1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lần đầu du lịch Đà Nẵng...

Chủ đề trong 'Đà Nẵng' bởi theBrick, 29/09/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. theBrick

    theBrick Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Tản mạn về ẩm thực Quảng-Đà​
    Hình ảnh quê hương trong tâm hồn người xa xứ là một hình ảnh hỗn hợp của nhiều hình ảnh khác nhau nơi đất mẹ. Trong bức tranh hỗn hợp đó, đôi lúc lại hiện lên hình ảnh giếng nước bờ ao sau luỹ tre làng, hoặc hình ảnh một con sông quê miệt mài chảy để vun đắp phù sa nuôi nấng người. Đôi lúc khác lại hiện lên hình ảnh của những người thân quen hoặc một bóng hình nào đó của tuổi học trò mà đã đi mãi vào kỷ niệm đẹp. Và cũng đôi lúc lại hiện lên hình ảnh của những món ăn " quốc hồn quốc tuý" , để cho ta chợt nhận ra rằng trong máu thịt này đã thấm đẫm những món ăn mà ta đã tiếp nhận từ khi còn nằm trong bụng mẹ.
    Quê hương ta nơi nào cũng có nét đẹp riêng, cũng có những món ăn đặc sản riêng. Đã có lúc tôi chết lịm trước tô canh điên điển độc đáo của cô Hai và món gà nướng đất sét lừng danh của ông Tám nơi miền sông nước Tây Nam Bộ. Đã có lúc tôi ngồi thong thả cụng ly với những người thân quen bên những bàn lẫu dê nghi ngút khói trong những chiều mưa tầm tã của Sài Gòn để chợt nhận ra ra không nơi nào có được phong cách ẩm thực như quê hương ta. Đã có lúc tôi thẩn thờ trước tô bún bò của một o Huế trong nội thành đất Thần Kinh trầm mặc. Đã có lúc tôi háo hức ngồi xếp bằng trên chiếu, hướng mắt nhìn ra bờ đê Yên Phụ (ở Nhật Tân, ngoại thành Hà Nội), rồi nhâm nhi từng món thịt cầy và hình dung ra cảnh các tiền nhân ngày xưa thưởng thức món này như thế nào. Đã có lúc tôi ngồi giữa đảo Cát Bà lộng gió để thưởng thức món cá song hấp đặc sản cứ ngọt lừ trong cổ họng. Và cũng đã có lúc tôi sửng sờ trước dĩa bánh cuốn trắng nõn nà được mang đến bởi cô chủ nhỏ đẹp hớp hồn của thành phố hoa phượng đỏ (Hải Phòng). Kể ra thì nhiều lắm. Thôi thì để bây giờ tôi sẽ lan man đôi dòng về vài món ăn chơi của vùng đất Quảng Nam-Đà Nẵng, nơi đã cho tôi cái giọng nói và một tuổi thơ muôn đời tôi vẫn nhớ.
    Chắc bạn đã nghe đến món bò tái (bê thui) xứ Quảng. Những ai đã từng ngược xuôi nhiều lần dọc theo chiều dài của đất nước chắc cũng đã có ghé vào một quán bò tái khu Cầu Mống nằm trên quốc lộ 1A, đoạn thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam. Nói đến bò tái Cầu Mống thì chắc chắn bất cứ tài xế xuyên Việt nào lâu năm trên quốc lộ 1A đều biết. Đang đi mệt rứa mà ghé vô quán bò tái là tỉnh người liền. Nhìn những dĩa thịt bò hồng hồng mà cứ cảm thấy đói cồn cào, cứ nghe ông thần khẩu thúc giục rất mãnh liệt. Thịt bò tái được ăn kẹp với các loại rau sống, chuối chát, khế và chấm với mắm nêm. Mắm nêm Quảng Nam Đà Nẵng rất khác so với các loại mắm ở trong Nam, chẳng hạn như mắm cá linh, cá lóc, cá trèn... Mắm nêm được làm bằng cá cơm, và nước mắm thành phẩm không còn xác cá, sền sệt rất hấp dẫn. Gắp một lát thịt bò, kẹp với rau, chấm vào nước mắm, rồi đưa vô miệng nhai từ từ. Trời ạ! Ngọt, chua, chát, cay... đủ cả. Da thịt thì giòn, còn thịt thì mềm, nó cứ hoà lẫn vào nhau như một bản hoà tấu của thiên nhiên muôn thuở. Ngon không thể tả được, bạn phải ăn thì mới cảm nhận được hết cái ngon cho chính mình.
    Chiều chiều dạo phố Đà Nẵng, nếu đi đến mấy đoạn đường có mấy quán nem lụi và bún thịt nướng thì từ xa đã nghe được mùi thơm của thịt nướng. Thơm đến nức mũi. Không biết có nhà văn xứ Quảng nào đã thử so sánh mùi thơm của thịt nướng với hương tóc con gái chưa, chứ theo tôi thì cũng là một đề tài hay để khám phá. Hương tóc của người yêu làm những chàng trai ngất ngay trong hạnh phúc, muốn được hôn lên suối tóc mềm mà thề thốt chuyện yêu đương. Còn mùi thơm của thịt nướng thì làm người ta ngất ngay trong trạng thái...muốn được ăn liền. Cả hai mùi thơm đều kêu gọi hành động, cho nên cũng không khập khiểng cho lắm khi đem ra so sánh bạn nhỉ?
    Bún thịt nướng Đà Nẵng dùng nước tương sền sệt chứ không dùng nước mắm trong. Tôi không biết người ta làm nước tương như thế nào nhưng ăn ngon đáo để. Ngoài thịt nướng, người ta còn bỏ vào tô bún vài miếng nem lụi và vài lát bánh phồng tôm chiên giòn. Do nước tương sệt nên các hỗn hợp trong tô bún cứ quấn vào nhau tạo nên một khẩu vị thăng bằng thật khó tả. Vừa ăn vừa ngửi mùi thơm mà cứ cảm thấy sướng thiệt. Ăn đến đâu là ngon và thơm đến đó. Nghĩ đến nó mà tôi cứ bần thần mãi, cứ mong có dịp trở lại thăm quê hương để mà ăn cho thoả mãn thần khẩu.
    Sau khi ăn nhẹ một tô bún thịt nướng để lót dạ, bạn có thể chạy lên Khuê Trung, vào " làng" thịt heo luộc cuốn bánh tráng để thưởng thức món ăn chơi mà dân Quảng-Đà mới thương mại hoá để phục vụ khách làng ăn. Thịt heo luộc cuốn bánh tráng rau sống thì không có gì là " đặc sản" với dân Quảng-Đà cả. Đã bao đời qua người ta vẫn ăn bánh tráng thịt heo cuốn rau sống. Thế nhưng có người sáng ý đã biến nó thành một món đặc sản trong khoảng mười mấy năm trở lại đây mà rất nhiều khách phương xa khi đến thăm Đà Nẵng cũng bỏ công tìm đến ăn nó cho được. Cái khéo ở đây là người ta xắt lát thịt thiệt là dài, nhìn trông rất đẹp mắt, rất thuận tiện cho việc cuốn bánh. Một lát thịt thì có thể cuốn được một cuốn bánh, trông rất gọn gàng, chứ không phải dùng hai hay ba miếng thịt ngắn rắp lại cho dài ra theo như kiểu người bình thường không biết cách xắt thịt dùng hằng ngày.
    Thịt heo cuốn bánh tráng thì nói chung là đơn giản. Lấy một miếng bánh tráng chưa nướng nhúng vào nước cho mềm rồi bỏ rau sống đủ loại kèm theo một miếng thịt heo (và một ít mì lá) vào giữa rồi cuốn lại thành một cuốn giống như là gỏi cuốn trong Nam vậy. Cuốn này được chấm với nước mắm nêm đặc pha rất kỹ lưỡng. Bánh tráng cuốn thịt heo mềm mại dễ ăn. Khi nhai thì chất béo của thịt trộn lẫn với chất chua, chát, nồng, cay, mặn của rau và mắm cứ thôi thúc ta làm một cuốn khác khi vẫn chưa ăn hết cuốn cầm trên tay. Món này ăn lâu no nên ta có thể cứ tà tà ngồi tự nhiên cuốn ăn và uống bia Sông Hàn rỉ rả. Người khác thì sao tôi không biết, chứ tôi cảm thấy cực kì thích thú khi được ngồi trong một không gian thơm hực mùi mắm nêm với mùi bia đất Quảng.
    Sẵn đây tôi cũng muốn lưu ý bạn làng ăn rằng trên con đường dẫn vào mấy quán thịt heo cuốn bánh tráng này có một quán thịt cầy nhỏ nằm bên ven đường mà tôi cho rằng " có một không hai" . Thịt cầy thì tôi đã ăn dọc từ Nam chí Bắc, duy chỉ có quán này làm được hai món rất ngon: đó là thịt cầy nướng lá lốt và thịt cầy hầm đậu đen. Nghe mùi lá lốt nướng với thịt mà tôi cứ muốn " chết dưới trời đổ nát" . Thơm chi lạ! Ai không dám ăn thịt cầy mà nghe mùi thơm này thì tôi nghĩ sẽ thay đổi ý định ngay. Món hầm đậu đen cũng thiệt là ngon. Đây là món cuối cùng trong bữa tiệc mộc tồn, nó cho ta một cảm giác no trọn vẹn, khỏi phải về nhà lục cơm ăn thêm. Thịt được dùng để hầm thường là đùi với đuôi. Không biết người ta hầm cách răng mà hắn ngon chi lạ. Thịt và đậu đen cứ hoà quyện vào nhau để đem lại một món súp ngọt lừ, làm người ăn nhớ mãi. Tôi không nói ngoa đâu. Nếu có dịp bạn nên thử món hầm và món nướng lá lốt tại quán này để có thể thấy hết tinh hoa của món cờ tây.
    Nói chuyện ăn chơi, cũng không quên nói đến một món ăn học sinh dân dã. Đó là món bánh tráng đập dập. Vâng, nó chỉ đơn giản là bánh tráng đập dập. Ấy vậy mà đó đã đi mãi vào hồn người để rồi có một lúc nào đó ta chợt nhớ về thời học sinh xưa mà cứ ngẩn ngơ tiếc mãi những nụ cười hồn nhiên của đám bạn tuổi hoa mai. Bánh tráng đập dập được làm bởi hai cái bánh tráng nướng mỏng kẹp lại với một lá mì ở giữa. Bánh cũng được chấm mắm nêm đặc pha rất thơm. Khi xưa, học trò ít tiền chúng tôi thường rủ nhau vào một quán bánh tráng đập dập trong một cái kiệt nhỏ sâu hun hút ở đường Hoàng Diệu để ăn say mê trong tiếng cười rộn rả. Bánh tráng được mang ra, những đứa học trò cứ vô tư dùng tay đập dập ra rồi chấm mắm mà ăn. Vì nhờ có lá mì được quết dầu kẹp ở giữa nên bánh tráng vẫn dính lại, không bắn tung toé khi bị đập. Học trò chúng tôi cứ thế mà ăn. Vừa được vui, vừa được ăn no, vừa đủ tiền để trả thì quả là một hạnh phúc vô ngần cho bọn học trò có tâm hồn trắng như tờ giấy viết nhưng ham ăn như chúng tôi.
    Nói đến ẩm thực Đà Nẵng không thể không nói đến các món ăn chơi đồ biển. Đồ ăn ngon là một phần, không gian ăn uống cũng là một phần quan trọng không kém. Tiên sinh đất Bắc Vũ Bằng chắc cũng phải thốt lên nếu được ngồi trên bãi biển trong chiều lộng gió để nhâm nhi ly rượu bên dĩa nghêu tươi luộc chấm muối tiêu. Vâng, biển chiều đẹp lắm. Đẹp mênh mang như muốn huyễn hoặc hồn người tan vào với không gian để hoà quyện với đất trời biển cả. Những ngọn gió theo sóng chiều tràn vào cứ quấn lấy làn da thịt làm con người khoan khoái lạ. Bao nhiêu cái nhiêu khê ở đời dường như bị gió cuốn đi để tắm gội cho hồn người một sinh khí mới.
    Món ăn đồ biển thì nhiều, tôi thì thường thích hai món đơn giản là nghêu luộc và sứa trộn (người miền Nam gọi là gỏi, người miền Bắc gọi là nộm). Nghêu luộc thì đúng như tên gọi của nó, nghêu tươi, thường thì được bắt từ biển vào buổi sáng, luộc chấm với muối tiêu chanh. Người biết cách luộc thì luộc cho nghêu vừa chín, thịt mềm và giữ được chất ngọt (nghêu luộc lâu quá thì ăn rất dai và mất hết chất ngọt). Nhón tay bóc vỏ một con nghêu, chấm vào muối tiêu và đưa lên miêng nhai từ từ. Nhớ nhai từ từ bạn nhé. Ăn nghêu luộc thì phải nhai từ từ thì chất ngọt trong ngêu mới bộc phát hết được. Nó cứ ngọt lừ và từ từ trôi xuống cổ họng thiệt là khoái khẩu. Sau một con nghêu là húp một ngụm bia cho nó nhịp nhàng (có người uống rượu, tôi thì thường chỉ uống bia mà thôi). Cứ thế, vừa ăn vừa uống cho đất trời điên đảo.
    Sứa trộn thì cũng rất đơn giản. Người ta bắt loại sứa trắng rồi xắt sống để trộn với rau thơm và đậu phụng (phộng, lạc rang). Cho thêm một ít da heo (hoặc mỡ heo) đã được xắt mỏng và chiên giòn cho có chất béo. Món sứa này ăn rất mát. Vị tanh nhẹ của sứa sống được đánh mất bởi các mùi vị rau thơm và vị chua của chanh kèm với vị cay của ớt. Sứa ăn đến đâu là cứ muốn trôi tuột xuống cổ họng đến đó. Đây là một món ăn chơi nhẹ nhàng nhưng đầy đủ các chất nóng, lạnh thiệt là hợp khẩu cho việc đưa cay.
    Bạn có bao giờ ở trong trạng thái ngà ngà say trong gió chiều của biển chưa? Tuyệt vời lắm bạn ạ! Hồn người cứ nhẹ nâng. Đất trời và hồn người như hoà lẫn vào nhau để cùng du dương một bản tình ca ngây ngất đến vô cùng. Biển bao la trước mắt là tương lai ta đó. Cát dưới chân là mơn thoa của hiện tại. Gió vi vu là hồn văn mời gọi. Và cứ thế, bia cứ rót, chữ nghĩa cứ tuôn trào và hồn người cứ bay bổng. Xin dựa theo ý thơ của Đỗ Trung Quân mà kết rằng: Quê hương là hồn ẩm thực, cho ta ăn miếng để đời.
    Thay đổi vì sẽ đổi thay...
  2. XacUopVietNam

    XacUopVietNam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/04/2003
    Bài viết:
    3.501
    Đã được thích:
    0
    Sau đây là màn độc diễn của theBrick@ ,một nhà hướng dẫn viên du lịch tiềm năng của box ĐN
    thích nghi với mọi hoàn cảnh sống là bản năng của sự sinh tồn
    I Love You more than yesterday and less than tomorrow
  3. XacUopVietNam

    XacUopVietNam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/04/2003
    Bài viết:
    3.501
    Đã được thích:
    0
    Sau đây là màn độc diễn của theBrick@ ,một nhà hướng dẫn viên du lịch tiềm năng của box ĐN
    thích nghi với mọi hoàn cảnh sống là bản năng của sự sinh tồn
    I Love You more than yesterday and less than tomorrow
  4. nhung224

    nhung224 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Tui thấy hay đó chớ, nhờ pà kon nhờ! Đọc hỉu được khối vấn đề về dân Quảng! . Cố lên cố lên hỡi người chiến binh dũng cảm !!!
    I'm 2 shy, b'cos u'r nite, but I'd like..that u'r mine!
  5. nhung224

    nhung224 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/01/2002
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    0
    Tui thấy hay đó chớ, nhờ pà kon nhờ! Đọc hỉu được khối vấn đề về dân Quảng! . Cố lên cố lên hỡi người chiến binh dũng cảm !!!
    I'm 2 shy, b'cos u'r nite, but I'd like..that u'r mine!
  6. theBrick

    theBrick Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Đà Nẵng, một quá khứ ​
    Ðà Nẵng, với diện tích 1.247 cây số vuông, nằm cách Sàigòn 964 cây số về hướng bắc; cách Hà Nội 764 cây số về hướng nam. Phía đông bắc là vũng Ðà Nẵng, có bán đảo Sơn Trà, và núi Sơn Chà cao 693 thước; Với hải cảng rộng, kín gío, với phi trường có diện tích lớn, với quốc lộ số 1,số 14 và liên lộ 4, Ðà Nẵng được nhìn nhận là một thành phố. Hơn thế nữa, là một thành phố có tầm vóc thứ 3 của Quốc Gia Việt Nam, vào thời điểm này.
    Trước đây, vào thời Tây Sơn, Ðà Nẵng được giới thiệu bởi nhà văn Nguyễn văn Xuân,( một giáo sư, một học gỉa của Quảng Nam):
    "...Nhà cửa thấp, hầu hết bằng tre, lợp lá hoặc rơm rạ, ở lẫn lộn trong cây cối, ngoại trừ chung quanh khu vực chợ. Những nhà cửa cao đẹp hơn thì xây dựng giữa vườn, trong vườn trồng những cây cau hoặc các loại cây vừa làm cảnh vừa hữu dụng. Phía sau thành phố có nhiều cụm trồng cam, chanh, chuối, cau. Nhiều ngôi nhà còn nguyên vẹn với cây cao bóng mát. Một số nhà khác ở tình trạng hoang phế, tiêu điều. Ở bờ sông bên kia (Hà Thân) mở ra nhiều đám ruộng, gò với vườn tược bọc quanh, trong đó trồng thuốc lá, mía. Còn chợ của thànhphố thì đầy rẫy những sản phẩm nhiệt đới, kể cả gia cầm mà nhiều nhất là gà vịt.Người ta cũng bán tại đây rất nhiều chim "mổ mắt" (dardeur) bụng đen -loại chim chim có tên gọi theo đặc điểm là hay dùng mỏ dài và nhọn mổ vào mắt những vật nó thấy sáng lên, nhất là mắt của những kẻ nhìn nó. Vì thế, khi mang bán ở chợ Ðà Nẵng, người ta đã cẩn thận khâu mắt nó lại để nó khỏi nhìn thấy.
    Tại ÐàNẵng không thấy có lò sát sinh, nơi giết súc vật để bán thịt, song trong các bữa tiệc lớn vẫn dọn đầy thịt bò, thịt heo. Trong những bữa tiệc đãi phái đoàn, người ta thấy cả trăm chiếc đĩa đựng đồ ăn xếp ba hàng và chồng lên nhau. Ở xứ này, nhiều người dân chuộng thịt trâu hơn thịt bò và chẳng thấy ai uống bất kỳ loại sữa gì. Voi dùng trong việc chuyển vận và nhất là trong chiến tranh, đây là một nơi trong số ít những nơi trên thế giới mà người ta thích ăn thịt voi và cho đó là loại thịt ngon..." (1)
    Về sinh hoạt trong cuộc sống qua các ngành Ngư, Công, Nông,Thương, xin được lượm ra những nét vẽ từ bài viết của tác gỉa Bão Rừng :
    ..."Người dân Ðà Nẵng chuyên ngư nghiệp. Ghe thuyền đánh cá đậu dọc bờ sông.Người đánh cá hoạt động trên biển cả...
    .."Dân đánh cá rất mê tín, luôn luôn cúng bái những thần linh tưởng tượng. Con cái họ mới lớn tí xíu đã dẫn nhau xuống sông, bơi như lũ vịt con.
    "Về Nông nghiệp thì phong tục cũ còn nhiều. Nông dân có vẻ linh lợi, thông minh. Ðàn bà đông hơn đàn ông , đều chăm chỉ công việc đồng án. Nhà cửa sạch sẽ, thuận tiện cho một dân tộc ở vùng khí hậu nóng hoạt động lâu dài ngoài trời...
    ...." Ngay tại Ðà Nẵng, người ta thấy trong thành phố có trồng nhiều loại cây ăn quả. Bên Hà Thân có nhiều ruộng trồng thuốc lá, mía. Còn trâu thì nuôi thành đàn dưới chân núi Hải Vân....
    ..."Trong công tác trồng tỉa và trong xí nghiệp rất ít ỏi, họ (người dân) tỏ ra không thua kém gì các quốc gia có nền công nghệ phồn thịnh. Ðôi khi họ còn biết dùng những phương thức thuận tiện và đạt hiệu quả hơn ở các nơi khác khi làm cùng một công việc...
    ..."Ðà Nẵng cống hiến một vùng an toàn cho các tàu bè lớn nhất suốt trong mùa mưa bão..."(1)
    Ðà Nẵng năm 1951, năm lên mười và cũng là một thành phố rất hấp dẫn.
    Một thành phố có những xe chở các thùng phân người mỗi ngày, có những đoàn xe chở thương binh, hoặc chở xác từ các mặt trận đưa về. Con đường Triệu Nữ Vương vừa được khai mở chưa tráng nhựa, phơi phới những phụ nữ giàu màu mè của son phấn. Con đường Hoàng Diệu chưa được thông suốt lưu chuyển, bởi một trạm gác của lính lê dương, tiền thân của đồn cảnh sát Hoàng Diệu về sau.
    Trong thành phố có hai bãi phóng uế công cộng. Một, vạc dương liễu tiếp giáp với bờ biển Thanh Bình. Nơi đây có một trại nhỏ nuôi dê lấy sữa của người Chà Và. Một bãi khác là cồn đất cao trước Kho đạn. Cồn đất này,về sau được san bằng để lập một ngôi chợ, với tên gọi Chợ Cồn, ngày nay. Cùng với chợ Cồn, một dãy nhà lợp tôn nằm bên trái con đường Khải Ðịnh, theo hướng ra biển, được dựng lên, đó là khu tập thể của cán bộ Công An. Gần đó không xa, có hai địa danh được gọi bằng hình ảnh cụ thể: Giếng Bể và Dốc Cầu Vồng.
    Giếng Bể có thành tròn cao xấp xỉ đến đầu gối một người lớn. Thành giếng bị sứt một một góc,lòng khô, có khá nhiều rác rến. Ðây là một tụ điểm của những mẹt, rỗ bắp nướng, khô mực... bàn đánh bầu, cua , cá, gà ...xúm xít với nhau về đêm.
    DốcCầu Vồng,nằm trên đường ThốngNhất. Không rõ con đường khang trang này được kiến thiết qua một cồn đất sẵn có độ cao , hoặc độ cao được vun đắp cho thuận tiện, dành cho đường tàu hỏa chạy bên dưới ?
    Ngoài hai cái tên thật dễ thương trên, ÐàNẵng còn có những tên gọi rất khó quên : Bến Mía, Xóm Chuối, Cống Mê Linh, Bầu Sen, Giếng Bộng...... Những cái tên nói lên sự nghèo khó, cảnh chen chúc cùng sức sống mãnh liệt.
    Thời điểm này, người Pháp sống rất nhiều tại Đà Nẵng. Các dancing của người Pháp cũng đã gây sự tò mò của những thanh thiếu niên mới lớn. Từ Bến Mía đi về Ga Lớn (ga Đà Nẵng bây giờ) hoặc một nơi nào đó, với những trạm dừng bên đường, là những chiếc xe buýt mang nhãn hiệu Renault được sơn màu vàng. Lúc đó người ta thường gọi là xa Vàng.
    Ðà Nẵng chợt thay đổi nhiều trong năm 1954.
    Những khu nhà ở được thiết lập với các tên gọi :Thanh Bình, Tam Tòa, Thanh Bồ, Ðức Lợi...Thành phố bắt đầu chật ra. Đám trẻ con thường chạy theo xem những đám người lùng bắt chuột cống trên các ngã đường.. quên cả việc đánh cờ gánh ở cột đài Diên Hồng, quên lăn lộn với trái tennis trên bãi than trước Bảo Trợ Nhi Ðồng.....Và chúng nó thong dong lớn lên, dớn dát ngó mỗi khi đi ngang bordel vừa đóng cửa trên đường Thống Nhất.
    Tầm vóc Ðà Nẵng, phía sau những tháng năm chinh chiến càng ngày càng thanh thản, khởi sắc. Nhà thơ Phan Xuân Sinh, một đứa con của Nại Hiên, một đôi mắt săn, giữ những sắc hương một thời của trường trung học Sao Mai, hồi niệm :
    ..." Vào khoảng thập niên 60, Ðà Nẵng có cái lệ là chiều thứ bảy thiên hạ rần rần đổ ra đi "bát phố". Trai thanh gái lịch đủ mặt, cũng chỉ đi lòng vòng mỗi một "blốc" đường. Muốn tìm người quen hay bạn bè thì chiều thứ bảy đứng phía trước mặt Chợ Hàn, thế nào cũng gặp. Còn nếu không, sợ đứng lâu mỏi chân thì ngồi ở quán cà phê gần Thông Tin ở đường Yên Báy, người mình muốn gặp phải đi ngang qua đó. Nói vậy đủ biết Ðà Nẵng lúc đó dân số không đông lắm. Ðường sá vẫn còn vắng vẻ chứ không như bây giờ. Dân chúng cũng thảnh thơi, ung dung dạo phố. Cái ăn, cái mặc, nó không quấn bên đít nên cũng còn hưởng được chút tao nhã của một thời thịnh trị. Tụi tôi còn là học sinh, xe đạp khóa lại, đặt ở bờ tường Thông Tin, rồi đi dạo phố. Ði cả buổi, lúc nào về, trở lại chỗ cũ lấy xe. Xe vẫn còn nguyên vẹn chứ không bay mất. Như vậy đủ biết, tình trạng trộm cắp trong thành phố chưa là mối lo cho dân chúng..." (2)
    Ðà Nẵng của thập niên 70, không những đã chia tay cùng những đêm thứ bảy, những chiều bát phố của Phan Xuân Sinh, mà còn phải chia tay với nhiều buồn vui, dồn dập gối đầu lên nhau.Những ngày tháng dở mưa dở nắng, thở trong hơi lựu đạn cay, đi dưới những giải băng biểu ngữ rồi cũng qua. Ðà Nẵng không có cái huyên náo trường kỳ, liên tục như cố đô Huế. Nhưng Ðà Nẵng có cái quyết liệt đến cộc cằn. Đã bao nhiêu người ngã xuống cho Tổ quốc quyết sinh. Đã bao người đứng dậy đấu tranh cho hòa bình của dân tộc. Bằng chứng là, chỉ riêng huyện Điện Bàn của chúng ta thôi thì các anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống với hơi thở của đất không phải là ít! Riêng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng thì đây là huyện nhiều nhất trong cả nước!
    Vâng, một Đà Nẵng oai hùng trong quá khứ và bây giờ, một Đà Nẵng đang thay da đổi thịt, đang phát triển theo từng nhịp tim của những người con xứ Quảng.
    Thay đổi vì sẽ đổi thay...
  7. theBrick

    theBrick Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Đà Nẵng, một quá khứ ​
    Ðà Nẵng, với diện tích 1.247 cây số vuông, nằm cách Sàigòn 964 cây số về hướng bắc; cách Hà Nội 764 cây số về hướng nam. Phía đông bắc là vũng Ðà Nẵng, có bán đảo Sơn Trà, và núi Sơn Chà cao 693 thước; Với hải cảng rộng, kín gío, với phi trường có diện tích lớn, với quốc lộ số 1,số 14 và liên lộ 4, Ðà Nẵng được nhìn nhận là một thành phố. Hơn thế nữa, là một thành phố có tầm vóc thứ 3 của Quốc Gia Việt Nam, vào thời điểm này.
    Trước đây, vào thời Tây Sơn, Ðà Nẵng được giới thiệu bởi nhà văn Nguyễn văn Xuân,( một giáo sư, một học gỉa của Quảng Nam):
    "...Nhà cửa thấp, hầu hết bằng tre, lợp lá hoặc rơm rạ, ở lẫn lộn trong cây cối, ngoại trừ chung quanh khu vực chợ. Những nhà cửa cao đẹp hơn thì xây dựng giữa vườn, trong vườn trồng những cây cau hoặc các loại cây vừa làm cảnh vừa hữu dụng. Phía sau thành phố có nhiều cụm trồng cam, chanh, chuối, cau. Nhiều ngôi nhà còn nguyên vẹn với cây cao bóng mát. Một số nhà khác ở tình trạng hoang phế, tiêu điều. Ở bờ sông bên kia (Hà Thân) mở ra nhiều đám ruộng, gò với vườn tược bọc quanh, trong đó trồng thuốc lá, mía. Còn chợ của thànhphố thì đầy rẫy những sản phẩm nhiệt đới, kể cả gia cầm mà nhiều nhất là gà vịt.Người ta cũng bán tại đây rất nhiều chim "mổ mắt" (dardeur) bụng đen -loại chim chim có tên gọi theo đặc điểm là hay dùng mỏ dài và nhọn mổ vào mắt những vật nó thấy sáng lên, nhất là mắt của những kẻ nhìn nó. Vì thế, khi mang bán ở chợ Ðà Nẵng, người ta đã cẩn thận khâu mắt nó lại để nó khỏi nhìn thấy.
    Tại ÐàNẵng không thấy có lò sát sinh, nơi giết súc vật để bán thịt, song trong các bữa tiệc lớn vẫn dọn đầy thịt bò, thịt heo. Trong những bữa tiệc đãi phái đoàn, người ta thấy cả trăm chiếc đĩa đựng đồ ăn xếp ba hàng và chồng lên nhau. Ở xứ này, nhiều người dân chuộng thịt trâu hơn thịt bò và chẳng thấy ai uống bất kỳ loại sữa gì. Voi dùng trong việc chuyển vận và nhất là trong chiến tranh, đây là một nơi trong số ít những nơi trên thế giới mà người ta thích ăn thịt voi và cho đó là loại thịt ngon..." (1)
    Về sinh hoạt trong cuộc sống qua các ngành Ngư, Công, Nông,Thương, xin được lượm ra những nét vẽ từ bài viết của tác gỉa Bão Rừng :
    ..."Người dân Ðà Nẵng chuyên ngư nghiệp. Ghe thuyền đánh cá đậu dọc bờ sông.Người đánh cá hoạt động trên biển cả...
    .."Dân đánh cá rất mê tín, luôn luôn cúng bái những thần linh tưởng tượng. Con cái họ mới lớn tí xíu đã dẫn nhau xuống sông, bơi như lũ vịt con.
    "Về Nông nghiệp thì phong tục cũ còn nhiều. Nông dân có vẻ linh lợi, thông minh. Ðàn bà đông hơn đàn ông , đều chăm chỉ công việc đồng án. Nhà cửa sạch sẽ, thuận tiện cho một dân tộc ở vùng khí hậu nóng hoạt động lâu dài ngoài trời...
    ...." Ngay tại Ðà Nẵng, người ta thấy trong thành phố có trồng nhiều loại cây ăn quả. Bên Hà Thân có nhiều ruộng trồng thuốc lá, mía. Còn trâu thì nuôi thành đàn dưới chân núi Hải Vân....
    ..."Trong công tác trồng tỉa và trong xí nghiệp rất ít ỏi, họ (người dân) tỏ ra không thua kém gì các quốc gia có nền công nghệ phồn thịnh. Ðôi khi họ còn biết dùng những phương thức thuận tiện và đạt hiệu quả hơn ở các nơi khác khi làm cùng một công việc...
    ..."Ðà Nẵng cống hiến một vùng an toàn cho các tàu bè lớn nhất suốt trong mùa mưa bão..."(1)
    Ðà Nẵng năm 1951, năm lên mười và cũng là một thành phố rất hấp dẫn.
    Một thành phố có những xe chở các thùng phân người mỗi ngày, có những đoàn xe chở thương binh, hoặc chở xác từ các mặt trận đưa về. Con đường Triệu Nữ Vương vừa được khai mở chưa tráng nhựa, phơi phới những phụ nữ giàu màu mè của son phấn. Con đường Hoàng Diệu chưa được thông suốt lưu chuyển, bởi một trạm gác của lính lê dương, tiền thân của đồn cảnh sát Hoàng Diệu về sau.
    Trong thành phố có hai bãi phóng uế công cộng. Một, vạc dương liễu tiếp giáp với bờ biển Thanh Bình. Nơi đây có một trại nhỏ nuôi dê lấy sữa của người Chà Và. Một bãi khác là cồn đất cao trước Kho đạn. Cồn đất này,về sau được san bằng để lập một ngôi chợ, với tên gọi Chợ Cồn, ngày nay. Cùng với chợ Cồn, một dãy nhà lợp tôn nằm bên trái con đường Khải Ðịnh, theo hướng ra biển, được dựng lên, đó là khu tập thể của cán bộ Công An. Gần đó không xa, có hai địa danh được gọi bằng hình ảnh cụ thể: Giếng Bể và Dốc Cầu Vồng.
    Giếng Bể có thành tròn cao xấp xỉ đến đầu gối một người lớn. Thành giếng bị sứt một một góc,lòng khô, có khá nhiều rác rến. Ðây là một tụ điểm của những mẹt, rỗ bắp nướng, khô mực... bàn đánh bầu, cua , cá, gà ...xúm xít với nhau về đêm.
    DốcCầu Vồng,nằm trên đường ThốngNhất. Không rõ con đường khang trang này được kiến thiết qua một cồn đất sẵn có độ cao , hoặc độ cao được vun đắp cho thuận tiện, dành cho đường tàu hỏa chạy bên dưới ?
    Ngoài hai cái tên thật dễ thương trên, ÐàNẵng còn có những tên gọi rất khó quên : Bến Mía, Xóm Chuối, Cống Mê Linh, Bầu Sen, Giếng Bộng...... Những cái tên nói lên sự nghèo khó, cảnh chen chúc cùng sức sống mãnh liệt.
    Thời điểm này, người Pháp sống rất nhiều tại Đà Nẵng. Các dancing của người Pháp cũng đã gây sự tò mò của những thanh thiếu niên mới lớn. Từ Bến Mía đi về Ga Lớn (ga Đà Nẵng bây giờ) hoặc một nơi nào đó, với những trạm dừng bên đường, là những chiếc xe buýt mang nhãn hiệu Renault được sơn màu vàng. Lúc đó người ta thường gọi là xa Vàng.
    Ðà Nẵng chợt thay đổi nhiều trong năm 1954.
    Những khu nhà ở được thiết lập với các tên gọi :Thanh Bình, Tam Tòa, Thanh Bồ, Ðức Lợi...Thành phố bắt đầu chật ra. Đám trẻ con thường chạy theo xem những đám người lùng bắt chuột cống trên các ngã đường.. quên cả việc đánh cờ gánh ở cột đài Diên Hồng, quên lăn lộn với trái tennis trên bãi than trước Bảo Trợ Nhi Ðồng.....Và chúng nó thong dong lớn lên, dớn dát ngó mỗi khi đi ngang bordel vừa đóng cửa trên đường Thống Nhất.
    Tầm vóc Ðà Nẵng, phía sau những tháng năm chinh chiến càng ngày càng thanh thản, khởi sắc. Nhà thơ Phan Xuân Sinh, một đứa con của Nại Hiên, một đôi mắt săn, giữ những sắc hương một thời của trường trung học Sao Mai, hồi niệm :
    ..." Vào khoảng thập niên 60, Ðà Nẵng có cái lệ là chiều thứ bảy thiên hạ rần rần đổ ra đi "bát phố". Trai thanh gái lịch đủ mặt, cũng chỉ đi lòng vòng mỗi một "blốc" đường. Muốn tìm người quen hay bạn bè thì chiều thứ bảy đứng phía trước mặt Chợ Hàn, thế nào cũng gặp. Còn nếu không, sợ đứng lâu mỏi chân thì ngồi ở quán cà phê gần Thông Tin ở đường Yên Báy, người mình muốn gặp phải đi ngang qua đó. Nói vậy đủ biết Ðà Nẵng lúc đó dân số không đông lắm. Ðường sá vẫn còn vắng vẻ chứ không như bây giờ. Dân chúng cũng thảnh thơi, ung dung dạo phố. Cái ăn, cái mặc, nó không quấn bên đít nên cũng còn hưởng được chút tao nhã của một thời thịnh trị. Tụi tôi còn là học sinh, xe đạp khóa lại, đặt ở bờ tường Thông Tin, rồi đi dạo phố. Ði cả buổi, lúc nào về, trở lại chỗ cũ lấy xe. Xe vẫn còn nguyên vẹn chứ không bay mất. Như vậy đủ biết, tình trạng trộm cắp trong thành phố chưa là mối lo cho dân chúng..." (2)
    Ðà Nẵng của thập niên 70, không những đã chia tay cùng những đêm thứ bảy, những chiều bát phố của Phan Xuân Sinh, mà còn phải chia tay với nhiều buồn vui, dồn dập gối đầu lên nhau.Những ngày tháng dở mưa dở nắng, thở trong hơi lựu đạn cay, đi dưới những giải băng biểu ngữ rồi cũng qua. Ðà Nẵng không có cái huyên náo trường kỳ, liên tục như cố đô Huế. Nhưng Ðà Nẵng có cái quyết liệt đến cộc cằn. Đã bao nhiêu người ngã xuống cho Tổ quốc quyết sinh. Đã bao người đứng dậy đấu tranh cho hòa bình của dân tộc. Bằng chứng là, chỉ riêng huyện Điện Bàn của chúng ta thôi thì các anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống với hơi thở của đất không phải là ít! Riêng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng thì đây là huyện nhiều nhất trong cả nước!
    Vâng, một Đà Nẵng oai hùng trong quá khứ và bây giờ, một Đà Nẵng đang thay da đổi thịt, đang phát triển theo từng nhịp tim của những người con xứ Quảng.
    Thay đổi vì sẽ đổi thay...
  8. theBrick

    theBrick Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Đà Nẵng: "đầu tàu" kinh tế miền Trung ​
    Đà Nẵng (TTXVN 4/9/03) - Nằm bên bờ con sông Hàn lịch sử, thành phố Đà Nẵng đang thay da, đổi thịt từng ngày. Nhiều đường phố mới khang trang, những cây cầu thơ mộng, bờ biển sạch và trong lành, làm cho bộ mặt thành phố thêm tươi trẻ và tràn đầy sức sống.
    Trong dịp về làm việc tại thành phố, Thủ tướng Phan Văn Khải đã xác định phải xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung. Nhiệm vụ mới đặt ra rất nặng nề, nhưng đây là cơ hội lớn, để thành phố "cất cánh" về kinh tế và đóng vai trò làm "đầu tàu" cho cả "đoàn tàu" bao gồm các tỉnh trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên cùng phát triển.
    Ở vị trí Trung tâm của khu vực miền Trung, Đà Nẵng có một hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh gồm sân bay quốc tế lớn, cảng Sông Hàn và cảng nước sâu Tiên Sa, đi qua địa bàn còn có tuyến đường sắt Bắc-Nam, mạng đường bộ bao gồm Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh và trong tương lai không xa, dự kiến sẽ xây dựng thêm tuyến đường cao tốc Huế-Đà Nẵng-Quảng Nam-Quảng Ngãi và tuyến đường ven biển.
    Những năm gần đây, kinh tế của Đà Nẵng đã có bước phát triển khá toàn diện, năm 2002 tổng sản phẩm trên địa bàn của thành phố đạt được 4.283 tỷ đồng, với mức tăng trưởng bình quân trong hai năm 2001 và 2002 là 12,4%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh, trong đó tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 96%. Một số sản phẩm công nghiệp của Đà Nẵng có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường, như hàng may mặc, giày, xăm lốp, xi măng, nhựa, gạch ốp lát, giấy bìa, sợi, thực phẩm.
    Theo ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng: hiện còn có những vấn đề thành phố phải tập trung giải quyết trong thời gian tới, như tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa vững chắc, lĩnh vực du lịch và dịch vụ chưa phát triển mạnh, sức cạnh tranh của hàng hóa còn hạn chế, thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Ông Thanh cũng cho biết những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế-xã hội của thành phố trong thời gian tới là: ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến hải sản, dệt may, giày da, cơ khí, điện tử, hóa chất, vật liệu xây dựng theo công nghệ hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường và phát triển công nghiệp phần mềm trở thành một mũi nhọn kinh tế của thành phố.
    Thành phố cũng chủ trương tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng và có cơ chế khuyến khích đầu tư tại các khu công nghiệp Liên Chiểu, Hòa Khánh, Đà Nẵng; đẩy mạnh khâu xúc tiến đầu tư trực tiếp của nước ngoài để phát triển công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có quy mô lớn.
    Đà Nẵng có điều kiện thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển, mà hướng tới là ưu tiên xây dựng trung tâm nghề cá mạnh, tập trung vào nuôi trồng, khai thác, chế biến và dịch vụ.
    Bên cạnh đó phát triển dịch vụ về cảng biển, phấn đấu đưa Đà Nẵng thành trung tâm lớn thứ 3 của cả nước về đóng mới và sửa chữa tàu biển. Thành phố sẽ ưu tiên cải tạo và mở rộng cụm cảng Đà Nẵng (bao gồm cảng Tiên Sa và Sông Hàn), nâng cao năng lực bốc dỡ lên khoảng 3,5 triệu tấn/năm.
    Nằm trong trung tâm vùng trọng điểm du lịch Huế-Đà Nẵng-Quảng Nam, chủ trương của thành phố là phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa truyền thống, du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển, Trung ương tiếp tục đầu tư cho các công trình như mở rộng đường Quốc lộ 1A, nâng cấp Quốc lộ 14B nối cảng Tiên Sa với đường Hồ Chí Minh, xây dựng đường hầm đèo Hải Vân và đường tránh phía Tây thành phố, xây dựng thêm cầu Tuyên Sơn, mở rộng đường Ngô Quyền ra cảng, nâng cấp cảng biển nước sâu Tiên Sa đạt công suất 3 triệu tấn/năm vào năm 2005, xây dựng mới ga hàng không quốc tế Đà Nẵng, hiện đại hóa trung tâm bưu chính viễn thông.
    Về phía thành phố sẽ tập trung cải tạo mạng lưới giao thông nội thành, nâng cấp hệ thống giao thông ven thành phố và các trục giao thông quan trọng, như mở rộng đường mới Liên Chiểu-Thuận Phước ven vịnh Đà Nẵng, đường ven biển Sơn Trà - Non Nước.
    Đóng góp về phương hướng phát triển kinh tế trong thời gian tới của thành phố, ông Trương Văn Đoan, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết xuất khẩu của Đà Nẵng hiện chưa ổn định, vì cơ cấu ngành hàng vẫn nặng về da giày và dệt may. Muốn vươn lên làm giàu, thành phố cần phải có cơ chế chính sách thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài, chú trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng. Bên cạnh đó phải quan tâm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng các nhu cầu của thành phố và của cả vùng.
    Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Đỗ Hữu Hào nhất trí: phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp phần mềm, Đà Nẵng sẽ trở thành một trung tâm công nghiệp phần mềm lớn (chỉ đứng sau TP Hồ Chí Minh và Hà Nội). Về phát triển công nghiệp chế biến cao su, ông Hào cho rằng Đà Nẵng có đủ điều kiện để xây dựng ở đây một nhà máy sản xuất xăm lốp ô tô hiện đại.
    Ông Trần Xuân Giá, Trưởng ban nghiên cứu kinh tế của Thủ tướng đánh giá: tỷ trọng công nghiệp-xây dựng và dịch vụ chiếm trên 93% là con số rất đáng mừng, nhưng thu nhập bình quân tính trên đầu người mới đạt 670 USD/người/năm, thì chưa tương xứng với tầm vóc của một thành phố công nghiệp. Điều đó chứng tỏ hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm công nghiệp còn rất thấp và trên địa bàn Đà Nẵng thiếu những dịch vụ mang tính trí tuệ cao./.

    Thay đổi vì sẽ đổi thay...
  9. theBrick

    theBrick Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Đà Nẵng: "đầu tàu" kinh tế miền Trung ​
    Đà Nẵng (TTXVN 4/9/03) - Nằm bên bờ con sông Hàn lịch sử, thành phố Đà Nẵng đang thay da, đổi thịt từng ngày. Nhiều đường phố mới khang trang, những cây cầu thơ mộng, bờ biển sạch và trong lành, làm cho bộ mặt thành phố thêm tươi trẻ và tràn đầy sức sống.
    Trong dịp về làm việc tại thành phố, Thủ tướng Phan Văn Khải đã xác định phải xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung. Nhiệm vụ mới đặt ra rất nặng nề, nhưng đây là cơ hội lớn, để thành phố "cất cánh" về kinh tế và đóng vai trò làm "đầu tàu" cho cả "đoàn tàu" bao gồm các tỉnh trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên cùng phát triển.
    Ở vị trí Trung tâm của khu vực miền Trung, Đà Nẵng có một hệ thống giao thông khá hoàn chỉnh gồm sân bay quốc tế lớn, cảng Sông Hàn và cảng nước sâu Tiên Sa, đi qua địa bàn còn có tuyến đường sắt Bắc-Nam, mạng đường bộ bao gồm Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh và trong tương lai không xa, dự kiến sẽ xây dựng thêm tuyến đường cao tốc Huế-Đà Nẵng-Quảng Nam-Quảng Ngãi và tuyến đường ven biển.
    Những năm gần đây, kinh tế của Đà Nẵng đã có bước phát triển khá toàn diện, năm 2002 tổng sản phẩm trên địa bàn của thành phố đạt được 4.283 tỷ đồng, với mức tăng trưởng bình quân trong hai năm 2001 và 2002 là 12,4%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh, trong đó tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ chiếm trên 96%. Một số sản phẩm công nghiệp của Đà Nẵng có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường, như hàng may mặc, giày, xăm lốp, xi măng, nhựa, gạch ốp lát, giấy bìa, sợi, thực phẩm.
    Theo ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng: hiện còn có những vấn đề thành phố phải tập trung giải quyết trong thời gian tới, như tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa vững chắc, lĩnh vực du lịch và dịch vụ chưa phát triển mạnh, sức cạnh tranh của hàng hóa còn hạn chế, thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Ông Thanh cũng cho biết những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế-xã hội của thành phố trong thời gian tới là: ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến hải sản, dệt may, giày da, cơ khí, điện tử, hóa chất, vật liệu xây dựng theo công nghệ hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường và phát triển công nghiệp phần mềm trở thành một mũi nhọn kinh tế của thành phố.
    Thành phố cũng chủ trương tập trung đầu tư xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng và có cơ chế khuyến khích đầu tư tại các khu công nghiệp Liên Chiểu, Hòa Khánh, Đà Nẵng; đẩy mạnh khâu xúc tiến đầu tư trực tiếp của nước ngoài để phát triển công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có quy mô lớn.
    Đà Nẵng có điều kiện thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển, mà hướng tới là ưu tiên xây dựng trung tâm nghề cá mạnh, tập trung vào nuôi trồng, khai thác, chế biến và dịch vụ.
    Bên cạnh đó phát triển dịch vụ về cảng biển, phấn đấu đưa Đà Nẵng thành trung tâm lớn thứ 3 của cả nước về đóng mới và sửa chữa tàu biển. Thành phố sẽ ưu tiên cải tạo và mở rộng cụm cảng Đà Nẵng (bao gồm cảng Tiên Sa và Sông Hàn), nâng cao năng lực bốc dỡ lên khoảng 3,5 triệu tấn/năm.
    Nằm trong trung tâm vùng trọng điểm du lịch Huế-Đà Nẵng-Quảng Nam, chủ trương của thành phố là phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa truyền thống, du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển, Trung ương tiếp tục đầu tư cho các công trình như mở rộng đường Quốc lộ 1A, nâng cấp Quốc lộ 14B nối cảng Tiên Sa với đường Hồ Chí Minh, xây dựng đường hầm đèo Hải Vân và đường tránh phía Tây thành phố, xây dựng thêm cầu Tuyên Sơn, mở rộng đường Ngô Quyền ra cảng, nâng cấp cảng biển nước sâu Tiên Sa đạt công suất 3 triệu tấn/năm vào năm 2005, xây dựng mới ga hàng không quốc tế Đà Nẵng, hiện đại hóa trung tâm bưu chính viễn thông.
    Về phía thành phố sẽ tập trung cải tạo mạng lưới giao thông nội thành, nâng cấp hệ thống giao thông ven thành phố và các trục giao thông quan trọng, như mở rộng đường mới Liên Chiểu-Thuận Phước ven vịnh Đà Nẵng, đường ven biển Sơn Trà - Non Nước.
    Đóng góp về phương hướng phát triển kinh tế trong thời gian tới của thành phố, ông Trương Văn Đoan, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết xuất khẩu của Đà Nẵng hiện chưa ổn định, vì cơ cấu ngành hàng vẫn nặng về da giày và dệt may. Muốn vươn lên làm giàu, thành phố cần phải có cơ chế chính sách thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài, chú trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng. Bên cạnh đó phải quan tâm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng các nhu cầu của thành phố và của cả vùng.
    Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Đỗ Hữu Hào nhất trí: phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp phần mềm, Đà Nẵng sẽ trở thành một trung tâm công nghiệp phần mềm lớn (chỉ đứng sau TP Hồ Chí Minh và Hà Nội). Về phát triển công nghiệp chế biến cao su, ông Hào cho rằng Đà Nẵng có đủ điều kiện để xây dựng ở đây một nhà máy sản xuất xăm lốp ô tô hiện đại.
    Ông Trần Xuân Giá, Trưởng ban nghiên cứu kinh tế của Thủ tướng đánh giá: tỷ trọng công nghiệp-xây dựng và dịch vụ chiếm trên 93% là con số rất đáng mừng, nhưng thu nhập bình quân tính trên đầu người mới đạt 670 USD/người/năm, thì chưa tương xứng với tầm vóc của một thành phố công nghiệp. Điều đó chứng tỏ hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm công nghiệp còn rất thấp và trên địa bàn Đà Nẵng thiếu những dịch vụ mang tính trí tuệ cao./.

    Thay đổi vì sẽ đổi thay...
  10. theBrick

    theBrick Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    MỸ SƠN​
    Được UNESCO công nhận năm: 1999
    Xếp hạng theo tiêu chí của Công ước Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới: C ii, iii
    (C: thuộc loại Di sản Văn hoá; ii, iii: thứ mục tiêu chí số 2, 3)
    Khu di tích tháp Chàm Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng hẹp có đường kính khoảng 2km, thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng 70km về hướng Tây - Tây Nam, cách Trà Kiệu- kinh thành cũ của vương quốc Chăm pa xưa 20km về phía Tây. Suốt 4 thế kỷ bị lãng quên, đến năng 1885, Mỹ Sơn mới được phát hiện. Mười năm sau, các nhà nghiên cứu bắt đầu thực hiện các cuộc phát quang, nghiên cứu khu di tích này.
    Có thể chia việc nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp về Mỹ Sơn thành hai giai đoạn khác nhau:
    - Năm 1898 - 1899, Louis de Fino và Launet de Lajonquere nghiên cứu các văn bia.
    - Năm 1901 - 1902, Hen ri Pamlentier nghiên cứu về nghệ thuật và năm 1904 ông cùng Olrpeaus tổ chức khai quật khảo cổ học tại đây.
    Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được L.Finot và H.Pamlentier công bố. Từ công trình nghiên cứu của H. Parlnentler, chúng ta biết cách đây hơn 100 năm, Mỹ Sơn đã có 68 công trình kiến trúc và ông đã chia chúng thành các nhóm từ A, A?T đến N.
    Nhà nghiên cứu nghệ thuật F.S. Tern chia di tích Chăm Việt Nam ra làm 7 phong cách nghệ thuật theo quá trình tiến triển của nó. Mỹ Sơn có đủ đại biểu các phong cách, trong đó có đến hai phong cách xuất phát từ Mỹ Sơn. Đặc biệt phong cách Mỹ Sơn A.1 với xuất phát là đền A1 thường được gọi là kiệt tác kiến trúc của di tích Chăm.
    Văn bia tại Mỹ sơn cho thấy lịch sử của Mỹ Sơn được bắt đầu bằng những ngôi đền gỗ vào thế kỷ thứ IV. Sau đó nó bị cháy đi nhưng chúng ta không biết được lý do. Đến thế kỷ thứ VII, một ông vua khác dâng cúng và xây một ngôi đền gạch. Từ đó về sau, các vương triều Chăm pa liên tục dâng cúng những ngôi đền, những kiến trúc tại Mỹ Sơn kéo dài từ những đền tháp đầu tiên vào thế kỷ thứ VII đến những đền tháp cuối cùng vào thế kỷ XIII. Trong vòng 7 thế kỷ như vậy, đền tháp tại Mỹ Sơn được xây mới và tu bổ liên tục nên những phong cách nghệ thuật và kiến trúc của nó cũng thể hiện sự chuyển hoá của quá trình phát triển của nghệ thuật và kiến trúc Chăm pa. Chúng ta cũng còn thấy được rằng các vương triều Chăm pa xưa ngoài việc xây dựng các ngôi đền mới, họ còn có nhiệm vụ tu sửa lại các ngôi đền cũ và họ chỉ tu sửa mặt tường ngoài chứ không tu sửa mặt trong. Nếu chỉ căn cứ vào cách trang trí mặt ngoài mà xác định niên đại của đền tháp thì có thể sẽ không đúng vì rất có thể khi trùng tu, người đời sau sẽ áp đặt phong cách mỹ thuật của thời họ vào trên tường tháp.
    Là một quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ, Shiva là vị thần được tôn thờ tại vương quốc Chăm pa. Đền thờ tại Mỹ Sơn được các vương triều Chăm pa xây dựng để thờ chính vị thần vua của mình. Sự kết hợp giữa vương và thần được thể hiện qua ngẩu tượng Linga. Từ những buổi ban đầu sơ khai, gần như người nghệ sĩ Chăm học cách trang trí mỹ thuật và thực hiện nó theo người Ấn Độ (Mỹ Sơn E1). Nhưng rồi dần về sau, tính bản địa đã được thể hiện. Nhưng theo thời gian, qua giao tiếp với các nền văn minh khác và sự tiếp nhận chọn lọc của người nghệ sĩ Chăm pa; đền tháp tại Mỹ Sơn mang những đường nét kiến trúc theo các thời kỳ khác nhau thể hiện các luồng văn hoá mà họ nhận được. Là khu đền thờ chính của vương quốc trong suốt chín thể kỷ, nên các đền tháp của Mỹ Sơn cũng thể hiện tính thăng trầm của các thời kỳ, những thay đổi trong lịch sử của các vương triều, những chuyển biến trong đời sống văn hoá.
    Tuy chỉ xây dựng những công trình có kích thước vừa và nhỏ, những kiến trúc của Mỹ Sơn đã chắt lọc được những tinh hoa của người nghệ sĩ, sự kết hợp giữa kỹ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí người Chăm pa xưa đã tạo cho các đền tháp một vẻ uy nghiêm và kỳ bí.
    Khi nói về di tích Chàm, chúng ta hay nói về các đền tháp bằng gạch. Nhưng ở Mỹ Sơn lại có một đền bằng đá và là đền duy nhất bằng đá của di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234. Ngày nay tiếc rằng ngôi đền này đã bị sập nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30m và đây là ngôi đền cao nhất Mỹ Sơn. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây và vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ thứ IV.
    Năm 1937, các nhà khoa học Pháp bắt đầu có những công cuộc trùng tu tại Mỹ Sơn. Năm 1937-1938, ngôi đền A1 và các ngôi đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Năm 1939, nhằm để nghiên cứu các di tích của nhóm A, B, C, D khỏi sự phá huỷ của dòng nước (đã phá sập tháp A9), người Pháp đã cho xây một con đập và đào một dòng chảy xuyên núi để đổi hướng dòng chảy. Nhưng năm 1946, sau một trận lũ lớn, con đập này đã bị vỡ, nước chảy trở lai theo dòng cũ như ngày hôm nay chúng ta thấy.
    Mỹ Sơn có một giai đoạn yên lắng từ năm 1954 đến 1964. Khi đó, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chưa đến giai đoạn khốc liệt. Nhưng từ năm 1965 đến 1972, khi khu vực Duy Xuyên và Quảng Nam trở thành một chiến trường. Đền tháp Mỹ Sơn cũng bị thiệt hại cùng với xóm làng mà nó đã mang tên. Nặng nề nhất là trận bom năm 1969 đã làm biến dạng hình hài của khu di tích. Hầu hết các đền tháp đã bị sụp đổ hoặc hư hại nặng nề. Sau chiến tranh, để phục vụ cho công cuộc nghiên cứu, phục hồi di tích, chúng ta đã tiến hành rà phá bom mìn còn lại ở khu vực này. Mỹ Sơn sau chiến tranh là sự ngổn ngang gạch đổ, cần sự trợ giúp của nhiều người.
    Năng 1980, trong chương trình hợp tác văn hoá Việt Nam- Ba Lan, tiểu ban phục hồi di tích Chăm pa được thành lập do cố kiến trúc sư KAZIMIERS KWIATKOWSKI (1944-1997) phụ trách. Từ 1981 đến 1985, các đền tháp nhóm B, C, D được dọn dẹp và gia cố, hàng ngàn mét khối gạch vỡ, đất đá được đưa ra khỏi khu vực và sắp xếp lại. Nhờ vậy mà khu vực đền tháp này có được dáng vẻ như ngày hôm nay. Sau đó, một phần nhóm A được dọn dẹp và gia cố. Mỹ Sơn hiện nay vẫn còn rất nhiều việc để làm nhưng được như hôm nay là công sức của những con người của những năm 1980 đầy khó khăn. Cố kiến trúc sư người Ba Lan mà mọi người hay gọi bằng một tên thân mật KAZIK đã để lại một tình cảm sâu đậm trong di tích và con người tại Mỹ Sơn. Ông mất năm 1997 tại Huế.
    Để tiếp tục công việc bảo tồn di năm 1995, Ban quản lý Di tích Mỹ Sơn đã được thành lập. Để có cơ sở thực hiện công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di tích, Ban đã phối hợp với Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương thiết lập các dự án tu bổ cấp thiết từng cụm di tích trên cơ sở quy hoạch toàn vùng. Nổi bật nhất trong những năm 1998-1999, Ban đã hoàn thành được hồ sơ để trình UNESCO công nhận Mỹ Sơn là Di sản Thế giới. Tháng 12 năm 1999, Mỹ Sơn đã chính thức là Di sản Văn hoá Thế giới với hai tiêu chuẩn:
    - Là điển hình nổi bật về sự giao lưu văn hoá với sự hội nhập vào văn hoá bản địa. Những ảnh hưởng văn hoá bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ giáo từ tiểu lục địa Ấn Độ.
    - Phản ảnh sinh động tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá Chăm pa trong lịch sử văn hoá Đông Nam á.
    Trong năm 1999, theo thoả thuận của ba bên Việt Nam - UNESCO - Italia, Ban quản lý Di tích Mỹ Sơn hợp tác với đoàn chuyên gia Italia nghiên cứu toàn diện về Mỹ Sơn. Từ đó, chúng ta có được bản đồ thực trạng khu vực di tích năm 2000. Các chuyên gia cho rằng việc đối xử với di tích phải hết sức dè dặt, phải nghiên cứu kỹ về vật liệu xây dựng vì người xưa không chỉ để lại những giá trị mỹ thuật và lịch sử mà còn có cả kỹ thuật vật liệu. Chơ đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn chưa có được một kết luận khoa học mang tính đúng đắn và có khả năng ứng dụng. Viên gạch cổ nhẹ hơn gạch hiện tại cùng kích thước 1,3 lần. Gạch được nung non hơn nhưng, tính chất về sức bền vật liệu lại cao hơn. Đặc biệt nếu nhìn mặt ngoài của bức tường đền tháp, chúng ta có cảm nhận là tường xây không cần vữa, nhưng gạch bị tách ra cho chúng ta thấy là có một lớp vữa mỏng. Các nhà phân tích Châu Âu kết luận rằng thành phần của lớp vữa này là thành phần vô cơ không tạo kết dính. Chúng ta lại cần phải nghiên cứu tiếp. Đền tháp Chăm ở Mỹ Sơn không chỉ chứa chất những giá trị văn hoá làm say đắm chúng ta mà còn chứa cả những giá trị kỹ thuật mà công nghệ thời chúng ta chưa giải quyết được. Đến Mỹ Sơn, nhìn một mảng tường để biết rằng chúng ta còn phải học nhiều.
    Để bảo tồn di tích khỏi sự tác động của thiên nhiên, những khu rừng mới đã được trồng, vành đai xung quanh di tích cần được bảo vệ. Hiện nay, tuy còn nhiều việc phải tiếp tục làm, nhưng rừng núi Mỹ Sơn đã trở lại màu xanh. Trong quá trình gia cố, phát lộ di tích, Ban quản lý di tích Mỹ Sơn vẫn phải tiếp tục làm lại quá trình rà soát bom mìn lần hai để bảo đảng chiến tranh không làm tổn thương con người và di tích thêm lần nữa.
    Đồng thời, với việc bảo tồn di tích ngày một tốt hơn thì nhu cầu văn hoá của nhân dân và du khách ngày một cao hơn. Mỹ Sơn trở thành một điểm thu hút khách tham quan trong và ngoài nước, Mỹ Sơn dần đần hồi phục diện mạo trong sự yêu mến của mọi người. Để thu hút khách du lịch và phát triển kinh tế, đồng thời làm giảm bớt áp lực tác động vào di tích trong thời gian tới. Uỷ ban nhân dân huyện Duy Xuyên đã có dự án xây dựng khu du lịch Thạch Bàn, Mỹ Sơn. Với dự án này, hy vọng sự bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích tháp Chàm, Mỹ Sơn được thực hiện một cách có hiệu quả và bền vững. Di sản Văn hoá thế giới tháp Chàm Mỹ Sơn chứa đựng những giá trị văn hoá lớn lao, cần sự hiểu biết và yêu mến của mọi người.

    Thay đổi vì sẽ đổi thay...

Chia sẻ trang này