1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử bành trướng của Nước Nga

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanhle2004, 27/12/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Một số hình ảnh lịch sử
    [​IMG]
  2. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]
  3. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]
  4. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Nước Nga có những giai đoạn đen tối dưới ách Mông cổ,nhưng sau đó người Nga đã có những trận đánh vang dội và giải phóng được khỏi ách đó. Lịch sử nước Nga thì dài lắm. Mong topic tiếp tục để kể về những trận chiến thắng quân Nga trước Napoleon ,quá nửa triệu quân lính đi mà chỉ thoát có 3,000 người chạy về được qua ngả Baltic. Rồi còn những trận thắng phát xít nữa. Nói về bành trướng thì nó bành trướng cũng khiếp. Giữa thế kỷ 19,người Nga còn có ý định tiến từ Alaska xuống sâu phía Nam của Bắc Mỹ.
  5. MTH

    MTH Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/05/2002
    Bài viết:
    917
    Đã được thích:
    0
    Người Nga đã có mặt xuống đến tận Cali, nhưng từ nửa cuối thế kỉ 19 sau đó đế quốc Nga không xâm nhập Bắc Mỹ mà chuyển hướng xuống vùng viễn đông để tranh giành ảnh hưởng với Anh và Pháp theo xu thế bấy giờ.
  6. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Nghe buồn nhỉ. Đọc tạm ở đây vậy. Xin lỗi bác Ngô Ngọc Phương
    Lịch sử nước Nga thời kỳ TBCN sau CM tháng 10


    LỊCH SỬ NƯỚC NGA
    Ngô Ngọc Phương, chép lại từ tài liệu của Côn-xtan-tin Ta-rơ-nốp-xki
    Con người xuất hiện trên lãnh thổ nước Nga cổ đại và các nước thuộc Liên Xô cũ từ hàng chục vạn năm về trước. Theo những hình vẽ trên các vách đá của người thời cổ, công cụ lao động và những ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ hình dung được cuộc sống, lao động và bộ mặt của các bộ lạc xa xưa. Thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên, vùng ngoại Cáp-ca-dơ là đất đai của Quốc gia U-ra-rơ-tu. Trung tâm của quốc gia này là hồ Van. Hai thế kỷ sau, các quốc gia khác xuất hiện trên vùng Trung Á (Hô-rê-đem là một trong những quốc gia phát triển nhất, có trung tâm ở hạ lưu sông A-mu-đa-ri-a). Trước Công nguyên (từ tiền thế kỷ thứ 6 đến tiền thế kỷ thứ 1), trên bờ phía bắc và phía đông biển Đen xuất hiện các quốc gia thuộc quốc của Hy-lạp - những thành phố và tiểu quốc Ô-li-vi-a, Bô-xpo-rơ, Khéc-xôn-nét. Cuối thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, đạo Ki-tô xuất hiện ở vùng này, sau đó lan dần tới vùng ngoại Cáp-ca-dơ. Nhưng những quốc gia này tồn tại không lâu: chúng xuất hiện và tiêu vong cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ. Phải qua vài thế kỷ nữa, trên những vùng bình nguyên Đông Âu rộng lớn mới xuất hiện nước Cổ Nga, mà theo một sử gia thời cổ, là quốc gia mở đầu lịch sử nước Nga.
    Những tài liệu lịch sử đầu tiên nhắc tới quốc gia Cổ Nga, tức là Đại quốc Ki-ép - Nốp-gô-rốt, xuất hiện từ thế kỷ thứ 9. Nhưng rõ ràng những người thành lập quốc gia này là dân tộc Xla-vơ phương Đông đã tới đây sớm hơn nhiều. Họ là những người làm ruộng và những thành phố đầu tiên của họ được dựng trên vùng hữu ngạn sông Đnépr. Còn sự di chuyển của người Xla-vơ lên miền phương Bắc (tới Bắc Băng Dương), xuống miền Nam (tới sông Đa-nuýp) và sang miền Đông (tới sông Ô-ca, cánh tay phải của sông Vôn-ga vĩ đại) đã kéo dài trong vòng mấy thế kỷ. Tại vùng giáp ranh giữa đất rừng và đất thảo nguyên này, người Xla-vơ đã tiếp xúc với các dân tộc du mục Pô-lô-vét, Pê-tse-ne-gơ và nhiều dân tộc khác.
    Vùng tam giác Ki-ép - Nốp-gô-rốt ?" Vla-đi-mia là trung tâm của nước Cổ Nga. Quốc gia này đã bỏ qua giai đoạn chiếm hữu nô lệ và, cũng như các quốc gia Tây Âu thời kỳ đó, phát triển theo các quy luật của xã hội phong kiến. Cơ sở của xã hội này không phải là người nô lệ, mà là người làm ruộng, có những công cụ lao động thô sơ như cày gỗ, liềm, hái và rìu. Thoạt đầu, họ là những người nông dân tự do và chỉ phải nộp tô cho các chúa địa phương. Nhưng sau đó, các lãnh chúa và giai cấp quý tộc dần dần biến thành những địa chủ lớn và người nông dân tự do trở thành nông nô của họ.
    Sự truyền bá đạo Ki-tô trên các vùng đất Cổ Nga (khoảng năm 989) đã đi đôi với việc xuất hiện văn tự, nhà thờ và tu viện. Trong các thế kỷ 10 ?" 12, Cổ Nga là một quốc gia cường thịnh theo đạo Ki-tô. Không chỉ những nước láng giềng lớn, mà cả những nước phương xa cũng tìm cách tiếp xúc với nước Cổ Nga. Ví dụ, công chúa An-na, con gái chúa I-a-rô-xláp Mu-đrưi của quốc gia Ki-ép, trở thành vợ của vua Hăng-ri I nước Pháp, và sau khi chồng qua đời, bà trở thành nữ hoàng nước Pháp (chữ ký của bà để lại trong các chiếu lện của triều đình nước Pháp); công chúa Ê-li-da-bét (một người con gái khác của Chúa I-a-rô-xláp), là Hoàng hậu nước Na-uy; công chúa Ghi-ta, con gái của một nhà vua của dân tộc Ăng-glô Xắc-xông trở thành vợ của chúa Vla-đi-mia Mô-nô-ma-khơ cầm đầu quốc gia Ki-ép.
    Các thành phố Cổ Nga là những trung tâm phát triển các nghề thủ công. Thời đó, con người đã biết đặt ống dẫn nước và lát đường bằng đá. Cho tới nay, mọi người vẫn trầm trồ khâm phục vẻ đẹp lộng lẫy của các công trình kiến trúc Cổ Nga như nhà thờ Xô-phi-a ở Ki-ép, nhà thờ Xô-phi-a ở Nốp-gô-rốt, nhà thờ U-xpen-xki và nhà thờ Đi-mi-tơ-rốp ở Vla-đi-mia, nhà thờ Pô-crốp trên bờ sông Néc-li - các công trình kiến trúc tuyệt tác của nền kiến trúc Vla-đi-mia ?" Xu-dơ-đan.
    Người Cổ Nga rất quý trọng sách. Ngày nay còn giữ lại những tập sách chép tay thời bấy giờ. Ngoài ra, còn lưu lại hàng trăm bức văn tự ghi trên giấy vỏ cây của thường dân Nốp-gô-rốt, Pơ-xcốp, Xmô-len-xcơ, Pô-lốt-xcơ, Vi-tép-xcơ, Xta-rai-a Ru-xa.

    Nước Cổ Nga xứng đáng được coi là cái nôi của các dân tộc Nga, U-crai-na và Bê-la-rút-xi-a. Thời đó các dân tộc vùng biển Ban-tích, cực Bắc, Pô-vôn-gie và vùng ven biển Đen đã thần phục các lãnh chúa Ki-ép và cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của nước Cổ Nga.
    Cũng như trong quá trình phát triển chế độ phong kiến ở khắp Tây Âu, quốc gia Cổ Nga bắt đầu phân chia thành các tiểu quốc, đứng đầu là các chúa địa phương. Các chúa đất kình địch nhau, những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nổ ra liên tiếp. Những người cầm quyền ở một số nước láng giềng đã lợi dụng điều đó. Thành Cát Tư Hãn (Ghenghis Khan), người có công thống nhất các bộ tộc du mục Mông Cổ, đã xua các đội kị binh thiện chiến của mình tràn vào nước Nga. Quân của Khan chiếm các vùng Xi-bê-ri, tây bắc Trung Quốc, Trung Á, rồi vượt qua dãy Cáp-ca-dơ tràn vào các thảo nguyên gần Biển Đen.
    Năm 1236, vua Bạt Đô, cháu của Ghenghis Khan, đã đem quân sang Châu Âu. Các lãnh chúa Nga đã phải chống cự quyết liệt, và Bạt Đô phải mất đến 3 năm mới chiếm được các vùng đất Nga, nhưng cuộc chiến đấu dũng cảm của người Nga đã cứu được Tây Âu: quân lính của Bạt Đô không đủ sức tiến xa hơn nữa.
    Tục ngữ phương Đông có câu: hoạ vô đơn chí. Thực vậy, trong khi quân Mông Cổ đang làm mưa làm gió trên đất nước Nga, quân Phổ cũng tiến hành cuộc viễn chinh xâm lấn biên giới tây bắc nước Nga. Sau khi chiếm được các vùng đất đai mà hiện nay là nước Phần Lan, bọn phong kiến Thụy Điển cũng lăm le tiến vào nước Nga. Các đội nghĩa binh của Chúa A-lếch-xan-đrơ I-a-rô-xla-vích ở Nốp-gô-rốt đã phải chống lại cả quân Thụy Điển lẫn quân Phổ. Năm 1240, quân Nga đã đánh bại quân Thụy Điển trên bờ sông Nê-va (do đó nhân dân cũng gọi vị chúa này là A-lếch-xan-đrơ Nép-xki). Tháng Tư năm 1242, kị binh Phổ bị đánh tan trên mặt hồ đóng băng Tsút-xcôi-e.
    Năm 1245, trong trận I-a-rô-xláp (tây nam U-crai-na), các chiến binh của chúa Đa-ni-la Rô-ma-nô-vích đã thắng quân Ba Lan và quân Hung-ga-ri tràn vào vùng Ga-lít-sơ ?" Vô-lưn.
    Nhưng mặc dầu thắng những trận lừng lẫy như thế, các lãnh chúa Nga vẫn phải khuất phục quốc gia Kim Trướng (Lều Vàng) của các dân tộc du mục. Quốc gia này do Bạt Đô thành lập và đặt kinh đô ở Xa-rai thuộc hạ lưu sông Vôn-ga.
    Ách thống trị của người Mông Cổ kéo dài hơn hai thế kỷ. Bọn ngoại xâm đặt chân đến đâu thì cảnh đầu rơi máu chảy lại diễn ra với người Nga. Chúng bắt họ cống nộp, bắt dân đưa về nước làm nô lệ.
    Nước Nga bị suy yếu, mất hết các đất đai vùng ven biển Đen và dọc sông Vôn-ga. Giữa thế kỷ 14, Ba Lan chiếm U-crai-na hồi đó là vùng đất tây nam của nước Nga. Đất đai của người Xla-vơ miền Tây và vùng Xmô-len-xcơ bị sáp nhập vào Lít-va. Đất đai của đại chúa Vla-đi-mia bị phân chia thành các tiểu quốc.
    Tình hình đó đã làm đình trệ sự phát triển của kinh tế và văn hoá Nga trong khoảng một, hai thế kỷ.
    Khôi phục sự thống nhất của các vùng đất đai chính trở thành nhiệm vụ của các dân tộc Nga. Không thế thì không thể nào thoát được khỏi ách thống trị của người Mông Cổ, phục hồi nền kinh tế và văn hoá, thu lại những vùng đất đai bị mất. Hoàng triều Mát-xcơ-va đã dẫn đầu cuộc đấu tranh nhằm thống nhất đất nước. Những tài liệu đầu tiên nhắc đến Hoàng triều Mát-xcơ-va thuộc về năm 1147.
    Mát-xcơ-va là trung tâm tự nhiên của các đất đai Nga được các tiểu quốc láng giềng ngăn cách với quốc gia của người du mục ở phía Đông và Lít-va ở phía Tây. Thêm nữa, Mát-xcơ-va còn là trung tâm lớn phát triển các nghề thủ công và nằm trên giao điểm của các đường bộ và đường thuỷ. Xung quanh Mát-xcơ-va là các vùng có nghề trồng trọt phát triển tốt. Chính sách cương nghị, nhẫn nại và khéo léo của các chúa Mát-xcơ-va cũng có uy tín với các lãnh chúa khác.
    Năm 1328, chúa I-van Đa-ni-lô-vích ở Mát-xcơ-va được phong làm Đại chúa Vla-đi-mia. Những người cầm quyền quốc gia Mông Cổ Kim Trướng giao việc thu nộp cống vật cho chúa I-van. Từ đó, ách thống trị của người Mông Cổ có phần giảm bớt, bởi vì người du mục thôi không tràn vào cướp phá nữa. Theo lời một sử gia Nga, người du mục ?othôi không đánh chiếm đất đai Nga và giết các tín đồ theo đạo Ki-tô nữa?. Nhưng chúa I-van Đa-ni-lô-vích đã lợi dụng việc thu cống để làm giàu, do đó bị gọi là Ca-li-ta (hầu bao đựng tiền): vị chúa đã ăn chặn một phần cống vật trước khi đem nộp.
    Thời kỳ đó, các đất đai Nga bắt đầu được thống nhất dần vào quốc gia Mát-xcơ-va. Quá trình thống nhất đó đã dẫn tới việc hình thành một Nhà nước quân chủ tập trung mạnh có đủ sức trút bỏ ách thống trị của người Mông.
    Cháu I-van Ca-li-ta là Đi-mi-tơ-ri I-va-nô-vích lên ngôi chúa đã trở thành nhân vật đầu tiên trong lịch sử thống nhất quốc gia Nga. Ngày 8 tháng Chín năm 1380, một trận đánh hết sức ác liệt chống quân Kim Trướng đã diễn ra trên cánh đồng Cu-li-cô-vô (Thượng nguồn Sông Đông). Trong trận này, quân của chúa Đi-mi-tơ-ri I-va-nô-vích đã đánh bại quân Ta-ta-ri ?" Mông Cổ do Ma-mai cầm đầu. Chúa Đi-mi-tơ-ri I-va-nô-vích được ghi vào lịch sử nước Nga là Chúa **i-tơ-ri Đôn-xkôi, còn trận Cu-li-cô-vô được gọi là trận ?odiệt Ma-mai?.
    Nhưng chỉ hai năm sau, người du mục đã lại khôi phục được quyền lực ở các vùng đất đã chiếm được trước đây. Điều đó làm cho các lực lượng muốn thống nhất nước Nga càng đoàn kết chặt chẽ với nhau hơn.
    Chẳng bao lâu (năm 1395), quốc gia Kim Trướng bị nhà cầm quyền Ti-mua của vương quốc Ma-ve-ran-na-khra (vùng đất giữa sông A-mu-đa-ri-a và sông Xư-rơ-đa-ri-a) đánh bại hoàn toàn. Sau đó Ti-mua chiếm Ác-mê-ni, Gru-di-a, vùng Tiểu Á và Ấn Độ, thành lập nên một đế chế lớn và đặt thủ đô ở Xa-mác-can. Sau khi Ti-mua chết (năm 1405), đế chế này tan rã thành nhiều vương quốc độc lập. Các vương quốc đó bắt đầu gây chiến tranh liên miên chống lại nhau. Xuất hiện những điều kiện đối ngoại thuận lợi để lật đổ áp bức của quốc gia Kim Trướng.
    Năm 1476, đại chúa I-van III, một trong những lãnh chúa lớn nhất thời đó, đã cố tình không nộp cống vật. Bốn năm sau, những người du mục đem quân đi đánh Mát-xcơ-va. Nhưng khi tới bờ sông U-gra (tả chi lưu của sông Ô-ca), vua Ác-mát thấy quân đội của lãnh chúa Mát-xcơ-va có nhiều vũ khí và tập trung đông trên bờ đối diện, liền vội vã ra lệnh lui quân.
    Tới thời gian đó, quốc gia Kim Trướng bị chia cắt thành một số vương quốc thù địch nhau: các vương quốc Ca-dan, Át-xtra-khan, Xi-bi-ri, Crưm và Nô-gai. Trên đường rút quân về vùng hạ lưu sông Vôn-ga, Ác-mát bị quân đội vương quốc Nô-gai và vương quốc Xi-bê-ri phục kích. Trong trận này, Ác-mát bị giết chết.
    Bây giờ thì các lãnh chúa Mát-xcơ-va không có đối thủ nào ngang sức nữa. Năm 1478, chúa I-van III chinh phục nước Cộng hoà quý tộc Nốp-gô-rốt, sau đó đến năm 1485 thì khuất phục được lãnh chúa Tve-rơ. Do kết quả của cuộc chiến tranh chống Lít-va (1500 ?" 1503) vùng thượng nguồn sông Ô-ca và Đnépr được sáp nhập vào quốc gia Nga. Dưới thời chúa Va-xi-li III, con trai đại chúa I-van III, các đất đai Pơ-xcốp (năm 1510), Xmô-len-xcơ (năm 1514) và Ri-a-dan (năm 1521) sáp nhập vào quốc gia Mát-xcơ-va. Như vậy, những vùng đất chính của quốc gia Nga đã được thống nhất. Sau đó là các cuộc chinh phục vùng sông Vôn-ga và vùng biển Ban-tích.
    Dưới thời đại chúa I-van III, viện Đu-ma đại diện cho Hội đồng các Chúa là cơ quan thường trực tối cao bên cạnh đại chúa: cơ quan này bàn bạc giải quyết những công việc quan trọng nhất. Những vấn đề cực kỳ quan trọng như tuyên chiến, giải hoà với các quốc gia khác vv? được giải quyết trong các phiên họp chung của Viện Đu-ma chúa, những người đứng đầu nhà thờ và đại diện của tầng lớp quý tộc. Sau này, dưới triều đại Chúa I-van IV, những cuộc hợp tương tự được gọi là những Hội nghị Lãnh chúa.
    Cũng trong thời gian đó, các bộ, tức là các cơ quan chuyên trách đầu tiên của chính quyền trung ương được thành lập để quản lý các lĩnh vực khác nhau trong Nhà nước tập quyền.

    Giữa hai thế kỷ 15 và 16, các nước Tây Âu bước vào thời kỳ những phát kiến lớn về địa lý, hoạt động cải lương và thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế. Nước Nga cũng bước vào thời kỳ chuyển biến lớn này. Tất nhiên, đây chưa phải là thời kỳ chuyển sang chế độ tư bản, bước quá độ này còn là viễn cảnh xa xăm. Đất nước đang đứng trước một vấn đề khác: tiến theo con đường kinh tế địa chủ - quý tộc và tăng cường sự trói buộc nông dân vào chủ đất hay là, ngược lại, giảm bớt sự lệ thuộc của quần chúng lao động ở thành thị lẫn nông thôn vào giai cấp phong kiến và phát triển kinh tế hàng hoá nhỏ tự do.
    Sau khi các vùng đất Nốp-gô-rốt được sáp nhập vào đất đai của đại chúa Mát-xcơ-va, một đội quân lớn quý tộc và bản thân đẳng cấp quý tộc bắt đầu hình thành: đất đai tịch thu của các chúa Nốp-gô-rốt được đem chia cho hơn hai nghìn gia đình quý tộc địa phương của quốc gia Mát-xcơ-va. Năm 1497, một thể lệ được ấn định để bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc: người nông dân chỉ được phép thay đổi chủ đất trong vòng một tuần trước và một tuần sau ngày 26/11, tức là ngày I-u-ri-ép; nếu như họ đã trả hết nợ cho chủ đất cũ. Đó là biện pháp trực tiếp trói chặt người nông dân vào chủ đất, dẫn tới sự phát triển luật nông nô (chế độ nông nô) ở nước Nga.
    Đồng thời trong nước Nga còn có một số ruộng đất tư điền nữa, tức là những mảnh ruộng của người nông dân, và quá trình tách nghề thủ công khỏi nghề trồng trọt cũng bắt đầu. Do đó xuất hiện hạng người đặc biệt được gọi là ?othương nhân?, tức là những nông dân giàu làm nghề thủ công và những người đi buôn. Đó là cơ sở thực tế để tiếp tục phát triển kinh tế hàng hoá nhỏ gắn bó với thị trường và không dung hoà với chế độ nông nô.
    Nền kinh tế địa chủ - quý tộc gắn liền với chế độ nông nô ngày càng hưng thịnh.
    I-van Va-xi-li-ê-vích Grô-dơ-nưi tức là Đại chúa I-van IV, người đầu tiên tự phong là Sa hoàng nước Nga (năm 1547), đã tăng cường vai trò của các cơ quan chính quyền trung ương (các bộ) và bắt đầu triệu tập đều đặn hội nghị các lãnh chúa. Đại diện của tầng lớp quý tộc và thương nhân ở thủ đô cũng như những hạt tham gia các hội nghị này cùng với viện Đu-ma chúa, các thượng thư đứng đầu bộ và những người lãnh đạo nhà thờ. Chế độ Nhà nước như thế được gọi là chế độ quân chủ đại diện quý tộc.
    Dưới thời I-van IV, nghề in sách ở nước Nga bắt đầu xuất hiện: ngày 1 tháng Tư năm 1564, tu sỹ I-van Phê-đo-rốp ở Mát-xcơ-va đã in cuốn sách Nga đầu tiên: ?oSứ đồ?.
    Dưới thời Sa hoàng I-van Va-xi-li-ê-vích, Ca-dan bị thu phục (năm 1552), A-xtơ-ra-khan sáp nhập vào nước Nga (năm 1556) và dòng Vôn-ga từ đầu nguồn chảy ra đến biển tất cả nằm trong nước Nga. Nước Nga cũng đã có những điều kiện mở rộng đất đai tới vùng U-ral và vùng Xi-bê-ri rộng lớn trong lúc đó hầu như không có bóng người (trong thế kỷ 17, cả một vùng rộng lớn hơn 13 triệu ki-lô-mét vuông chỉ có gần 236 nghìn người, tính trung bình cứ 40 ?" 50 ki-lô-mét vuông mới có 1 người). Hai năm sau, nhằm mục đích bảo vệ đường biên giới phía Tây luôn bị kị binh Phổ đe doạ, cũng như phát triển thương mại với các nước Châu Âu, Sa hoàng bắt đầu đem quân đánh chiếm vùng biển Ban-tích và trong giai đoạn đầu đã hoàn toàn đánh bại quân Li-vôn. Nhưng sau đó Sa hoàng bị thua và nước Nga lại mất lối ra biển Ban-tích.
    ...
  7. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Thời gian đó, I-van IV cũng đã thiết lập chế độ ?othái ấp?[1] (năm 1565). Sa hoàng dựa vào quân đội để gây những vụ khủng bố đẫm máu, dùng mọi nhục hình thời trung cổ Nga để hành hạ và giết những người bị coi là ?onghịch phản? và ?ogian tà?.
    Chế độ thái thái ấp đã dẫn tới việc thủ tiêu các dòng họ chúa địa phương không chịu khuất phục chế độ quân chủ tập trung và tăng cường uy thế của tầng lớp quý tộc: chính tầng lớp địa chủ phong kiến nhỏ này đã phục vụ trong quân đội và được Sa hoàng I-van Grô-dơ-nưi trả ơn bằng cách cấp đất tước đoạt được của các quý tộc địa phương. Đất đai của các quý tộc địa phương bắt đầu được gọi là điền trang và chủ điền trang trở thành các địa chủ. Họ được cấp đất đai và cả nông dân sống trên các đất đai đó. Những nông dân này phải làm việc không công cho chủ đất.
    Năm 1581, nhằm mục đích củng cố quyền lực của quý tộc đối với nông dân, Sa hoàng I-van đã ra lệnh tạm cấm nông dân không được quyền đổi chủ. Ngày I-u-ri-ép tượng trưng cho ngày người nông dân được phép đổi chủ đã bị bãi bỏ như thế. Do đó, cuối thế kỷ 16 cũng đã xuất hiện một câu tục ngữ nổi tiếng nói lên nỗi đắng cay của người nông dân Nga: ?oNgày I-u-ri-ép mà bà chẳng được phép?. Sau đó ít lâu (năm 1597), việc nông dân đổi chủ bị cấm chỉ hoàn toàn và Sa hoàng còn ra lệnh truy lùng những nông dân trốn chủ. Theo lệnh này, tất cả các nông dân bỏ trốn chủ đất trong vòng 5 năm trước đây đều phải mang theo gia đình và tài sản trở về với chủ.
    Như vậy là việc hình thành chế độ quân chủ chuyên chế ở nước Nga đã đi đôi với việc củng cố chế độ nông nô.

    Triều đại Ri-u-ri-cô-vích mở đầu từ các lãnh chúa Ki-ép đầu tiên và kết thúc sau khi Sa hoàng Phê-đo I-va-nô-vích, con cua I-van IV qua đời. Bô-rít Gô-đu-nốp, anh của hoàng hậu, lên ngôi thay em rể. Sa hoàng Bô-rít vẫn theo đuổi chính sách trước đây của I-van IV và dựa vào tầng lớp quý tộc. Các lãnh chúa địa phương đã bất bình về việc Bô-rít Gô-đu-nốp lên ngôi Sa hoàng. Những năm 1601 ?" 1602, ở trên vùng đất U-crai-na bị Ba Lan chiếm đóng có một người mạo nhận là Hoàng tử Đi-mi-tơ-ri, con trai Sa hoàng I-van IV, dường như tình cờ thoát khỏi vụ mưu sát ở U-glít-sơ[2]. Kẻ mạo danh đã cầu cứu vua Ba Lan. Sau khi tập hợp được một đạo quân nhỏ từ những người Cô-dắc và đại diện giới quý tộc Ba Lan, tên Hoàng tử mạo danh này đã đưa quân đi đánh Mát-xcơ-va. Tháng Tư năm 1605, Sa hoàng Bô-rít Gô-đu-nốp đã chết đột ngột. Tầng lớp đại quý tộc liền lợi dụng kẻ mạo danh này để lật đổ chính quyền của dòng họ Gô-đu-nốp. Hoàng tử giả Đi-mi-tơ-ri lên ngôi và thi hành một chính sách khiến cho nhân dân rất bất bình. Tầng lớp đại quý tộc lại xúc giục nhân dân Mát-xcơ-va nổi dậy chống lại kẻ mạo danh và giúp Va-xi-li Sui-xki là một người thuộc dòng họ hoàng triều lên ngôi. Sa hoàng mới Va-xi-li Sui-xki bắt đầu thi hành chính sách mới có lợi cho tầng lớp đại quý tộc. Dưới thời Sa hoàng Va-xi-li Sui-xki chế độ nông nô trở nên hà khắc hơn, và do đó đã làm nổ ra các cuộc khởi nghĩa nông dân.
    Không phải ngẫu nhiên mà các biên khu phía Nam quốc gia Nga lại trở thành lò lửa của các cuộc khởi nghĩa nông dân: đầu thế kỷ 17, vùng này tập trung khá đông nông dân và thợ thủ công chạy trốn chúa đất mà khi đó người ta gọi là những người Cô-dắc. Dưới quyền chỉ huy của I-van Bô-lốt-nhi-cốp, một nông dân cô-dắc, nghĩa quân đã chiếm Cô-lôm-na và vây hãm thành Mát-xcơ-va. Nhưng ít lâu sau đã lộ rõ những điểm yếu chung của tất cả các cuộc khởi nghĩa nông dân tự phát. Đó là: nghĩa quân không có tổ chức thống nhất và vẫn tin mù quáng vào ?otấm lòng tốt? của Sa hoàng. Nông dân không hiểu rằng, cuộc sống bất hạnh của họ không phải do người cầm quyền tốt hay xấu, mà bắt nguồn từ chế độ chuyên chế và chế độ nông nô là hệ thống xã hội thù địch đối với họ.
    Quân đội Sa hoàng đã buộc nghĩa quân của I-van Bô-lốt-nhi-cốp phải lùi đến Ca-lu-ga, rồi sau đó tới Tu-la. Sau bốn tháng bị vây hãm, nghĩa quân hạ vũ khí đầu hàng. Mặc dù Sa hoàng Va-xi-li Sui-xki khi dụ hàng đã hứa tha chết nhưng vẫn chọc thủng hai mắt của I-van Bô-lốt-nhi-cốp, vứt xuống hố băng trên sông.
    Thời gian đó, ở U-crai-na còn có một kẻ mạo danh nữa: Hoàng tử giả Đi-mi-tơ-ri thứ hai. Y cũng dựa vào quân đội Ba Lan. Tháng Sáu năm 1608, hoàng tử giả này đem quân vây hãm thành Mát-xcơ-va. Hành động cướp bóc và tàn ác của quân lính vây hãm thành đã làm cho nhân dân hết sức căm phẫn. Nhưng lo sợ làn sóng công phẫn của nhân dân sẽ làm đổ cả hoàng triều, Sa hoàng Va-xi-li đã cầu cứu người Thụy Điển. Nước này nhận lời giúp đỡ ngay, vì đây là một dịp tốt để can thiệp vào nội bộ chính trường Nga. Các giới cầm quyền Ba Lan cũng tiến hành cuộc can thiệp trực tiếp chống nước Nga. Mùa thu năm 1609, quân đội Ba Lan vây hãm thành Xmô-len-xcơ, còn quân Thụy Điển cũng tiến tới thành phố Mát-xcơ-va đang bị hoàng tử giả vây hãm. Kẻ mạo danh đã phải bỏ chạy từ Tu-si-nô (phía tây Mát-xcơ-va) về Ca-lu-ga và ở đây hắn bị đồng bọn giết.
    Tháng Ba năm 1610, Mát-xcơ-va được giải vây. Nhưng tháng Sáu năm đó, quân đội Ba Lan lại từ Xmô-len-xcơ kéo tới và đánh bại quân Mát-xcơ-va kéo tới chặn đường. Trước tình hình này, các đại quý tộc đã chống lại Sa hoàng Va-xi-li Sui-xki là người mà họ đã đặt lên ngôi. Sa hoàng bị truất ngôi và, tháng Tám năm 1610, hoàng tử Ba Lan Vla-đi-xláp lên cầm quyền ở nước Nga. Một tháng sau, các đại quý tộc Nga giao nộp Mát-xcơ-va cho người Ba Lan.
    Thời kỳ đen tối bắt đầu. Quân đội Ba Lan chiếm đóng thủ đô Nga, các thành phố miền Trung Nga và miền Tây đất nước. Quân Thụy Điển chiếm vùng Nốp-gô-rốt, vây hãm thành Pơ-xcốp. Chính trong tình hình đó, quần chúng nhân dân đã nổi dậy.
  8. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Prô-cô-pi Li-a-pu-nốp, người đứng đầu giới quý tộc Ri-a-dan, đã thành lập đội dân binh đầu tiên, các đội vũ trang của người Cô-dắc và nông dân liền đi theo ông. Tháng Ba năm 1611, Li-a-pu-nốp vây hãm thành Mát-xcơ-va. Nhưng mùa hè năm đó, các đơn vị dân binh có thành phần xã hội phức tạp đã chống lại nhau. Li-a-pu-nốp bị giết, dân binh tan rã. Mùa thu năm 1611, theo lời kêu gọi của Cu-dơ-ma Mi-nin, một trưởng hạt ở vùng Hạ Nốp-gô-rốt, đội dân binh thứ hai được thành lập. Chúa Đi-mi-tơ-ri Po-gia-rơ-xki, một vị tướng có kinh nghiệm, đứng ra chỉ huy đội dân binh này. Trong trận đánh ác liệt kéo dài hai ngày gần Mát-xcơ-va, các đội dân binh đã thắng quân tiếp viện Ba Lan được gửi tới để giải vây Mát-xcơ-va. Tình hình quân Ba Lan trong vòng vây ngày càng tuyệt vọng, và ngày 27 tháng Mười năm 1612, quân Ba Lan ở Mát-xcơ-va hạ vũ khí đầu hàng.
    Mát-xcơ-va được giải phóng. Tháng Hai năm 1613, hội nghị các chúa đã họp bầu Sa hoàng. Người được bầu là Mi-kha-in Rô-ma-nốp, một đại diện của tầng lớp đại quý tộc cũ ở Mát-xcơ-va. Còn nhân dân vùng Nốp-gô-rốt đã vùng dậy chống lại quân Thụy Điển chiếm đóng. Chính phủ Thụy Điển buộc phải đàm phán với Mát-xcơ-va. Theo hoà ước năm 1617, vùng đất Nốp-gô-rốt được trao trả lại cho nước Nga, nhưng vùng vịnh Phần Lan, lối ra biển Ban-tích duy nhất của nước Nga, vẫn nằm trong tay quân Thụy Điển. Năm sau, mưu toan chiếm lại Mát-xcơ-va bị thất bại, các giới cầm quyền Ba Lan cũng phải ký kết hoà ước với nước Nga. Nhưng Ba Lan vẫn chiếm đóng vùng đất Xmô-len-xcơ.
    Nhân dân Nga đã bảo vệ được chủ quyền độc lập. Trong khi đó, phong trào nhân dân chống bon chiếm đóng Ba Lan và đòi sáp nhập vào nước Nga đã lan rộng ở U-crai-na và Bê-la-rút-xi-a. Phong trào ở U-crai-na do Thống tướng Boóc-đan Khơ-men-nít-xki cầm đầu. Quốc gia Nga đã ủng hộ ông: hội nghị các chúa năm 1653 đã tuyên chiến với Ba Lan. Ngày 8 tháng Giêng năm 1654, đại diện các tầng lớp nhân dân U-crai-na họp hội nghị ở Pê-rê-i-a-xláp và tuyên bố xin nhận quốc tịch Nga. Cuộc đấu tranh đòi sáp nhập đã kết thúc, nhưng chiến tranh với Ba Lan còn kéo dài thêm 13 năm nữa. Theo hoà ước năm 1667, vùng Xmô-len-xcơ được trả lại cho quốc gia Nga. Vùng tả ngạn U-crai-na và Ki-ép được sáp nhập vào nước Nga, vùng hữu ngạn U-crai-na và đất đai Bê-la-rút-xi-a vẫn nằm trong thành phần Rê-tsi Pô-xpô-li-ta, một quốc gia xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ 17 do kết quả của việc hợp nhất hai nước Ba Lan và Lít-va.

    Sau khi Sa Hoàng Mi-kha-in Rô-ma-nốp lên ngôi, chính quyền Nhà nước được khôi phục là một chế độ quân chủ đại diện quý tộc, có Viện Đu-ma của các đại quý tộc và các hội nghị lãnh chúa. Nhưng dưới thời Sa Hoàng thứ hai A-lếch-xây Mi-khai-lô-vích thuộc triều đại Rô-ma-nốp, bộ máy tập quyền được tiếp tục phát triển và củng cố: ngày nay có tới 50 bộ chuyên trách. Sau năm 1653, các hội nghị chúa cũng ngừng hoạt động. Đó là thời gian chuyển từ chế độ quân chủ đại diện quý tộc sang chế độ quân chủ chuyên chế. Các vị trí kinh tế và chính trị của tầng lớp quý tộc được củng cố bằng việc tiếp tục tăng cường chế độ nông nô. Theo luật nông nô năm 1649, nông dân thuộc quyền sở hữu của địa chủ từ khi chào đời cho đến khi chết; địa chủ có thể bắt nông nô bỏ vợ con, ?obán buôn? hoặc ?obán lẻ? nông nô, đổi nông nô lấy một con chó săn hoặc đánh bằng roi vọt; nông nô bỏ trốn bị truy lùng suốt đời và địa chủ có quyền giết nông nô.
    Việc đàn áp nông nô đã dẫn đến các cuộc chiến tranh nông dân mới.
    Cầm đầu cuộc chiến tranh nông dân lần thứ hai là Xtê-pan (Xten-ka) Ra-zin, một nông dân cô-dắc vùng sông Đông. Năm 1670, cuộc khởi nghĩa nông dân này thu được những thắng lợi lớn nhất: Ra-zin tiến từ Sông Đông tới sông Vôn-ga, lần lượt chiếm Txa-rít-xưn, Atrơ-ra-khan, Xa-ra-tốp, Xa-ma-ra và các thành phố khác nằm dọc trên các bờ sông Vôn-ga. Mùa xuân năm 1671, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, Xtê-pan Ra-zin bị bắt và bị đưa về Mát-xcơ-va hành hình.
    Cô-đra-ti Bu-la-vin, người cô-dắc, cầm đầu cuộc chiến tranh nông dân lần thứ ba (1707 ?" 1708) lan rộng hầu hết khắp vung đông nam nước Nga. Ngày 7 tháng Bảy năm 1708, ông bị bọn ********* thuộc tầng lớp cô-dắc giàu giết hại. Nhưng cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp tục được lan rộng. Thậm chí sau khi trung tâm chính của cuộc khởi nghĩa ở vùng sông Đông bị đàn áp, các cuộc nổi dậy của nông dân vẫn tiếp diễn trong ít nhất hai năm sau, cho tới năm 1710.
    Các cuộc chiến tranh nông dân là kết quả của ách áp bức nông nô ngày càng khắc nghiệt. Nhưng lạ thay, chúng lại dẫn tới việc mở rộng và củng cố thêm nền chuyên chế của tầng lớp quý tộc. Vào thế kỷ 18, khi cuộc Cách mạng tư sản ở Pháp giành được thắng lợi, chế độ quân chủ độc đoán của bọ quý tộc và quan chức ở Nga lại được củng cố hoàn toàn. Chế độ này hưng thịnh nhất dưới thời Pi-ốt (Pi-e) đại đế và Nữ hoàng E-ca-tê-ri-na II.

    Pi-ốt (Pi-e) đại đế là nhà cải cách lớn nhất trong lịch sử nước Nga. Dưới thời của Ông, nhiều việc đã được thực hiện theo sáng kiến và dưới sự kiểm tra của Ông. Đó là: thánh lập quân đội thường trực và Hải quân; phát triển công nghiệp đúc sắt và đúc đồng ở vùng U-ral; các cuộc cải cách văn tự và lịch; phát hành tờ báo đầu tiên ở nước Nga; thành lập Viện hàn lâm khoa học; mở hàng loạt trường chuyên nghiệp; thám hiểm các vùng biển Bắc, Xi-bê-ri và Viễn Đông.
    Thắng lợi lừng lẫy của quân đội Nga trong cuộc chiến tranh miền Bắc kéo dài hơn 20 năm cũng là công lao của Pi-ốt đại đế. Kết quả của cuộc chiến tranh này là nước Nga vĩnh viễn có mặt trên vùng bờ biển Ban-tích. Sau thắng lợi này, Viện hành pháp Nga tấn phong Pi-ốt làm Hoàng đế nước Nga (năm 1721). Để chứng thực rằng từ nay nước Nga sẽ không rời khỏi vùng biển Ban-tích, Pi-ốt Đại đế đã cho xây dựng thành phố mới tại cửa sông Nê-va, đặt tên thành phố là Xanh Pê-téc-bua và rời thủ đô Nga tới đó.
    Pi-ốt Đại đế đã kiên quyết tiến hành các cuộc cải cách hành chính. Ông đã thành lập Viện hành pháp là cơ quan quyền lực tối cao; bãi bỏ hệ thống các Bộ cũ và thành lập 12 Bộ mới để quản lý các ngành quan trọng nhất trong nước. Đất nước được chia thành 8 tỉnh (sau đó thành 11 tỉnh), đứng đầu là tỉnh trưởng do Pi-ốt Đại đế chỉ định.
    Nhưng thực chất của xã hội Nhà nước Nga là không thay đổi, bởi vì các cuộc cải cách của Ông vẫn dựa trên cơ sở tăng cường ách áp bức nông nô. Nền đại công nghiệp xuất hiện dưới thời Pi-ốt Đại đế cũng đã xây dựng trên các cơ sở đó: năm 1721, những người không thuộc tầng lớp quý tộc được phép mua nông dân và đưa họ vào làm việc trong các xưởng thợ và nhà máy, nhưng những nông dân này không thuộc sở hữu của chủ xưởng mà là tài sản của Nhà máy. Xuất hiện một loại nông nô mới: ?othợ?.
    Nữ hoàng Ê-ca-tê-ri-na II tự nhận là người thừa kế sự nghiệp của Pi-ốt Đại đế và dựng một tượng đài lớn để kỷ niệm Ông ở Xanh Pê-téc-bua. Tác giả của tượng đài là nhà điêu khắc Phan-cô-ne. Dưới thời nữ hoàng Ê-ca-tê-ri-na II, nước Nga đã thu lại các vùng đất đai Bê-la-rút-xi-a, hữu ngạn U-crai-na, Cuốc-lan-đi-a, Lít-va và miền Tây Vô-lưn. Trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật cũng đã thu được những thành tựu lớn: Mi-kha-in Lô-mô-nô-xốp, một trong những nhà bác học bách khoa lớn nhất của nước Nga, đã hoàn thành các công trình kiệt xuất, nhà thơ Ga-vri-in Đéc-gia-vin có những tác phẩm tuyệt tác.
    Nữ hoàng còn thích tự nhận là địa chủ vùng Ca-dan. Dưới thời Ê-ca-tê-ri-na II, địa chủ được cấp 850.000 nông dân. Địa chủ có quyền bắt nông nô phải lao động khổ sai, còn nông nô bị cấm không được kêu ca về sự hà khắc của chủ nô và nếu làm trái sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Luật nông nô đã phổ biến cả ở U-crai-na.
    Nhăm tiếp tục củng cố chế độ độc tài quý tộc, đất đai trong nước đã được chia lại thành 50 tỉnh. Tất cả các cơ quan và quân đội trong tỉnh thuộc dưới quyền của thống đốc được Nữ hoàng chỉ định. Tầng lớp quý tộc có tất cả các quyền hạn và lợi lộc có tất cả các quyền hạn và lợi lộc đã hình thành vào cuối thế kỷ. Nói riêng, quý tộc phục vụ trong quân đội và cơ quan Nhà nước theo chế độ tình nguyện. Như vậy là từ một đẳng cấp ?ophục vụ?, quý tộc biến thành giai cấp ăn bám có nhiều đặc quyền.
    Bề ngoài, chế độ quân chủ chuyên chế dưới thời Ê-ca-tê-ri-na II là một toà nhà vững chắc hơn bao giờ hết. Nhưng chính thời gian đó là chứng kiến cuộc chiến tranh nông dân lần thứ tư. Đó là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất không chỉ ở nước Nga mà còn ở Châu Âu thời bấy giờ. Cuộc chiến tranh kéo dài gần hai năm. Cầm đầu những người Cô-dắc, nông dân nghèo, công nhân vùng U-ral, các dân tộc bị trị vùng Pô-vôn-gie và Pri-u-ral là thủ thủ lĩnh nông dân Ê-mê-li-an Pu-ga-tsốp. Ông có đội nghĩa binh đông tới 30.000 người. Ngọn lửa khởi nghĩa trùm lên một vùng rộng lớn. Trong những lời kêu gọi nhân dân, Pu-ga-tsốp đã tuyên bố mọi người từ nay ?ovĩnh viễn được tự do? và hô hào nông dân đánh đổ bon địa chủ. Triều đình phải huy động rất nhiều quân lính mới ngăn nổi cuộc tiến công của nghĩa quân tới Mát-xcơ-va. Sau đó các đội quân khởi nghĩa bị thua. Do một vụ phản bội, người cầm đầu cuộc khởi nghĩa bị bắt và nhốt vào trong cũi gỗ đưa về Mát-xcơ-va. Sau khi phải chịu đựng những nhục hình hết sức dã man, Pu-ga-tsốp bị hành hình. Nhưng trong nước cũng đã bắt đầu dấy lên những phong trào đấu tranh đòi bãi bỏ chế độ nông nô. Các nhà khai sáng Nga thế kỷ 18 (I-a-cốp Cô-den-xki; Xê-mi-ôn Đê-nít-xki, Ni-cô-lai Nô-vi-cốp) đã coi việc phổ biến kiến thức là con đường đấu tranh chính chống chế độ nông nô. Việc hình thành tư tưởng cách mạng chống chế độ nông nô gắn liền với tên tuổi A-lếch-xan-đrơ Ra-đi-sép. Sau khi đọc cuốn ?oDu ký từ Pê-téc-bua tới Mát-xcơ-va? của A-lếch-xan-đrơ Ra-đi-sép, trong đó rõ ràng tác giả đòi thủ tiêu chế độ nông nô, Nữ hoàng Ê-ca-tê-ri-na II đã gọi ông là ?okẻ phản nghịch xấu hơn Pu-ga-tsốp?.

    Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ 18 đã nổ ra dưới các khẩu hiệu vĩ đại kêu gọi tự do, bình đẳng, bác ái. Những tư tưởng này cũng ảnh hưởng rõ rệt tới phong trào đòi bãi bỏ chế độ nông nô ở Nga. Nhưng chẳng bao lâu mọi người thấy rõ tính chất hạn chế của tư tưởng cách mạng tư sản. Năm 1812, quân đội của Na-pô-lê-ông tràn vào nước Nga. Trước đó ít lâu, Na-pô-lê-ông tự mình lên ngôi Hoàng đế nước Pháp và ấp ủ tham vọng thôn tính lãnh thổ các nước khác, bởi vì giai cấp tư sản Pháp cần thuộc địa. Chính vì vậy mà cuộc chiến tranh chống Na-pô-lê-ông của nhân dân Nga là chiến tranh giải phóng.
    Năm 1812, không chỉ quân đội Nga do thống chế lừng danh Mi-kha-in Cu-tu-dốp dẫn đầu, mà cả nhân dân Nga với tinh thần anh dũng, quật cường trở thành thần thoại và lòng yêu Tổ quốc vô biên đã đứng ra chống quân đội Na-pô-lê-ông. Ngay trong giai đoạn đầu chiến tranh, khi quân đội Nga buộc phải lùi sâu vào hậu phương, quân đội Pháp đã được chứng kiến lòng căm thù giặc ngoại xâm dâng cao của nhân dân. Trận đánh Mát-xcơ-va diễn ra cực kỳ khốc liệt. 58.000 binh lính Pháp đã bỏ xác trên cánh đồng Bô-rô-đi-nô (cách Mát-xcơ-va 100ki-lô-mét về phía tây). Còn khi Na-pô-lê-ông phải rút khỏi Mát-xcơ-va thì quân Nga bắt đầu truy kích địch. Theo mô tả của đại văn hào Nga Lép Tôn-xtôi, ?ochiếc gậy của chiến tranh nhân dân? đã vung cao với sức mạnh kinh hồn và sát khí đằng đằng. Sau trận huyết chiến trên bờ sông Bê-rê-di-na, ?ođại quân Pháp? trên thực tế bị tiêu diệt hoàn toàn.
  9. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Chiến tranh giải phóng kết thúc, chế độ nông nô ở Nga tăng cường thêm. Nhưng chế độ nông nô tàn bạo đã đến giờ cáo chung: đầu thế kỷ 19 là thời kỷ khủng hoảng của chế độ phong kiến ?" nông nô Nga.
    Một là, cuộc khủng hoảng đó thể hiện rõ trong việc nước Nga ngày càng lạc hậu so với các nước phát triển chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu. Trong thế kỷ 18, nước Nga còn đứng đầu về sản xuất gang. Đầu thế kỷ 19, ngành luyện kim Anh đã vượt nước Nga, và sản lượng gang năm 1860 của nước Anh đã gấp nước Nga 12 lần. Đường sắt giữa Mát-xcơ-va ?" Xanh Pê-téc-bua bắt đầu hoạt động năm 1851, nhưng từ đó đến tận năm 1861 nước Nga mới chỉ có gần 1 nghìn ki-lô-mét đường sắt, trong khi đó mạng lưới đường sắt ở Anh là 15.000 ki-lô-mét, Đức 10.000 ki-lô-mét.
    Hai là, khủng hoảng của chế độ phong kiến ?" nông nô Nga thể hiện qua các cuộc nổi dậy của nông dân cũng như các vụ binh biến ngày càng nhiều làm cho chế độ chuyên chế đặc biệt lo sợ.
    Ba là, cuộc khủng hoảng này thể hiện trong việc phổ biến mạnh mẽ tư tưởng chống chế độ nông nô và chống sa hoàng.
    Tháng Mười hai năm 1825, cuộc nổi dậy đầu tiên chống chế độ sa hoàng đầu tiên đã diễn ra ở nước Nga. Những người cầm đầu cuộc nổi dậy này là các sỹ quan quý tộc có đầu óc tiến bộ. Trong lịch sử, họ được gọi là ?onhững người tháng Chạp?.
    Hội viên các hội kín (những hội lớn nhất là Hội miền Nam ở U-crai-na và hội miền bắc ở Xanh Pê-téc-bua) đã chuẩn bị cuộc nổi dậy tháng Chạp. Họ chủ trương dùng đảo chính quân sự để bãi bỏ chế độ nông nô và thiết lập chế độ quân chủ lập hiến. Cái chết của Sa hoàng A-lếch-xan-đrơ I đã thúc đẩy nhanh chóng cuộc nổi dậy này. Theo kế hoạch của hội miền Bắc, các trung đoàn làm binh biến được giao nhiệm vụ chiếm dinh thự của Sa hoàng là Cung điện Mùa đông, chiếm pháo đài Pê-tơ-rô-páp-lốp và bao vây Viện Hành pháp, buộc Viện này phải công bố bản ?oTuyên ngôn gửi nhân dân Nga?. Văn kiện này công bố việc thủ tiêu chế độ chuyên quyền và luật nông nô. Sáng ngày 14 tháng Mười hai, có tới 3.000 binh sỹ nổi dậy tiến ra quảng trường Xê-nát. Nhưng vì những người lãnh đạo thiếu kiên quyết, binh sỹ nổi dậy đã do dự và không chuyển sang hành động tích cực. Sa hoàng Ni-cô-lai I mới lên ngôi đã kịp đưa quân lính trung thành với chế độ chuyên quyền tới bao vây quảng trường, sau đó dùng đạn ghém bắn vào các đơn vị làm binh biến. 5 người thuộc phái tháng Chạp bị bắt: Pa-ven Pe-xten; Côn-đra-ti Rư-lê-ép; Xéc-gây Di-a-ghi-lép Mu-ra-vi-ốp ?" A-pô-xtôn; Mi-kha-in Be-xtu-giép ?" Ri-u-min và Pi-ốt Ca-khốp-xki sau đó bị kết án tử hình và xử giảo trong pháo đài Pê-tơ-rô-páp-lốp, hơn 100 người khác bị đi đày tới miền Đông Xi-bê-ri hoặc đưa vào lính tham gia cuộc chiến tranh chống các dân tộc vùng núi Cáp-ca-dơ hồi bấy giờ.
    Khó đánh giá được hết ý nghĩa của cuộc nổi dậy tháng Chạp. Những người tháng Chạp đã đánh thức cả một thế hệ, như nhà văn Nga A-lếch-xan-đrơ Ghéc-xen đã nói.
    Một phong trào xã hội đã bắt đầu dâng cao trong nước. Dẫn đầu phong trào này là nền văn học Nga được nhà thơ thiên tài A-lếch-xan-đrơ Pu-skin và đông đảo các nhà văn và nhà thơ cự phách rọi sáng thêm. Nửa đầu thế kỷ 19, nước Nga có thơ của Mi-kha-in Léc-môn-tốp, truyện và kịch của Ni-cô-lai Gô-gôn, những tác phẩm phê bình văn học và chính luận của Vít-xa-ri-ôn Bê-lin-xki. Sau đó vang lên tiếng chuông cách mạng của báo ?oQuả chuông?, tờ báo do A-lếch-xan-đrơ Ghéc-xen phát hành bí mật ở Luân Đôn. Những lời cổ động mạnh mẽ của Ni-cô-lai Tséc-nư-sép-xki trên các trang tạp chí ?oNgười đương thời? của Nhê-cra-xốp đã hoà làm một với tiếng chuông đó. Chúng báo tin các nhà cách mạng dân chủ đang bước vào con đường đấu tranh, bởi vì họ thấy rõ chỉ có cuộc cách mạng nhân dân mới mở ra con đường giải phóng đất nước và do đó đã bỏ ra nhiều sức lực để chuẩn bị cuộc Cách mạng này.
    Trong nước đã xuất hiện tình huống Cách mạng. Chế độ Sa hoàng mưu toan tăng cường ảnh hưởng tới vùng Ban-căng đã làm nổ ra cuộc chiến tranh Crưm với Anh và Pháp. Cuộc chiến tranh này cho thấy rõ tình trạng lạc hậu thê thảm của nước Nga trong thời kỳ đó. Để ngăn ngừa phong trào Cách mạng dâng cao, Chính phủ Sa hoàng buộc phải thực hiện một số cải cách tư sản. Cuộc cải cách chính là tuyên bố ngày 19 tháng Hai năm 1861 về việc bãi bỏ Luật nông nô. Từ đó lịch sử nước Nga bước sang một giai đoạn mới: giai đoạn tư bản chủ nghĩa
  10. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.212
    Đã được thích:
    2.248
    Nốt cho xong.
    Thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa ở Nga (1861 ?" 1917) chia thành hai giai đoạn. Bốn mươi năm đầu là thời gian hình thành hệ thống sản xuất đại công nghiệp. Sản lượng công nghiệp đã tăng hơn 7 lần, đồng thời tỷ trọng các ngành công nghiệp nặng chiếm 30%. Nước Nga đã xấp xỉ ngang bằng nước Pháp trong các ngành khai thác nguyên liệu khoáng, đúc gang, sản xuất thép và chế tạo máy (trước hết là ngành chế tạo các phương tiện vận tải). Ở nước Nga cũng đã hình thành hệ thống tín dụng tín dụng. Các ngân hàng cổ phần lớn là cơ sở của hệ thống này: năm 1875 có 39 ngân hàng, năm 1900 ?" 43 ngân hàng.
    Đến thế kỷ 20, các Công ty độc quyền xuất hiện. Tới năm 1914, hệ thống các hãng độc quyền công nghiệp và ngân hàng gắn bó với nhau được hình thành. Cũng như các nước khác ở Châu Âu và Châu Mỹ, nước Nga bước vào thời kỳ của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nhưng khác với những nước tư bản ?ohàng đầu?, mà trước hết là Anh quốc, các cuộc cải tổ mang tính chất dân chủ tư sản vẫn chưa kết thúc ở Nga. Chế độ ruộng đất mang tính chất nửa nông nô. Cơ sở của chế độ này vẫn là chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, nửa phong kiến như trước. Chế độ Sa hoàng chuyên quyền cũng là tàn tích trực tiếp của thời kỳ trung cổ.

    Vấn đề dân tộc thuộc địa đặc trưng cho mối liên kết phức tạp của các mâu thuẫn. Các biên khu miền Tây nước Nga tuy có trình độ phát triển không thua kém những vùng đất đai Nga cổ xưa, nhưng là đất đai của các dân tộc bị trị. Các biên khu miền Đông ?" Xi-bê-ri, Ca-dắc-xtan, Trung Á, vùng Cáp-ca-dơ chính và Ngoại Cáp-ca-dơ là các thuộc địa. Dân cư các địa phương này chủ yếu là những người từ nơi khác đến và người Nga chiếm tỷ lệ lớn (85% ở Xi-bê-ri và 40% ở Ca-dắc-xtan). Các thủ đoạn bóc lột tư bản chủ nghĩa và phong kiến được áp dụng giống nhau đối với dân sở tại và những người Nga di cư tới. Điều đó cũng xác định vận mệnh giống nhau của các nhóm người lao động chính và hình thành phong trào giải phóng thống nhất, chống chủ nghĩa thực dân, do giai cấp vô sản Nga lãnh đạo.
    Khác với thuộc địa của các nước đế quốc khác, các thuộc địa của nước Nga nằm sát biên giới mẫu quốc, cùng với mẫu quốc tạo thành một quốc gia thống nhất. Điều đó làm cho phong trào giải phóng dân tộc dễ dàng hoà làm một với phong trào đấu tranh toàn Nga chống chế độ Sa hoàng và chủ nghĩa đế quốc.
    Tuyệt đại đa số nhân dân đã quan tâm tới những biến đổi sâu sắc của chế độ kinh tế và chính trị.
    Sau khi bãi bỏ Luật nông nô, phong trào giải phóng ở Nga bước vào thời kỳ Cách mạng dân chủ tư sản, hay là thời kỳ đấu tranh của các tầng lớp phi quý tộc (Các tầng lớp phi quý tộc bao gồm thương gia, tiểu tư sản, lớp thày tu bên dưới và nông dân). Các nhà Cách mạng phi quý tộc mong muốn giúp đỡ nhân dân bước vào con đường dẫn tới cuộc sống công bằng, hạnh phúc được gọi là những người dân tuý.
    Họ coi nông dân là nhân vật chủ yếu trong cuộc đấu tranh giải phóng và công xã nông dân tồn tại ở nước Nga từ thời cổ xưa, trong đó mọi người cùng giải quyết vấn đề sử dụng ruộng đất và có trách nhiệm trước những người cầm quyền về việc nộp thuế kịp thời và làm lao dịch là đặc điểm của đời sống nhân dân, coi đó là sự phôi sinh các quan hệ xã hội chủ nghĩa. Những người dân tuý tin rằng chỉ cần khắc phục những trở ngại ngăn cản sự phát triển tự do của công xã, là trong nước sẽ thiết lập chế độ chủ nghĩa xã hội, một xã hội công bằng.
    Những người dân tuý cũng đã đề nghị chương trình đó với nông dân.
    Năm 1877, cuộc vận động tích cực và ?ochớp nhoáng? kêu gọi phải khởi nghĩa ngay tức khắc để chống chế độ chuyên quyền và địa chủ được tiến hành trong 37 tỉnh ở nước Nga thuộc phần Châu Âu. Nhưng quần chúng nông dân vẫn thờ ơ với những lời kêu gọi đó. Cảnh sát Sa hoàng đã tung 4 nghìn người vào cơ quan mật vụ theo dõi hoạt động của những người dân tuý.
    Cuộc sống đã bắt buộc những người dân tuý phải thay đổi tính chất hoạt động của mình. Năm 1876, hội bí mật ?oRuộng đất và tự do? (trong số những người tổ chức có A-lếch-xan-đrơ Mi-khai-lốp, Ghê-oóc-ghi Plê-kha-nốp, Xô-phi-a Pê-rốp-xcai-a) được thành lập ở Pê-téc-bua. Hội tổ chức hàng loạt chi nhánh để tiến hành hoạt động tuyên truyền đều đặn nhằm mục đích chuẩn bị dần cuộc đấu tranh Cách mạng của nông dân. Nhưng sách lược này cũng không đem lại kết quả. Các nhà Cách mạng bắt đầu bất đồng ý kiến với nhau, hội ?oRuộng đất và tự do? tách thành hai tổ chức riêng rẽ: ?oChia đều các ruộng đất? và ?oDân ý? (năm 1879). Những người tham gia tổ chức ?oChia đều các ruộng đất? do Plê-kha-nốp dẫn đầu vẫn tiếp tục vận động nông dân trong một thời gian nữa. Phái ?oDân ý? dựa vào các thủ đoạn khủng bố để đấu tranh chống Chính phủ Sa hoàng, tin rằng sau khi ám sát được Sa hoàng, nhân dân sẽ nổi dậy làm Cách mạng.
    Ban chấp hành của hội ?oDân ý? đã tổ chức 8 vụ mưu sát Sa hoàng A-lếch-xan-đrơ II, nhưng không thành công. Cuối cùng, ngày 1 tháng Ba năm 1881, Sa hoàng cũng bị giết trong một vụ ám sát bằng bom. Người làm nổ quả bom nỳa I-gơ-na-ti Gri-nê-vít-xki cũng chết.
    Trái với những điều mong đợi của phái ?oDân ý?, vụ ám sát đã không dẫn tới các cuộc nổi dậy chống Chính phủ. Trong thư gửi Sa hoàng A-lếch-xan-đrơ III, những người ?oDân ý? hứa sẽ chấm dứt hoạt động khủng bố, nếu Sa hoàng ra lệnh đại ân xá và triệu tập các đại diện của nhân dân Nga để xét lại các hình thức hiện hành của đời sống xã hội và Nhà nước. A-lếch-xan-đrơ III đã đáp lại những yêu sách đó bằng chính sách khủng bố trắng. Chẳng bao lâu, các ủy viên của Ban chấp hành hội ?oDân ý? bị bắt. Ngày 3 tháng Tư năm 1881, những người lãnh đạo hội và những người tham gia ám sát A-lếch-xan-đrơ II là Xô-phi-a Pê-rốp-xcai-a, An-đrây Giê-li-a-bốp, Ni-cô-lai Ki-ban-tsích, Ti-mô-phây Mi-khai-lốp và Ni-cô-lai Rư-xa-cốp bị xử giảo. Bản Tuyên ngôn của Sa hoàng đã khẳng định tính chất không thay đổi của nền quân chủ chuyên chế. Đất nước bước vào một trong những thời kỳ ********* chính trị tàn nhẫn nhất.

Chia sẻ trang này