1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lập hội Ký ức thời gian. Hội dành cho những người yêu nhạc Tiền chiến

Chủ đề trong 'Làm quen - rút ngắn khoảng cách' bởi Baron282, 30/04/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Ờ nhẩy, nhưng anh cứ nghỉ là những người cùng yêu thích một vấn đề thì làm quen - rút ngắn khoảng cách để thành những người bạn tâm giao chứ.
    Cảm ơn em nhiều.
  2. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Chào chú Tiến
    Vừa gặp chú tối qua đây mờ
    Nhiều bài Tiền chiến trên Karaoke lắm.
    Không tin mời anh di hát xem.
    Vui vẻ nhé.
  3. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0

    Post các bài viết của Phạm Duy về Tân nhạc để mọi người cùng tham khảo nhé.

    Bài 4: Xu Hướng Nhạc Tình (Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình)
    Nhóm MYOSOTIS (Hoa Lưu Ly): Nhạc sĩ Thẩm Oánh
    Sau khi Nguyễn văn Tuyên làm công việc ''''''''''''''''''''''''''''''''hô hào âm nhạc cải cách'''''''''''''''''''''''''''''''' và khi các nhóm âm nhạc ở miền Bắc thi đua nhau tung ra các bài hát mới thì xem chừng nhóm MYOSOTIS là nhóm có chủ trương rõ rệt nhất. Tuy về sau này, ta mới thấy họ công khai viết trên một tờ báo chuyên về âm nhạc là tờ Việt Nhạc (số 5, ngày 16-10-1948) về lối soạn nhạc của họ, nhưng qua một số bài được in ra và hát lên trong hai năm đầu (38-39) ta cũng thấy rõ ràng là họ đã và sẽ phải làm như Nguyễn văn Tuyên : xây dựng nhạc mới trên âm giai thất cung Tây Phương hay trên thang âm ngũ cung Việt Nam. Kể ra thì họ cũng còn một chọn lựa thứ ba nữa : soạn một ca khúc dung hòa cả hai hệ thống âm giai ngũ cung và thất cung.
    Trong nhóm MYOSOTIS (tức là Hoa Lưu Ly), nổi bật lên trên hết là hai nhạc sĩ Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Thẩm Oánh thì rõ ràng là muốn soạn nhạc mới theo ngũ cung. Bài Khúc Yêu Ðương được đăng trên báo NGÀY NAY vào cuối năm 1938 có thể được coi như bản đầu tay của họ Thẩm :
    Ngọn trào đưa sóng
    Về tới nơi đâu
    Chiếc thuyền tình xa chìm nổi
    Thuyền ơi hãy ghé vào bờ
    Ðể tôi đỡ phải mong chờ
    Mượn mái chèo mà đi kiếm người mơ...

    Ðúng như Thẩm Oánh tuyên bố sau này trong tờ báo kể trên : ''''''''''''''''''''''''''''''''Âm Nhạc Cải Cách phải theo ý nhạc Việt Nam và phải có cảm tưởng thuần túy á đông'''''''''''''''''''''''''''''''', nhạc điệu của bài Khúc Yêu Ðương này có phảng phất một nét nhạc ngũ cung mà tôi cho là gần gũi nhất, tự nhiên nhất đối với lỗ tai người Việt. Ðó là ngũ cung Do Ré Fa Sol La.
    Tuy nhiên nếu ta dựa vào nhạc diatonique Tây Phương thì ta cũng có thể nói rằng bài Khúc Yêu Ðương được soạn với những nét nhạc "âm chuỗi" (arpege) : Do Fa La Do Fa vì lối hành âm của bài này. Chắc chắn vào lúc đó, Thẩm Oánh muốn bài hát của mình phải "theo ý nhạc Việt Nam và có cảm tưởng á đông" nhưng chưa chắc ông đã có ý thức rõ rệt về hai loại nhạc ngũ cung và thất cung. Ông cũng chưa phân biệt được sự khác nhau của ngũ cung Việt Nam và ngũ cung Trung hoa cho nên đã đưa ra bài Xuân Về trong đó ông dùng ngũ cung Trung Hoa có ''''''''''''''''''''''''''''''''biến cung'''''''''''''''''''''''''''''''' (pien) :
    Xuân về rồi muôn đoá hoa đào tươi
    Cười trong nắng sáng tươi
    Buông mành xuống tơ liễu soi hồ gương
    Rờn màu sắc Xuân vừa sang
    Ngàn muôn tiếng vang lừng ca
    Chim ghép đôi tung trời bay
    Và âu yếm bên ngàn hoa
    Cô gái mơ màng say...

    Nếu phân tích theo nhạc diatonique thì bài Xuân Về này được soạn với âm giai thất cung Sol La Si Do Re Mi Fa# Sol. Nhưng nếu phân tích theo nhạc ngũ cung thì ta thấy đoạn A và đoạn C được soạn với ngũ cung Ré Mi Sol La Si có biến cung Fa# và câu đầu của đoạn B được soạn với ngũ cung Ré Mi Sol La Si có biến cung Do. Tôi hồ nghi Thẩm Oánh là người thuộc dòng dõi Trung Hoa bởi vì họ Thẩm không phải là một họ thông thường của người Việt. Khi Thẩm Oánh chủ trương nhạc Việt Nam cải cách phải có cảm tưởng á đông thì cái ngũ cung Trung Hoa từ trong mạch máu của ông đã tuôn ra một cách rất tự nhiên.
    Tuy nhiên, phân tích là để hiểu thêm về tác giả, ta sẽ thấy rằng dù bài Xuân Về có được soạn bằng âm giai ngũ cung Trung Hoa đi nữa, bài này vẫn được hát vang trên các đài phát thanh ở miền Nam cho tới hết mùa Xuân 1975.
    Trong thời gian hình thành của Nhạc Cải Cách, Thẩm Oánh còn tung ra nhiều bài hát thuộc nhiều loại khác nhau : Hồ Xưa, theo nhịp ba sở trường của ông; Hồn Xuân với nhip fox trot khá giật gân; Có Ai Sang Ðò (soạn chung với D.T.Tước); Cô Hàng Bán Hoa... Nếu ta coi lại những bản nhạc đầu tay của Thẩm Oánh, ta sẽ thấy tuy ông muốn soạn nhạc ngũ cung để cho bản nhạc có cảm tưởng á đông nhưng nhiều khi ông lấn qua nhạc diatonique. Ví dụ trong bài Hồ Xưa, câu đầu thì chắc chắn là nét nhạc ngũ cung Sol La Do Ré Mi :
    Hôm xưa trên nước lờ đờ
    Hai chúng ta đã say sưa
    Lái một chiếc thuyền mơ

    ... nhưng qua câu thứ hai thì lại lòi ra cung Fa (ở chỗ thuyền trôi) nghĩa là từ thang âm ngũ cung Sol La Do Ré Mi chuyển qua thang âm ngũ cung Do Ré Fa Sol La :
    Thuyền trôi êm ái vô ngần
    Trên sóng lăn tăn...
    ...
    rồi lại quay trở về thang âm Sol La Do Ré Mi :
    Mà đến hôm nay
    Hôm nay vẫn nước hồ này
    Ôi đắng cay có mình tôi
    Lái thuyền, nước lênh đênh...

    Nếu theo quan niệm nhạc có chủ âm (musique tonale) hồi đó, câu đầu thuộc giọng Do majeur và Sol 7 thì câu thứ hai đã chuyển qua Fa majeur (sous dominate), rồi lại trở về Do majeur v.v... Lúc đó chưa có ai nghiên cứu và lập luận về nhạc ngũ cung (như các giáo sư Constantin Brailiou, Jacques Chailley sẽ làm trong thập niên 50 tại giảng đường của Institut De Musicologie ở Paris) cho nên chưa ai biết đến ''''''''''''''''''''''''''''''''hiện tượng chuyển hệ'''''''''''''''''''''''''''''''' (métabole), nghĩa là một đoạn nhạc đang ở một hệ thống ngũ cung Sol La Do Re Mi có thể chuyển qua một hệ thống Do Re Fa Sol La để cho nét nhạc ngũ cung thêm phong phú. Thẩm Oánh đã làm đúng như vậy một cách vô tình mà thành ra rất trung thành với chủ trương soạn nhạc có cảm tưởng á đông của mình.
    Sau khi đã soạn bài : Hồ Xưa, Thẩm Oánh đưa ra bài Có Ai Sang Ðò, lần nay ông dùng ngũ cung rất là thuần túy : Do Ré Fa Sol La với Dạng (aspect) Ré Fa Sol La Do, và có chuyển hệ qua Sol La Do Ré Mi. Chắc chắn vào lúc này ông vẫn đinh ninh là mình soạn nhạc với nhạc pháp Tây Phương, dù rằng vẫn chủ trương giữ vẻ nhạc á đông, cho nên trong một bản nhạc ngũ cung không có một nốt Sib nào, ông cũng để một dấu "giáng" tại đầu khóa (armature), chủ ý cho ta thấy bài này nằm trong giọng Fa majeur hoặc Re mineur. Ðược soạn với giai điệu ngũ cung, nhưng lại ***g vào một nhịp điệu giống như tango, với câu cú 8 mesures, toàn bài gồm ba đoạn, theo đúng nhạc pháp soạn nhạc Tây Phương hiện đại, bài Có Ai Sang Ðò này không được phổ biến lắm, nhưng tôi cũng xin ghi lại đây để chúng ta biết qua "đường đi nước bước" của các vị đi trước :
    Trăng vừa lên mơn nước trôi
    Trăng vừa lên đắm say soi lòng sông
    Bóng đêm tan giờ chờ mong
    Nhớ nhung nhường cho ái ân
    Trăng vừa lên mơn nước trôi
    Trăng vừa lên âu yếm soi lòng sông
    Có cô du thuyền tìm Xuân
    Tiếng oanh mê hồn ca rằng
    Có ai sang đò
    Xuống thuyền em chèo giúp cho
    Xuống đây lái chung con đò
    Trên dòng ta cùng khoan hò

    Tuy vậy, trong bài Hồn Xuân (trùng tên với một bài hát của Nguyễn Xuân Khoát) soạn với một nhịp điệu giống như Fox Trot rất vui tươi, Thẩm Oánh đã dùng những nét nhạc chỉ có trong nhạc Pháp : Re Fa Si La Sol hay Do Si La Si Sol Do :
    Hồn xuân, bát ngát hương Xuân
    Ngập vườn, ong chuốt thanh tân
    Rực mầu đắm sắc dương trần
    Cho đời diêm dúa
    Âm khúc ca ngân.
    ..
    Nhạc pháp soạn nhạc có ''''''''''''''''''''''''''''''''cảm tưởng á đông'''''''''''''''''''''''''''''''' của Thẩm Oánh thì ta đã biết. Còn về "ý nhạc" thì như ông ước mơ, đúng là những ý tưởng của văn nghệ sĩ Việt Nam hồi cuối thập niên 30 : tình cảm thiên nhiên (sentiment de la nature), than mây khóc gió, xưng tụng mùa Xuân, đôi tình nhân nào cũng chỉ muốn bơi trên "chiếc thuyền tình". Mấy bài nhạc tình của Thẩm Oánh đều là "gọi đò", đều là "tình yêu trên sông trên hồ" cả. Ta sẽ còn thấy ý nhạc đó trong Văn Chung với bài Hồ Xuân và Thiếu Nữ (phổ thơ Thế Lữ), trong Dzoãn Mẫn với bài Cô Lái Thuyền, trong Nguyễn Ðình Phúc với bài Cô Lái Ðò (phổ thơ Nguyễn Bính). Ðúng là thời đại ngây thơ (le temps de l''''''''''''''''innocence) mà chúng ta sẽ bị mất đi trong những thập niên tới.
    Thẩm Oánh sẽ không ngừng ở đó. Trong những năm tới, với sự phát triển của Tân Nhạc, nhất là khi ông giữ chức vụ cao ở Ðài Phát Thanh Saigon, ông còn cống hiến cho chúng ta nhiều tác phẩm khác trong nhiều thể loại khác nhau. Cho tới 1953-54 là lúc Tân Nhạc đang sửa soạn bước vào thời kỳ phát triển 2, Thẩm Oánh đã có hàng chục nhạc phẩm nằm trong cả hai xu hướng nhạc tình và nhạc hùng. Ông cũng thử thách soạn truyện ca như bản Thiếu Phụ Nam Xương và nhạc kịch QUÁN GIANG HỒ. Nhạc kịch này chưa hề được in ra và trình diễn.
    Sau 1975, Thẩm Oánh ở lại Việt Nam cho tới 15 năm sau thì ông qua sống ở Hoa Kỳ rồi mất vào năm 1995.
    Nguồn: Hồi ký Phạm Duy
    Được Baron282 sửa chữa / chuyển vào 10:46 ngày 01/05/2007
  4. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0

    Post các bài viết của Phạm Duy về Tân nhạc để mọi người cùng tham khảo nhé.

    Bài 4: Xu Hướng Nhạc Tình (Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình)
    Nhóm MYOSOTIS (Hoa Lưu Ly): Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước
    Dương Thiệu Tước mới thật sự là người có nhiều sáng kiến trong thời gian khởi sự xây dựng một nền âm nhạc mới mẻ này. Ngay từ khi mọi người còn phải vay mượn nhạc điệu tây phương để soạn lời ca tiếng việt và gọi nó là ''''''''''''''''bài ta theo điệu tây'''''''''''''''' thì ông lại soạn những bài mà tôi dám gọi là ''''''''''''''''bài tây theo điệu ta''''''''''''''''.
    Trước cái gọi là "biến cố tháng ba 1938" gây ra bởi Nguyễn văn Tuyên, Dương Thiệu Tước đã là người đánh đàn guitare hawaienne rất giỏi, chủ nhân của một cửa tiệm bán đàn ở phố Hàng Gai, Hà Nội và có mở cả lớp dạy đàn nữa. Trong sinh hoạt hằng tuần với các bạn nhạc sĩ tài tử của mình, ông đã sáng tác mấy bài mang những đầu đề bằng tiếng Pháp, như Joie d''''''''aimer (Thú Yêu Ðương), Souvenance (Hồi Niệm), Ton Doux Sourire (Nụ Cười Êm Ái Của Em)... Lời ca của những bài này là do Thẩm Bích (anh ruột của Thẩm Oánh ) soạn, dĩ nhiên là bằng Pháp ngữ.
    Có lẽ vì ông tự coi như đã nắm được nhạc pháp soạn nhạc Tây Phương, cho nên ông đã tuyên bố, khi được phỏng vấn về cách soạn nhạc Việt Nam : "Nếu đã có nhà văn Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp, thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng có thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây Phương'''''''''''''''' (báo Việt Nhạc số 5, ngày 16 tháng 10, 1948). Do đó, ngay trong năm 1938, ông đã cho in ra những ca khúc như Tâm Hồn Anh Tìm Em, Một Ngày Mà Thôi, Bên Cây Lục Huyền Cầm, Dập Dìu Ong ****... Bây giờ, nghĩa là 50 năm sau khi Tân Nhạc thành hình, trong hoàn cảnh ở xa đất nước và rất thiếu thốn tài liệu, tôi cũng cố gắng sưu tập những bản nhạc đầu tay của Dương Thiệu Tước để nghiên cứu những ca khúc đầu tiên của Tân Nhạc. Và tôi khám phá ra rằng : Tuy nhạc sĩ họ Dương không câu nệ trong việc soạn ca khúc Việt Nam với âm giai Tây Phương, nhưng trong những ca khúc tuyệt vời mà ông viết trong thời kỳ thử thách của nhạc cải cách, đa số các nét nhạc đều là nhạc ngũ cung Việt Nam. Ví dụ bài Tâm Hồn Anh Tìm Em mà hồi đó ai cũng đều biết :
    Tâm hồn anh tìm em
    Theo lần sang lầu Thúy
    Dưới trăng ngà sao huyền
    Lòng anh giá băng
    Trong bóng sương mờ...

    Rõ ràng nét nhạc của đoạn này nằm trong ngũ cung Sol La Do Ré Mi (thuần túy). Dương Thiệu Tước thật tình muốn dùng nhạc pháp Tây Phương để soạn nhạc Việt mới, nhưng ông bị nhạc ngũ cung Việt Nam trói ông lại. Sau này, trong một nhạc phẩm bất hủ của ông là bài Trỡi Xanh Thẳm, chỉ có đoạn sau là được soạn theo âm giai thất cung Tây Phương, đoạn đầu hoàn toàn là nhạc ngũ cung Việt Nam thuần túy :
    Còn đâu như lúc xưa
    Ngày đôi chúng ta còn thơ
    So phím tơ bên thềm
    Anh hoà theo lời em
    Ngàn lời ca êm ái
    Khiến anh đắm say hoài
    Và giờ đây em thấy
    Muôn ngàn lời không phai
    Còn đâu như lúc xưa
    Ngày đôi chúng ta còn thơ
    Anh nắn cung đàn
    Còn em thì biệt tăm...

    Không còn nghi ngờ gì nữa, hai nhạc sĩ tiền phong trong phong trào Âm Nhạc Cải Cách là Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước đều dung hòa cả hai âm giai ngũ cung á đông và âm giai thất cung tây phương. Bởi vì họ đều có học thức trong cả hai loại nhạc cổ truyền Việt Nam và nhạc cổ điển tây phương cho nên khi họ sáng tác thì nét nhạc mà họ học được từ lâu, đã tự nhiên tuôn ra từ tâm thức. Qua bài Trời Xanh Thẳm, tôi thấy trong tiến trình thất cung, giai điệu Dương Thiệu Tước có nét nhạc đẹp hơn Thẩm Oánh, vì không còn là nét nhạc "âm chuỗi " (arpège) nữa. Ðoạn đầu của bài Trời Xanh Thẳm là ba mệnh đề nhạc ngũ cung, mô phỏng (imitation) nhau để tạo cho ta một không khí xa xưa, khi chúng ta còn thơ, anh so phím, nắn cung đàn để dâng ngàn lời ca êm ái, rồi thì... em biệt tăm ! Ðoạn sau là nhạc dùng âm giai thất cung, giai điệu hơi giống nét nhạc của Chopin hay Schumann, kéo ta về ngày hôm nay, cũng vẫn còn buồn bã như ngày hôm xưa :
    Hôm nay Ðông đã trôi qua
    Hôm nay Xuân đến với hoa
    Thấy nắng Xuân êm đềm
    Mà chẳng thấy am tìm đến
    Bên sông anh đứng trông trời
    Bao la mây xanh tuyệt vời
    Nắn nót mấy cung đàn
    Lòng thấy như nát tan...

    Ðoạn này có những chuyển cung (modulation) khá cổ điển, rất hợp lý, rất quyến rũ vì nét nhạc không có những "quãng" (intervalles) quá xa, quá trúc trắc mà là những nét nhạc có bán cung mềm dịu. Cấu phong của ca khúc cũng rất là cổ điển : từ đoạn A qua B, rồi kết thúc bằng A...
    Bài Trời Xanh Thẳm sẽ còn được hát mãi trong những thập niên sau vì nó đã là bản nhạc tình, nghiêng nhiều về "nhạc tình đôi lứa", không còn là thứ nhạc tình chỉ có ''''''''''''''''than mây khóc gió'''''''''''''''' mà thôi.Ðặc biệt hơn nữa, nhạc tình của Dương Thiệu Tước luôn luôn là mối tình của những nhạc sĩ, của nghệ sĩ. Có ''''''''''''''''so phím tơ, có nắn cung đàn'''''''''''''''' và sau này cũng vẫn có ''''''''''''''''tơ chùng phím loan'''''''''''''''' trong một bản nhạc tuyệt vời của ông là bản Ngọc Lan. Nhạc Dương Thiệu Tước, theo tôi, là loại nhạc tình tứ, nhưng cũng rất sang trọng. Ðó là những ca khúc tình ái thốt lên từ con tim của một nghệ sĩ dòng dõi nhà quan.
    Tưởng cũng nên ghi lại ở đây một ca khúc nữa của ông cũng dùng hai ngũ cung Do Re Fa Sol La và Sol La Do Re Mi, bài Vừng Trăng Sáng mà nhiều ca sĩ đã hát trong những năm 44-45. Giống như những tác phẩm của Thẩm Oánh, Dzoãn Mẫn hay Văn Chung, bài này cũng vẫn nói đến chuyện yêu nhau bên hồ, dưới trăng, trong chiều thu :
    Kìa vừng trăng sáng
    Chiếu in trên hồ
    Dưới làn trăng nước
    Sóng lan nhấp nhô
    Mặt hồ rung rinh
    Dưới khung trời tím
    Có anh cùng em
    Chúng ta vui hoà
    Trong một chiều thu
    Ðắm say dưới trăng...

    Nhóm MYOSOTIS qui tụ được nhiều nhạc sĩ nhưng về mặt sáng tác thì trong bốn năm đầu, từ 1938 cho tới 1942 là lúc Tân Nhạc đã có thêm một xu hướng mới -- xu hướng nhạc hùng -- chỉ có hai người đầu đàn là Dương Thiệu Tước và Thẩm Oánh là có nhiều sáng tác, bài nào cũng buồn man mác (không trữ tình thì cũng lãng mạn) và đều có giá trị, không những là giá trị khai phá mà còn phải được coi như đã hoàn mỹ và sẽ phải bất tử.
    Nhưng sở dĩ nhạc của hai ông Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước (cũng như của các nhạc sĩ trẻ trong nhóm TRICEA mà tôi sẽ đả động tới trong những chương sau) được mọi người biết tới trong giai đoạn đầu này, đó cũng là nhờ ở sự tích cực của một người, tuy không có nhiều sáng tác nhưng đã có công kết hợp các nhóm để tổ chức các buổi trình diễn nhạc mới. Ðó là nhạc sĩ Lê Ngọc Huỳnh, tác giả bản Trên Ðường Hưng Quốc, vốn là người anh của quân nhạc trưởng tương lai Lê Như Khôi. Lúc Tân nhạc mới ra đời, chưa có những giọng ca lớn để truyền bá bài bản mới, sự phổ biến dựa vào việc ấn hành các bản nhạc hoặc dựa vào các buổi trình diễn của những ban nhạc tài tử trong đó, ban nhạc Orchestre Amateur do Lê Ngọc Huỳnh kết hợp một số đông các nhạc sĩ trong nhóm để thành lập, là ban nhạc quan trọng nhất.
    Trong những năm đầu của Tân Nhạc, tác phẩm của nhóm MYOSOTIS rất là nhiều, nhưng không lưu truyền cho tới về sau, trừ một số bài nào đó, ngẫu nhiên được một giọng ca lớn nào đó, ví dụ giọng Thái Thanh hay Kim Tước, hát lại trong những thập niên sau. Ðó cũng là một điều đáng tiếc, vì xét ra những bản nhạc đầu mùa của hai vị tiền phong Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh... có một hương vị rất trinh trắng, phản ảnh một thời rất êm ả của chúng ta, trước khi những cơn cuồng phong kéo tới, liên tiếp trong bốn, năm chục năm trời. Nếu cần phải biết rõ hơn về tác giả để hiểu biết và yêu mến tác phẩm hơn, tôi thấy trong hai vị sáng lập ra nhóm MYOSOTIS, Thẩm Oánh đã đạo mạo thì sẽ đạo mạo suốt đời, còn Dương Thiệu Tước thì có một đời tình khá chuyển động. Sau 1975, với tuổi hạc đã khá cao, ông còn kết duyên với một thiếu nữ rất trẻ và ''''''''''''''''lão bạn'''''''''''''''' này vẫn ''''''''''''''''sinh châu'''''''''''''''' như thương. Mới hay, nhạc sĩ là hạng người thuộc nòi tình... cho tới hơi thở cuối cùng.
    Quay về với sự tìm hiểu trong giai đoạn thành lập của Tân Nhạc này, ta thấy sau một thời gian ngắn, nhóm MYOSOTIS không còn là một nhóm thuần nhất nữa. Các thành viên sẽ chia tay nhau, mỗi người đi theo hành trình riêng của mình. Nếu như sau này Thẩm Oánh còn sáng tác thêm những bài mới thuộc nhiều loại khác nhau, thì Dương Thiệu Tước ít khi chịu rời khỏi lĩnh vực nhạc tình tứ và cao sang đặc biệt của ông. Về sau, khi nhạc dân ca được coi như phản ảnh đúng tâm hồn của dân tộc, Dương Thiệu Tước quay hẳn về nhạc ngũ cung để cống hiến cho ta những bài hát bất hủ như Tiếng Xưa, Ðêm Tàn Bến Ngự ... Rồi cũng trong ý muốn dung hoà cả hai hệ thống âm nhạc Việt, Âu, tại mấy Ðài Phát Thanh ở Saigon, ông chủ trương hình thức ''''''''''''''''cổ kim hoà điệu'''''''''''''''' nghĩa là hoà tấu những bản nhạc mới với đàn tranh Việt Nam cùng hoà điệu với giàn nhạc Tây Phương.
    Từ 1946 cho tới 1953, nhạc phẩm của Dương Thiệu Tước được xuất bản rất mạnh mẽ vì quanh ông không có ai là địch thủ cả. Hầu hết các nhạc sĩ trẻ và có tài đã rời bỏ thành thị đi kháng chiến... Dương Thiệu Tước và một số nhạc sĩ khác như Ðoàn Chuẩn, Từ Linh ở lại Hà Nội và soạn ra khá nhiều bản nhạc tình. Rồi ông vào Saigon làm việc tại các Ðài Phát Thanh Pháp Á, Ðài Phát Thanh Quốc Gia rồi làm giáo sư dạy nhạc tại Nhạc Viện Saigon cho tới khi ông mất vào năm 1996, khi ông 83 tuổi.
    Nguồn: Hồi ký Phạm Duy
    Được Baron282 sửa chữa / chuyển vào 10:48 ngày 01/05/2007
  5. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Topic này thú vị thế mà mọi người không viết mấy bài cho thi vị và vote cho tui cái nhẩy.
  6. lovelyloveforever2003

    lovelyloveforever2003 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2003
    Bài viết:
    5.426
    Đã được thích:
    0
    Năm anh em trên 1 chiếc xe tăng
    kha? kha?
    nghe cufng hoa?nh tráng ha?o hu?ng lắm
    ma? hôm qua ai nói xấu gi? tớ a? ?
  7. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Không ai nói xấu chú cả, mà khen tuổi trẻ tài cao. Bạn gái nhiều như quân Nguyên. Bọn anh già quá rùi, nghe mà thèm. Hiiiiiii
  8. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0

    Post các bài viết của Phạm Duy về Tân nhạc để mọi người cùng tham khảo nhé.

    Bài 4: Xu Hướng Nhạc Tình (Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình)
    Nhóm TRICÉA: Nhạc sĩ Văn Chung
    Ðồng thời với nhóm MYOSOTIS, ngay từ trước khi Nguyễn Văn Tuyên ra Bắc "hô hào nhạc cải cách", nhóm TRICIA gồm ba kiện tướng Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn cũng đã có sinh hoạt âm nhạc rồi nhưng chỉ sau khi Nguyễn Văn Tuyên dám đưa ra trước quần chúng hai bài ca thử thách thì mấy chàng nghệ sĩ tài tử của hai nhóm đó cùng với nhiều nhạc sĩ mầm non khác mới đùng đùng nổi dậy và cho ấn loát những bản nhạc hãy còn trinh trắng của mình. Nhất là khi phong trào âm nhạc cải cách vừa ra đời lại được tờ NGÀY NAY làm hậu thuẫn cho việc thành hình của nó. Theo lời nhạc sĩ Vũ Thành là người đã có những sinh hoạt tân nhạc ngay từ lúc sơ khai thì nhà văn Nhất Linh, linh hồn của tờ NGÀY NAY, đã đảm trách việc thổi kèn clarinette trong một ban nhạc tài tử do hai nhóm kể trên phối hợp dể trình diễn vào một ngày mùa Thu năm 1939.
    Trong nhóm TRICEA, Văn Chung được coi như người có bài hát được dân chung ưa thích cho nên Thẩm Oánh của nhóm MYOSOTIS đã phê bình trong báo Việt Nhạc số 5 đã dẫn kể : "Nhóm TRICEA chủ trương đi sát quần chúng (ngụ ý là loại nhạc thấp)"... Trong thực tế, nhạc của Văn Chung trong thời gian nay thì cũng không xa nhạc ngũ cung của Thẩm Oánh cho lắm đâu. Cũng là bài hát về thiên nhiên (và về thuyền) như Ðóa Hồng Nhung, Trên Thuyền Hoa, Sóng Vàng, Khúc Ca Ban Chiều... nhưng nhạc Văn Chung có vẻ thiên về nhạc chủ thể (musique tonale). Ngoài mấy bài vừa kể, Văn Chung còn đưa ra một bài mà ông ghi rõ là điệu tango. Ðó là bài Bóng Ai Qua Thềm, được xây dựng với nét nhạc Ré mineur rõ rệt. Bài hát đưa ra hình ảnh dễ thương sót của một thiếu nữ ngồi đan áo cho người tình, hình ảnh này sẽ còn được khai thác mạnh mẽ khi tân nhạc đi vào giai đoạn phát triển:
    Những lúc em ngồi xuốt canh khuya bên đèn
    Miệt mài cùng một manh áo len
    Vắng bóng anh, em chờ mong anh
    Cố sức em đan cho thật nhanh
    Em đan áo cho xong còn hòng Ðông này
    Vắng hình anh em lạnh lùng theo
    Xa anh em nhờ manh áo ấy
    Khiến em quên lạnh lùng khi ngồi trước đèn...

    Nếu ta phân tích bài này dựa trên căn bản của nhạc chủ thể thì chỉ thấy những chuyển cung từ Ré mineur qua Sol mineur, La mineur và Fa majeur chẳng han. Nhưng nếu ta cho rằng bài hát này được thốt lên bởi chàng thanh niên nhạc sĩ còn nặng tình với nhạc ngũ cung, thì ta thấy là vô tình Văn Chung đã sử dụng nhiều hệ thống ngũ cung với hiện tượng chuyển hệ (métabole). Ngoại trừ 4 mesures INTRO, nét nhạc của câu đầu là ngũ cung Ré Fa Sol La Do, có chuyển tí ti ở cuối câu qua ngũ cung Fa Sol Sib Do Ré. Hai mesures đầu của câu thứ hai nằm trong ngũ cung Sol La Do Ré Mi và nửa sau lại quay về ngũ cung Ré Fa Sol La Do.
    Tôi không nghĩ là vào lúc đó, Văn Chung đã hệ thống hóa việc sáng tác của anh như tôi vừa kể, nhưng anh (cũng như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước) đã dung hòa cả hai hệ thống âm giai Âu, Á trong những sáng tác đầu tay của mình. Ðoạn sau của bài Bóng Ai Qua Thềm, này sẽ là nhạc thất cung tây phương thuần túy với cung Do# hiện ra, trói chặt ca khúc vào Ré mineur :
    Bóng ai qua thềm
    Vừa nhìn thoáng lướt trên nền trời đêm
    Ngừng đan, em thấy gió lay mành trúc
    Bóng qua êm đềm
    Cùng cơn gió êm làm sơ tấm áo len trên lòng em
    Lòng em xao xuyến
    Muốn nghiêng mình tránh gió qua bên thềm
    Rồi thời gian ấy qua
    Tấm áo em đan chưa xong mà...
    Cứ mỗi khi chiều gió lướt qua bên mình thì lòng em
    Thấy sốn sang vì gió nâng áo len lên em kề bên trái tim
    Mùa đông sắp đến gió lay mành trúc
    Bóng ai qua thềm...

    Nếu so sánh với nhạc Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước thì nhạc Văn Chung già dặn như nhạc Thẩm Oánh nhưng không ướt át bằng nhạc Dương Thiệu Tước. Văn Chung, ngay từ lúc còn thanh xuân, với dáng người gầy gò, thấp lùn, chắc chắn không giống công tử bột đa tình con nhà quan Dương Thiệu Tước tí nào cả. Nhạc Văn Chung chân phương, thực thà như con người Văn Chung vậy. Tứ nhạc (inspiration) chỉ đến với Văn Chung bằng những bài thơ hay của thời đại, chẳng hạn thơ của Thế Lữ lúc đó, hay là thơ của Simonov sau này (do Tố Hữu dịch ra lời Việt), bài Ðợi Anh Về. Văn Chung cũng không phải là người gây được một phong trào, nhưng cái công đóng góp vào tiến trình của tân nhạc của anh không phải là ít. Tôi biết Văn Chung đã phổ nhạc một bài thơ của Thế Lữ, bài Hồ Xuân và Thiếu Nữ. Bài này đã được đăng trên báo NGÀY NAY vào năm 1941. Hi vọng có ngày tôi có được bản nhạc trong tay, nay thì hãy ghi lại bài thơ rất đẹp này :
    Hồ Xuân và Thiếu Nữ
    (Thế Lữ -1941)
    Trên mặt hồ in mầu ngọc biếc
    Cô em đang bơi một chiếc thuyền non
    Lửng lơ như cái chuồn chuồn
    Rỡn đuôi trên nước chập chờn ghẹo hoa.
    Chân gió nhẹ lướt qua làn sóng
    Nắng chiều xuân rung động trên cành
    Mấy hàng lau yếu nghiêng mình
    Cô em bỗng ngẩn ngơ tình vì đâu ?
    Ðặt mái chèo, ngả đầu trên gối
    Trong mây chiều phơi phới trên kia
    Hỏi xem mây có duyên gì ?
    Mà con chim én đi về lửng lơ..
    .
    Khởi đầu với những bài hát tình cảm lâng lâng, không buồn lắm, không vui lắm nghĩa là ít tính trữ tình hay tính lãng mạn hơn các nhạc phẩm của bạn bè trong nhóm của mình (như Dzoãn Mẫn chẳng hạn)... Văn Chung sẽ còn tiếp tục soạn nhiều bài trong nhiều thể loại khác nhau cho tới khi ông qua đời trong năm 1984 tại Hà Nội
    Nguồn: Hồi ký Phạm Duy
    Được Baron282 sửa chữa / chuyển vào 10:51 ngày 01/05/2007
  9. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0

    Post các bài viết của Phạm Duy về Tân nhạc để mọi người cùng tham khảo nhé.

    Bài 4: Xu Hướng Nhạc Tình (Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình)
    Nhóm TRICÉA: Nhạc sĩ Lê Yên
    Trong nhóm TRICEA, Lê Yên là người có vốn nhạc nhiều hơn các bản đồng hội đồng thuyền. Ông học nhạc từ lúc 14, 15 tuổi và biết kéo violon, violoncelle để tham gia vào các ban nhạc tài tử lúc đó, trình tấu nhạc cổ điển (như một trích đoạn trong Symphonie Inachevée của Schubert chẳng hạn). Sáng tác đầu tay của Lê Yên là những bản Vườn Xuân, Một Ngày Vui... đã được Văn Chung bỏ vốn ra để xuất bản và phát hành.
    Sau này Lê Yên mới có cơ hội quay về với nhạc cổ truyền để làm điểm tựa sáng tác, nhưng trong thời gian thành hình của Tân Nhạc, nhạc bản của ông hoàn toàn được cấu tạo như một ca khúc tây phương hiện đại. Ví dụ bài Bẽ Bàng mà ông cộng tác với Văn Chung để soạn ra. Nhạc khúc nghe như một bài ''''''''valse'''''''' của Strauss, rất lưu loát, có đoạn hát, có đoạn dạo nhạc với chuyển cung thông thường : tonique, dominante, sous dominante, relatif, kết thúc với CODA có pha trộn một chút mầu sắc mineure của giọng sous dominante cho cuộc tình duyên của một đôi lứa bẽ bàng thêm phần sót sa. Giản dị, không cầu kỳ như nhạc Dương Thiệu Tước chẳng hạn :
    nh duyên đôi ta bẽ bàng
    Ðành để muôn năm lỡ làng
    Còn nói ái ân làm chi
    Ngày vui xưa qua mất rồi
    Lòng thương xưa phai hết rồi
    Tình yêu xưa tan mất rồi
    Còn oán trách nhau làm chi...
    Vì đâu đôi ta bẽ bàng
    Vì đâu muôn năm lỡ làng
    Thật đáng tiếc thay tình xưa
    Vì đâu vui kia hết rồi
    Vì đâu thương kia hết rồi
    Vì đâu yêu kia xoá rồi
    Mà nỡ chóng quên tình xưa...
    (Dạo nhạc)
    Xin đừng nhắc những lời êm đềm ấy hết rồi
    Sao không cùng chung sống trong yêu đương
    Từ ngày còn được gần gũi bên nhau
    Khiến phút ấy qua mất rồi còn đâu...
    Xin đừng nhắc mối tình ban đầu ấy đã đành
    Tan theo cùng mây khói trong không gian
    Từ ngày nào cùng nhau lỡ nhịp cầu
    Mà khiến đến nay khó lòng gặp nhau
    Tình đôi ta nay lỡ rồi
    Ðành ôm đau thương suốt đời
    Buồn tiếc mối duyên từ xưa
    Nhìn mây, mây trôi hững hờ
    Nhìn trăng, trăng soi lững lờ
    Nhìn hoa, hoa phai úa mờ
    Âm thầm riêng có bóng ta trong giấc mơ...

    Nhạc tình của Lê Yên sẽ luôn luôn theo nhạc pháp tây phương, còn tứ nhạc thì cũng không ra ngoài chủ đề nhạc tình cảm. Nhưng nhạc Lê Yên không thể buồn sâu sắc được vì tính hiếu động của chàng thanh niên nghịch ngợm mang tên Lê Yên. Tôi không được quen biết Lê Yên nhiều, chỉ gặp ông vài lần để hiểu ông là con người rất nhanh nhẹn, rất thông minh, rất bén nhạy, và không phải là người soạn nhạc tình thâm trầm. Sở trường của Lê Yên là nhạc vui, chẳng hạn bài Nghệ Sĩ HànhKhúc soạn theo thể pasodoble và bài Ngựa Phi Ðường Xa mà ban Thăng Long đã coi như bản nhạc dễ khích động khán thính giả nhất, trong do Lê Yên cho ta thấy cái tài soạn Tân Nhạc có tiết điệu nhanh nhẹn, một nhạc tính mà ta ít thấy trong nhạc Việt Nam vào thời đó.
    Nguồn: Hồi ký Phạm Duy
    Được Baron282 sửa chữa / chuyển vào 10:53 ngày 01/05/2007
  10. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0

    Post các bài viết của Phạm Duy về Tân nhạc để mọi người cùng tham khảo nhé.

    Bài 4: Xu Hướng Nhạc Tình (Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình)
    Nhóm TRICÉA: Nhạc sĩ Dzoãn Mẫn
    Dzoãn Mẫn mới là người thành công nhất trong nhóm TRICEA. Hồi Tân Nhạc mới được thành lập, ông đã sáng tác được khoảng mười ca khúc rất hay, một số bài còn được lưu truyền tới bây giờ, trong khi nhạc Văn Chung, Lê Yên thì gần như ít được quần chúng biết đến. Trong những bản như Sao Hoa Chóng Tàn, Biệt Ly, Cô Lái Thuyền, Tiếng Hát Ðêm Thụ Một Hình Bóng, Một Buổi Chiều Mơ, Gió Xa Khơi, Nhạc Chiều, Trở Lại Cùng Anh... tối thiểu cũng có ba bài mà trong suốt mấy mươi năm liền, không lúc nào là không được thu thanh vào băng nhạc, phóng thanh trên các đài vô tuyến, hay hát trong phòng trà, các nhà hàng khiêu vũ.
    Nhạc Dzoãn Mẫn là nhạc cho guitare hawaienne là cây đàn mà ông nắm rất vững. Dzoãn Mẫn nghiêng hẳn về nhạc thất cung thuần túy. Bài bản của ông, cũng như của các bạn đồng thời, đi theo một cấu phong đã có sẵn : A-B-A rồi CODA để hết. Cũng có khi không có CODA mà chỉ là ba đoạn thông thường kể trên. Sự phát triển giai điệu không bay **** (như giai điệu Dương Thiệu Tước chẳng hạn) mà có khi chỉ là những chuỗi âm giai phần nhiều là majeurs. Bài
    Cô Lái Thuyền sau đây là một ví dụ :
    Dừng chèo lại đây cô lái thuyền ơi
    Dừng chèo lại đây dây phút ngừng trôi
    Cho tôi sang đến bến sông xa vắng
    Bờ sông xa vắng khách riêng mình tôi..
    .
    Nhạc điệu, tiết điệu, lời ca của Dzoãn Mẫn đều rất giản dị nên rất dễ hiểu, dễ nghe, dễ hát. Ca khúc ''''gọi đò'''' này rất phổ thông trong dân chúng. Ngộ nghĩnh nhất là Dzoãn Mẫn cũng kêu gọi cô lái thuyền cũng như Thẩm Oánh, nhưng nếu trong ca khúc Thẩm Oánh, chưa chắc đã có ai ngưng mái chèo và ghé bến để Thẩm Oánh đỡ phải mong chờ... thì cô lái thuyền và Dzoãn Mẫn lại bốn mắt nhìn nhau, sẽ nói một câu, ta đi tìm chốn ân ái dài lâu, muôn năm hạnh phúc rực rỡ muôn mầu... Không trách bị Thẩm Oánh phê bình là đi rất sát quần chúng! Thế nhưng theo tôi nghĩ, trong buổi đầu của nền Tân Nhạc, chúng ta cần phải đi sát quần chúng. Nếu ta cần những người luôn luôn có đầu óc sáng tạo, ta cũng cần cung cấp cho quần chúng những sáng tác gần gũi với quần chúng dể nuôi dưỡng phong trào.
    Bài Cô Lái Thuyền của Dzoãn Mẫn cũng giống như những sáng tác khác của ông và của các bạn đồng đội, thuộc xu hướng nhạc tình cảm, nhưng ông đã bớt đưa thiên nhiên như hoa cỏ, mây trời, sông hồ, trăng sao, mưa nắng... vào nhạc tình của mình. Ðã có đôi chút lãng mạn len vào nhạc Dzoãn Mẫn và nhạc tình lãng mạn sẽ còn càng ngày càng được những nhạc sĩ đồng thời như Ðặng Thế Phong, Lê Thương, Văn Cao đưa lên rất cao lên không trung và đưa vào rất sâu trong lòng người mộ điệu. Lãng mạn tính trong ca khúc Dzoãn Mẫn nổi nhẹ lên trong bài Biệt Ly, vì đã có lá heo may len lén thổi vào ca khúc rồi :
    Biệt ly! Nhớ nhung từ đây
    Chiếc lá rơi theo heo may, người về có hay
    Biệt ly! Sóng trên dòng sông
    Ôi còi tầu như xé đôi lòng
    Và mây trôi, nước trôi
    Ngày tháng trôi cùng lướt trôi
    Mấy phút bên nhau rồi thôi
    Ðến nay bóng em mờ khuất
    Người về u buồn khắp trời
    Người ra đi với ngàn nhớ thương
    Mấy phút bên em rồi thôi
    Dáng em sống trong hồn tôi
    Xa cách xa, ta tìm đâu ngày vui...
    Biệt ly! Ước bao đường tơ
    Réo rắt trong muôn hương mơ
    Thành sầu tiễn dưa
    Biệt ly! Ước mong hoàng hôn
    Êm đềm về ru ấm tâm hồn
    Người yêu đương cách xa đành sống vui cùng gió sương

    Nét nhạc hoàn toàn tây phương nhưng khéo xếp đoạn, khởi sự bằng các nốt trầm rồi bay vút lên nốt cao nhất (anacrouse) để sẽ trở về câu nhạc chủ đạo lúc đầu. Bài Biệt Ly được hát dài dài trong suốt nửa thế kỷ nay.
    Dzoãn Mẫn có mặt một cách rất rạng rỡ trong thời kỳ thành hình của tân nhạc với một số tác phẩm để đời. Chúng ta sẽ gặp lại ông trong những thời kỳ sau.
    Nguồn: Hồi ký Phạm Duy

Chia sẻ trang này