1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lập hội Ký ức thời gian. Hội dành cho những người yêu nhạc Tiền chiến

Chủ đề trong 'Làm quen - rút ngắn khoảng cách' bởi Baron282, 30/04/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tinhdien2000

    tinhdien2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/11/2002
    Bài viết:
    130
    Đã được thích:
    0
    Oài!!!!!!!!!!Em chả hỉu lắm về nhạc Tiền Chiến, đành lóc cóc lên mạng search. Đây là những j em tìm đc, post lên đây dành cho các bác mù tịt như em.
    Nhạc tiền chiến là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930.
    Các bài hát tiền chiến thường có giai điệu trữ tình và lời ca giàu chất văn học. Ban đầu khái niệm "nhạc tiền chiến" dùng để chỉ dòng nhạc mới tiếng Việt theo âm luật Tây phương trước khi nổ ra chiến tranh Việt - Pháp, sau khái niệm này mở rộng, bao gồm một số sáng tác trong chiến tranh (1946?"1954) cùng phong cách trữ tình lãng mạn, như Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Sơn nữ ca của Trần Hoàn, và cả sau 1954 đối với một số nhạc sĩ miền Nam như Phạm Đình Chương, Cung Tiến...
    Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Lê Thương, Đoàn Chuẩn, Dương Thiệu Tước... Các ca khúc như Giọt mưa thu, Con thuyền không bến, Thiên Thai, Trương Chi, Hòn vọng phu...
    Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến
    Bối cảnh ra đời của nhạc tiền chiến cũng chính là bối cảnh ra đời của tân nhạc Việt Nam. Đó là Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20, xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm.
    Sau Thế chiến thứ nhất, ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp tư sản. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây vào Việt Nam gây nên những xáo trộn lớn. Nhiều giá trị tư tưởng bền vững mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ có tây học xem thường, thậm chí trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. Một tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị hình thành.
    Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có một lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương . Họ ở nhà lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần áo thay đổi mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
    Nếu như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp thì những nhạc sĩ tiền chiến cũng chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
    [sửa] Ảnh hưởng của âm nhạc Tây phươngĐầu thế kỷ 20 những bài hát Âu Mỹ được phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam dưới hình thức đĩa hát loại 78 tours (vòng), hoặc trên màn ảnh những phim nói. Các thanh niên thời đó không còn thích đàn tranh, đàn bầu, đàn nhị, đàn nguyệt nữa mà thay vào đó là mandoline, guitare hơn nữa là violon, piano để có thể làm quen với những bài hát nước ngòai mà họ ưa thích. Rồi họ bắt đầu soạn lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, chủ yếu để hát trong bạn bè cho nhau nghe.
    Nhưng người thành công nhất trong việc sử dụng nhạc điệu Âu Mỹ để đưa ra những bài hát mới, chính là nghệ sĩ Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi. Ông vừa là diễn viên, vừa là soạn giả và còn muốn là người soạn nhạc nữa cho nên ông đã sáng tác những ca khúc ngắn mà ông gọi là "bài ta theo điệu tây" và soạn ra những tiểu ca kịch (opérette) mà ông đặt tên là "hoạt kê hài hước" (opérette comique) trình diễn trên sân khấu các đoàn hát xuất xứ từ miền Nam là Trần Ðắt và Phước Cương (gánh hát của Bạch Công Tử) vào khoảng 1933-1934.
    Trên sân khấu các đoàn Trần Ðắt và Phước Cương, ngoài việc soạn ra những tích tuồng mới phản ảnh xã hội Việt Nam vào lúc đó, nghệ sĩ Tư Chơi còn muốn cải cách cả phần âm nhạc. Ông không muốn dùng các bài bản có tính chất cổ truyền như Lưu Thủy, Hành Vân trong opérette của mình. Với sự phổ biến của máy hát chạy bằng lò xo, những "bài hát theo thời" (chansons à la mode) Âu Mỹ đã bắt đầu thịnh hành trong xã hội đô thị Việt Nam. Những bài Pháp như J''ai Deux Amours, Quand On Est Matelot... đã được nhiều người biết đến.
    Có thể nói việc làm của nghệ sĩ Tư Chơi đã thành công. Một số bài dù khởi đầu phóng tác từ một điệu Tây, về sau được coi là điệu Việt Nam hoàn toàn. Ví dụ bài Hoà duyên nằm trong nhạc mục của ngành ca kịch cải lương, ít người biết nó khởi sự là một bài ta theo điệu Tây của Tư Chơi, Huỳnh Thủ Trung.

    Tino RossiCùng một lúc với việc Tư Chơi tung ra trên sân khấu những "bài ta theo điệu tây", thì trong giới yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát Tây do các ca sĩ thời thượng như Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... hát vào đĩa hát 78 tours (vòng). Các nghệ sĩ sân khấu Việt Nam như Ái Liên, Kim Thoa, lại được các hãng dĩa của người Pháp Odéon, Béka mời thu thanh các bài ta theo điệu tây.
    Trong năm từ 1935 cho tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C''est à capri, Tant qu''il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j''aime éperdument, Les gars de la marine, L''Oncle de Pékin, Guitare d''amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... (phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto) và của Mỹ như Good bye Hawaii, South of the border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác.
    Ðã có những hội "Ái Tino" được thành lập ở Hà Nội, ở Hải Phòng... Một thanh niên có giọng hát tốt, sau này là một nhạc sĩ được nhiều người biết tới, nhạc sĩ Canh Thân, bắt đầu cuộc đời ca hát của anh bằng cái tên Tino Thân.
    Phạm Duy gọi giai đoạn từ 1935 cho tới 1938 là Thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam
    [sửa] Tân nhạc hình thành 1938
    Năm 1938 được coi là điểm mốc đánh dấu sự hình thành của tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
    Bài hát được công nhận ca khúc đầu tiên của tân nhạc là Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu sáng tác 1930. Sau Cùng nhau đi Hồng binh, cũng có nhiều nhạc sĩ khác bắt đầu sáng tác ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên, Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung, Xuân năm xưa (1936) của Lê Thương. Nhưng các nhạc sĩ đó sáng tác và trình bày những ca khúc của mình chỉ trong phạm vi bạn bè. Nguyễn Văn Tuyên là người đầu tiên trình bày ca khúc nhạc cải cách trước công chúng và sau đó những bài hát này được phổ biến rộng rãi trên báo chí.

    Nguyễn Văn TuyênNhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Ái Nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937 Nguyễn Văn Tuyên phổ một bài thơ của một người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của ông. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với thống đốc của Nam Kỳ (Cochinechina) khi đó là Pagès (có tài liệu ghi Rivoal). Thống đốc Nam Kỳ nghe Nguyễn Văn Tuyên hát và đã mời ông du lịch tới Pháp để tiếp tục học nhạc, nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Thay vì vậy ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ đi một vòng Việt Nam tới các thành phố Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musique renovée).
    Tới Hà Nội vào tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên có nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó cho rằng việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn tại đó.
    Tại hội Tri Tri Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng ông đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ Học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Và lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng.
    Tiếp đó tháng 9 1938, tờ Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín bấy giờ, cho đăng những bản nhạc đầu tiên Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc...
    Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành. Đầu 1939, nhiều bản nhạc của các nhóm, nhạc sĩ được bày bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt Nam chính thức hình thành.
  2. tinhdien2000

    tinhdien2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/11/2002
    Bài viết:
    130
    Đã được thích:
    0
    Các nhóm nhạc và nhạc sĩ tiên phong
    Tân nhạc lúc ấy được giới trí thức thành thị ái mộ, nhưng bị các trí thức phong kiến chỉ trích và tầng lớp nông dân, dân nghèo thờ ơ.
  3. tinhdien2000

    tinhdien2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/11/2002
    Bài viết:
    130
    Đã được thích:
    0
    Các nhóm nhạc và nhạc sĩ tiên phong
    Tân nhạc lúc ấy được giới trí thức thành thị ái mộ, nhưng bị các trí thức phong kiến chỉ trích và tầng lớp nông dân, dân nghèo thờ ơ.
    [sửa] Lê Thương
    Nhạc sĩ Lê Thương khi đó dạy học ở Hải Phòng. Ông là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ. Ông đã để lại nhiều ca khúc, đặc biệt là những bài truyện ca bất hủ như Bản đàn xuân, Nàng Hà Tiên, Một ngày xanh, Thu trên đảo Kinh Châu và Hòn vọng phu.
    [sửa] Văn Cao

    Văn Cao khi 20 tuổi
    Đặng Thế PhongVăn Cao cũng ở Hải Phòng. Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như Buồn tàn thu, Vui lên đường. Năm 1941, Văn Cao lên Hà Nội, ông đã viết những nhạc phẩm giá trị vượt thời gian như Trương Chi, Thiên Thai, Suối mơ, Bến xuân... Sau đó Văn Cao tham gia ********* và viết Tiến quân ca năm 1944 và Trường ca Sông Lô năm 1947.
    [sửa] Đặng Thế Phong
    Đặng Thế Phong thuộc nhóm Nam Định, nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu 1941 Đặng Thế Phong vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm 1942 bởi bệnh lao. Đặng Thế Phong chỉ để lại ba nhạc phẩm Đêm thu, Con thuyền không bến và Giọt mưa thu. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng nhạc tiến chiến và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.
    [sửa] Phạm Duy

    Phạm Duy thời gánh hát Đức HuyPhạm Duy, ban đầu là ca sĩ của gánh hát Đức Huy, đã đem thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi tầng lớp. Đến năm 1942, ông gia nhập làng nhạc sĩ với bài Cô hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính. Tiếp theo là những bản tân nhạc đậm chất dân ca như Em bé quê, Tình Ca, Bà mẹ quê, Gánh lúa...Ông là người có công đem chất dân nhạc vào tân nhạc, điều này khiến nhạc cải cách xích lại gần với tầng lớp nông dân, dân nghèo, và được đón nhận.
    [sửa] Nhóm Myosotis
    Myosotis có nghĩa là hoa lưu ly, nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh... trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Hai xu hướng chính của nhóm là:
    Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.
    Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương.
    Từ 1938 cho tới 1942, nhóm Myosotis với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn.
    [sửa] Nhóm Tricéa
    Nhóm Tricéa gồm ba thành viên Văn Chung, Lê Yên và Doãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes Annamites Associés: "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết nhạc Annam".
    Những năm khoảng 1939, nhiều ca khúc của nhóm được quần chúng yêu thích như: Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu của Doãn Mẫn; Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân của Lê Yên. Cả ba nhạc sĩ của Tricéa đều thành công, trong đó hơn cả là Doãn Mẫn. Họ đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, một số trong đó được đánh giá vượt thời gian
    [sửa] Nhóm Đồng Vọng

    Hoàng QuýNhóm Đồng Vọng được thành lập năm 1939 bởi nhạc sĩ Hoàng Quý, xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của phong trào Hướng đạo. Xuất hiện ngay từ những năm đầu, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ), Đồng Vọng mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam.
    Ngoài những bản hùng ca viết cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đạo, nhóm Đồng Vọng còn để lại nhiều bản tình ca khác. Cùng với nhóm Nhóm Tổng Hội Sinh Viên của Lưu Hữu Phước, Đồng Vọng đã có những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam.
    [sửa] Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
    Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với nhóm Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam, nhưng so với Đồng Vọng thì Tổng Hội Sinh Viên manh tính chính trị nhiều hơn.
    Tổng Hội Sinh Viên được khởi đầu trong nhóm sinh viên ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam tỏ ra có khả năng văn nghệ. Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là những học sinh, sinh viên. Những ca khúc như Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn Sông Gianh... đã để lại dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.
    [sửa] Giai đoạn 1945-1954
    Từ năm 1946, nhiều nhạc sĩ lên chiến khu và viết ca khúc kháng chiến của ********* chống Pháp. Nhưng nhiều người trong số họ vẫn có những sáng tác lãng mạn như Nguyễn Văn Tý với Dư âm, Trần Hoàn với Sơn nữ ca, Tô Hải với Nụ cười sơn cước, Việt Lang với Tình quê hương...
    Trong vùng đô thị Pháp tạm chiếm, cả hai dòng nhạc yêu nước và lãng mạn tiếp tục được trình diễn trên đài phát thanh, trong vũ trường và các quán rượu. Năm 1950, tạp chí Việt Nhạc của đài phát thanh Hà Nội đã xuất bản một danh mục hơn 300 ca khúc Việt Nam họ đã phát thanh gồm cả những bài hát lãng mạn và những bài hát mới được sáng tác dành cho những người lính kháng chiến trong rừng núi. Cho tới lúc chấm dứt hoạt động vào năm 1954, họ đã phát thanh được hơn 2000 bài của hơn 300 tác giả.
    [sửa] Sau 1954 ở miền Nam

    Thái Thanh - giọng ca tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiếnSau năm 1954, Việt Nam chia làm hai miền với chế độ khác nhau. Những nhạc sĩ tiền chiến ở lại miền Bắc không còn sáng tác, hoặc không phổ biến những ca khúc trữ tình lãng mạn. Những nhạc phẩm tiền chiến cũng giống như các tác phẩm văn học lãng mạn (ví dụ tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn) không được phép lưu hành. Những bài hát ở miền Bắc khi đó thường để cổ vũ chiến đấu, xây dựng đất nước, đấu tranh cách mạng... và được xếp vào dòng nhạc đỏ.
    Một số nhạc sĩ khác di cư vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn Phụng... hoặc từ trước đó như Lê Thương, Phạm Duy... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương, Cung Tiến... đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền Nam.
    Những nhạc sĩ này trong khoảng 1954 đến 1975 có những sáng tác đa dạng, trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến. Một số tác phẩm nổi tiếng như Mộng dưới hoa, Trường ca Hội trùng dương của Phạm Đình Chương, Hương xưa của Cung Tiến. Những nhạc phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi những tiếng hát hàng đầu như Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu, Duy Trác, Hà Thanh...
    [sửa] Nhạc tiền chiến sau 1975
    [sửa] Tại Việt Nam
    Tại Việt Nam sau 1975, phần lớn những ca khúc tiền chiến vẫn không được lưu hành. Cho tới năm 1987, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra quyết định "cởi trói văn nghệ", một số bản nhạc tiền chiến mới được trình diễn trở lại. Từ đó, những nhạc phẩm của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong... được các ca sĩ trình diễn nhiều nơi, trong đó phải kể đến những nỗ lực của ca sĩ Ánh Tuyết.
    Những năm đầu thế kỷ 21, những ca khúc đầu tiên của dòng tân nhạc ấy vẫn thường xuyên được các ca sĩ trẻ trình diễn và thu âm. Và một vài người trong số đó đã thanh danh nhờ dòng nhạc này.
    [sửa] Ở hải ngoại
    Sau sự kiện 30 tháng 4 1975, nhiều ca sĩ và nhạc sĩ của miền Nam rời Việt Nam định cư tại nhiều nước trên thế giới, tập trung nhất ở Hoa Kỳ. Tại hải ngoại, các nhạc sĩ như Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Cung Tiến... ít sáng tác. Có thể nói không nhạc phẩm nào ra đời ở hải ngoại được xếp vào dòng nhạc tiền chiến.
    Nhưng dòng nhạc đó vẫn được yêu thích, những ca sĩ đã thành danh trước 1975 như Khánh Ly, Lệ Thu, Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương, Quỳnh Giao... hay những ca sĩ trẻ như Trần Thái Hòa, Ngọc Hạ... thường xuyên trình diễn những nhạc phẩm này.
  4. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Một bài tóm tắt tương đối đầy đủ. Cảm ơn nick tinhdien đã đóng góp cho hội . Mong mọi người tham gia rầm rộ hơn nữa. Để còn tổ chức off cái chứ.
  5. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Một chủ đề rất thú vị, mời các bác tham gia cho vui vẻ nào.
  6. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0

    Post các bài viết của Phạm Duy về Tân nhạc để mọi người cùng tham khảo nhé.

    Bài 4: Xu Hướng Nhạc Tình (Duy Nhiên/Lãng Mạn/Trữ Tình)
    Nhóm Hải Phòng (hay còn gọi là nhóm Đồng Vọng): Nhạc sĩ Lê Thương
    Vào thời kỳ chuẩn bị và thành hình của Tân Nhạc Việt Nam, những nhạc phẩm có giá trị không phải chỉ đến từ thành phố nghìn năm văn vật là Hà Nội. Tại Hải Phòng, Lê Thương, Hoàng Quý, Hoàng Phú (sau này đổi tên là Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân... cũng đã tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên... Họ cũng còn là những hướng đạo sinh (người trừ Lê Thương làm nghề thầy giáo, sau khi đã bỏ dở đường tu nhà dòng) và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.
    Lê Thương là người có nhiều nhạc tình nhất trong bọn. Ông khởi sự bằng những bài như Tiếng Ðàn Ðêm Khuya, Một Ngày Xanh, Bản Ðàn Xuân, Thu Trên Ðảo Kinh Châu ... Ông còn là người soan nhạc có nhiều tâm hồn thi sĩ nhất trong đám người tiền phong của nền Tân Nhạc. Lời ca của Lê Thương là những lời thơ tuyệt vời ngay từ lúc này cũng như mãi mãi về sau. Trong khi nhạc tình của các nhạc sĩ trẻ khác dùng nhiều câu, nhiều chữ thật sáo thì tình khúc của Lê Thương mới mẻ, thi vị hơn nhiều. Ví dụ bài Bản Ðàn Xuân mà tôi đã hát trên các sân khấu từ Bắc vào Nam trong những năm tháng tôi làm người du ca đầu tiên của nền Tân Nhạc :
    Ðàn Xuân tủi lòng
    Nảy cung đợi mong
    Gieo ai oán trong khuê phòng
    Tình tính tang, tang tính tình
    Tình tính tang, tang tính tình
    Lạnh lùng hơn gió ngoài đồng.
    ..
    Trước hết, trong một bài hát về mùa Xuân như Bản Ðàn Xuân này, giống như các bạn đồng thời của mình, Lê Thương cũng mượn thiên nhiên để tỏ tình, nhưng trong ca khúc, ông đã nhân cách hóa sự vật : thiên nhiên là ông, ông là thiên nhiên. Những chữ lót, chữ đệm mà ta thường thấy trong dân ca cổ truyền như "tình tính tang, tang tính tình" được ông đua vào Tân Nhạc một cách rất hợp thời, hợp cảnh. Nét nhạc ngũ cung có thêm một bán âm thoáng qua, không có hại gì cho mầu sắc rất quê hương của ca khúc. Tiến trình giai điệu rất đẹp, có một câu nhạc chủ đạo được nhắc lại hai lần, vươn lên anacrouse (chỗ hứng khởi nhất của ca khúc), rồi tuần tự đi xuống, nghỉ ngơi ở cuối bài. Tối thiểu thì tôi cũng thấy, về sau, có hai bài bị ảnh hưởng nét nhạc Lê Thương. Ðó là Buồn Tàn Thu của Văn Cao và Chinh Phụ Ca của Phạm Duy... Chưa kể những bài khác của các tác giả khác. Tôi thích các câu ca trong Bản Ðàn Xuân :
    Ngồi xe chỉ hồng
    Hỏi ai hiểu không ?
    Tiếng oanh muốn nhắn lời hay những tiếng ngân
    Như chiếc bóng người chưa dám nhấc chân
    Chờ tin thơ chim hoàng oanh đưa
    Còn xa bay trong áng sương mờ...

    Tiếng đàn xuân do Lê Thương gảy lên, sau khi đến với thiếu nữ trong khuê phòng, sẽ tới thăm cảnh vườn, để nhủ hoa thả hương. Hoa sẽ lên tiếng :
    Lời hoa kể rằng
    Nhiều đêm rạng trăng
    Thấy ai ướm má hồng
    Ru những tiếng êm.
    Hoa cũng muốn trời cho có trái tim
    Ðể yêu riêng nhân tình hoa
    Và Xuân tươi, tươi đến muôn mùa.

    Bài hát tiếp tục :
    Ðàn bao tuổi rồi
    Ðàn ca chẳng ngơi.
    Bao dây đứt trong quãng đời
    Tình tang tang tính tính tình
    Tình tang tang tính tính tình
    Của tình duyên số mạng người.
    Ðàn ca nửa lời
    Ðể cung nhẹ lơi
    Có dây nắn tiếng cười, dây nắn tiếng than
    Dây nắn tiếng trầm, dây nắn tiếng vang
    Tùy theo dây, tơ tình tơ duyên
    Và theo dây luu luyến u huyền...

    Cũng như các nhạc sĩ trẻ khác trong thời gian thành hình của Tân Nhạc, Lê Thương phổ nhạc những bài thơ của những thi sĩ tiền phong trong phong trào thơ mới. Bài thơ Bông Hoa Rừng của Thế Lữ khởi đầu bằng những nét nhạc leo núi:
    Trèo lên đỉnh non cao
    Lên đỉnh non cao
    Nghe lời chim gọi gió
    Nghe lời chim gọi gió
    Gió dào dạt thưa
    Bỗng đâu gặp gỡ tình cờ...

    Thì ra Lê Thương gặp nàng sơn nữ, bông hoa rừng của Thế Lữ cũng như tôi ở tuổi 20, gặp cô gái hái mơ già (quả mơ già chứ cô gái thì chưa già) của Nguyễn Bính với một mối tình ấp úng mà thôi...
    Ngoài bài thơ Bông Hoa Rừng của Thế Lữ này, những bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận, Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư... từ lúc mới bắt đầu có Tân Nhạc cũng đã được Lê Thương đưa vào những ca khúc mang tên Tiếng Thùy Dương, Tiếng Hát Thu, nhưng tiếc thay ít người biết đến. Tài phổ thơ thành nhạc của Lê Thương rất cao, nhưng có lẽ vào lúc đó, Tân Nhạc chưa mạnh mẽ như sau này, một năm may ra chỉ có vài bài được trở thành ''''top hit'''', trong khi Lê Thương lại quá phong phú về phương diện sáng tác, vừa đem thơ nổi tiếng ra phổ nhạc, vừa đưa ra những bài do mình soạn cả nhạc lẫn lời. Những ca khúc Lê Thương phần nhiều xưng tụng tình yêu.
    Nhạc tình yêu lúc đó, bất cứ một nhạc sĩ trẻ nào cũng đều viết ra và hát lên, nhưng nếu có bài nào còn vương vấn trong lòng tôi vào lúc tôi đã ngoài 70 tuổi, đó phải là bài Một Ngày Xanh của Lê Thương. Bài hát có một giai điệu mineure buồn lâng lâng, vì nét nhạc hay ngưng ở quãng ba thứ (tierce mineure) giống như nhạc điệu sa mạc chẳng hạn :
    Trời khuya thanh vắng
    Em ngồi bờ sông
    Nhìn mây trăng trắng
    Bay mờ trên không...

    Nếu ta đã nghe nhạc tình của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Dzoãn Mẫn rồi thì so với bài Một Ngày Xanh của Lê Thương, ta sẽ thấy bài của chàng Lê thi vị hơn, làm ta cảm động hơn, không những vì nét nhạc mà còn vì lời ca nữa. Hãy nghe lời tình của Lê Thương viết vào hồi 1939 :
    Từ xa đưa đến
    Tiếng trống canh điểm đêm
    Và tiếng dế kêu đềm êm.
    Dưới sông có vầng trăng sáng
    Chiếu trong lòng Ðà Giang, mầu quang...
    . . . . . . .
    Dưới đá anh có ghi những lời
    Phối ước chung một lòng son
    Tuy bây giờ anh đã ra đi
    Lời thề còn ghi dưới cỏ xanh rì
    Bên bờ Ðà Giang.
    Em đưa kề bên má anh hôn
    Anh thề cùng em
    Bể cạn sông mòn, cuộc tình duyên
    . . . . .
    Từ nay sông vắng im lìm lời ca
    Ðời xanh em ngắn như đời ngàn hoa...
    . . . . . . . . . . . .
    Một ngày xanh đã ghi vào đời anh
    Cuộc tình duyên có khi nào anh quên ?
    Ngày nay trăng chiều trên bờ Ðà Giang
    Lòng anh thấy thiếu mối tình mơ màng...

    Sau nửa thế kỷ, đôi khi nhớ tới bài ca và ngồi hát một mình, tôi vẫn thấy hiện ra những ngày xanh của tôi, bờ Ðà Giang của tôi và lời thề ghi dưới đá của chàng thi sĩ/nhạc sĩ Lê Thương của tôi...
    Thời kỳ thành hình của Tân Nhạc cũng là thời kỳ thử thách. Ta đã thấy Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Văn Chung thử thách dung hòa hai hệ thống ngũ cung Việt Nam và thất cung Âu Tây trong nhạc mới. Lê Thương còn đi xa hơn nữa, ông dùng hẳn một âm giai của Nhật Bản Re Mi Fa La Sib để soạn bài Thu Trên Ðảo Kinh Châu. Lúc Lê Thương soạn bài này, quân đội Nhật chưa tới Ðông Dương, nên ta không thể nói rằng ông bị ảnh hưởng nhạc Phù Tang. Có thể vì đề tài là một mùa Thu trên một hòn đảo có cái tên là Kinh Châu, gần gũi với cái tên Ðông Kinh (TOKYO), cho nên nhạc sĩ họ Lê đã quyết tâm dùng hẳn một âm giai nhật bản. Gần dây, trong công trình khảo cứu về hát Quan Họ, người ta khám phá ra rằng bài Thu Trên Ðảo Kinh Châu của Lê Thương đã được tiếp thu vào loại hát hội (quan họ) của miền Kinh Bắc ngay từ thập niên 40.
    Lê Thương, tuy vậy, vẫn không ra thoát được chủ đề "nhạc tình cảm thiên nhiên". Bài hát về mùa Thu trên một hòn đảo tưởng tượng sẽ được nối tiếp bằng một bài hát về mùa Xuân : Xuân Yêu Ðương đăng trên báo NGÀY NAY. Chàng nhạc sĩ lớn tuổi nhất của nhóm Hải Phòng này (ông sinh năm 1913) sẽ từ biệt hải cảng miền Bắc để vào Nam làm ăn, trước hết là ở An Hóa thuộc tỉnh Bến Tre, sau đó họ Lê sẽ lên sinh sống ở Sàigon. Cho tới khi nhạc tình của Lê Thương thiên về thể truyện ca với những bài tuyệt diệu như Nàng Hà Tiên, Hoa Thủy Tiên... Vào thuở 1942-44 này, chưa có những bài ca kể truyện theo đúng ý nghĩa của nó trong Tân Nhạc. Bài Nàng Hà Tiên báo trước những truyện truyền kỳ dã sử lung linh và vĩ đại của Lê Thương như Trên Sông Dương Tử, Hòn Vọng Phu... Ta hãy nghe truyện tình của Nàng Hà Tiên :
    Ba trăm năm qua bên bờ Cửu Long Giang
    Một người đàn bà hay xuống mé sông
    Ðứng tiếp rước khách trẩy đò ngang
    Lòng ngao ngán tiếc thân chưa có chồng...

    Với một nét nhạc majeur rất lưu loát và với nhịp kể chuyện hơi nhanh, họ Lê kể rằng 300 năm về trước, có một người đàn bà làm nghề rước khách trẩy đò ngang, đang buồn phiền vì chưa có chồng thì :
    Ngày kia tự nhiên có một thiếu niên nào
    Từ quan san xa cách đâu tìm đến
    Mới bước xuống xe vừa trông thấy cặp má đào
    Chàng thiếu niên bèn ngỏ lời kết duyên...

    Lê Thương chuyển nhẹ qua Do Mineur với nét nhạc thật là ngọt ngào :
    Hai năm sau sinh một nàng Tiên...
    Qua đoạn hai của ban nhạc, Lê Thương lại trở về với giọng Majeur và với một nhip đều đặn giống như một điệp khúc, kể truyện tiếp về cô Tiên, kết tinh của mối tình giữa cô lái đò -- lại cô lái đò ! -- và chàng thiếu niên, teenager ? :
    Nàng nghịch đùa sông
    Phá nước thay dòng
    Nàng cầm nguồn mưa
    Tưới ra Biển Hồ
    Chiều chiều Nàng mong
    Chờ một làn sóng
    Ðến dâng cho Nàng khúc đàn
    Âu yếm mơ màng...

    Nàng tiên đó, nghịch đùa sông, lấy tay cầm nguồn mưa tưới qua Biền Hồ ở Cao miên... và chờ đợi làn sóng đưa đến cho Nàng khúc đàn âu yếm. Thế nhưng Nàng Tiên sẽ không được như Mẹ, không có người yêu, buồn rầu, đau khổ và biến thành một bến nước gọi là Hà Tiên :
    Mươi mươi lăm năm sau, nàng Hà Tiên
    Bực mình vì lòng sông thiếu chút duyên
    Ðem thân tiên nương đi tìm Vịnh Xiêm
    Họa chăng có bóng quý nhân độ thuyền.
    Ngày kia một cơn gió mang tới biên thùy
    Một công tôn đi đứng trông kiều quý
    Bóng dáng quý nhân vừa trông đã thấy rằng
    Hóa ra nàng gặp một giấc mơ
    Tiên cô đi yêu một bài thơ...
    Từ mộng thuyền quyên
    Tới giấc mơ huyền
    Lòng người được quen
    Thú vui hoặc huyền
    Từ rày Hà Tiên
    Thành một bờ bến
    Ðón đưa những người xuống đò
    Ðể thấy mơ hồ.

    Ngay từ lúc đó, ta đã thấy câu nhạc của Lê Thương rất dài, bằng chứng của óc sáng tạo, khác với những tài năng kém, chỉ soạn nổi những câu nhạc cụt thun lủn. Với đầu óc phong phú, Lê Thương còn sáng tạo ra một câu chuyện hư hư thực thực, chuyện người đẻ ra Tiên, rồi nàng Tiên biến thành một bến nước có thật ở miền cực Nam nước Việt... Sau này, hình như cuộc đời Việt Nam càng ngày càng trở nên rất ư tàn nhẫn, tôi không hề thấy trong Tân Nhạc Việt Nam những truyện ca thần tiên như của Lê Thương.
    Tiếp tục soạn truyện ca, Lê Thương cho chúng ta bài Hoa Thủy Tiên. Cũng vẫn là những lời ca rất nên thơ, nét nhạc rất Việt Nam, với nhịp đôi dung dị mà ông sẽ dùng trong các nhi đồng ca sau này... nhất là với tài dựng những cốt truyện thần tiên, Lê Thương dùng âm nhạc để đưa chúng ta vào cõi không thực, cõi mộng mơ nhưng vẫn chan chứa tình người. Bài Hoa Thủy Tiên kể truyện :
    ... Một nghìn năm trước, trong đời Trần Nam quốc, có cô công chúa loà, cả đời nuôi nấng hoa. Nhưng có một năm, Trời làm mưa gió, làm giông tố khiến cho các hoa trên gác lầu phải một cơn đớn đau, Bạch Mẫu Ðơn trôi dạt mất đâu. Công chúa loà thương người và hoa quá, khấn Trời xin đền nụ hoa đã rơi. Nàng bầy trên gác, ước chừng mười tô nước, khấn xin ba tháng ròng, nhưng Trời chỉ cho nước trong. Phải qua đi mùa Hạ, mùa Thu... mãi cuối Ðông đó, Trời mới cho nàng Thủy Tiên xuống đời. Thấy công chúa loà, Nàng Thủy Tiên bước ra, trình bầy trên bát nước, ba lòng vàng thơm ngát, khiến cho đôi mắt loà của nàng công chúa bỗng sáng ra...
    Thật là đáng tiếc cho Việt Nam chúng ta, phải sống năm mươi năm chinh chiến, ly loạn, cho nên trong nhạc mục dành cho tuổi thơ, chúng ta hiếm những bài ca thần tiên như vậy.
    Là một nhà giáo, ngoài mấy bài hát thần tiên tôi vừa kể, soạn ra trong thời kỳ phát triển sơ khởi, Lê Thương còn soạn khá nhiều ca khúc cho nhi đồng, học sinh như Thằng Cuội, Tuổi Thơ, Học Sinh Hành Khúc. Bài này phổ thông đến độ có lời hát vui : học sinh là người hủ tíu ăn hai ba tô...
    Tôi sẽ có dịp để nói thêm về của tiến trình của nhạc sĩ Lê Thương trong những chương tới. Nhất là về nhạc phẩm lớn lao của ông là ba bài Hòn Vọng Phu...
  7. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Về đến nhà rùi,
    Ui, chẳng có ma nào vô chơi nhà mình cả, bùn nhẩy.
    Thui, bật nhạc lên nghe cái.
    Á, bài Lá đổ muôn chiều của Đoàn Chuẩn à, đúng là bài yêu thích.
    Làm bi thuốc cho lãng mạn
  8. tinhdien2000

    tinhdien2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/11/2002
    Bài viết:
    130
    Đã được thích:
    0
    Nay`, em bảo, anh bảo Bản Đăng ký nhưng chả thấy mẫu đâu, mà cần j bản ĐK, những người tham gia thì đã là thành viên của hụi rùi. Hay anh lập Blog giới thiệu đi. Hiệu quả phết đấy!!!!!!! Còn 1 cách nữa (Cách này hơi tốn kém, hix) là: Những ai ĐK làm thành viên thì anh gửi cho họ 1 CD nhạc Tiền Chiến, cho họ "ngấm", nhất là những người "ngoại đạo"....như em.
  9. tinhdien2000

    tinhdien2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/11/2002
    Bài viết:
    130
    Đã được thích:
    0
    Nghe nhạc tiền chiến miễn phí
    http://amnhac.timnhanh.com/index.php?tn=nhacviet&cate=8
  10. Baron282

    Baron282 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2007
    Bài viết:
    1.039
    Đã được thích:
    0
    Hi hi, để anh gửi biếu em 1 đĩa nhẩy, rùi em biếu lại cho anh 60 khìn nhớ.
    "Cả hai cùng có lợi"

Chia sẻ trang này