòng đường diễn ra sầm uất, nhộn nhịp suốt ngày đêm


    The world is small.Mai anh về em nhé.
  4. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0

    Ảnh sưu tầm: phố Phan Bội Châu thời Pháp (Tên cũ là Rue
    Chinoise)
    The world is small.Mai anh về em nhé.
  5. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Hoàng Diệu

    Từ phố Trần Phú đến ngã tư Đinh Tiên Hoàng -Nguyễn Tri Phương, dài 715m, đoạn từ Đinh Tiên Hoàng đến phố Lê Đại Hành rộng 9m; đoạn từ phố Lê Đại Hành đến phố Trần Hưng Đạo rộng 12m, đoạn từ phố Trần Hưng Đạo đến phố Trần Phú rộng 20m. Vỉa hè nói chung có chiều rộng 5m, riêng đoạn hè phải từ phố Lê Đại Hành đến phố Trần Hưng Đạo rộng 2,5m. Qua đầu các phố : Trần Hưng Đạo, Lí Tự Trọng, Minh Khai, Lê Đại Hành. Hệ thống thoát nước cũ dài 465m, đặt cống hộp 500 x 800mm. Cuối năm 1992 thay bằng cống F1200mm.

    Phố Hoàng Diệu thuộc đất xã Gia Viên cũ, ở trong khu nhượng địa đầu tiên cho Pháp sau hiệp ước Giáp Tuất. Phố ra đời sớm khi Công ty Đốc (Dock) bắt đầu xây dựng và mở rộng Cảng Hải Phòng.
    Lúc mới mở phố gọi là đại lộ Rêpuyblic (Boulevard de la République) có nghĩa là Nền Cộng hòa. Trong thời tạm chiếm phố thuộc khu Trung Ương. Sau cách mạng tháng Tám đổi gọi là đại lộ Hùng Vương. Từ năm 1954 gọi là phố Hoàng Diệu.
    Năm 1954, đại lộ Cộng hòa còn kéo dài thêm từ phố Savátsiơ đến đê cửa Cấm, gọi là đại lộ Cộng hòa kéo dài (Bd. de la République Prolongé). Đại lộ Cộng hòa kéo dài nói trên sau đó đổi là phố Trần Khánh Dư, một phần của phố này hiện nay nằm vào đường bao phía Bắc (đường Lê Thánh Tông). Đoạn kéo dài nói trên thời tạm chiếm thuộc khu Ga.
    Phố Hoàng Diệu thời Pháp thuộc tập trung nhiều cơ sở kinh tế và chính trị, đặc biệt là những cơ quan, những hãng liên quan tới Cảng và các kho ở Cảng. Hãng Ltlyxia (L''ucia), kho Bạch Thái Bưởi, Ti cảnh sát Pháp cũng đặt trên phố này.
    Phố Hoàng Diệu còn có trụ sở của Uỷ ban nhân dân thành phố, công ty Chiếu sáng công cộng, Nhà máy nhựa Bạch Đằng (trước là một phân xưởng của nhà máy nhựa Thiếu niên Tiền phong), Cục dự trữ quốc gia, Ngân hàng ngoại thương...
    Tòa Thị chính thành phố, sau đổi tên là tòa Đốc lí, nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố được xây dựng ngay gần bờ sông Cấm, sát bến Ngự, trên đất nhượng địa đầu tiên của Pháp. Đây chính là địa điểm của đình làng Gia Viên cũ. Tòa nhà được hoàn thành năm 1905. Mặt chính của nhà quay hướng Bắc, sau này đổi thành hướng Nam như hiện nay. Tuy nhiên căn cứ vào những bức ảnh cũ còn giữ lại được thì các công trình kiến trúc trong khu Thị chính giờ đây không còn như lúc ban đầu, trải qua nhiều lần tu bổ, gần đây nhất là vào năm 1993, khu nhà đã khác trước rất nhiều. Năm 1946, Hồ Chủ tịch đã làm việc ở đây khi Người sang thăm Pháp về. Tháng 11/1946 trong bảy ngày đêm chống trả quân đội Pháp gây hấn, đơn vị bảo vệ Tòa Đốc lí chiến đấu dũng cảm và đã hi sinh oanh liệt, gây cho địch nhiều tổn thất.
    Phố Hạ Lý

    Từ chân cầu Lạc Long chạy theo tả ngạn sông Tam Bạc, nối với phố Chương Dương, dài 1.123m, rộng 5,8m. Qua đầu phố Phạm Phú Thứ và phố Cao Thắng. Vỉa hè cả hai bên đều rộng 2m, riêng đoạn cuối chưa có. Địa bàn phố Hạ Lí thuộc xã Hạ Lí cũ. Trước giải phóng thuộc khu Hạ Lí.

    Lúc mới mở có tên là phố Marin (Rue de la Marine) nghĩa là phố thủy quân. Sở dĩ có tên này vì khi đó phố còn kéo dài qua dốc chân cầu Lạc Long, tới tận nhà máy X46 của Hải quân hiện nay, giáp với phố Ácsênan (Rue d'' Arsenal) hồi đó. Như vậy, một phần của phố Phan Đình Phùng bây giờ, lúc mới mở thuộc phố Marin, sau đó mới nhập vào như hiện nay. Phố ra đời sớm, trong một tài liệu của Pháp năm 1891 đã thấy nhắc đến.
    Sau cách mạng tháng Tám phố được gọi là phố Hạ Lí. Năm 1954 đổi gọi là phố Phạm Phú Thứ. Sau giải phóng gọi lại là phố Hạ Lí, tên của Phạm Phú Thứ được chuyển cho phố Phạm Phú Thứ hiện nay.
    Năm 1874, ngoài người Việt vốn có từ trước, người Hoa tập trung khá đông ở tả ngạn sông Tam Bạc. Họ làm nhà cửa, lập phố xá buôn bán. Phố còn là nơi cư trú của một số gia đình làm nghề thủ công từ Chuyên Mĩ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây tới. Sau này cùng với quá trình khai thác thuộc địa với qui mô lớn của Pháp tạl Hải Phòng, phố trở thành nơi tập trung công nhân của các nhà máy gần đó như Xi - măng, phốt phát, xay gạo, đóng tàu thuyền... cho nên nơi đây dần dần mang những nét của một xóm thợ.
    Hãng Sacric thành lập năm 1882 là hãng có tàu chở khách và tàu lai, sà lan chở hàng, có xưởng đóng tàu và sửa chữa tàu thủy. Nay cơ sở của hãng là nhà máy đóng tàu Tam Bạc. Văn phòng hãng Đăngxét (Dancette) đặt ở phố Hạ Lí (nay cơ sở của Hãng là nhà máy Điện Cơ) còn nhà xưởng thì đặt ở bên phố Phan Đình Phùng hiện nay. Ở ngã ba sông đào Hạ Lí và sông Tam Bạc có sở Phốt phát. Xưởng hải quân X46 nay trên phố Phan Đình Phùng, trước kia cũng thuộc địa bàn phố Marin. Trường tiểu học Pháp - Việt Hạ Lí là một trường công có khá sớm ở Hải Phòng, được xây dựng vào khoảng năm 1929 - 1930.
    Năm 1931 kỷ niệm ngày sinh Lênin, công hội Đỏ và quần chúng cách mạng đã tổ chức treo cờ và khẩu hiệu Ủng hộ Liên bang Xô viết". "Công nông binh Đông Dương liên hiệp'''' tại cầu Giốp (cầu Lạc Long). Cơ quan ấn loát của Xứ ủy Bắc Kỳ đặt tại nhà số 2 phố này và cũng là cơ sở cách mạng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ...
    Hiện nay trên phố có những cơ sở sản xuất như nhà máy đóng tàu Tam Bạc, Điện Cơ, Đúc Tân Long. Nhà máy đóng tàu Tam Bạc chính là nơi đã cho ra đời những cơn tàu không số trên đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần vào cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.


    The world is small.Mai anh về em nhé.
  6. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Ảnh sư tầm : Sông Tam Bạc thời Pháp thuộc.
    Được gianghobenbinh sửa chữa / chuyển vào 09:09 ngày 19/03/2004
  7. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Hàng Kênh

    Từ phố Tô Hiệu qua đầu các phố Chợ Con, Nguyễn Công Trứ, Đình Đông đến chợ Hàng cũ, dài 904m, rộng 8,5m. Vỉa hè đoạn Tô Hiệu - Nguyễn Công Trứ dài 480m, bên trái rộng 4m, bên phải rộng 3m; đoạn Nguyễn Công Trứ - Bốt Tròn cũ bên trái dài 360m, bên phải dài 365m, cả hai bên đều rộng 3,5m. Hệ thống thoát nước đoạn Tô Hiệu - Nguyễn Cộng Trứ dài 490m đặt cống F600mm dưới lòng đường; đoạn Nguyễn Công Trứ - Bốt Tròn dài 365m đặt cống hộp 500 x 600mm duới hè phải.

    Phố thuộc đất xã Hàng Kênh cũ. Lúc mới mở đã gọi là đường Hàng Kênh. Trước giải phóng thuộc khu Hàng Kênh.
    Phố vốn là con đường làng chạy qua nhiều đầm, hồ và bãi cỏ hoang. Ngày 25/2/1925 Hội đồng thành phố xét đơn xin rải đá, mắc đèn công cộng, xây cống và đánh số nhà cho đường Hàng Kênh. Cho đến năm 1945 hai bên phố nhà cửa vẫn chưa được đông đúc.
    Năm 1929, nhà máy thảm len Hàng Kênh (Manufacture du Tapis de Hàng Kênh) ra đời, do hai tư sản người Pháp là Phêniét (Fénies) và Guynloa (Guilloie) đầu tư xây dựng.
    Hai nhà tư sản này đã lấy được bí quyết nghề dệt thảm của nhà tư sản Pháp Tuyniê (Tunier), chủ hãng Texo ở Hà Nội rồi đưa xuống Hải Phòng. Họ thu nạp một số thợ dệt thảm ở Hà Nội xuống Hải Phòng đồng thời còn đào tạo thêm lớp thợ mới người địa phương về các khâu kĩ thuật: vẽ nhuộm, dệt, tỉa sửa thảm. Từ năm 1931 đến 1945 sản phẩm của Tapis Hàng Kênh đã nổi tiếng trên thị trường thế giới vượt cả thảm Trung Quốc.
    Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, phố Hàng Kênh là một trong những điểm chốt của ta nhằm cản bước tiến của Pháp đánh ra vùng ngoại vi thành phố. Tại ngã ba Chợ Con - Hàng Kênh, một cứ điểm của ta đặt tại đây đã đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của Pháp vào cuối tháng 11-1946.
    Sau ngày Hải Phòng giải phóng, phố Hàng Kênh là nơi tập trung dân cư với mật độ cao. Một số cơ sở kinh tế, công nghiệp nhẹ cũng được xây dựng tại đây như Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất da giày xuất khẩu, hợp tác xã cơ khí Toàn Thắng...
    Bến Hàm Tử

    Từ đầu cầu Quay đến phố Trần Nguyên Hãn (Bản đồ thời Pháp thường ghi từ phố Tam Kì đến phố Hải Dương), dài 476m, rộng 4m. Bến thuộc đất xã An Dương, trước giải phóng thuộc khu Đường Cát. Tuy chỉ là bến tàu sông nội địa nhưng ở vào vị trí gần các chợ Sắt, An Dương và nằm ở địa đầu ngã ba sông nên trước kia bến này cũng khá sầm uất, tấp nập cảnh trên bến dưới thuyền.

    Bến lúc mới mở gọi là Keđờ l''abatoa (Quai de Lábattoir) nghĩa là bến Lò sát sinh, vì đầu bến nối tiếp với phố Abattoir. Nhân dân quen gọi là bến Tam Kì vì đây là ngã ba sông; sau cách mạng tháng Tám dùng tên dân gian này, từ năm 1954 đổi mang tên như hiện nay.
    Bến trước kia chỉ có kho, bãi, quán trọ, kể cả lô đất ở Bệnh viện Đông Y hiện nay, nguyên là nhà thương Hoa Kiều. Công trình kiến trúc có đền Tam Kì, cũng mới xây dựng sau này, thờ một thái hậu nhà Tống, bi quân Nguyên đuổi đã nhảy xuống biển tự tận.

    Phố Hai Bà Trưng

    Từ ngã tư với phố Cầu Đất - Lương Khánh Thiện đến ngã ba với phố Trần Nguyên Hãn, dài 1.345m, rộng 7,5m. Vỉa hè đoạn từ phố Cầu Đất đến phố Cát Cụt dài 633m, rộng 6m; đoạn còn lại dài 565m, rộng 6m, cắt qua phố Mê Linh, Cát Cụt và qua đầu phố Nhà Thương. Hệ thống thoát nước đoạn từ phố Cầu đất đến ngã tư Mê Linh + 175m dài 566m, đặt cống hộp 500 x 600mm, đoạn nốì dài 50m đặt cống F600 mm, đoạn từ ngã tư Mê Linh + 225m đến ngã tư Cát Cụt dài 320m, đặt cống hộp 500 x 600mm, đoạn còn lại dài 350m, đặt cống hộp 500 x 600mm.

    Phố Hai Bà Trưng thuộc xã An Biên cũ, trước giải phóng thuộc khu Đường Cát. Lúc mới mở có tên là phố Ođăngđan (Avenue O'' d''Endhal). Sau cách mạng tháng Tám đổi gọi là phố Hoàng Văn Thụ. Năm 1954 đổi gọi là đại lộ Hai Bà Trưng. Tuy nhiên ngay từ lúc ra đời cho đến nay nhân dân quen gọi là phố Cát Dài vì đây vốn là con đường chính của làng An Dương xưa.
    Phố này được hình thành vảo khoảng cuối thế kỉ XIX. Theo bản đồ thảnh phố in trong cuốn Xứ Bắc Kì đẹp đẽ (Le Tonkin pittoresque - Michel My - Saigon Imp S. Việt, năm 1925) thì phố Cát Dài lúc đó từ phố Cầu Đất đến phố Cát Cụt, sau đó mới được kéo dài như hiện nay. Thời Pháp thuộc đây là phố của những người buôn bán nhỏ và trung bình, ngoài ra còn có một số trí thức và công chức. Phố có nhiều ngõ, sâu.
    Phố có nhiều ngõ, trong đó, có các ngõ lớn là : Thanh Quan, Trương Hán Siêu, Trí Tri, Tham Thuật, Đặng Kim Nở, Hàng Gà... Ngõ Tam Thuật trong những năm 1926 - 1930 có Cơ quan giao thông bí mật của Đảng Cộng sản. Trong thời kì Mặt trận Dân chủ 1936 - 1939, nhiều cơ sở hoạt động bán công khai của Đảng dưới hình thức cửa hàng đại lí sách báo đã hình thành ở Hải Phòng, trên phố Cát Dài có trụ sở đại lí sách báo cách mạng đặt ở nhà số 40.

    The world is small.Mai anh về em nhé.
  8. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Đường Đông Khê

    Từ cầu bắc qua kênh giáp ranh làng Gia Viên với làng Đông Khê (Cống Miếu Chè) đến đường An Đà, dài khoảng 1242m, rộng 5m. Vỉa hè và cống ngầm thoát nước chưa đặt. Đường hình thành trên cơ sở đường hàng xã cũ. Từ năm 1987 xã Đông Khê sáp nhập vào quận Ngô Quyền thì đường này thuộc mạng lưới đường phố nội thành. Tuy chưa chính thức đặt tên, nhưng dần quen gọi là đường Đông Khê theo nghĩa đường làng Đông Khê.

    Đường Đông Khê nằm trên địa bàn làng Đông Khê và thôn An Đà thuộc tổng Đông Khê, huyện An Dương trước đây, từ năm 1966 thuộc huyện An Hải cho đến khi nhập vào nội thành.
    Tuy là vùng thuộc tỉnh Kiến An thời Pháp nhưng vì ở vị trí ngoại vi nội thành nên tình hình kinh tế xã hội ở đây trong quá trình đô thị hóa đã có nhiều thay đổi. Mối quan hệ giao lưu giữa Đông Khê và thành phố diễn ra cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
    Đình Đông Khê thờ Ngô Quyền là ngôi đình lớn, kiến trúc đời Nguyễn, hiện còn khá nguyên vẹn. Đình còn mấy tấm bia đá trong đó có bia tiên hiền của tổng Đông Khê chùa An Đà, tên chữ là Linh Quang tự, trước thuộc thôn Đà Cụ xã An Biên. Chùa dựng ở cuối làng gồm ba gian nhà tranh. Năm Quí Mão đời Lê Cảnh Hưng (1785), năm Thiệu Trị thứ sáu (1845) chùa đã được tu bổ, sửa sang. Đến năm đầu đời Hàm Nghi (1885) chùa mới xây gạch, lợp ngói, gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Vài năm nay, chùa tiếp tục được tu bổ.
    Chùa Đông Khê tên chữ là Nguyệt Quang tự, một ngôi chùa cổ nổi tiếng của Hải Phòng. Chùa có từ lâu, nhưng khi Thiền sư Như Hiện thuộc dòng Lâm Tế, đời pháp thứ 37 trụ trì thì chùa Nguyệt Quang trở thành một tổ đình lớn có ảnh hưởng rộng. Thiền sư tinh thông đạo pháp, kiên trì giới hạnh, nên được sĩ thứ vô cùng kính trọng. Năm 1748, Thíền sư được vua Lê Hiển Tông ban chức Tăng cương, năm 1757 lại được sắc phong Tăng thống Thuần Giác hòa thượng.
    Dân Đông Khê có truyền thống kiên cường bất khuất. Trong sự nghiệp chống Nam Hán, chống Nguyên Mông xâm lược đã có nhiều đóng góp. Trong lịch sử chống Pháp, nhất là các phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo dân Đông Khê nhiều người tham gia. Ở đây, có cơ sở cách mạng của Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (1929), của Đảng bộ Cộng sản Hải Phòng (1930), của phong trào ái hữu thời kỳ Mặt trận Nhân dân (1986 - 1939), của phong trào *********, của Hội truyền bá Quốc ngữ (1941 - 1945). Những ngày Tổng khởi nghĩa, những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, lực lượng võ trang và nhân dân Đông Khê đã sôi nổi tham gia.
    Phố Đội Cấn

    Từ phố Lương Văn Can đến phố Lê Lợi, dài 72,5m, rộng 6m. Phố thuộc xã Gia Viên cũ. Lúc mới mở gọi là phố Bôlô (Rue Bolot). Năm 1954 đổi gọi là phố Đội Cấn, thuộc khu Ga.

    Trong thời Pháp thuộc và tạm bị chiếm, đây là một phố yên tĩnh. Nay phố đã có nhiều thay đổi trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động kinh doanh ở đây bắt đầu phát triển.


    The world is small.Mai anh về em nhé.
  9. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Đinh Tiên Hoàng

    Từ phố Nguyễn Tri Phương đến phố Trần Phú, dài 855m, rộng 10m. Cắt qua các phố Hồ Xuân Hương, Điện Biên Phủ, Trần Quang Khải, Phan Chu Trinh. Vỉa hè cả hai bên đều dài 747m, rộng 5m. Hệ thống thoát nước dài 780m, đặt cống hộp 500 x 600mm.

    Phố thuộc đất xã Gia Viên trước đây, nằm trong khu nhượng địa đầu tiên, là phố lớn của khu Trung Ương thời Pháp thuộc. Nay vẫn là một phố có tầm quan trọng trong giao thông và phát triển kinh tế, xã hội. Sau này phố được đổi gọi là đại lộ Amiran đờ Bômông (Amiral de Beaumont) tức đại lộ Đô đốc Bômông. Sau cách mạng tháng Tám đổi gọi là phố Nguyễn Thị Minh Khai. Từ năm 1954 mang tên như hiện nay.
    Thời Pháp thuộc một số cơ sở kinh tế, trị an đã đặt ở phố này như Sở Thú y, Sở Hiến binh, hãng bảo hiểm Fôven (Fauvel), hãng hàng không Pháp - Việt, trụ sở Công ty than của Bạch Thái Bưởi, hãng của Cao Bá Cam, của nhà tư sản Hoa Kiều Lai An, Hôtel Teston.
    Trường phổ thông cơ sở Hồng Bàng hiện nay, trước đây là trường Hăngri Rivie thời Pháp thuộc dành cho học sinh nam (nơi dành cho học sinh nữ là trường Nguyễn Tri Phương hiện nay).
    Trường phổ thông cơ sở Đinh Tiên Hoàng hỉện nay, trước đây là trường đạo Xanh Đôminich (Saint Dominique), trường này ra đời cùng với việc xây dựng nhà thờ thành phố, dành cho các nữ tu sĩ đến học, về sau có cho thêm, với số lượng rất hạn chế các nữ sinh không theo đạo vào học. Năm 1943 trường này bị bom Mĩ làm hư hại nặng, sau đó được tu sửa lại để tiếp tục dạy và học.
    Trên phố có rạp chiếu bóng ÊĐen (Eden) được xây dựng trước năm 1945, nay là Nhà Văn hoá trung tâm. Rạp Liđô (Lido) xây trong những năm 1947 - 1951, nay là Nhà hát Tháng Tám.
    Nhà máy Nước được xây dựng năm 1898 đã góp phần giải quyết một vấn đề nan giải của Hải Phòng buổi đầu hình thành. Nguồn nước của nhà máy phải dẫn từ Uông Bí về. Năm 1951 Mỹ viện trợ cho Pháp khoan giếng nước ở chính khu vực nhà máy nhưng chất lượng nước xấu không dùng được.
    Tại khu vực Nhà hát Tháng Tám hiện nay và Nhà hát lớn thành phố trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đã xây ra những trận đánh ác liệt. Từ ngày 20/11 đến 24/11, 17 chiến sĩ Vệ quốc đoàn trang bị một ít vũ khí và 22 chiến sĩ tuyên truyền văn hóa không có vũ khí đã chiến đấu đưới sự chỉ huy của trung đội trưởng Đặng Kim Nở bảo vệ Nhà Hát lớn. Tất cả đã hi sinh anh dũng.
    Phố Điện Biên Phủ

    Từ cầu Lạc Long đến Ngã Sáu, dài 1.255m. Đoạn cầu Lạc Long - Trần Hưng Đạo dài 915m, rộng 10m; đoạn Trần Hưng Đạo -Trần Phú dài 85m, rộng 15m; đoạn Trần Phú - Ngã Sáu dài 340m, rộng 9m. Vỉa hè toàn tuyến dài 915m cả hai bên đều rộng 4m. Hệ thống thoát nước dài 1.175m đặt cống hộp 500 x 600mm.

    Phố thuộc đất xã Gia Viên cũ. Trước giải phóng thuộc khu Trung Ương.
    Phố Điện Biên Phủ gồm hai phố trong thời Pháp thuộc gộp lại : đại lộ Pônbe (Boulevard Paul Bert) và phố Thống chế Giốp (Maréchal Joffre). Đại lộ Pônbe từ cầu Lạc Long đến ngã tư với phố Trần Phú hiện nay, phố Giốp là đoạn còn lại. Sau cách mạng tháng Tám, đại lộ Pôn Be đổi gọi là đại lộ Lê Hồng Phong.
    Cũng sau cách mạng tháng Tám, phố Giốp đổi gọi là phố Phạm Ngũ Lão. Năm 1954 đại lộ Pôn Be đổi gọi là đại lộ Hồng Bàng. Cũng năm 1954, phố Giốp đổi là phố Pháp Quốc, sau giải phóng đổi gọi là phố Điện Biên Phủ. Năm 1963 nhập đại lộ Hồng Bàng với phố Điện Biên Phủ, gọi là phố Điện Biên Phủ như hiện nay.
    Đây là phố đẹp và lớn nhất thành phố đồng thời cũng ra đời sớm. Nhận định về phố này, tập san Chấn hưng kinh tế, số ra ngày 1/11/1925 viết : "Phố Pôn Be kéo dài qua sông đào Hạ Lí cho tới đường xe lửa sẽ tạo thêm điều kiện để mở mang thành phố. Chúng tôi đã đề nghị lập một ga ở điểm này. Nó sẽ cân đối với khu Hạ Lí".
    Thời Pháp thuộc trên phố có nhiều cơ sở kinh tế quan trọng, nhiều ngân hàng, khách sạn lớn. Phố là trung tâm thương mại chủ yếu của Hải Phòng hồi đó.
    Do nằm sâu trong khu phố người Âu nên suốt thời Pháp thuộc, phố Pôn Be là nơi thực dân Pháp rất chú ý lo giữ an ninh chính trị, an toàn xã hội. Dân lao động ít khi đến phố này.

    The world is small.Mai anh về em nhé.
  10. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Ảnh sưu tầm:
    Phố Điện Biên Phủ (thời Pháp mang tên Toàn quyền Paul Bert)
    The world is small.Mai anh về em nhé.

Chia sẻ trang này