1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

:: Làm quen với những đường phố Đất Cảng ::

Chủ đề trong 'Hải Phòng' bởi gianghobenbinh, 13/03/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dotuannam

    dotuannam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/08/2003
    Bài viết:
    394
    Đã được thích:
    0
    Hoan hô bác, rất cám ơn bác đã sưu tầm được những tài liệu xưa về Hải Phòng. Những thông tin mà ko phải ai cũng biết. Bầu bác 5 sao

    Always go a step.
  2. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Đà Nẵng

    Đông giáp đường Ngô Quyền, tây giáp Ngã Sáu, dài 3225m. Đoạn Ngã Sáu -Ngã Năm dài 275m, rộng 9m; đoạn Ngã Năm - Cầu Tre dài 1200m, rộng 10,5m; đoạn Đoạn Xá - đường Ngô Quyền dài 700m, rộng 18m. Vỉa hè đoạn Ngã Sáu -Ngã Năm dài 300m, đặt cống hộp 500 x 600mm ở dưới lòng đường, cách mép bó hè phải 1,5m; đoạn Trung tâm nghiên cứu biển - Cầu Tre dài 590m đặt cống F600mm, trên vỉa hè trái.

    Phố Đà Nẵng gồm hai phố cũ hợp thành. Đoạn Ngã Sáu - Ngã Năm lúc mới mở gọi là phố inlơ (Rue de Lille), thuộc khu Ga. Sau cách mạng tháng Tám phố Linlơ đổi gọi là Trần Khánh Dư .
    Đoạn Ngã Năm trở đi ra đời muộn hơn đoạn trên, gần như song song với đường Lạc Viên cũ (Route de Lạc Viên), sau đó mang tên nhà tư sản Bạch Thái Bưởi (2). Năm 1954, phố Linlơ trước đây gọi là phố Cao Mên, tên cũ của nước Campuchia; Phố Bạch Thái Bưởi cũ đổi gọi là phố Lạc Long Quân, tên vị vua đầu tiên nước ta đời Hùng. Năm 1963 mới nhập hai phố làm một gọi là phố Đà Nẵng.
    Đà Nẵng là phố dài nhất nội thành, nằm trên đất các xã Lạc Viên, Gia Viên, Vạn Mĩ, Đoạn Xá cũ.
    Khi tiếp quản thành phố, đoạn Ngã Sáu - Ngã Năm phố xá khá đẹp, có nhiều biệt thự xinh xắn với khuôn viên rộng của các chủ nhà máy. Còn đoạn Ngã Năm - đường Ngô Quyền đường sá nhỏ hẹp, dân cư thưa thớt, nhà cửa lèo tèo, tạm bợ, mang dáng dấp nửa tỉnh nửa quê, nhiều đoạn chỉ thấy có mồ mả. Cho đến giữa những năm 60 bên kia cầu Tre còn thuộc xã Đông Hải, đằng sau trường cấp III Thái Phiên thì thuộc xã Đông Khê. Cầu Tre lúc ấy đã sửa không dùng tre nữa. Qua cầu hai bên đường là ruộng lúa nương khoai và một nghĩa địa ở phía bắc đường, cách cầu khoảng 100m. Hai bên bờ mương cầu Tre ngồn ngang mồ mả.
    Phố Đà Nẵng có một số di tích lịch sử văn hóa như đình Lạc Viên, chùa Lạc Viên, miếu Lạc Viên. Miếu đã bị bom Mĩ phá hoại hoàn toàn nay là địa điểm trường cấp I. Đình và chùa Lạc Viên vừa được sửa chữa lớn vào năm 1991.
    (Xin bổ sung một chút thông tin: Sau khi giải phóng, ở Việt Nam có phong trào kết nghĩ các thành phố anh em. Khi đó Hải Phòng kết nghĩa với Đà Nẵng, để kỉ niệm ở Hải Phòng có một phố đặt tên là Đà Nẵng và ở Đà Nẵng có một đường Hải Phòng. )
    Đường Dư Hàng



    Từ đường Hồ Sen đến đường Chùa Hàng (ngã ba chợ Hàng), dài 592m, rộng 6m. Vỉa hè đoạn từ chợ Cột Đèn đến bệnh viện Lê Chân cũ bên trái dài 226m, rộng 1,7m; đoạn từ Bệnh viện đến ngã ba đường Miếu Hai Xã bên trái dài 260m, rộng 2,6m, bên phải dài 250m, rộng 2,5m; đoạn tiếp theo cho tới đường Hồ Sen bên phải dài 80m, rộng 2,4m. Đường Dư Hàng qua đầu đường Miếu Hai Xã. Hệ thống thoát nước từ chợ Cột Đèn đến bệnh viện Lê Chân cũ dài 155m đặt cống F600mm dưới hè phải; đoạn từ bệnh viện đến đường Hồ Sen dài 426m đặt cống F600mm dưới hè trái.

    Phố thuộc đất địa đầu xã Dư Hàng cũ, tiếp giáp với xã Hàng Kênh trước đây, trước giải phóng đường Dư Hàng thuộc khu Dư Hàng.
    Lúc mới mở đường này đã có tên là đường Dư Hàng, người Pháp gọi là Rúttơ đờ Dư Hàng (Route de Dư Hàng)
    Dư Hàng là một làng cổ của Hải Phòng, đường Dư Hàng rất thưa dân. Họ chủ yếu sống bằng nghề trồng rau mang vào các chợ nội thành bán. Số làm phu xe ba gác, phu bốc vác, kéo xe tay, đạp xe xích lô... hầu hết là dân nghèo các nơi đến cư ngụ ở đây. Sau ngày giải phóng đường mới được mở rộng rải nhựa và đặt ống nước. Cuộc cải tạo lớn con đường này tiến hành vào năm 1987. Nay hai bên đường đã có nhà xây đẹp. Tuy nhiên, vì nằm ở vùng đất trũng nên vào những khi mưa lớn đường vẫn bị ngập lụt. Ở ngã ba với đường Hồ Sen có chùa Hàng Kênh: tên chữ là Phúc Quang tự, một ngôi chùa cổ, đã được trùng tu nhiều lần.
    Vì là khu của người lao động nên trước Cách mạng một số cơ sở của Dảng đã đặt ở đây. Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, đường Dư Hàng là một tuyến phòng ngự của ta, chặn đường tiến quân mở rộng vùng chiếm đóng của Pháp.

    Bến Chương Dương

    Nằm dọc theo sông đào Hạ Lí về phía hữu ngạn, song song với bến Vân Đồn ở tả ngạn sông đào này. Bến bắt đầu từ phố Hạ Lí đến bờ sông Cấm, dài 875m. Nay đoạn phố Phan Đình Phùng tiếp giáp với bến Chương Dương nằm trong nhà máy đóng tàu Bạch Đằng nên bến này là con đường cụt, không thông được với phố Phan Đình Phùng nữa. Đoạn từ chân cầu Hạ Lí đến ngã ba vườn Dâu dài 330m, rộng 7m. Bến thuộc địa bàn xã Hạ Lí cũ, trước giải phóng thuộc khu Tam Bạc.

    Lúc mới mở gọi là bến Van Vônlenhôven (Quai Van Vollenhoven), mang tên một viên quan cai trị người Pháp tạm quyền chức Toàn quyền Đông Dương từ tháng 1 1914 đến tháng 3 - 1915. Từ năm 1954 mang tên hiện nay.
    Do ở vị trí thuận lợi gần sông Cửa Cấm lại không như bến Vạn Kiếp (Candlot) mà gần một nửa thuộc khu vực nhà máy Xi măng được coi là bến chuyên dùng của nhà máy, nên bến Chương Dương trước đây có nhiều canô, sà lan, thuyền bè cập, đậu. Dọc bến này lại có nhà máy Gạo, nhà máy Chỉ... đều là những nhà máy lớn đông công nhân. Cạnh đó là khu dân cư cả người làng cũ và thợ thuyền, phu phen các nơi đến làm ăn sinh sống hay tạm trú khá đông.
    Trong chiến tranh phá hoại bến nằm trong khu vực đánh phá ác liệt, cầu Hạ Lí bị oanh tạc nhiều lần, các nhà máy ở đây đều bị hư hỏng nặng... nên dọc bến này chỉ còn nhà máy đóng tàu, nhà máy Xay hoạt động.
    Sau ngày giải phóng, nhà máy Xay được mở rộng, ở đầu bến phía thượng lưu đặt tại Nhà máy đóng tàu II.

    The world is small.Mai anh về em nhé.
    Được dotuannam sửa chữa / chuyển vào 13:56 ngày 06/04/2004
  3. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Đường Chùa Hàng



    Từ điểm tiếp giáp phố Tô Hiệu đến cổng trường PTCS Dư Hàng, dài 1.150m, có tài liệu tính đến Miệng Xẻ dài 726m rộng 5,5m. Hệ thống thoát nước đặt giữa lòng đường

    Đường thuộc đất Dư Hàng (Dư Hàng Kênh). Trước giải phóng thuộc khu Dư Hàng. Đường này được hình thành căn bản trên đường làng Dư Hàng có từ lâu đời nằm trong mạng lưới đường hàng xã. Phía đầu đường là lối ra chùa Kênh và huyện lị Hải An. Đường thẳng trước cửa chùa là đường ra nghĩa địa thành phố (nay đã bỏ). Đường từ cổng chùa đi vào làng qua đình Hàng gặp đường Miếu Hai Xã Trước ngày giải phóng, đường này chỉ rải đá. Phía bên phải còn nhiều hồ ao, ruộng lầy; phần lớn là ruộng ngoại tự cửa chùa. Sau đó được rải nhựa, bó hè, nhưng vì quá hẹp mà dân cư ngày một đông, ở kín cả hai bên đường, xe cộ qua lại ngày một nhiều, nên đường bị xuống cấp.
    Năm 1991, thành phố đã cho sửa chữa lớn đường này, làm hệ thống thoát nước lớn hơn, có sự tham gia đóng góp của dân phố và nhà chùa. Tháng 8 - 1992 đường đã khánh thành, Bên đường chùa Hàng chủ yếu là khu dân cư, đa số là người lao động; cán bộ, công nhân chiếm đông hơn dân số làng cũ. Chợ Cột Đèn ở vào vi trí ngã ba đầu đường nên kẻ mua, người bán thường tràn ra cả một đoạn phố. Từ ngày mới mở đến nay đều gọi là đường Chùa Hàng Theo nghĩa đường vào chùa Hàng, Chùa Hàng là ngôi chùa cổ của làng Hàng Kênh, huyện An Dương xưa. Khi làng Dư Hàng Kênh tách khỏi làng Hàng Kênh, chùa thuộc làng Dư Hàng.
    Phố Chu Văn An

    Từ phố Lê Lợi đến ngã ba đường vòng Hồ nhà hát nhân dân (còn gọi là hồ Quần Ngựa), dài 672m, rộng 7,4m. Phố thuộc đất xã An Biên cũ. Lúc mới mở gọi là ngõ Têa (Ruelle Théard), thuộc khu Gia Viên. Năm 1954, được đổi tên như hiện nay.

    Têa (Guérin Théard) là tên của viên chủ Pháp chuyên mộ phu và cho thuê nhà ở. Têa có xây một số nhà ở ngõ này để quản lí số phu tuyển được trước khi đưa đi Tân Thế Giới.
    Cuối thế kỉ XIX Pháp lập trường đua ngựa ở đây, gần đấy vốn đã có một cái hồ, ngựa uống nuớc và tắm rất tiện. Hồ sau đó được cải tạo cho phù hợp và tạo nên một cảnh quan, nhân dân ta quen goi là hồ Quần Ngựa. Nay sân vận động Trung tâm (lối vào khán đài B ờ phố Chu Văn An) là phần còn lại của trường đua ngựa này.
    Nói chung cho đến tận thời tạm chiếm đây vẫn là khu vực vắng vẻ, trừ một ít nhà cửa ở gần phố Lê Lợi .
    Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã có lúc bến xe ô tô đi Hà Nội đặt ở gần nơi tiếp giáp với khán đài B sân vận động, nhằm làm giảm sự tập trung đông ở nội thành. Trường phổ thông cơ sở Chu Văn An và trường Tiểu học Chu Văn An xây dựng ở cuối phố tại vị trí vườn trẻ cũ.
    Phố Chợ Con

    Từ phố Hàng Kênh đến đường Hồ Sen; dài 400m, đoạn Hàng Kênh - Chợ Con dài 150m, rộng 7,5m; đoạn còn lại dài 250m, rộng 5m. Vỉa hè bên phải dài 187m, rộng 5m, đoạn còn lại chưa có vỉa hè. Hệ thống thoát nước dài 300m đặt cống F400mm dưới lòng đường.

    Phố thuộc địa phận xã Hàng Kênh cũ, trước giải phóng thuộc khu Hàng Kênh. Đây tuy là con đường nhỏ nhưng có vị trí khá thuận lợi cho việc đi lại và buôn bán.
    Thời Pháp thuộc phố gọi là Route du Marché de Chợ Con. Vì người Pháp đã đặt chợ Sắt ở khu nhượng địa, gọi là chợ Lớn (Grande Marché) nên ở khu bản xứ chợ được gọi là Chợ Con. Nhưng vì tiếng Pháp viết là Cho Con (không có dấu) khiến nhiều người hiểu là chợ Chó Con và suy ra ở đây bán nhiều chó con. Quả thực tại đây cũng bán nhiều chó con hơn nơi khác. Dân các xã Hàng Kênh, Dư Hàng... người từ Kiến Thụy, Đồ Sơn, Hải An trước đây thường đem hàng hóa tới bán.
    Cho đến thời tạm chiếm, phố Chợ Con còn có hình thước thợ, gồm phố Chợ Con hiện nay và một đoạn của đường Hồ Sen bây giờ, thông ra phố Tô Hiệu ở ngã tư Trại Cau.
    Khi có chợ, việc buôn bán khá sầm uất nhưng trước đó, khu vực chợ vào những năm đầu thế kỉ XX còn là vùng đất hoang, ngổn ngang gò đống và đầm lầy. Đi quá chợ một chút là nghĩa địa. Cuối nghĩa địa hai bên là hồ rộng. Nghĩa địa vào những năm 40 vẫn còn, sau đó dân các nơi kéo về đây ngày một đông, ao hồ được lấp dần, nghĩa địa bị san bằng. Ở đây ngoài dân làng Hàng Kênh còn có dân làng Xuân Cầu thuộc Bắc Ninh tới sinh sống và chuyên nghề làm giò chả. Một số nhà giàu mua đất lập ấp tạo ra những địa danh mới ở khu vực này: ngõ Phán An, ngõ Hàn Điềm.
    Nạn đói năm Ất Dậu (1945) ở gần ngõ Phán An đầu phố Chợ Con ngổn ngang người chết đói, sớm sớm xe bò chở xác đi, vôi bột rắc vào xác chết rơi trắng cả mặt đường. Sau giải phóng phố Chợ Con có nhiều thay đổi, những nhà xây mọc lên thay thế cho các nhà tranh lụp xụp ngày trước. Những vũng bùn lầy nước đọng không còn. Điện, nước máy đã được đưa vào tận các nhà trong ngõ sâu... Gần đây phố có cả nhà cao hai ba tầng.
    Những ngày đầu kháng chiến, ở đây là một ổ đề kháng của ta. Ngày 25 - 11 - 1946, sau khi lính Pháp chiếm được trại Bảo An binh, phố Ga và phố Tám Gian thì trụ sở Ủy ban bảo vệ thành phố và mặt trận trung tâm của ta bị uy hiếp. Theo lệnh của Ủy ban bảo vệ thành phố, ngã ba Chợ Con - Hàng Kênh, ngã tư Hồ Sen và ngã tư Trại Cau An Dương đã nhanh chóng hình thành phòng tuyến mới để chặn địch.



    The world is small.Mai anh về em nhé.
  4. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Chi Lăng

    Từ đường Hùng Vương, gần đầu cầu Quay, nối với phố Vạn Kiếp ở gần bờ trái sông đào Hạ Lý, dài 200m, rộng 4,5m. Phố Chi Lăng là phố mới được đặt trên địa bàn xã Hạ Lý cũ. Trước giải phóng, phố thuộc khu Tam Bạc.

    Lúc mới mở, phố được gọi là đường Xi Măng (Ancienne route de la comenterie), dịch đầy đủ là đường cũ của Nhà máy xi măng. Năm 1954, phố được đổi tên như hiện nay.
    Tuy năm ở xa trung tâm thành phố, nhưng Chi Lăng nằm ở vị trí gần sông đào Hạ Lý, một mạch huyết giao thông thuỷ quan trọng, đồng thời gần đường quốc lộ số 5 nên vận tải khá thuận tiện.
    Thời Pháp thuộc, có một số công ty lớn đặt xưởng thợ, kho tàng ở cạnh phố này. Trên phố có Nhà máy đóng tàu Sông Cấm (trước năm 1983 là Nhà máy cơ khí Hải Phòng). Đây nguyên là xưởng Sôpha thời Pháp.
    Phố Cầu Đất

    Từ ngã tư Cầu Đất - Hoàng Văn Thụ - Trần Phú đến ngã tư Trần Quốc Toản - Tô Hiệu - Lê Lợi, cắt qua các phố Trần Nhật Duật - Lê chân, Lương Khánh Thiện - Cát Dài; dài 610m, rộng 11m. Vỉa hè đoạn từ ngã tư Cầu Đất, Trần Phú đến ngã tư với hai phố Trần Nhật Duật, Lê Chân bên trái dài 80m, rộng 4m, bên phải dài 90m rộng 4m; đoạn từ Trần Nhật Duật, Lê Chân đến Lương Khánh Thiện, Cát Dài bên trái dài 220m, rộng 4m, bên phải dài 217m, rộng 2,5m, đoạn còn lại đến ngã tư Thành đội, bên trái dài 230m, rộng 4m, bên phải dài 245m, rộng 4m. Hệ thống thoát nước đoạn ngã tư Cầu Đất - Lương Khánh Thiện dài 340m đặt cống hộp 500 x 600mm, đoạn tiếp đến ngã tư Thành đội bên trái dài 275m, đặt cống hộp 500 x 600mm dưới lòng đường cách bó vỉa hè trái 1,6m, bên phải dài 280m đặt cống F800mm dưới hè phải sát bó vỉa hè.

    Phố thuộc đất xã Gia Viên và An Biên cũ. Trước giải phóng thuộc khu Ga. Đây là một trong những phố có vị trí quan trọng và nhộn nhịp, sầm uất nhất của thành phố. Lúc mới mở phố được đặt tên là Pôn Đume (Avenue Paul Doumer). Tuy nhiên ngay từ lúc đó nhân dân ta đã gọi là Cầu Đất. Năm 1946, phố mang tên đại lộ Hồ Chí Minh. Năm 1954 đổi mang tên Trần Hưng Đạo. Năm 1963 gọi lại là Cầu Đất.
    Trước đây giữa hai làng An Biên và Gia Viên có con lạch nhỏ gọi là lạch Liêm Khê, vốn là nhánh phụ của sông Tam Bạc đổ vào sông Cấm. Chính con lạch này là tiền thân của kênh đào Bonnan được đào vào năm 1885. Bắc qua lạch, ở khu vực quán hoa hiện nay có một chiếc cầu nhỏ bằng tre, trên mặt đắp đất nên thường gọi là Cầu Đất. Tên phố sau này có nguồn gốc từ đó. Sau đấy Pháp thay thế cầu đất bằng cầu sắt, gọi là cầu Đume. Năm 1925, khi lấp kênh Bonnan, cầu sắt bị dỡ bỏ. Mặc dù thời gian trôi qua với nhiều đổi thay, hai làng An Biên và Gia Viên ngày càng bị cuốn vào quá trình đô thị hóa nhưng cái tên Cầu Đất không mất, nó vẫn tồn tại song song với những tên gọi chính thức khác của phố cho đến ngày nay.
    Thời Pháp thuộc đây là một phố buôn bán và có nhiều nghề thủ công chủ yếu là của người Việt như giầy da, bật bông, bánh kẹo, tiệm ăn, hiệu tạp hóa, chụp ảnh. Nói đến phố Cầu Đất không thể không nhắc đến nhà sách Mai Lĩnh (vừa là hiệu sách, vừa là nhà xuất bản), đây còn là một cơ sở cách mạng trong thời kì cách mạng dân chủ.
    Ngày nay phố Cầu Đất vẫn là một trung tâm buôn bán của thành phố. Trên phố có ba cửa hàng bách hóa lớn, một hiệu sách quốc doanh, một rạp chiếu bóng. Rạp Công Nhân dựa trên cơ sở rạp Cadinô (Casino) trước đây, đã được sửa chữa, cải tạo, nâng cấp nhiều lần. Do vị trí của một con đường trung tâm, lại dẫn ra cửa ô phía nam thành phố và khu du lịch Đồ Sơn nên lưu lượng người và xe cộ qua phố rất đông, thường bị ùn tắc giao thông mỗi khi có xe lửa chạy qua đường sắt cắt ngang phố.


    The world is small.Mai anh về em nhé.
  5. chim_dau_day_dien

    chim_dau_day_dien Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    138
    Đã được thích:
    0
    EM thật kính nể bác gianghobenbinh vì có kiến thức sâu rộng đến thế, thầt tài tình khi có thể sưu tập dược một kiến thức khổng lổ về Hải Phòng thân yêu của chúng ta. Hy vọng bác sẽ đóng góp nhiều hơn để chúng em có thể hiểu hơn vế thành phố mình.
    Bác cho em hỏi thế ở Hải Phòng bây giờ phố nào dài rất? phố nào ngắn nhất? phố nào đẹp nhất lãng mạn nhất? và nhà ở phố nào đắt nhất???chắc là Nhà Hát Lớn Thành Phố nhỉ? Xin bác cho biết thông tin. Cám ơn nhiều. Kiến trúc nhà nào đẹp nhất? theo em thi đó là Ngân Hàng nhà nước Việt Nam nắm ở gần cầu LAC LONG, vì hình như nó được xây bằng đá xanh hay sao ấy chẳng bao giờ thấy ẩm mốc gì cả.
    uuyuyuyhjhvhjhgjbjhjhgj
  6. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0

    À chuyện thường thôi vì đây là những thứ mình sưu tầm được mà có. Nói về phố HP thì tôi cũng cho là những kiến trúc từ thời thực dân để lại là đẹp nhất. Kiến trúc Á Đông thì ở HP ta ngoài mấy cái đình chùa ra thì rất ít thứ có giá trị. TP Cảng HP do bọn Pháp lập ra, nó ko có được bề dầy lịch sử như HN.
    Câu hỏi về phố nào ngắn nhất dài nhất thì xin cậu cứ kiên nhẫn đọc hết về các con phố HP sẽ tìm ra câu trả lời vì ở đây có đầy đủ thông tin về kích thước dài rộng của chúng là bao nhiêu
  7. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Phố Cầu Cáp

    Phố kéo dài từ đường Lam Sơn đến đường Lán Bè dài 270m, rộng 3m. Có tài liệu gọi đây là đường Máy Đá. Phố nằm trên địa bàn An Dương cũ. Phố mới thành lập trên một đoạn của đường 5A dẫn ra cầu treo bằng dây cáp (Cable) nên gọi là Cầu Cáp. Tên đầy đủ là Cầu Cáp 5A An Dương. Khi Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc, năm 1967, thành phố Hải Phòng đã dự kiến tình huống địch đánh phá cầu phà nên dự phòng nguyên vật liệu, cầu phao, cầu cáp và khảo sát mở các tuyến đường tránh, đường vòng... để bảo đảm giao thông thông suốt. Tuyến đường 5A từ nội thành theo đường Tôn Đức Thắng hiện nay rẽ vào đường Lam Sơn, đến đoạn giữa đường này mở một đoạn đường mới đến bờ sông đào Lạch Tray. Ở đây bắc một cầu treo vượt sông đào. Phía bên kia cầu treo mở đường tiếp nối vào quốc lộ số 5.

    Mỗi khi báo động, công nhân liền tháo dở hết ván lát mặt cầu, khi báo yên lắp lại cho xe cộ qua lại. Cầu và đoạn đường cầu Cáp ngày ấy bị máy bay Mĩ đánh phá nhiều lần. Cầu cũng nhiều lần cầu bị đánh hỏng. Mỗi lần cầu hỏng phải sửa chữa hàng tháng. Có lần công nhân và chi đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đội cầu I chỉ 12 ngày đã sửa xong. Khi cầu cứng An Dương chưa được xây dựng, cầu Cáp là cầu quan trọng cho người, xe đạp và xe thô sơ từ nội thành sang Rế, huyện lị huyện An Hải và một số xã lân cận như Đồng Tiến, Đồng Thái, Đồng Tâm, Lê Lợi...
    Sau hòa bình lập lại, cầu cứng An Dương được xây dựng, cầu Cáp dỡ bỏ. Từ đó, đoạn đường tránh trở thành phố, mang tên phố Cầu Cáp.
    Phố Cát Cụt

    Từ bờ hồ Tam Bạc đến phố Tô Hiệu, dài 495m, rộng 7,5m, cắt phố Cát Dài. Vỉa hè đoạn Nguyễn Đức Cảnh - Cát Dài bên trái dài 255m, rộng 3,5m bên phải dài 250m, rộng 3,5m; đoạn Cát Dài - Tô Hiệu bên trái dài 205m, rộng 3,5m bên phải dài 200m, rộng 4m. Hệ thống thoát nước toàn tuyến dài 505m, đặt cống ~500mm dưới lòng đường, riêng đoạn Cát Dài - Nguyễn Đức Cảnh thêm một cống dài 280m đặt cống ~1000mm dưới hè trái. Phố thuộc đất xã An Biên cũ. Trước giải phóng thuộc khu Đường Cát.

    Theo bản đồ làng An Biên năm 1872, có một con đường nhỏ đắp đất phủ cát, chạy từ ven làng đến thẳng lạch Liêm Khê thì chấm dứt (cụt). Tên Cát Cụt được giữ nguyên từ ấy đến giờ và luôn luôn được nhân dân dùng để gọi tên phố cho dù phố đã từng được đặt bằng nhiều tên khác nhau.
    Lúc mới mở người Pháp đặt tên phố là Xtrátbua (Rue Strabourg). Sau cách mạng tháng Tám đổi gọi là phố Đoàn Thị Điểm. Năm 1954 phố đổi gọi là Hàm Nghi.
    Sau chỉ dụ ngày 1-10-1888, cùng với Hải Phòng phố Cát Cụt được lập nên, phần lớn là nhà một tầng lợp ngói mũi hài Trung Hoa, cá biệt có nhà hai tầng lợp tôn, sàn trên bằng gỗ.
    Thời Pháp thuộc phố có một số cơ sở hộ sinh tư nhân, có rạp hát cải luơng Đại Chúng xây dựng từ năm 1924. Bến đò Nhật Bản ở đầu phố qua sông Lấp nay không còn.
    Trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ, cơ sở cách mạng của Đảng dưới hình thức đại lí sách báo đặt tại số nhà 101. Số nhà 75 là trụ sở của cơ quan Tỉnh bộ thời kì 1928-1930, cơ quan Thành ủy Hải Phòng năm 1945.

  8. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0
    Đường Cát Bi

    Đường Cát Bi kéo dài từ dốc Cầu Rào chạy dọc giữa phường Cát Bi đến Doanh trại quân đội, dài 1.480m, rộng 6m - 8m. Sân bay Cát Bi được xây dựng trong ba năm (1936-1939). Từ năm 1948 - 1949 quân Pháp lại dồn đuổi toàn bộ dân cư các làng trên cùng nhiều làng khác ở gần để mở rộng sân bay. Đường vốn là đường trục nội bộ của khu hậu cần sân bay. Vì vậy, dần quen gọi là đường sân bay Cát Bi, có người gọi tắt là đường Sân bay hoặc đường Cát Bi.

    Địa danh Cát Bi có từ bao giờ chưa thể xác định, nhưng trong cuốn Đại Việt sử lược đời Trần có chi tiết chép về vùng này : "Năm Mậu Tuất, Long Thụy Thái Bình thứ năm (1058) ... Mùa thu, tháng 9, vua ngự ra cửa biển Ba Lộ, nhân đó ngự ra chỗ xây tháp ở Đồ Sơn". Người dịch chú thích cửa biển Ba Lộ chắc là của Đồ Sơn (cửa Lạch Tray). Trong sách Tên làng, xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX của Viện nghiên cứu Hán Nôm có ghi xã Cát Bi thuộc tổng Trực Cát, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương.
    Sau tiếp quản thành phố, khu sân bay do quân đội quản lí, còn ruộng đất hoang hóa do Pháp đuổi dân để mở rộng vành đai bảo vệ sân bay thì giao cho nông trường Thành Tô khai thác, khu đất gần Cầu Rào để cho dân ở. Từ khi Mĩ phải kí hiệp định đình chiến Pari năm 1973, do nhà cửa ở nội thành bị bom đạn tàn phá nặng nề, nên cần làm ngay nhà tạm ở khu Cát Bi cho dân. Số nhà này gồm một phần thành phố làm, một phần do các huyện ngoại thành làm ủng hộ, có cả một số nhà tạm của Nhật Bản giúp. Lúc đầu chỉ bám vào trục đường sân bay cũ, sau cứ mở rộng kéo dài đến khu T bây giờ. Đoạn đầu phố gần phía cầu Rào có từ những năm cuối thế kỉ XIX. Một số tư sản Pháp đã mở xưởng sản xuất Anbuymin, nhà máy xà phòng ở phố này. Những nhà tạm kể cả nhà Nhật viện trợ đến nay phần nhiều đã thay thế bằng nhà bán kiên cố và kiên cố do nhân dân, do các xí nghiệp tự làm.
    Phố Cao Thắng

    Từ phố Hạ Lí đến phố Bạch Đằng, dài 510m. Do phố hình thước thợ nên ngành nhà đất và đô thị chia làm hai đoạn, gọi là Cao Thắng A (Cao Thắng là một danh tướng quan trọng của khởi nghĩa Phan Đình Phùng) dài 350m rộng 5,6m, Cao Thắng B dài 160m, rộng 6,2m

    Theo hồ sơ lưu của Nha Địa chính Bắc Việt ngày 6-8-1951 thì lúc mới mở phố này từ phố Phan Đình Phùng, tên cũ là phố Acsơnan (Rue de L''Arsenal) đến đại lộ Hồng Bàng (tên cũ là Route Coloniale No5 - đường số 5). Sau ta mở thêm đoạn Cao Thắng B.
    Phố Cao Thắng trước thuộc khu Tam Bạc, phố này lúc mới mở chưa có tên, dân quen gọi là phố Mới, theo nghĩa phố mới thành lập. Từ 1954 đến nay mang tên Cao Thắng.


  9. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0

    Ngã tư Cột Đèn những năm đầu giải phóng (sau 13/5/1955)
    Được gianghobenbinh sửa chữa / chuyển vào 10:51 ngày 17/04/2004
  10. gianghobenbinh

    gianghobenbinh Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/11/2002
    Bài viết:
    350
    Đã được thích:
    0

    Cảng Hải Phòng
    Giới hạn của Cảng Hải Phòng thời Pháp thuộc chi thấy ghi ở điều 1 "Qui tắc chung về thuế quan" do Cảng Hải Phòng ấn hành năm 1875 (Kí hiệu ở Thư viện Quốc gia: M.5993). Theo văn bản này thì "Cảng Hải Phòng được giới hạn giữa đồn binh ở trên phía hữu ngạn sông Cửa Cấm, đối diện với lạch Vàng Châu và đồn binh ở thượng lưu lạch Hải Phòng trên tả ngạn sông Cửa Cấm''''.

    Đối chiếu với sách Đồng Khánh địa dư chí lược thì đồn binh ở hữu ngạn sông Cấm tức là đồn Ninh Hải số 1 tại xã Lạc Viên mà các bản đồ của chính quyền đô hộ Pháp vẫn ghi là Fort Annamite (đồn binh Annam). Còn đồn ở hữu ngạn sông Cấm tức là đồn Ninh Hải số 3 đặt ở địa phận xã Bích Động huyện Thủy Nguyên. Đối chiếu với bản đồ Hải Phòng của bộ tham mưu quân sự Pháp cùng thời thì lúc ấy giới hạn cảng từ cửa sông Tam Bạc chỗ mom thủy đội đến đầu đường Lê Lai hiện nay.
    Sau đó, nhiều tài liệu của chính quyền Pháp xác định từ đại lộ Ferry (Cù Chính Lan) đến đại lộ Bonnal (Trần Phú) với chiều dài 1140m. Nhưng cũng có tài liệu của Pháp lại cắt đoạn từ phố Cù Chính Lan đến phố Bến Bính hiện nay gọi là bến Tự Do (Quai Liberté). Hiện nay cảng Hải Phòng, sau khi xây nhà máy Đông lạnh thì chỉ còn từ đó đến chỗ tiếp giáp đường Cửa Cấm.
    Bến Cảng Hải Phòng thuộc địa phận làng Gia Viên trước đây, trước giải phóng, được quyền tự quản, không thuộc khu hành chính nào. Lúc mới mở gọi là Cảng Hải Phòng, dân chúng thường gọi là bến Sáu Kho vì lúc ấy có 6 kho hàng. Ca dao xưa về Hải Phòng có câu:
    Hải Phòng có bến Sáu Kho
    Có sông Cửa Cấm có lò Xi - măng.
    Sau khi toàn quyền Đông Dương Pátxkiê (Pierre Pasquier) chết, đổi gọi là Cảng Pátxkiê. Tuy nhiên, nhân dân ta trong thời Pháp thuộc và tạm chiếm vẫn gọi là bến Sáu Kho. Sau cách mạng tháng 8 - 1945 đổi là bến Cửa Cấm. Năm 1954 đổi gọi là bến Bạch Đằng. Sau tiếp quản thường gọi là bến Cảng Hải Phòng hay Cảng Hải Phòng.
    Cảng Hải Phòng được xây dựng đã trên 100 năm. Ngay sau Hòa ước Giáp Tuất (1874), thực dân Pháp đã khai thác khu bến này phục vụ cho tàu thuyền của độí quân viễn chinh do tên lái súng Giăng Đuypuy (Jean Dupuis) thám hiểm dò đường.
    Cảng Hải Phòng còn có các cảng phụ trợ như Cảng Chùa Vẽ - Đoạn Xá, Cảng Vật Cách và Cảng nổi Hòn Một trong vịnh Hạ Long. Năm 1993, Cục Hàng Hải và Cảng Hải Phòng đã triển khai kế hoạch cải tạo lớn để khắc phục tình trạng bồi lắng phù sa luồng lạch ra vào Cảng Hải Phòng.
    Cảng Hải Phòng ngày nay vẫn là đầu mối giao thông quan trọng của các tỉnh phía Bắc và cả nước. Năng lực bốc xếp của cảng giai đoạn 2001 - 2005 là 10.000.000 - 15.000.000 tấn/năm.

Chia sẻ trang này