1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử bành trướng của Nước Nga

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thanhle2004, 27/12/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Cuộc đấu tranh của công nhân Nga đã đưa phong trào giải phóng đất nước ra khỏi bế tắc do những người ?obạn dân? gây ra.
    Tới cuối thế kỷ 19, giai cấp vô sản Nga đã hình thành. Trong vòng 35 năm, từ năm 1865 đến năm 1900, dân số nước Nga đã tăng gấp rưỡi, còn số người vô sản tăng hơn 3 lần: năm 1865, trong các ngành công nghiệp gia công, mỏ và ngành đường sắt có 700 nghìn người lao động, cuối những năm 70 ?" hơn 1 triệu, đầu thế kỷ 20 ?" hơn 2 triệu. Trong nửa cuối thập kỷ 70, công nhân đã thành lập nên các tổ chức chính trị đầu tiên: Hội liên hiệp công nhân ở miền Bắc Nga (ở Pê-téc-bua) và Hội liên hiệp công nhân miền Nam Nga (ở Ô-đét-xa).
    Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống chủ xưởng mỗi năm một mạnh và có tổ chức hơn. Những năm 60, đấu tranh của công nhân phần lớn thể hiện qua các vụ phản kháng, tức là ít nhiều mang tính chất phản đối rộng rãi nhưng không bãi công. Từ những năm 70, các cuộc đấu tranh của công nhân tăng thêm và chủ yếu là bãi công: công nhân đưa ra những yêu sách với chủ xưởng và ngừng việc. Ví dụ, trong cuộc bãi công năm 1885 ở thành phố Ô-rê-khô-vô ?" Du-e-vô (Tỉnh Vla-đi-mia), 11 nghìn thợ dệt đã đòi ấn định chế độ kiểm tra của Nhà nước đối với mức tiền lương, điều kiện thuê mướn thợ và mức tiền phạt mà chủ xưởng hồi đó kiếm đủ mọi cớ để khấu trừ tiền lương của thợ, tức là cứ mỗi rúp bị ăn bớt từ 30 đến 50 cô-pếch. Chính phủ buộc phải nhân nhượng và ban bố những luật lệ tương ứng.
    Do kết quả đấu tranh của giai cấp vô sản, trong nước bắt đầu hình thành Luật lao động. Tới nửa đầu thập kỷ 90, bãi công được tổ chức cùng một lúc trong vài ba xí nghiệp và hình thức này giữ vị trí nổi bật trong phong trào công nhân. Xuất hiện những điều kiện để phát triển phong trào công nhân rộng rãi. Các đại diện xuất sắc của giới trí thức Nga đã rời bỏ chủ nghĩa xã hội nông dân của những người ?obạn dân? để đến với chủ nghĩa xã hội của giai cấp vô sản do Các Mác và Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen sáng lập.
    Năm 1880, tránh sự truy lùng gắt gao của mật vụ và cảnh sát Sa hoàng, Plê-kha-nốp và những người khác trong nhóm ?oChia đều các ruộng đất? (Pa-ven Ác-xen-rốt, Vê-ra Da-xu-lợi ích, Lép Đây-sơ, Va-xi-li I-gơ-na-tốp) đã rời ra nước ngoài. Hai năm sau, tác phẩm mang tính cương lĩnh của Các Mác và Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen ?oTuyên ngôn Đảng Cộng sản? do Plê-kha-nốp dịch ra tiếng Nga đã được phát hành (bản gốc tiếng Đức được công bố 1848). Plê-kha-nốp và các đồng chí của ông đã thành lập nhóm mới ?oGiải phóng lao động? (1883). Nhóm này tuyên bố công khai rằng họ hoàn toàn đoạn tuyệt với các trào lưu tự do vô chính phủ cũ. Nhóm ?oGiải phóng lao động? cọi nhiệm vụ chính của mình là phê phán các học thuyết dân tuý và phổ biến tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học.
    Chủ nghĩa Mác tách thành một trào lưu tư tưởng độc lập trong xã hội Nga. Tiếp theo nhóm ?oGiải phóng lao động?, các tổ nhóm mác-xít xuất hiện ở Pê-téc-bua, Ca-dan và nhiều thành phố khác. Những tổ nhóm này bắt đầu hoạt động tuyên truyền trong các nhóm công nhân tương đối nhỏ. Nhóm mác-xít của Mi-kha-in Bru-xnhép (thành lập năm 1889) được tổ chức cuộc biểu tình công nhân đầu tiên ở Nga và tổ chức kỷ niệm ngày 1 tháng Năm đầu tiên của công nhân Pê-téc-bua (năm 1891).
    Nhờ có hoạt động của nhóm ?oGiải phóng lao động?, các cơ sở của thế giới quan dân chủ - xã hội được xây dựng ở Nga.
    Nhưng đó chỉ là những cơ sở. Còn việc ứng dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn nước Nga và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thời đại lịch sử mới thuộc về Lê-nin, thiên tài của giai cấp vô sản toàn thế giới
    (bỏ 1 đoạn về tiểu sử của Lê-nin)
    Năm 1902
    Sinh viên Nga bãi khoá
    Ngày 4/2/1902, hơn 30.000 sinh viên Nga đã biểu tình bãi khoá. Họ được các giáo sư thuộc đảng Tự do hỗ trợ. Nguyên nhân đầu tiên là do vấn đề chính trị học đường mà ra. Ngày 22/12/1901 , tướng Vannovski, Bộ trưởng bộ Giáo dục đã ra lệnh cho các sinh viên phải gia nhập các hội đoàn sinh viên do chính phủ thành lập và kiểm soát. Do đó sinh viên không còn được tự do theo đuổi chính kiến riêng của mình nữa.

    Năm 1904
    Nhật vây cảng Lữ Thuận của Nga
    Ivan Pavlov được nhận giải thưởng Nobel về y học
    Ivan Pavlov người Nga,nghiên cứu về tiêu hoá đã được giải thưởng Nobel ngày 10/12/1904 về Y học. Pavlov là Giáo sư tại trường Đại học Quân sự Xanh-Pê-téc-bua, ông đã khai triển lí thuyết,theo đó loài vật trong vài trường hợp có thể có những tập tính nào đó.Sau đây là thí nghiệm của Pavlov: Trong nhiều ngày liên tiếp, mỗi khi đem đĩa thức ăn cho chó, ông đều rung một hồi chuông. Sau đó mỗi khi nghe thấy chuông rung là con chó tự dưng chảy nước dãi ra dù không đem đồ ăn đến. Hiện tượng chảy nước dãi kéo dài tới 6 tháng sau nữa mới dứt.
    Trước ngày Nga tuyên chiến với Nhật,Nhật bất ngờ đánh chiếm cảng Lữ Thuận mà Nga đã thuê của Trung Quốc từ năm 1898 và do tướng Nga Stoessel trấn giữ.Đô đốc hải quân Nhật là Togo đã mau lẹ tập trung binh sĩ trong một thời gian kỉ lục để vây hãm Port Arthur rồi chuẩn bị đổ bộ.Nga hoàng tin tưởng vào hạm đội hùng hậu của mình.Hạm đội này do Đô đốc hải quân Rodjestvenski chỉ huy.Nga hoàng tin rằng đủ sức chống Nhật.
    Cuộc chiến Nga-Nhật ở cảng Lữ Thuận
    Vùng cảng Lữ Thuận đã bị bao vây hoàn toàn ngày 27/11/1904.Người Nhật đã bất ngờ vào tận vũng tàu của cảng Lữ Thuận trong đêm tối tấn công,mở đầu cho cuộc chiến tranh Nhật-Nga.Trong sáu năm liền,người Nga đã xây cất những đồn phòng thủ rất kiên cố.Tướng Kondratenko với 50.000 binh sĩ đã cố thủ ở cảng Lữ Thuận.
    Cuộc chiến tranh Nga - Nhật đã làm cho cuộc Cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất ở nước Nga diễn ra nhanh hơn. Nhật Bản đã gây ra cuộc chiến tranh này: ngày 26 tháng Giêng năm 1904, hạm đội Nhật Bản bất ngờ tấn công hạm đội Nga ở cảng Lữ Thuận. Cuộc chiến tranh này đối với cả hai nước là cuộc chiến tranh đế quốc, nhằm chiếm vùng Mãn Châu Lý.
    Binh lính và thuỷ thủ Nga không hoan nghênh cuộc chiến tranh này, nhưng họ vẫn chiến đấu kiên cường, thể hiện chủ nghĩa anh hùng và sức chịu đựng bền bỉ trong các trận chiến trên đất liền cũng như trên mặt biển. Quân Nhật đã tổ chức bốn đợt tấn công cảng Lữ Thuận vào tháng Tám, tháng Chín, tháng Mười và tháng Mười một năm 1904, và các trận đánh nhỏ diễn ra hàng ngày. Mặc dù các chiến sỹ bảo vệ cảng đã chiến đấu dũng cảm nhưng ngày 20 tháng Mười hai năm 1904, sau 157 ngày bị vây hãm, phe đầu hàng chủ nghĩa đã nộp pháo đài cho Nhật. Nửa năm sau, lần đọ sức cuối cùng của chế độ Sa hoàng trong cuộc chiến tranh này cũng bị thua nốt: ngày 14 tháng 5 năm 1905, trong eo biển Triều Tiên gần đảo Txu-xi-ma, hải quân Nhật đã tiêu diệt hạm đội Nga được phái từ biển Ban-tích tới vùng Viễn Đông. Ngày 23 tháng Tám năm 1905, một hoà ước được ký tại Posmouth (Hoa Kỳ). Theo Hoà ước này, nước Nga bị mất cảng Lữ Thuận, miền nam đảo Xa-kha-lin và công nhận những quyền lợi ưu tiên của Nhật ở Triều Tiên. Cuộc chiến tranh đã chỉ rõ tính chất lạc hậu, thối nát của chế độ Sa hoàng.

    Năm 1905
    Tháng Giêng.
    Ngay Chủ Nhật đẫm máu
    Ngày 22/1/1905 là ngày chủ nhật đẫm máu ở Xanh ?" Pê-téc-bua. Giáo chủ Gapone dẫn đầu đoàn biểu tình ôn hoà gồm 30.000 công nhân đến cung điện Mùa Đông của Nga hoàng để trình lên nhà vua một đơn thỉnh nguyện cải cách chính trị và xã hội.Ông còn yêu cầu ngoài việc cải cách điền địa để giúp đỡ dân nghèo,phải cho dân có người đại diện và cần bãi bỏ chế độ kiểm duyệt cũng như nên có thái độ khoan dung đối với tôn giáo.Thoạt tiên chính quyền có ý chần chừ chưa hứa hẹn gì để làm vừa lòng những người biểu tình cả.Bỗng một tiếng súng nổ và bắt đầu một cuộc đàn áp thẳng tay.Quân đội do công tước Xec-gây chỉ huy giải tán đám biểu tính.Hơn 1.000 người ngã gục.Cuộc tàn sát này đã đi vào lịch sử với tên là"Ngày Chủ Nhật đẫm máu".Nó huỷ diệt lòng tin kính cẩn của đa số thợ thuyền đối với Nga hoàng.Khắp nước nổi lên những làn sóng biểu tình, bạo động ,đình công.
    Tháng 3
    Nga thua Nhật
    Cuộc chiến tranh Nga-Nhật đã chấm dứt và Nga bị thua nặng. Lính của Nga hoàng dù chiến đấu rất mãnh liệt cũng phải bỏ thành phố Moudken. Sự thiệt hại về quân số của cả hai bên rất lớn: Nhật mất 50.000 người còn Nga 92.000 đã tử trận và mất tích.
    Tháng 5
    Hải quân Nga bị thất bại ở Tsushima
    Hải quân Nga đã bị Nhật đánh tan ở eo biển Tsushima.Hải quân Nhật do đô đốc Togo chỉ huy đã hơn hẳn Nga về vũ khí,binh sĩ được huấn luyện kĩ và tràn đầy tinh thần yêu nước.Nhật mất 116 người,trong khi Nga có 5.000 binh lính tử trận và mất tích cùng 6.000 người bị bắt làm tù binh.Trong số 38 chiếm hạm của Nga thì hơn 20 chiếc bị đánh đắm,6 chiếc đầu hàng , còn lại chạy trốn vào các hải cảng của quốc gia trung lập.Đô đốc Nga là Rojdestvenski bị thương và bị bắt làm tù binh.trong trận này,Nhật Bản tuyên bố mạnh hơn Nga trên mặt biển và đã chiến thắng Nga.Hải quân Nga hoảng sợ quay về các hải cảng của Nga như Crondalt,Sebastopol và Odessa,xông vào đập các tiệm buôn và tấn công các sĩ quan để trả thù bại trận.
    Tháng Sáu năm 1905, thuỷ thủ trên chiếc thiết giáp hạm ?oPô-tem-kin? đã làm binh biến. Đó là cuộc đấu tranh đầu tiên của quân đội và hải quân. Tháng Mười một năm 1905, một cuộc binh biến lớn của thuỷ thủ và binh lính nổ ra ở Xê-vát-xtô-pôn. Xô-viết đại biểu công nhân, thuỷ thủ và binh lính đã lãnh đạo phong trào.

  2. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Tháng 7
    Nhật Bản chiếm Xa-kha-lin của Nga
    Tướng Liapunov của Nga đầu hàng quân đội Nhật Bản.Từ ít lâu nay cuộc chiến tranh Nga-Nhật đang được thảo luận để đi tới hoà bình.Muốn có thế mạnh trên bàn hội nghị,Nhật đem quân tiến đánh đảo Sakhalin của Nga và chỉ vài tuần lễ sau đã chiếm được,Ngày 7/7/1905 quân Nhật đã đổ bộ lên gần Korsakovsk.Sau đó họ đánh chiếm các đồn nhỏ mà binh lính Nga không chống cự nổi phải chạy về phương Bắc.Ngày 25/7/1905 quân đội Nhật Bản đã chiếm được A-lếch-xan-đrơovsk một cách dễ dàng.
    Tháng 8
    Nga hoàng Ni-cô-lai II và chế độ quân chủ lập hiến
    Ngày 14/8/1905 Ni-cô-lai II vua nước Nga thành lập chế độ quân chủ lập hiến.Nhà vua tuyên bố là Đại hội quốc gia chỉ có tính chất tư vấn chứ không phải lập pháp và sẽ được bầu một cách hạn chế và gián tiếp.Theo chiếu chỉ của một Uỷ ban do Bulyguine,Bộ trưởng bộ Nội vụ cầm đầu, sẽ tổ chức Đại hội.Văn bản được đưa ra cho hội đồng nội các thảo luận, nhưng các hội viên Hội đồng hàng tỉnh lại đòi Đại hội quốc gia phải do cuộc phổ thông đầu phiếu bầu lên.Chương trình này còn bị đảng Tự do và đảng cộng sản Bôn sê vích kêu gọi dân chúng tảy chay.
    Tháng 9
    Hoà ước Nga - Nhật
    Sau khi mất cảng Lữ Thuận, quân đội Nga lại gặp nhiều thảm hoạ.Moukden bị chiếm vài tháng trước.Hạm đội Ban tích của Nga được chuyển sang Viễn Đông.Sau một cuộc đi vòng đường biển mât 7 tháng rưỡi, hạm đội Nga đã bị tiêu diệt tại eo biển Tsushima.Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt đứng ra làm trung gian hoà giải với Nga gửi người sang Mỹ để thương thảo với Nhật.Thấy Nhật mạnh, các cường quốc Tây phương làm áp lực để những điều khoản đối với Nga bớt khắc nghiệt.Nhật chiếm lại cảng Lữ Thuận và đường xe lửa Mãn Châu, còn Nga bỏ ý định lấy Triều Tiên và đảo Xa-kha-lin. Hoà ước được kí ngày 5/9/1905 chấm dứt chiến tranh Nga - Nhật.
    Tháng Mười
    Tổng đình công tại Nga
    Muốn đánh đổ chính thể quân chủ chuyên chế,cuộc tổng đình cồn tại Nga đã lan rộng.Có đến 2.000.000 người tham gia và Uỷ ban Xô Viết được thành lập ở mọi nơi.Có thể nói đây là cuộc đình công lớn nhất trên thế giới,nhà chức trách đàn áp thẳng tay, nhưng rồi sau lại phải nhượng bộ.Bá tước Xec gây Witte,Thủ tướng chính phủ đã đưa ra một chương trình cải cách gọi là "Tuyên ngôn ngày 17/10". Theo đó Nga hoàng hứa sẽ thi hành quyền tự do công dân và tổ chức bầu cử để thành lập quốc hội lập pháp. Để đánh lạc mục tiêu, cảnh sát tìm cách hạ sát những người Do Thái và những nhà cách mạng.
    Ngày 9 tháng Giêng năm 1905, Sa hoàng Ni-cô-lai II đã ra lệnh cho quân lính nổ súng vào đoàn biểu tình của công nhân Pê-téc-bua không có vũ khí trong tay trong ?oNgày chủ nhật đẫm máu?. Phong trào Cách mạng lên mạnh trong năm 1905. Trong phong trào này đã xuất hiện các Xô-viết đại biểu công nhân, tức là chính quyền nhân dân chân chính kiểu mới, tiền thân của cơ quan quyền lực Nhà nước sau này được thành lập ở Liên Xô. Thoạt đầu, các Xô-viết được thành lập để lãnh đạo các phong trào bãi công, sau đó trở thành cơ quan lãnh đạo của các cuộc khởi nghĩa vũ trang. Xô-viết đại biểu công nhân đầu tiên do thợ dệt thành phố I-va-nô-vô Vô-dơ-nê-xen-xcơ thành lập. Tới cuối năm 1905, gần 70 Xô-viết đã xuất hiện trong các thành phố của đế chế Nga.
    Do phong trào đấu tranh của công nhân và binh lính Nga lên cao, ngày 17 tháng Mười năm 1905 Sa hoàng đã phải ký bản tuyên ngôn hứa thành lập viện Đu-ma lập pháp (nghị viện) và không một đạo luật nào sẽ có hiệu lực nếu không được Đu-ma thông qua. Đồng thời Sa hoàng Ni-cô-lai II cho thành lập đội ngũ cảnh sát mật ?oTrăm đen? để đàn áp các phong trào phản kháng Cách mạng. Chỉ trong vòng hai đến ba tuần, hơn 10 nghìn người đã bị giết và bị thương trong 100 thành phố.
    Chế độ Sa hoàng đồng thời cũng gây ra cuộc nội chiến. Thợ mỏ vùng Đôn-bát nổi dậy. Khởi nghĩa ở thành phố Rô-xtốp trên sông Đông kéo dài 8 ngày; ở Nô-vô-rô-xi-xcơ ?" 2 tuần. Công nhân nhà máy Xoóc-mô-vô (gần Ni-giơ-nưi Nốp-gô-rốt, sau này đổi tên là thành phố Goóc-ki), vìng U-ral, các thành phố Crát-xnôi-át-xcơ, Tsi-ta đã chiến đấu trên các chiến luỹ đường phố.
    Ở Mát-xcơ-va, cuộc tổng bãi công chính trị mở đầu ngày 7 tháng Mười hai năm 1905 theo lời kêu gọi của thành uỷ Mát-xcơ-va Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga và Xô-viết đại biểu công nhân Mát-xcơ-va đã biến thành cuộc khởi nghĩa. Chiến luỹ xuất hiện khắp nơi trong thành phố. Khu Pre-xnhi-a, khu phố tập trung nhiều người vô sản nhất Mát-xcơ-va, là trung tâm cuộc khởi nghĩa. Các đội công nhân vũ trang đã ngăn chặn cuộc tấn công của quân đội chính quy. Các đơn vị cận vệ của Sa hoàng đã không chiếm nổi khu Pre-xnhi-a. Những người khởi nghĩa bị bao vây và chịu những cuộc tấn công cả bằng đại bác. Lực lượng chênh lệch đã khiến cho Xô-viết Mát-xcơ-va phải ra quyết nghị chấm dứt cuộc đấu tranh vũ trang.
    Khởi nghĩa Mát-xcơ-va là đỉnh cao của cuộc Cách mạng Nga lần thứ nhất, còn kéo dài đến năm 1907 mới chấm dứt.
    Sau khi cuộc Cách mạng bị đàn áp, đất nước Nga bước vào giai đoạn Xtô-lư-phin (Tên của Thủ tướng Nga lúc đó).

    Năm 1907
    Tháng Hai
    Nhà bác học Nga Men-đê-lê-ép qua đời
    Vài ngày trước lễ sinh nhật thứ 73, nhà hoá học Nga Men-đê-lê-ép đã từ trần tại Xanh - Pê-téc-bua. Năm 1896 ông đã thiết lập ra bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, được bổ sung do các cuộc khám phá về sau, là một công cụ rất cần thiết cho học tập và nghiên cứu. Tiêu chuẩn của bảng tuần hoàn là theo thứ tự mỗi ngày một lên cao của số lượng nguyên tử, làm thay đổi những tính chất hoá học của những nguyên tố đã xếp hạng.
    Tháng Năm
    Nga bài trừ nạn thất học
    Ngày 17/5/1907 Bộ trưởng bộ Giáo dục Nga Peter Von Kauffmann đã trình bày trước nghị viện Nga: Theo các bản thống kê thì chỉ có 29% thanh niên và 13% phụ nữ Nga biết đọc và biết viết. Để đạt được mục tiêu mà trước đây vua Nga Pi-e Đại đế đã đề ra: Giáo dục không phải là đặc quyền của giới thượng lưu mà cần nhằm vào yêu cầu của quần chúng, ngân sách giáo dục được tăng lên 7 lần.

    Năm 1908
    Tháng Mười
    Áo thôn tính Bốt-xnhia
    Áo, Hung và Nga tranh giành ảnh hưởng tại miền Ban-căng, một thùng thuốc súng có thể nổ tung bất cứ lúc nào tại châu Âu. Bị thua Nhật ở Viễn Đông, Nga muốn được đền bù lại bằng cách kết thân với những người Xla-vơ để tìm ra đường biển. Tại đây Nga lại đụng phải đế quốc Áo - Hung và phong trào quốc gia Xla-vơ ở miền Nam như Croatia, Slovenia, Bosnia... Ngày 5 tháng Mười năm 1908 Áo thôn tính Bosnia làm cho tình hình miền Ban-căng không yên. Nga xui Serbia phản kháng nhưng Pháp khuyên vua Pierrer nên tự kiềm chế, để khỏi xảy ra chiến tranh.

    Năm 1910
    Tháng Mười một
    Nhà văn Lép Tôn-xtôi chết trong hiu quạnh
    Chán chường danh vọng, ưa thích yên tĩnh, đại văn hào Nga Lép Tôn-xtôi ngày 10 tháng Mười một năm 1910 đã bí mật trở về trang trại Pô-li-a-na để tạm xa cuộc đời, xa bạn bè thân thuộc. Sau đó người ta tìm thấy Tôn-xtôi nằm chết ở nhà Át-xta-pô-rô ngày 20 tháng Mười một. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu đậm đến văn chương Xla-vơ cũng như văn chương Phương Tây. Đó là một cuộc tìm kiếm, suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống cũng như chân lí tuyệt đối. Tôn-xtôi công kích xã hội qua các tác phẩm bất hủ như: Chiến tranh và Hoà bình, Anna Ka-rê-ni-na...

    Năm 1913
    Tháng Mười một
    Nga hoàng tiêu huỷ các tác phẩm của Tôn-xtôi
    Ngày 21 tháng Mười một năm 1913 tại Xanh Pê-téc-bua theo lệnh của Nga hoàng, người ta đã tiêu huỷ 22 cuốn sách của đại văn hào Tôn-xtôi đã đề cập đến các vấn đề tôn giáo và xã hội. Họ kết tội mặc dù Tôn-xtôi đã chết năm 1910 nhưng di cảo của ông vẫn còn gây độc hại. Lúc sinh thời,Tôn-xtôi vẫn công khai chỉ trích chính quyền và giáo quyền của nước ông là hay lạm dụng quyền thế và thường che giấu, nói dối. Nga hoàng cho rằng Tôn-xtôi đã làm gương xấu cho giới trẻ vẫn coi ông như thần tượng chỉ vì ông đã đả kích xã hội đương thời về các vấn đề quyền tư hữu,chế độ nông nô, chính quyền bợ đỡ người giàu và nhà thờ thì quá phục tùng Nhà nước.

    Năm 1914
    Tháng Mười
    Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ tiến đánh Nga
    Không tuyên chiến, quân đội Thổ Nhĩ Kì ném bom xuống hải cảng của Nga ở vùng Hắc hải. Hải quân Thổ Nhĩ Kì gồm có hai chiến hạm mua lại của Đức đã lọt qua những trạm canh phòng của Pháp và Anh trên Địa Trung Hải mà không bị phát hiện. Sau đó những chiến hạm này phong toả eo biển Đác-đa-nen (Darnadelles), không cho tàu bè ở biển Ê-giê (Égée) liên lạc với biển Mác-ma-ra (Marmara) nữa. Bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Thổ Nhĩ Kì Enver Pacha là người thân Đức, ra lệnh cho Hải quân Thổ Nhĩ Kì tấn công đế quốc Nga. Sự hung hãn của Thổ Nhĩ Kì đã khiến cho Nga, Anh, Pháp cũng phải tuyên chiến với Thổ Nhĩ Kì ngày 28 tháng Mười năm 1914.

    Đặc điểm chung tình hình đất nước Nga năm 1914 (khi tham gia cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất):
    Trong số 170 triệu người sống trên lãnh thổ nước Nga ở phần đất thuộc châu Âu (diện tích 5,4 triệu ki-lô-mét vuông) có 136 triệu người. Phần đất đai này tập trung những vùng công nghiệp chủ yếu (về trình độ sản xuất công nghiệp hồi đó, nước Nga giữ vị trí thứ 5 thế giới sau Mỹ, Anh, Đức, Pháp, nhưng vượt trên nước Nhật), phần lớn các tuyến đường sắt, các trung tâm văn hoá chính.
    Phía đông dãy U-ral có diện tích 17 triệu ki-lô-mét vuông, nhưng chỉ có hơn 33 triệu người sinh sống. Những người dân di cư từ các nơi khác tới đây chủ yếu làm nghề trồng trọt, còn các dân tộc gốc địa phương (Ca-dắc, I-a-cu-ti, Bu-ri-a-ti) về căn bản đại diện cho các bộ lạc du mục. Như vậy nước Nga bao gồm những vùng có trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa cao và những vùng thuộc địa, nửa thuộc địa lạc hậu cả về mặt chính trị và kinh tế.
    Nền khoa học Nga cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã thu được những thành tựu xuất sắc: những công trình nghiên cứu của trường phái toán học Páp-nu-ti Tsê-bư-sép, của nhà cơ học Mát-xcơ-va do ?othuỷ tổ? ngành hàng không Nga Ni-cô-lai Giu-cốp-xki dẫn đầu, nghiên cứu của **i-tơ-ri Men-đê-lê-ép phát hiện ra định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học? Các thí nghiệm của I-van Xê-tse-nốp và I-van Páp-lốp có tác dụng đẩy mạnh học thuyết về hoạt động thần kinh cao cấp của người. Nhà bác học Cli-men Ti-mi-ri-a-dép đã thu được những thành tích tuyệt vời trong việc phát hiện thực chất của quá trình quang hợp. Và không thể không nhắc đến những phát triển thiên tài của Vla-đi-mia I-lích Lê-nin trong nghiên cứu chủ nghĩa Mác ?" Ăng-ghen và nghiên cứu về Chủ nghĩa đế quốc: các tác phẩm của Người là: ?oSự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nga? (năm 1899) ?" phân tích sâu sắc sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nước Nga; ?oChủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán? (năm 1909) - một giai đoạn phát triển nổi bật trong lịch sử triết học; "Chủ nghĩa Đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" (năm 1915 ?" 1916)?
    Thời kỳ này, văn học nghệ thuật Nga có đại diện các phương hướng và trường phái khác nhau làm phong phú thêm kho tàng văn học thế giới. Chủ nghĩa hiện thực đã thể hiện rõ trong tác phẩm của các nhà văn lớn nước Nga: Lép Tôn-xtôi và I-van Tuốc-ghê-nhép, Phê-đo Đốt-xtôi-ép-xki và An-tôn Tsê-khốp, Vla-đi-mia Cô-rô-len-cô và Mắc-xim Goóc-ki. Ni-cô-lai Nhê-cra-xốp đã dẫn đầu nền thơ ca trong những năm 60 và 70 của thế kỷ 19. Giữa hai thế kỷ, thơ của A-lếch-xan-đrơ Blốc xoay quanh đề tài: nhân dân, trí thức, Cách mạng? Trong bầu không khí đầy dông tố của đầu thế kỷ 20, một linh cảm của những biến cố lớn đã ảnh hưởng nhiều đến văn học nghệ thuật nước Nga. Nửa cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 cũng là thời gian phát triển rộng các truyền thống của nhạc sỹ Mi-kha-in Glin-ca, nhạc sỹ có những tác phẩm có tính dân tộc sâu sắc nhưng cũng phản ánh những thành tựu cao nhất của nền văn hoá châu Âu. Những nét này cũng đặc trưng cho các nhạc sỹ nhóm ?oHùng vĩ? (Mô-đe-xtơ Mu-xoóc-xki, A-lếch-xan-đrơ Bô-rô-đin, Ni-cô-lai Rim-xki ?" Coóc-xa-cốp) và Pi-ốt Tsai-cốp-xki, người để lại di sản có ảnh hưởng lớn đến các nhạc sỹ lỗi lạc Xéc-gây Di-a-ghi-lép Rát-xma-ni-nốp và A-lếch-xan-đrơ Gla-du-nốp. Hình thành nghệ thuật nhạc sân khấu mới: các ca kịch trữ tình ?" bi thảm của Tsai-cốp-xki, nhạc kịch dân tộc của Mu-xoóc-xki, ca kịch thần thoại của Rim-xki ?" Coóc-xa-cốp. Đồng thời những đặc điểm của trường phái thanh nhạc Nga cũng bộc lộ trong các nghệ sỹ: Phê-đo Sa-li-a-pin, An-tô-ni-na Nê-giơ-đa-nô-va, Lê-ô-nhít Xô-bi-nốp. Ma-ri-út Pê-ti-pa, Lép I-va-nốp, A-lếch-xan-đrơ Goóc-xki, Mi-kha-in Phô-kin dựng những vũ kịch mang tính chất thời đại trong lịch sử vũ ba-lê.
    Lịch sử hội hoạ cuối thế kỷ 19 Nga được đánh dấu bằng những đột phá của các hoạ sỹ trẻ do I-van Cram-xkôi vượt qua sự bảo thủ của Viện hàn lâm hội hoạ. Trường phái này có được nhiều hoạ sỹ tiêu biểu như: I-li-a Rê-pin, Ni-cô-lai I-a-rô-sen-cô, Va-xi-li Pe-rốp, Va-xi-li Xu-ri-cốp, Vích-to Va-xne-xốp? mà tác phẩm của họ đã được người sưu tầm nhiều công lao Pa-ven Tơ-rết-chi-a-cốp lưu giữ cho quốc gia
  3. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Năm 1915
    Tháng Bảy
    Tác phẩm "Chủ nghĩa Đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" của Lê-nin
    Ngày 2 tháng Bảy Lê-nin viết xong cuốn "Chủ nghĩa Đế quốc - giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản". Lê-nin giải nghĩa chủ nghĩa Đế quốc qua năm tiêu chuẩn kinh tế cơ bản. Đó là sự độc quyền, sự lấn át của tư bản tài chính, sự xuất cảng tư bản, sự cấu tạo những thử thách quốc tế và sự phân chia thế giới ra thành các đế quốc. Ở đó Lê-nin đưa ra thuyết: Chủ nghĩa tư bản thối nát mở đầu cho cuộc cách mạng xã hội trên thế giới.
    Tháng Tám
    Quân đội Đức đánh chiếm Vac sa va rồi đánh Nga
    Ngày 5 tháng Tám năm 1915, quân đội Đức đánh chiếm Vác-xa-va và hai tuần sau đánh vào phòng tuyến Nga rồi chiếm luôn thành phố Brest - Litovsk. Chỉ có 5 tháng mà mặt trận miền Đông đã hoàn toàn thay đổi. Khi quân Nga tiến vào Xi-lê-di thì Đức rút quân ở mặt trận miền Tây về để lập một đơn vị mới tăng cường cho mặt trận miền Đông dài 2.000 ki-lô-mét. Ba Lan và Litva đều bị chiếm đóng. Tính ra sau một năm chiến tranh đã có 3.000.000 lính Nga bị chết hoặc bị bắt làm tù binh. Mặc dù bị thua đậm, Nga hoàng vẫn bác bỏ những đề nghị hoà bình của vua Đức.

    Trong cuộc chiến tranh này, nước Nga Sa hoàng đứng về phía Đồng Minh (liên minh quân sự chiến lược của Anh và Pháp chống Đức và đế quốc Áo ?" Hung). Những năm tháng đầu tham gia chiến tranh, nước Nga bị thua trận ở Đông Phổ, tuy có chiếm được vùng Ga-lít-xi-a, nhưng tới năm sau lại mất hầu hết đất đai Ga-lít-xi-a, Ba-Lan, một phần đất đai vùng Ban-tích và Bê-la-rút-xi-a. Mùa hè năm 1916, quân đội Nga dưới quyền chỉ huy của A-lếch-xây Bru-xi-lốp đã chiếm Bu-cô-vi-na và vùng Tây Ga-lít-xi-a, buộc quân đội Áo ?" Hung phải lùi tới những đèo ngang ở dãy núi Các-pát. Ở mặt trận Cáp-ca-dơ, quân Nga đã thắng lớn trong các trận đánh với quân Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng bước ngoặt lớn trong chiến tranh vẫn không diễn ra. Nước Nga Sa hoàng phải chuẩn bị đối phó với những diễn biến mới của cuộc chiến tranh, không chỉ ở mặt trận mà còn ở hậu phương: sản xuất vũ khí, quân trang tới giữa năm 1916 đạt tới mức tối đa hạn chế sự phát triển các ngành công nghiệp và giao thông vận tải dân sự. Trong nước thiếu lương thực gay gắt, cuộc khủng hoảng đã bộc lộ rõ sự nghèo nàn của toàn bộ mọi mặt đời sống nước Nga.

    Năm 1917
    Tháng Giêng
    Hỗn loạn ở nước Nga
    Tình hình nội bộ của Nga rất hỗn loạn. Quân đội bắt đầu chống lại cấp chỉ huy. Nga hoàng ở ngoài mặt trận giao việc trị nước cho Hoàng hậu và một lũ nịnh thần. Đại sứ Pháp báo về nước là Hoàng hậu Nga không bình thường và bất lực, bất tài. Thấy vậy một phái đoàn đồng minh tới tận Pê-trô-grát (tên mới của thành phố Pê-téc-bua từ đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất) để xem xét tình hình và đề nghị Nga hoàng phải lập một chính phủ mới có uy tín với quốc dân.Nga hoàng không nghe nên hỗn loạn xảy ra.Chủ tịch quốc hội Nga cảnh báo với Nga hoàng rằng:"Đừng để cho dân chúng lựa chọn giữa Hoạng thượng và Tổ quốc".Nga hoàng im lặng.Vì thế nên Rodziankd , chủ tịch Quốc hội nhất quyết tìm cách lật đổ Nga hoàng từ đầu năm 1917.
    Tháng Ba
    Cách mạng tháng Hai
    Chính phủ và cảnh sát Pê-trô-grát không giữ nổi trật tự công cộng nữa. Đình công biểu tình và xung đột vũ trang lan rộng ra các thành phố khác, Nga hoàng Ni-cô-lai II hoãn phiên họp Đu-ma. 200 thợ ở Pê-trô-grát đình công toàn diện.Ngày 10 tháng Ba năm 1917, tức 2 tháng Hai theo lịch Nga cũ, Ni-cô-lai II ra lệnh cho Quân đội dẹp đình công, nhưng binh sĩ không nghe,lại đứng về phe thợ thuyền.Ngày 12/3 chủ tịch Đuma xin nhà vua triệu tập cơ quan hành pháp ngay. Nhà vua không nhượng bộ. Đuma tự động họp rồi tuyên bố Đuma không giải tán. Không cần được sự đồng ý Đuma lãnh trách nhiệm chấp hành. Các Nghị sĩ tự do, xã hội, tư sản của các đảng phái lớn thành lập uỷ ban chấp hành quốc sự. Các công xưởng, trại lính ở Pê-trô-grát và Mát-xcơ-va đều tự động lập ra chính quyền cách mạng. Tại tổng hành dinh ở Pơ-xcốp, Nga hoàng hoàn toàn bất lực. Quân đội nổi loạn ở khắp nơi. Ngày 15 tháng Ba, Nga hoàng uỷ cho hoàng thân Lvov và bá tước Michel lập chính phủ nhưng cả hai người đều từ chối vì quyền hành bây giờ đều ở Uỷ ban chấp hành của Đu-ma. Đến ngày 16 tháng Ba chủ tịch Đuma công bố danh sách các bộ trưởng, ân xá cho tất cả tù nhân chính trị, cho phép tự do báo chí và hội họp, xoá bỏ mọi phân chia gia cấp. Trước hoàn cảnh đó, vua Ni-cô-lai II buộc phải thoái vị.
    Từ tháng Mười năm 1916, chỉ riêng ở Pê-tơ-rô-grát đã có 250 nghìn người tham gia bãi công. Chính mùa hè năm đó đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của nhân dân vùng Trung Á và Ca-dắc-xtan, các cuộc chống đối của nông dân tăng thêm. Phong trào quần chúng chống chiến tranh và chống chế độ Sa hoàng đã lan rộng sang cả các đơn vị quân đội: ngoài mặt trận, binh lính từ chối tấn công, có nhiều trường hợp lính Nga và lính Đức cùng đoàn kết để phản chiến.
    Đất nước lại đứng trước cuộc Cách mạng mới. Cuộc Cách mạng đã nổ ra ngày 23 tháng Hai (ngày 8 tháng Ba theo lịch mới) năm 1917. Bãi công của công nhân nhà máy Pu-ti-lốp lớn nhất ở Pê-tơ-rô-grát đã được hàng nghìn công nhân các nhà máy khác ủng hộ. Chiều hôm đó, những người biểu tình xuất hiện trên đại lộ Nhép-xki, đường phố chính của thủ đô. Sinh viên và viên chức đoàn kết với họ. Ngày 25 tháng Hai, cuộc tổng bãi công bắt đầu. Sáng 26 tháng Hai, binh lính ngả về phía quần chúng khởi nghĩa. Ngày hôm sau, Xô-viết đại biểu công nhân và binh sỹ Pê-tơ-rô-grát họp trong cung điện Ta-vri. Nhưng vì thời gian đó có nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích còn ở nước ngoài, trong tù và nơi đi đày, cho nên đại diện của các đảng tiểu tư sản đã nắm quyền lãnh đạo Xô-viết. Đường lối của họ được xác định theo sơ đồ cũ: ?ochính quyền thay thế chế độ Sa hoàng phải là chính quyền tư sản?. Đêm ngày 27 rạng ngày 28 tháng Hai, việc thành lập Ủy ban lâm thời của Đu-ma Nhà nước được công bố chính thức. Đại diện của tất cả các phái trong Đu-ma, trong đó có những người xã hội ?" cách mạng và men-sê-vích (phái cực hữu) đã tham gia Ủy ban này. Ban lãnh đạo Xô-viết do những người men-sê-vích và xã hội ?" cách mạng nắm giữ và nhường quyền thành lập Chính phủ cho Ủy ban lâm thời và chỉ giữ lại quyền kiểm soát chính sách mà họ đưa ra. Ngày 2 tháng Ba, Chính phủ lâm thời được thành lập. Đêm ngày 2 rạng sáng ngày 3 tháng Ba, trước các sự kiện diễn biến nhanh chóng, Sa hoàng Ni-cô-lai II phải tuyên bố thoái vị.
    Ngày 27 tháng Ba năm 1917, Lê-nin rời Thụy Sỹ là nơi Người sống từ năm 1914 để tránh sự truy nã của chính quyền Sa hoàng, và trở về nước để lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Cách mạng tháng Hai năm 1917 lật đổ chế độ Sa hoàng đã tạo nên một tình huống chưa từng thấy trong lịch sử thế giới: được Lê-nin xác định là chế độ hai chính quyền song song: trên hình thức, Chính phủ lâm thời tư sản nắm giữ quyền lực Nhà nước, nhưng quần chúng nhân dân làm Cách mạng đã thành lập cơ quan quyền lực riêng - Xô-viết đại biểu công nhân và binh lính.
    Tối 3 tháng Tư, Lê-nin đứng trên xe bọc thép phát biểu tại quảng trường ga Phần Lan (Pê-tơ-rô-grát), trước nhân dân và binh lính ra đón Người, trình bày những vấn đề cơ bản sau này sẽ được thể hiện trong bản Luận cương tháng Tư.
    Tháng Tám, Lê-nin sống tại hồ Ra-dơ-líp (Phần Lan) tránh sự truy nã gắt gao của Chính phủ lâm thời trong vòng 112 ngày.

    Tháng Mười
    Ảnh hưởng của Đảng Bôn-sê-vích lan rộng
    Chính phủ Nga của thủ tướng A-lếch-xan-đrơ Kê-ren-xki vẫn không tiếp tế nổi cho các thành thị như Pê-trô-grát và Mát-xcơ-va. Do đó ảnh hưởng của đảng Cộng sản ngày càng lan rộng tới giới thợ thuyền và giới nhà binh. Từ trước, Đảng Cộng sản vẫn còn thiểu số thì lúc này đã nắm đa số trong các Uỷ ban Xô viết thợ thuyền và binh lính ở thủ đô. Ngoài ra các cuộc đình công của thợ thuyền, các cuộc nổi dậy của nông dân, các cuộc biểu dương đòi hoà bình đã đạt được thắng lợi. Nhân dân trông đợi Đảng Cộng sản sẽ đứng ra làm cuộc cách mạng vào ngày 21 tháng Mười khi lãnh tụ Lê-nin về nước.
    Lê-nin trở lại Pê-trô-grát
    Ngày 21 tháng Mười Lê-nin hoá trang bí mật từ hồ Ra-dơ-líp (Phần Lan), nơi ông tới trú ngụ từ tháng Tám, đã trở về Pê-trô-grát. Trong thời gian lưu vong, Lê-nin đã soạn thảo chương trình một cuộc cách mạng và ghi rõ chủ trương của Người trong cuốn"Nhà nước và Cách mạng". Ông khai triển ý của Các Mác cho rằng nhà nước chỉ là công cụ thống trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác.Theo Lê-nin, những người lãnh đạo đảng Cộng sản phải chỉ rõ cho dân chúng biết con đường xã hội và cần giành chính quyền bằng vũ lực. Đảng phải cướp lấy chính quyền để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
    Tháng Mười một
    Đảng Bônsêvích nắm giữ chính quyền
    Ngày 7 tháng Mười một (theo lịch Nga cũ là 25 tháng Mười) Hồng quân do Lép Trốt-xki chỉ huy đã vào thành phố Pê-trô-grát và đóng giữ mọi nơi hiểm yếu. Thủ tướng A-lếch-xan-đrơ Kê-ren-xki chạy trốn trong xe của Đại sứ quán Mĩ. Các bộ trưởng đều bị bắt giữ. Có 6 binh sĩ tử trận. Đến 22h Trốt-xki tuyên bố: "Chính phủ lâm thời của Nga hoàng đã bị lật đổ. Chính quyền từ nay được chuyển sang Uỷ ban quân nhân Cách mạng. Sẽ thành lập chính phủ Cộng sản để truất bỏ quyền tư hữu đất đai và kiểm soát thợ thuyền làm việc sản xuất". Lê-nin khai mạc Hội nghị kì II. Đảng Bônsêvích chưa nắm được đa số nhưng việc Kê-ren-xki chạy trốn đã khiến cục diện thay đổi hoàn toàn. Lê-nin muốn các đại biểu chấp nhận việc xây dựng một đất nước xã hội chủ nghĩa, chấm dứt ngay chiến tranh và truất quyền tư hữu của những tay đại phú. Các đại biểu không cộng sản từ chối việc ban bố vội vàng, không sửa soạn trước những sắc lệnh về tương lai của quốc gia. Họ phản kháng bằng cách bỏ phòng họp đi ra ngoài. Sau những cuộc tranh cãi dữ dội ,những đại biểu ở trong phòng hội nghị đều vỗ tay tán thành việc thành lập nhà nước Xô Viết dưới quyền của hội đồng Uỷ viên nhân dân. Lãnh đạo hội đồng này là lãnh tụ Lê-nin. Kể từ giờ phút đó, toàn thể nước Nga đã trở thành một nước theo chế độ cộng sản chủ nghĩa ở châu Âu.
    Cuộc khởi nghĩa ở Pê-tơ-rô-grát diễn ra nhanh chóng và hầu như không có đổ máu, nhưng đấu tranh vũ trang ở Mát-xcơ-va diễn ra căng thẳng và ác liệt trong vòng bảy ngày, vì phe Chính phủ nắm được một số đơn vị binh lính, các học sinh trường hạ sỹ quan. Chính quyền Xô-viết được thành lập ở Mát-xcơ-va đêm 2 rạng ngày 3 (ngày 16) tháng Mười một.
    Ngày 7 tháng Mười một, Đại hội Xô-viết toàn Nga lần thứ hai đã khai mạc tại Điện Xmôn-nưi. Sắc lệnh thứ nhất mà Đại hội thông qua, Sắc lệnh về hoà bình, coi chiến tranh là một ?otội ác lớn nhất đối với loài người?, nước Nga rút khỏi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sắc lệnh thứ hai, công bố việc trao tất cả ruộng đất cho nhân dân không có bồi thường bất kỳ một khoản nào hết.
    Ngay ngày 8 tháng Mười một, để thực hiện Sắc lệnh về hoà bình, Chính phủ Xô-viết đề nghị Chính phủ các nước tham chiến ngồi vào bàn đàm phán. Tiếp đó là những đề nghị như vậy được gửi cho Chính phủ các nước Anh, Mỹ, Pháp. Nhưng từ phía đồng minh không có phản hồi, nước Đức thì sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán. Cuộc đàm phán này bắt đầu ngày 20 tháng Mười một tại Brest ?" Li-tốp-xcơ và dẫn tới việc ký kết hiệp định đình chiến để vạch thảo những điều kiện của hoà ước. Những điều kiện phía Đức đưa ra rất nặng nề: nước Nga phải nhượng cho phía Đức một vùng đất đai rộng lớn, trong đó có toàn bộ lãnh thổ U-crai-na, một phần đất đai Bê-la-rút-xi-a và vùng biển Ban-tích. Các nước Đồng minh vẫn cố tình làm ngơ trước tình hình bất lợi cho Chính phủ Xô-viết non trẻ trên bàn đàm phán. Chính phủ Xô-viết buộc phải đồng ý, trong tình trạng quân đội mặt trận tan rã, kinh tế đất nước tan hoang. Nhưng người cầm đầu phái đoàn Xô-viết là Lép Tơ-rốt-xki lại tuyên bố: ?onước Nga Xô-viết không ký hoà ước chấm dứt chiến tranh và giải ngũ quân đội? và bỏ dở cuộc đàm phán (Ngày 28 tháng Giêng năm 1918). Ngày 18 tháng Hai năm 1918, quân đội Đức mở cuộc tấn công trên toàn tuyến mặt trận, đất nước lâm nguy. Hội đồng dân uỷ đã kêu gọi nhân dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Bắt đầu thành lập các đơn vị Hồng quân chính quy. Cùng với các đội Cận vệ đỏ, các đơn vị chính quy ở Pơ-xcốp, Na-rơ-va và Rê-ven đã ra sức ngăn chặn quân Đức đang tiến về Pê-tơ-rô-grát. Công nhân và nông dân U-crai-na, Bê-la-rút-xi-a đã chiến đấu ngoan cường chống quân xâm lược. Nước Đức dự tính nhanh chóng đánh bại nước Nga Xô-viết nhưng đã không đạt được mục tiêu. Năm 1919, để kỷ niệm những ngày động viên nhân dân lao động đứng ra bảo vệ Tổ quốc và những trận đánh đầu tiên của Hồng quân, đã ấn định ngày lễ mới: ngày 23 tháng Hai hàng năm: Ngày Hồng quân ?" Ngày bảo vệ Tổ quốc.
    Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản, Hội đồng dân ủy và Ban chấp hành trung ương toàn Nga đã quyết định chấp nhận những điều kiện ký hoà ước của Đức. Ngày 3 tháng Ba năm 1918, Hoà ước được ký kết với những điều kiện hết sức nặng nề với nước Nga. Nhưng đất nước rất cần có hoà bình để lấy lại sức lực.
  4. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Mùa xuân năm 1918, chính quyền Xô-viết được thành lập khắp nước Nga: từ Bạch hải tới Hắc hải, từ biên giới phía Tây tới bờ biển Thái Bình Dương.
    Mùa hè năm 1918, Đại hội Xô-viết lần thứ năm đã thông qua Luật cơ bản đầu tiên: Hiến pháp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết Liên bang Nga, ghi nhận thắng lợi của Cách mạng, quyền bình đẳng hoàn toàn của các dân tộc, biến ruộng đất và các tư liệu sản xuất chủ yếu (nhà máy, ngân hàng, giao thông đường sắt và đường thuỷ) thành tài sản của nhân dân.
    Từ ngày 12 tháng Ba năm 1918, Mát-xcơ-va trở thành thủ đô của Nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử loài người.
    Tháng Ba năm 1918, hải quân Anh đổ bộ lên Muốc-rơ-man-xcơ; thoạt đầu là quân đội Nhật, sau đó là quân đội Mỹ vào Vla-đi-vốt-xtốc; quân đội Anh xâm nhập vùng Trung Á và vùng Ngoại Cáp-ca-dơ; quân đội của Hoàng đế Đức chiếm đóng U-crai-na, Bê-la-rút-xi-a và vùng biển Ban-tích; các lực lượng chính của bạch vệ (sỹ quan cũ của Sa hoàng, bọn địa chủ) tập trung ở miền Đông, giữ các thành phố Tsê-li-a-bin-xcơ, Ca-dan, Pen-da, Xim-biếc-xcơ, Xa-ma-ra (sau đổi thành Cui-bư-sép), vùng Trung Nga có những trung tâm công nghiệp chính bị tách khỏi các cơ sở nguyên liệu, nhiên liệu và lương thực.
    Mùa thu năm 1918, Hồng quân đã tấn công mạnh ở mặt trận hướng đông và đẩy lùi địch về bên kia dãy U-ral.
    Thời gian này nước Đức đầu hàng các nước Đồng Minh, chiến tranh kết thúc.

    Năm 1919
    Các nước Đồng Minh tăng cường sự can thiệp quân sự vào nội bộ nước Nga: vũ trang và hậu thuẫn cho lực lượng xung kích 40 vạn quân của đô đốc Sa hoàng cũ A-lếch-xan-đrơ Côn-tsắc. Tới đầu năm 1919, quân đội Côn-tsắc đã chiếm được những vùng rộng lớn của Xi-bê-ri và U-ral; tháng Ba, quân Bạch vệ Côn-tsắc bắt đầu tìm cách tiến tới sông Vôn-ga. Nhưng ngay trong tháng Tư, Hồng quân tổ chức phản công mạnh và tới mùa hè thì quân đội của đô đốc Côn-tsắc bị đập tan ở vùng giữa hai sông Tô-bôn và I-rơ-tư-sơ.
    Được khối Đồng Minh nâng đỡ, quân đội của tướng An-tôn Đê-ni-kin chỉ huy tìm cách tiến đánh Mát-xcơ-va.
    Tháng Mười
    Giai đoạn thắng lợi của Hồng quân
    Hồng quân đã có khả năng giải phóng nước Nga. Đoàn quân tình nguyện Bạch vệ do các tướng Ni-cô-lai Y-u-đê-ních và Rodzianko chỉ huy đã tới cửa ngõ Pê-trô-grát lại có hải quân Anh ở vịnh Phần Lan yểm trợ. Bằng những nỗ lực phi thường, Hồng quân đã ngăn được cuộc tấn công và đến giữa tháng Mười một thì chúng bị đánh bại hoàn toàn.
    Các đội tiên phong của tướng An-tôn Đê-ni-kin chỉ còn cách Mát-xcơ-va chừng 300 ki-lô-mét. Cuộc chiến thắng đã gần kề. Bất ngờ tình thế đã đảo ngược. Ngày 20 tháng Mười năm 1919, Đê-ni-kin thua chạy vì Hồng quân do Tướng Ê-gô-rốp chỉ huy đã phản công lại rất mãnh liệt. Ô-rel, Vô-rô-ne-dơ và Cuốc-xcơ đều về tay Hồng quân. Binh lính Bạch vệ thua chạy toán loạn. Một tuần lễ sau, Trốt-xki thắng tướng Y-u-đê-ních và rượt theo cánh quân này đến tận Ét-xtô-ni-a. Thấy Hồng quân trên đà thắng lợi, hạm đội của Anh liền rời vịnh Phần Lan và chuyển hướng về Riga, hải cảng của Litva thuộc vùng Ban-tích. U-ral lọt vào tay Hồng quân cùng với thành phố Cuốc-xcơ. Đây là giai đoạn toàn thắng của Đảng Cộng sản Nga.

    Năm 1920
    Mùa xuân năm này, các nước Đồng Minh lại tăng cường can thiệp, các lực lượng thù địch của chính quyền Xô-viết liên kết nhằm mở cuộc tấn công toàn diện hòng đè bẹp nước Nga Xô-viết: quân đội của nước Ba-Lan tư sản địa chủ tràn vào từ hướng Tây, quân đội Bạch vệ của tướng Pi-ốt Vrăng-ghen - từ hướng Nam. Đã được tôi luyện trong các trận đáng trước đó, Hồng quân đã hành động quyết liệt và chính xác. Mùa hè, Hồng quân đập tan quân đội Ba Lan do thống chế Pin-xút-xki chỉ huy, còn tới cuối tháng Mười, dưới sự chỉ huy của Mi-kha-in Phrun-de, Hồng quân đã đánh chiếm Pê-rê-cốp và giải phóng vùng Crưm. Bây giờ Hồng quân có thể giúp đỡ tích cực cho các dân tộc vùng Trung Á, Ngoại Cáp-ca-dơ và tới năm 1922 thì quét sạch quân Nhật khỏi vùng Viễn Đông. Đất nước dần thoát khỏi cuộc nội chiến, bị tàn phá nặng nề nhưng bảo vệ được nền độc lập.

    Sản lượng công nghiệp năm 1920 của nước Nga chỉ chiếm 14% so với năm 1913, năm phát triển kinh tế thuận lợi nhất của nước Nga trước Cách mạng. Vùng mỏ than Đôn-bát bị tàn phá hoàn toàn, các lò đúc gang vùng U-ral ngừng hoạt động, giao thông đường sắt bị tê liệt vì các đầu máy hơi nước và toa tàu bị hỏng hết; nạn đói và bệnh tật hoành hành dữ dội. Tình hình cực kỳ khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, Lê-nin đã đề ra kế hoạch điện khí hoá toàn quốc, gọi tắt là GOELRO. Thực hiện kế hoạch này đòi hỏi toàn thể nhân dân Nga phải có một lòng dũng cảm và sự nỗ lực to lớn. Nền kinh tế của Nga bắt đầu được phục hồi và phát triển, nhân dân đã tham gia phục hồi đất nước với một nỗ lực chưa từng thấy.


    Năm 1921
    Mùa xuân năm 1921, chính quyền Xô-viết chuyển sang chính sách ?ocộng sản thời chiến? với chế độ trưng mua lương thực thừa trong những năm nội chiến sang chính sách kinh tế mới.
    Tháng Ba
    Lê-nin đưa ra đường lối kinh tế mới (NEP). Bước đầu tiên của chính sách này là thay thế chế độ trưng mua lương thực bằng thuế lương thực được ấn định rõ ràng. Nông dân có thể bán tất cả nông sản thừa, trực tiếp ở chợ hoặc thông qua hợp tác xã thu mua.
    Tình hình kinh tế ở nước Nga Xô Viết khủng hoảng trầm trọng, thu hoạch mùa màng sút kém hẳn. Sản xuất công nghiệp cũng bị giảm từ 10 đến 15% so với thời bình. Tại Đại hội Đảng lần thứ 10, ngày 12 tháng Ba năm 1921, Lê-nin đưa ra một đường lối mới về kinh tế là trả lại nông dân một phần ruộng đất cùng với những chính sách kinh tế trao đổi thị trường thay thế cho đường lối kinh tế hiện vật thời chiến theo kinh tế tư bản.
    Tháng Tám
    Nạn đói ở Nga
    Vla-đi-mia I-lích Lenin ngày 2 tháng Tám năm 1921 đã khẩn cấp kêu gọi các công nhân ở những quốc gia kĩ nghệ hãy mau trợ giúp nước Nga Xô Viết đang bị nạn đói đe doạ vì mất mùa liên tiếp.21 triệu người sẽ phải rời bỏ vùng đất Volga và miền Nam nước Nga vì ở đó không còn hạt giống để trồng trọt nữa.Bộ trưởng Heber Hoover của Mĩ đề nghị giúp đỡ một triệu trẻ nhỏ và những người tàn phế.Một nhà ngoại giao Nauy là Nansen tới Mát-xcơ-va để vận động thành lập một tổ chức quốc tế cứu đói.Đồng thời ở Berlin cũng có 1 uỷ ban cứu trợ công nhân do những nhân vật nổi tiếng thế giới về khoa học và văn học như Albert Einstein, Geogre Bernard Shaw... thành lập.

    Năm 1922
    Tháng Mười hai
    Thành lập Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết
    Đế chế Nga là một đế quốc thống nhất, trên cơ sở sự thống trị bằng bạo lực, chèn ép những đặc thù dân tộc. Chính quyền Xô-viết đã công bố ?oTuyên ngôn về quyền lợi của các dân tộc ở Nga?, công bố quyền bình đẳng và chủ quyền, quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền tách rời và thành lập Nhà nước riêng đồng thời bãi miễn mọi đặc quyền và hạn chế về mặt dân tộc cũng như tôn giáo dân tộc. Tư tưởng của Lê-nin, là xây dựng một Nhà nước Xô-viết Liên bang dựa trên mối quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc cũ của đế chế Nga.
    Ngày 31 tháng Mười hai (ngày 18 theo lịch cũ) năm 1917, đáp lại lời đề nghị của Chính phủ Phần Lan, Hội đồng dân ủy Nga ?ohoàn toàn tán thành những nguyên tắc của quyền dân tộc tự quyết? đề nghị với Ban chấp hành Trung ương toàn Nga công nhận độc lập về mặt Nhà nước của nước Cộng hoà Phần Lan; ngày 22 tháng Mười hai năm 1917 (ngày 4 tháng Giêng năm 1918), Ban chấp hành trung ương toàn Nga phê chuẩn quyết định này.
    Tới cuối cuộc nội chiến, trên lãnh thổ đế chế Nga Sa hoàng cũ đã xuất hiện 6 nước Cộng hoà Xô-viết: Liên bang Nga, U-crai-na,Bê-la-rút-xi-a, A-déc-bai-dan, Ác-mê-ni-a, Gru-di-a. Các nước cộng hoà này đã cùng nhau đoàn kết trong cuộc nội chiến chống quân Bạch vệ và can thiệp nước ngoài. Đó là cơ sở của liên minh quân sự giữa các nước Cộng hoà. Tháng Hai năm 1922, các nước Cộng hoà Xô-viết đã uỷ nhiệm cho Liên bang Nga tham gia hội nghị kinh tài quốc tế ở Giên và thay mặt họ ký hiệp ước và hiệp định với bất kỳ nước nào. Tháng Tư năm 1922, chính ở Giên, đoàn đại biểu Xô-viết đã thay mặt toàn thể 6 nước Cộng hoà Xô-viết đưa ra đề nghị tổng giải trừ quân bị, chung sống hoà bình và hợp tác kinh tế cùng có lợi giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau.
    Mùa xuân năm 1922, các nước Cộng hoà A-déc-bai-dan, Ác-mê-ni-a và Gru-di-a ký kết hiệp ước thành lập Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết Liên bang ngoại Cáp-ca-dơ. Ít lâu sau Liên bang này cùng với ba nước Cộng hoà còn lại thể hiện mong muốn thành lập một nước Cộng hoà Liên bang thống nhất.
    Ngày 23 tháng Mười hai năm 1922, Đại hội Xô-viết toàn Nga lần thứ 10 đã khai mạc tại Nhà hát lớn Mát-xcơ-va, với 488 đại biểu của các nước Cộng hoà U-crai-na, Bê-la-rút-xi-a, Liên bang Ngoại Cáp-ca-dơ tham gia với tư cách là khách mời. Nghị quyết đại hội này nêu rõ: ?oCông nhận việc hợp nhất Liên bang Nga, U-crai-na, Bê-la-rút-xi-a, Liên bang Ngoại Cáp-ca-dơ thành Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô-viết là hành động kịp thời?.
    Ngày 30 tháng Mười hai năm 1922 đại hội Xô Viết các liên bang - tất cả các đại biểu đó - lại họp tại Mát-xcơ-va đã thành lập Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô). Nước Nga Xô Viết thắt chặt mọi liên lạc với các nước cộng hoà Xô Viết U-crai-na, Bê-la-rút-xi-a và ba nước Cộng hoà ở Cáp-ca-dơ là Gru-di-a, Ac-mê-ni-a và A-déc-bai-dan. Việc thành lập Liên Xô thành một tổ chức liên bang cùng cuộc cách mạng thế giới khiến cho có thể mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi rộng rãi và tạo ra thế tăng trưởng và phát triển nhanh. Tháng Giêng năm 1923, Đại hội đã thông qua bản Tuyên ngôn và Hiệp ước liên minh, văn kiện về sau làm cơ sở cho việc xây dựng Hiến pháp Liên bang Xô-viết.
  5. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Năm 1923.
    Tháng Bảy: Hiến pháp Liên Bang Xô Viết.
    Ngày 6/7/1923, Hiến pháp liên bang Xô Viết bắt đầu có hiệu lực. Ngoài hình thức là liên bang, nhưng nội dung thì lại là tập trung. The lí thuyết, các nước cộng hoà có quyền rút khỏi liên bang, nhưng lại thống nhất về đường lối ngoại giao, hoạch định kinh tế và phòng vệ lãnh thổ. Cơ quan trên hết là Hội đồng Xô Viết tối cao. Cơ quan này chọn Uỷ ban hành pháp và Chủ tịch. Công việc chính quyền đều do Hội đồng uỷ viên giải quyết.

    NĂM 1924
    Ngày 20 tháng Mười một năm 1922, tại Nhà hát Lớn Mát-xcơ-va, Lê-nin phát biểu lần cuối cùng. ?o?Chúng ta đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hàng ngày, và chúng ta phải tìm hiểu cuộc sống hàng ngày. Đó là nhiệm vụ lúc này, đó là nhiệm vụ của thời đại chúng ta. Cho phép tôi kết thúc bằng cách biểu thị lòng tin tưởng rằng cho dù nhiệm vụ đó rất khó khăn, rất mới mẻ so với nhiệm vụ cũ và gây ra rất nhiều khó khăn, tất cả chúng ta, trong khoảng vài năm chứ không phải ngày mai, tất cả chúng ta sẽ hoàn thành bằng được nhiệm vụ đó??
    Tháng Giêng: Lê-nin từ trần.
    Nhà cách mạng Vla-đi-mia I-lích U-li-a-nốp tức Lê-nin, người thành lập ra nước Nga Xô Viết, đã từ trần tại Goóc-ki, gần Mát-xcơ-va vào ngày 21 tháng Giêng năm 1924. Lê-nin mất lúc mới 54 tuổi nhưng đã ngừng hoạt động từ tháng 3 năm 1923 vì bị liệt nửa người.
    Hội nghị Xô Viết dành một ngày để tổ chức tang lễ cho Lê-nin. Thành phố Pê-trô-grát được đổi tên thành Leningrad và sinh quán của ông là Simbirk cũng được đổi tên thành U-li-a-nốp-xcơ.Tại các thành phố lớn đều dựng tượng đài để kỉ niệm Lê-nin. Thi hài của Lê-nin đặt trong lăng ở Quảng trường Đỏ tại Mát-xcơ-va.

    Năm 1927.
    Tháng 12: Trốt-xki bị loại.
    Sau khi Lê-nin mất, sự bất đồng quan điểm giữa Trốt-xki với Xta-lin lại càng sâu sắc.Từ năm 1923, Trốt-xki đã chống lại chủ trương kinh tế của Xta-lin.Sang năm 1924, Trốt-xki lại lên án tính chất quan liêu và thiếu dân chủ của đảng.Trong các đại hội đảng năm 1924 và 1926, Trốt-xki và những người cùng quan điểm lại bị khai trừ khỏi đảng.

    Năm 1928.
    Năm bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
    Toàn thế giới theo dõi quy mô xây dựng công nghiệp của nhân dân Nga và sau này là nhân dân Liên Xô. Trong những năm của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 ?" 1932), đã hoàn thành kế hoạch GOELRO của Lê-nin. Nhà máy thuỷ điện Đniépr được xây dựng và đưa vào khai thác. Năm 1932, tổng công suất của tất cả các nhà máy điện Liên Xô đạt 4,6 triệu ki-lô-oát, bảo đảm đáp ứng được ¾ mức tiêu thụ điện của toàn ngành công nghiệp. Trong nền kinh tế quốc dân, đã xuất hiện những ngành mới: chế tạo ôtô, máy kéo, máy công cụ, động cơ máy bay và máy bay. Những chuyển biến rõ rệt cũng diễn ra trong nỗ lực công nghiệp hoá các vùng biên khu lạc hậu, bắt đầu bằng việc xây dựng Nhà máy liên hợp U-ral ?" Cu-dơ-bát, nhà máy cung cấp cho đất nước một khối lượng kim loại ngang với sản lượng năm 1913 của tất cả các lò cao ở Nga. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, 1500 xí nghiệp lớn của ngành công nghiệp được xây dựng mới.

    Năm 1929.
    Đại hội lần thứ 15 Đảng cộng sản (b)[2] Liên Xô đã ấn định những nét chung trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 ?" 1932).
    Tháng 5 năm 1929, Đại hội Xô-viết toàn Liên Bang đã xét duyệt dự thảo trên.
    Tháng Tám: Tác giả vũ điệu balê Nga không còn nữa.
    Giới khiêu vũ và những người ham thích điệu múa ba lê đều đau buồn thương tiếc Xéc-gây Di-a-ghi-lép 57 tuổi, vừa từ trần ở Vơ-ni-dơ (I-ta-li-a) ngày 19/8/1929. Xéc-gây Di-a-ghi-lép ở Nga vừa là nhà phê bình nghệ thuật, vừa là ông bầu cho các đoàn ca vũ.Ông đã tổ chức lần đầu tiên cuộc triển lãm những tác phẩm của những hoạ sĩ thuộc trường phái ấn tượng Pháp. Tại hí viện Sa-tơ-lê (Chatelet) năm 1909, khán thính giả đã khám phá ra tài nghệ tuyệt vời của Xéc-gây Di-a-ghi-lép trong vũ balê, mặc dầu ông không phải là vũ công, cũng không phải là nhạc sĩ.

    Năm 1930.
    Cuộc Cách mạng văn hoá được tiến hành song song với các nỗ lực xây dựng kinh tế. Chiều tối, cứ sau một ngày lao động vất vả hàng triệu người lại ngồi vào bàn học. Năm 1930, trong nước áp dụng chế độ bắt buộc tiểu học, sau đó là chế độ trung học 7 năm phổ cập. Giảng đường các trường Đại học tổng hợp và chuyên nghiệp tiếp nhận các học sinh mới hôm qua còn là công nhân, nông dân, binh lính Hồng quân, họ tới giảng đường sau khi đã kết thúc các lớp học bổ túc.
    Kế hoạch GOELRO còn là công lao của các nhà khoa học Xô-viết: trong những năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm, các cuộc nghiên cứu khoa học ở Bắc Băng Dương và vùng Xi-bê-ri (các đoàn thám hiểm trên các tàu thuỷ ?oTsê-liu-xkin?, ?oGhê-oóc-ghi Xê-đốp?, tại Trạm băng trôi ?oBắc cực 1?) đã được toàn thế giới công nhận, các chuyến bay xa phá các kỷ lục về tốc độ, về tầm bay của máy bay Xô-viết,
    Tháng Sáu: Xta-lin và nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô.
    Ngày 26/6/1930, Xta-lin, lãnh tụ Đảng Cộng sản Liên Xô đã đọc diễn văn dài 10 tiếng đồng hồ tại hội nghị trung ương Đảng lần thứ 16. Sau đó Xta-lin loại trừ Trốt-xki và thanh trừng những người chống đối trong nội bộ Đảng CS. Thật ra thì từ 1927 đã có 6.500 đảng viên thân Trốt-xki bị kết tội phản quốc và bị đầy đi vùng Xibiri. 34.000 đảng viên khác bị cho là có tư tưởng hữu khuynh nên đã bị bắt buộc phải từ chức, rời bỏ những chức vụ quan trọng trong bộ máy của Đảng CS Liên Xô.
    Tháng Mười một: Liên Xô tố cáo Pháp.
    Những tin tức từ Liên Xô cho biết là đang có một vụ án chống phá cách mạng của một đảng gọi là Đảng Kĩ nghệ.Có 8 phạm nhân bị tố cáo đã dự phần vào những hoạt động của một nhóm khủng bố được Pháp chi viện và đang xâm nhập vàp Liên Xô từ ngày 25 tháng Mười một. Công tố viên chỉ đích danh các Bộ trưởng Pháp như Raymond Poincaré và Aristide Briand đã giật dây bọn này rồi sửa soạn để can thiệp. Nhiều lần trong bản cáo trạng còn cho biết là những hoạt động bí mật phá hoại đều do Bộ chỉ huy Quân đội Pháp sắp đặt.

    Năm 1932.
    Tháng Mười: Xta-lin thanh trừng nội bộ
    Chiến dịch khai trừ phe đối lập trong nội bộ Đảng CS Liên Xô do Xta-lin cầm đầu vẫn tiếp diễn. Một lãnh tụ Bôn-sê-vich là M.N.Ri-tu-nin có ý định tập hợp những người đối lập với Xta-lin vào thành một phe. Sau đó Ri-tu-nin lại cho lưu hành một tài liệu dày chừng 200 trang, cực lực lên án Xta-lin là độc tài, là đi sai đường của Đảng. Thế là cả hai chục đảng viên cao cấp có liên lạc trực tiếp với Ritunin, hoặc chỉ mới có ở trong tay tập tài liệu của Ritunin là đã bị đuổi ra khỏi đảng. Trong số những đảng viên này có Kamerev và Zinoviev là những đồng chí thân cận của Lê-nin, đã từng hợp tác với Xta-lin. Những người này trước đã đả kích Trốt-xki và phe đối lập tả khuynh, rồi sau này mới công kích Xta-lin. Tất cả đều bị khai trừ khỏi đảng.

    Năm 1934
    Tháng Tư: Lép Trốt-xki bị Pháp trục xuất.
    Ngày 17 tháng Tư năm 1934, chính phủ Pháp quyết định trục xuất Lép Trốt-xki-một cựu thủ lĩnh đảng CS Nga, ra khỏi biên giới nước Pháp. Trốt-xki trốn sang Pháp từ năm 1933, bị bắt buộc cư ngụ ở đảo Corse rồi triệt để cấm không cho xen vào chính trị. Thế mà ông ta đã liên lạc được với Liên đoàn cộng sản quốc tế. Bị tình cờ bắt được ở Barbizon, Trốt-xki thú nhận ý định thành lập một Đệ tứ Quốc tế CS nhằm mục đích thực hiện cuộc cách mạng xã hội toàn cầu.

    Năm 1934
    Tháng Chín: Liên Xô gia nhập hội Quốc liên
    Ngày 17 tháng Chín năm 1934, sau nhiều phen thảo luận sôi nổi, Uỷ viên ngoại giao của Liên bang Xô Viết là Mac-xim Lit-vi-nốp đọc bài diễn văn về việc Liên Xô đã được nhận vào làm hội viên thứ 59 của Hội quốc liên. Trong diễn văn này, nhân danh Liên Xô tuân theo những nguyên tắc của Hội Quốc liên, Mac-xim Lit-vi-nốp cảm ơn Hội Quốc liên và Ngoại trưởng Pháp Louis Barthoi đã hết sức giới thiệu và vận động cho Liên Xô nhập hội.

    Năm 1935.
    Tháng Hai: Đại hội Đảng CS Liên Xô
    Đại hội Đảng kì XVI tại Liên Xô đã bầu Uỷ ban trung ương Đảng CS. Iô-xíp Xta-lin lại giữ chức tổng bí thư Đảng còn Vi-a-che-xláp Mô-tô-tốp được làm chủ tịch hội đồng Uỷ viên nhân dân và lúc nào cũng là chủ tịch chính phủ Liên Xô. Những chức vụ quan trọng: Mac-xim Lit-vi-nốp nắm Bộ Ngoại giao, Kliment Vô-rô-si-lốp - Bộ Quốc phòng, Iagoda - Bộ Tiếp tế và Tchernov - Bộ Nông nghiệp.

    Năm 1936
    Tháng Tám: Xta-lin loại các đồng chí của Lê-nin
    Iô-xíp Xta-lin, Tổng bí thư Đảng CS Liên Xô cho thế giới biết là ông ta nắm toàn quyền tại liên bang Xô Viết. Từ 19 đến 24 tháng 8, Xta-lin cho xử án 16 nhân viên cao cấp và cựu đồng chí Lê-nin về tội vẫn liên lạc với Trốt-xki ở Na Uy và hợp tác với Gestapo (mật thám Đức). 200 người được đặc biệt mời tới toà án quan sát vụ xét xử cùng các nhà ngoại giao phương Tây. Không có một luật sư nào bào chữa cho các bị can. Rốt cuộc, họ đều nhận tội. Toà án quân sự tối cao tuyên án tử hình. 16 bị cáo trong đó có các nhân vật nổi tiếng như Grigori Zinoviev và Lép Kamenev đều bị đem ra xử bắn ngay ngày hôm sau.Bằng những toà án kiểu trên đây, Xta-lin đã loại dần hết những người cộng sản không về cánh với ông.

    Năm 1937
    Tháng Giêng: Cuộc thanh trừng năm 1937 tại Liên Xô
    Tại Liên Xô cuộc thanh trừng những nhân vật hàng đầu như Radek, Piatakov và Sokholnikov đều bị buộc tội theo Trốt-xki phản lại tổ quốc và thông đồng với ngoại bang.Ngày 30/1/1937, Piatakov cùng 12 người khác bị xử bắn.Số còn lại bị khổ sai chung thân hoặc bị đi đầy biệt xứ. Trốt-xki rời Na uy chạy sang Mexico tị nạn.
    Tháng Sáu: Xta-lin loại Thống chế Tu-kha-chép-xki
    Ngày 11 tháng Sáu năm 1937, chiến dịch thanh trừng địch thủ của Xta-lin lại nhắm vào các sĩ quan cao cấp. Nguyên soái Tu-kha-chép-xki, uỷ viên phụ tá Quốc phòng bị bắt giữ cùng nhiều tướng tá khác. Cuộc vây bắt xảy ra vào giữa đêm, những ngưòi chống cự đều bị trọng thương và đưa ngay về Mát-xcơ-va để xét xử. Cũng như mọi lần,những người này bị buộc tội là đã liên lạc với Phương Tây rồi bị giết ngay. Về sau người ta mới biết rằng những tài liệu buộc tội Thống chế Tu-kha-chép-xki là gián điệp lại chính do mật vụ Đức gửi cho Xta-lin. Ông đã bị lừa.

    Những hiện tượng và khó khăn, mà về sau Đảng Cộng sản đã xác định và lên án là hậu quả của của tệ sùng bái cá nhân Xta-lin, đã xuất hiện trong những năm 1930. Là một nhà chính trị kiệt xuất, Xta-lin đã cùng với những nhà lãnh đạo khác của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô: Cli-men Vô-rô-si-lốp, Phê-lợi ích Đgiéc-din-xki, Xéc-gây Ki-rốp, Gri-gô-ri Oóc-giô-ni-kít-de, Va-lê-ri-an Cui-bư-sép, I-an Rút-du-tắc, Va-xi-li Tsu-ba-rơ đã có những công lao lớn trong việc thực hiện đường lối xây dựng đất nước và chuẩn bị phòng thủ trong cuộc chiến tranh tương lai. Nhưng ít lâu sau, nhất là sau cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại công lao của nhân dân các dân tộc trong Liên bang Xô-viết được gắn vào một cách quá đáng vào tên tuổi của Xta-lin. Thực tế, Ông có nhiều công lao nhưng cũng độc đoán và có vô số sai lầm: thanh trừng hàng loạt những người bất đồng chính kiến và nhất là các Tướng lĩnh, Ông đã làm cho sức mạnh chỉ huy của Hồng quân giảm rõ rệt, nhất là trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại. Đầu chiến tranh, nhận thức được sai lầm của mình, Ông đã phục chức cho một loạt những người mà, sau này là những con người của lịch sử Liên Xô và được nhân loại ghi nhớ mãi mãi: Nguyên soái G.K. Giu-cốp; Nguyên soái K.K. Rô-cô-xốp-xki, Công trình sư động cơ máy bay Ba-lan-đin?
    Chiến thắng trong cuộc chiến tranh, Xta-lin đã còn mất phương hướng nghiêm trọng hơn, tin rằng mình không thể sai lầm, Ông đã vi phạm nhiều tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng do Lê-nin vạch ra. Chính những sai lầm nghiêm trọng của Ông đã làm cho đất nước Liên Xô phải trả một giá rất đắt: mất đi nhiều người tài năng, tin tưởng vào Hoà ước ký với Đức, Ông lo sợ việc đặt Hồng quân vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu sẽ tạo cớ cho phát-xít Đức tấn công Liên Xô, và bị bất ngờ trong cuộc tấn công được biết trước đó (Sau này người ta biết là Rihard Sorge, người tình báo vĩ đại của Liên Xô đã báo trước tin này)? do đó hàng triệu người bị chết, hàng chục triệu người phải ở lại trong vùng tạm chiếm, bị giết, bị bắt đưa sang Đức? Nhưng dù sao thì những công lao của Ông cũng sẽ không bao giờ bị phủ nhận, trong việc đoàn kết nhân dân Liên Xô huy động mọi sức mạnh của toàn Liên bang đến chiến thắng cuối cùng chống lại chủ nghĩa phát-xít.

  6. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Ngày 12 tháng Mười hai năm 1937, Mi-kha-in Ca-li-nin được bầu làm Chủ tịch đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao Liên Xô.

    Năm 1938
    Mùa hè năm 1938, bọn quân phiệt Nhật đã thử sức vững chắc của biên giới Liên Xô tại vùng hồ Kha-xan và bị giáng một đòn mất mặt.

    Năm 1939
    Quân Nhật tràn vào lãnh thổ nước Cộng hoà Nhân dân Mông Cổ. Liên Xô đã thực hiện nghĩa vụ đã cam kết trong Hiệp định tương trợ: quân Nhật xâm lược bị bao vây và tiêu diệt hoàn toàn trên bờ sông Khan-khin ?" Gôn.
    Bọn quân phiệt Nhật không còn dám liều lĩnh như trước nhưng vẫn tập trung lực lượng trên biên giới. Trong khi đó, phát-xít Đức đã tới sát biên giới Liên Xô. Năm 1938, phát-xít Đức đã chiếm đóng nước Áo, đưa quân vào Tiệp Khắc. Trong tình hình đó, Liên Xô đề nghị thành lập hệ thống an ninh tập thể, nhưng các nước Phương Tây đã định đẩy hiểm họa phát-xít về phía Liên Xô, toạ sơn quan hổ đấu để hưởng lợi. Cuộc ?ochiến tranh kỳ lạ? bắt đầu. Anh, Pháp? muốn ?obình định? bọn phát-xít bằng đất đai các nước Đông Âu trong đó có Liên Xô.
    Tháng Ba năm 1939, Chính phủ thân phát-xít Lít-va đã chuyển giao cho phát-xít Đức thành phố Clai-pê-đa, một bàn đạp chiến lược quan trọng trong việc tấn công Liên Xô. Tháng Tư năm đó, phát-xít Đức xé bỏ Hiệp ước không tấn công lẫn nhau ký kết với nước Ba Lan và bắt đầu công khai chuẩn bị tấn công nước này. Liên Xô lại đề nghị ký kết Hiệp ước tay ba với Anh và Pháp để giúp đỡ nhau trong trường hợp một trong những nước ký kết Hiệp ước bị xâm lược. Nhưng cuộc đàm phán mở đầu ở Mát-xcơ-va đã đi vào bế tắc: Phương Tây không phản đối Liên Xô cam kết sẽ tham gia chống trong trường hợp bị xâm lược nhưng lại không muốn bị ràng buộc bởi bất kỳ hiệp ước hay cam kết nào. Đồng thời, Chính phủ Anh tham gia đàm phán bí mật với phát-xít Đức về việc ?omở thêm những thị trường thế giới mới và khai thác những thị trường hiện có?. Trong hoàn cảnh đó, ngày 23 tháng Tám Liên Xô bắt buộc phải ký với Đức Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.
    Mô-lô-tốp (Liên xô) và Ribbentrop (Đức) cùng gặp nhau để kí kết hiệp ước kể trên vào ngày 20 tháng Bảy năm 1939
    Ngày 1 tháng Chín năm 1939, phát-xít Đức tấn công Ba Lan, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cuộc chiến tranh lớn nhất và khốc liệt nhất trong lịch sử loài người bắt đầu.
    Những lời hứa hẹn của Anh và Pháp đã không được thực hiện: quân đội Đức tiến sâu vào lãnh thổ Ba Lan mà không vấp phải sự phản đối nào từ phía Phương Tây. Lúc này đất đai phía Tây U-crai-na và Bê-la-rút-xi-a vẫn bị nước Ba Lan địa chủ quý tộc chiếm từ năm 1920. Ngày 17 tháng Chín, Hồng quân vượt biên giới thu hồi lại những vùng đất đai đó, đẩy biên giới ra xa trung tâm đất nước hơn nữa. Tháng Mười năm đó, quốc hội Tây U-crai-na và quốc hội Tây Bê-la-rút-xi-a.

    Năm 1940
    Cuộc ?oChiến tranh mùa đông?
    Trước tình hình chiến tranh đang tới gần, Chính phủ Liên Xô đã đề nghị với phía Phần Lan ký hiệp ước giúp đỡ nhau và đẩy lùi đường biên giới trên eo đất Ca-rê-li về phía Tây, đồng thời Liên Xô bồi thường lại một phần đất lớn hơn nhiều của vùng Ca-rê-li Xô-viết. Đề nghị này nhằm bảo đảm an ninh cho Lê-nin-grát ?" trung tâm công nghiệp và văn hóa lớn nhất trong nước và trên thực tế là một thành phố giáp biên giới, tránh bị tấn công bất ngờ. Nhưng Chính phủ Phần Lan bị Đức và cả Anh, Pháp xúi giục, ỷ lại vào tuyến phòng thủ mạnh trên eo đất Ca-rê-li (phòng tuyến ?oMan-néc-ghêm?) đã từ chối lời đề nghị này. Ngày 26 tháng Mười một năm 1939, quân đội Phần Lan đã bắn đại bác sang lãnh thổ Liên Xô. Hồng quân vượt biên giới, chọc thủng tuyến ?oMan-néc-ghêm?. Tháng Ba năm 1940, Hiệp ước được ký kết theo đề nghị của Chính phủ Phần Lan, công nhận đường biên giới mới của Liên Xô được đẩy lùi xa thành phố Lê-nin-grát tới 150 ki-lô-mét, tới Vư-boóc-gơ.
    Mùa hè năm 1940, sau khi lật đổ các chế độ thân phát-xít, các dân tộc E-xtô-ni-a, Lát-vi-a và Lít-va đã tình nguyện sáp nhập vào Liên Xô. Thời gian đó, vùng Bét-xa-ra-bi và Bắc Bu-cô-vi-na cùng quay về sáp nhập vào Liên Bang.
    Hoàn toàn hiển nhiên là tình hình quốc tế khi đó đã bắt buộc Chính phủ Liên Xô phải tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm củng cố quốc phòng: về số lượng, các lực lượng vũ trang tăng lên gấp 3 lần, quân đội bắt đầu được trang bị những trang thiết bị vũ khí tối tân. Nhưng tất cả những công việc đó đã không kịp hoàn thành?

    Năm 1941
    Tháng Sáu: Quân đội Đức tiến đánh Liên Xô
    Ngày 22 tháng Sáu năm 1941 không tuyên chiến, quân đội Đức có sự hỗ trợ của Quân đội các nước chư hầu phát-xít Ru-ma-ni, Hung-ga-ri và I-ta-li-a bội ước tiến công Liên Xô, bắt đầu cuộc Chiến tranh Giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô kéo dài 1418 ngày đêm gian khổ.

    Năm 1945
    Đêm ngày mùng 8, rạng sáng mùng 9 tháng Năm năm 1945, phát-xít Đức đầu hàng không điều kiện.
    Ngày 17 tháng Bảy năm 1945, hội nghị những người đứng đầu Chính phủ Liên Xô, Mỹ và Anh khai mạc ở Pốt-xđam (gần Béc-lin). Hội nghị này đã thông qua những nghị quyết quan trọng về xây dựng lại nước Đức.
    Cuộc xâm lược của phát-xít Đức vào Liên Xô đã để lại những hậu quả nặng nề: thiêu huỷ 1710 thành phố và thị trấn, hơn 70 nghìn làng xóm, 32 nghìn xí nghiệp công nghiệp, gần 100 nghìn nông trang tập thể và nông trường quốc doanh. Tính tổng cộng, thiệt hại về vật chất do cuộc chiến tranh này gây ra cho Liên Xô lên tới 2569 tỷ rúp, tương đương 1/3 tổng tài sản quốc gia Liên Xô.
    Nước Đức phát-xít bại trận nhưng chiến tranh vẫn tiếp diển ở vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Thực hiện cam kết với Đồng Minh, quân đội Liên Xô đã tuyên chiến với Đế quốc quân phiệt Nhật Bản: ngày 8 tháng Tám năm 1945. Chiến tranh chống Nhật cũng xuất phát từ lợi ích bảo đảm an ninh các đường biên giới Liên Xô ở Viễn Đông, nơi nước Nhật tập trung đội quân Quan Đông được trang bị và rèn luyện tốt.
    Sau 24 ngày thực hiện kế hoạch vận động chiến nhanh chóng, mà thực tế là một đòn tấn công chiến lược, Hồng quân đã đánh bại đội quân Quan Đông đóng ở Mãn Châu Lý. Ngày 2 tháng Chín năm 1945, Nhật Bản đầu hàng không điều kiện.
  7. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Đây là bài lấy từ nuocnga.net. Lịch sử Nga rõ ràng là có những cái đáng tự hào như vậy. Một điểm đáng chú ý là nước Nga cũng từng bị nhiều dân tộc áp bức, nhưng cuối cùng họ đều chinh phục lại được những kẻ từng chinh phục mình: Thuỵ Điển, Ba Lan, Mông Cổ, Pháp, Đức, Nhật ... mặc dù với một dân số không đông và không phải với một nền văn hoá quá ưu việt cũng như quân sự xuất sắc. Có thể coi đó là tính cách Nga chăng.
    Đặt trong hoàn cảnh hiện nay, nước Nga ngày nay có phần nào giống với nước Nga cuối thế kỷ 19, cũng hỗn loạn, ồn ào, tủi nhục, yếu kém ... nhưng ở trong sự xô bồ đó, đều thấy le lói ánh sáng cho một con đường đi ở tương lai. Nước Nga thế kỷ 20 đã quật khởi mạnh mẽ. Ta hãy chờ một nước Nga thế kỷ 21 sẽ như thế nào.
    Về phần tiếp theo của topic này, mong các bạn nếu có tài liệu có thể cung cấp nhiều hơn về những con người cụ thể của Nga, thí dụ như các nhân vật phụ như: Nguyên soái Rumianxep, hoàng thân Đôn-gô-ru-ki, Anh em Ooc-lop, tướng quân Mi-lô-ra-đô-víc, tướng bạch giáp Scô-bê-lép và các sự việc như Nga bán miền Alaska và một phần Ca-li-phooc-ni-a cho Mỹ, việc chia cắt Ba Lan, việc xâm lược Phần Lan năm 1939-1940 v.v...
  8. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Hãy mua lại Alaska cho Mỹ đi!

    Kỳ Tú (NuocNga.net)
    Chính quyền Mỹ đang phải chịu những khoản lỗ khổng lồ trong quản lý và điều hành bang Alaska, miền đất băng giá vốn là đất Nga từ hai thế kỷ trước

    Chuyên gia kinh tế Stiven Perlstain, hiện đang viết bình luận cho tờ ?oBưu điện Oasinhton? của Mỹ, trong khi phân tích các vấn đề mà các công ty lớn của Mỹ ở Alaska đang phải đối đầu đã đưa ra kết luận: Để bù đắp lại những chi phí mà chính quyền Mỹ bỏ ra cho việc quản lý miền đất này, cách có lợi nhất là bán nó cho người Nga. Ông này thậm chí còn đưa ra cái giá một ngàn tỷ đô la.

    Trong bài báo đăng ngày 23 tháng 11 vừa qua, từ những sự kiện như kiểu người khổng lồ General Motor đang buộc phải thực hiện cuộc đại phẫu đầy đau đớn thu hẹp quy mô sản xuất, Ford cũng đưa ra một kế hoạch tương tự cho năm sau, nhà kinh tế đưa ra kết luận: Chính quyền trung tâm đang phải nghĩ đến một cuộc cải cách tổ chức trong toàn quốc. Và góp phần để các cải cách kinh tế triệt để hơn, ông đề nghị một kế hoạch ?osang tay? Alaska, bang mà Mỹ đang thua lỗ nặng nề, về tay chủ cũ của nó.

    Theo Perlstain, dù trong lòng đất nơi đây đang tiềm ẩn những tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, nhất là trữ lượng dầu mỏ chưa đánh giá hết được, nhưng Alaska chẳng đóng góp được cho kinh tế Mỹ mấy tí. Người ta đã phải miễn cho dân ở đây rất nhiều khoản thuế. Và cứ mỗi đôla thuế thu được ở đây chính phủ phải chi tới 1,89 đôla. Thậm chí ngay cả khi giá dầu tăng cao, Alaska thu trội được cả triệu đô, thế nhưng không một xu nào trong số tiền này được góp cho ngân sách nhà nước, bởi toàn bộ số tiền trên đã được dùng để bù đắp cho các chi phí của bang. Thêm vào đó, quốc hội Mỹ đang phải đau đầu vì những đòi hỏi của các nghị viên bang này. Kết luận: Nguyên nhân chính của các món lỗ khổng lồ mà ngân sách Nhà nước Mỹ đang phải gánh chịu bắt nguồn từ tham vọng điều hành miền đất xa xôi băng giá này. Nhà kinh tế định giá Alaska trên thị trường, và cho rằng nó bao gồm giá trị của 4,5 tỷ thùng dầu, là trữ lượng dầu mỏ mà miền đất này đã được chứng minh, cộng với giá trị của quặng đồng, khí đốt tự nhiên, rừng... mà ?ohiện nay đều đang có giá?. Trong khi đó, nhà kinh tế nhận định, Nga hiện đang có 50 tỷ đô la nhàn rỗi chưa biết đầu tư vào đâu.

    Theo tính toán của Perlstain, nếu như Mỹ có thể bán được Alaska cho Nga với giá một ngàn tỷ đôla, thì chỉ riêng phí giao dịch và hoa hồng của ngân hàng cũng đã đủ thay đổi vài mục trong GDP của cả nước. Trong trường hợp tệ nhất thì Mỹ cũng đã lãi không biết bao nhiêu mà kể, nếu như ta nhớ lại rằng ngày xưa, người Mỹ đã mua mảnh đất này của Nga với giá có 7,2 triệu đôla.

    Perlstain còn chỉ rõ một trong những nguyên nhân khiến ông thấy việc bán Alaska cho Nga là có lợi: Phương pháp điều hành và quàn lý kinh tế ở đây rất giống với cách làm của phía Nga. ?oDù mảnh đất này trở thành một bang của Mỹ từ 140 năm nay, nó vẫn lưu lại những nét Nga nguyên thủy, và hiện nay nó khá giống với các miền đất Nga trong thời kỳ hậu Liên Xô, nơi chính phủ chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động kinh tế, còn chính quyền thật sự thì nằm trong tay một nhóm chóp bu trong bóng tối, bóc lột miền đất này để làm giàu cho bản thân mình, gia đình và bạn bè mình?. Perlstain nói

  9. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Người đánh thức nước Nga


    Trần Vũ (Đoàn kết - 18.06.2005)


    Piôt đại đế ( 1672 ?" 1725)

    Với những cột mốc và sự kiện lớn lao như: sự nảy sinh và phát triển của trào lưu tư tưởng khai sáng, sự khởi đầu của Cách mạng công nghiệp ở Anh, cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 nước thuộc địa của Anh ở Bắc Mĩ, Đại Cách mạng Pháp và các cuộc chiến tranh của Napôlêông chống liên minh phong kiến châu Âu v.v..., thế kỉ 18 đã được lịch sử thế giới trân trọng gọi bằng cái tên thế kỉ Ánh sáng.
    Trong lịch sử nước Nga, thế kỉ 18 cũng là giai đoạn chuyển biến rất quan trọng, đánh dấu việc Nga trở thành một cường quốc của châu Âu và thế giới. Những thành tựu mà nước Nga đạt được trong thế kỉ này trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá ?" tư tưởng, khoa học ?" kĩ thuật ...là cực kì to lớn, chẳng những đã làm biến đổi bộ mặt nước Nga mà còn đưa nước Nga bước sang thời đại văn minh, tiến bộ, hoà nhập với châu Âu trong tư thế của một quốc gia hùng mạnh. Sự phát triển vượt bậc của nước Nga thế kỉ 18 tất nhiên là kết quả đóng góp công sức và trí tuệ của cả dân tộc nhưng trong đó, vai trò dẫn dắt của các nhân vật lớn, đặc biệt là của vị hoàng đế vĩ đại Piôt I ( 1672 ?" 1725), là nhân tố có vai trò quyết định hàng đầu.
    Thế kỉ 17, Nga đã bị các nước Tây Âu bỏ sau một khoảng cách đáng kể. Phần lớn các nhà sử học đều cho rằng cuộc xâm lăng và ách đô hộ của người Tacta ?" Mông cổ đã cản trở sự phát triển bình thường của Nga trong suốt hai thế kỉ rưỡi.
    Năm 1607, ở Nga không có một trường đại học nào. Ít người biết số học đến nỗi phép nhân và phép chia vẫn là những phép tính hoàn toàn bí ẩn. Không ai biết đến hoá học và thiên văn học. Lệnh cấm đoán người dân ra nước ngoài làm cho việc học càng thêm khó khăn. Một chỉ dụ ban hành năm 1672 cấm người dân thuộc mọi tầng lớp không được cất giữ sách in bằng tiếng La tinh và tiếng Ba Lan mà phải giao nộp cho chính quyền và nhà thờ.
    Về mặt địa lí, Nga tuy là một đất nước rộng mênh mông nhưng lại không có cảng thông ra biển ấm. Hơn thế nữa, sau thời của Ivan Hung đế IV (1533 ?" 1584), biên giới Nga còn bị đẩy sâu hơn vào trong lục địa. Nga phải nhượng cho Thụy Điển miền Ingria, Carêlia và những thị cảng cuối cùng ven biển Ban tich, nhượng cho BaLan xứ Livônia, Xmôlenxk và Trecnigôp. Đồng thời, theo hiệp định Bakhơtresarai (1681), quãng hạ lưu sông Đơniep được chọn làm ranh giới ngăn cách giữa Nga, Thổ và vương quốc Crưm. Như vậy, Ban tich thuộc quyền kiểm soát của Thụy Điển, biển Đen thuộc quyền kiểm soát của Thổ. Tàu thuyền Nga chỉ có thể ra vào biển Trắng và đi lại trên biển Caxpiên, nhưng đó lại là những biển kín. Và ngay cả ở hai biển này, Nga cũng không giành được quyền kiểm soát hoàn toàn: Axtơrakhan thuộc quyền sử dụng của các thương nhân Ba tư và Armenia, Arkhanghenxk là nơi lui tới của các tàu buôn Anh và Hà Lan. Vì Ban tich, Hắc hải bị bao vây và không có cảng thông ra biển ấm, Nga được ví như người khổng lồ không có buồng phổi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng lạc hậu của nước Nga vì nó ngăn không cho Nga có cơ hội tiếp cận ảnh hưởng của phong trào Văn hoá Phục hưng, là phong trào ra đời trên cơ sở thành tựu của các nền văn minh lớn nhất trong lịch sử loài người: Ai Cập, Lưỡng hà, Hi Lạp.
    Đối với một quốc gia rộng lớn như Nga và trong những điều kiện kĩ thuật của thế kỉ 16- 17, di chuyển bằng đường sông là cách đi lại thuận tiện nhất trong nội địa, nhưng ba con sông lớn nhất chảy trên lãnh thổ Nga thời đó là Đơniep, Đông và Vonga lại không nối với nhau, hơn thế nữa, các cửa sông Đơniep và Đông lại bị các pháo đài Oatracôp và Adôp của Thổ khống chế, còn cửa sông Vonga ?" tức Axtơrakhan- thì như đã nói ở trên, thuộc quyền sử dụng của các thương nhân Ba tư và Armenia.
    Thời đó, người châu Âu muốn đến Matxcơva bằng đường bộ phải vượt qua những khu rừng rộng mênh mông và đáng ngại của xứ Ba Lan. Vào đến đất Nga rồi, họ phải đi theo con đường bị ngắt quãng bởi những đầm lầy, vượt qua những dòng sông không có cầu, băng qua những làng mạc mà dân ở đó đều bỏ chạy khi thấy người lạ.
    Bị lạc hậu về văn hoá, nghèo đói về kinh tế, yếu kém về quân sự, lại bị cô lập về địa cư, nước Nga không giữ một vai trò chính trị nào đáng kể ở châu Âu. Không nước nào thấy cần phải liên minh hay tăng cường buôn bán với Nga. Còn người dân Nga thì không có cơ hội giao lưu với thế giới bên ngoài. Nói như Vonte, nước Nga chỉ là một đống hỗn loạn và man dại khi Piôt I lên ngôi.
    Kể từ khi thực sự nắm quyền chấp chính (năm 1689), Piôt I đã tiến hành hàng loạt biện pháp nhằm cải tổ bộ máy cai trị và và xây dựng một chế độ quân chủ chuyên chế hùng mạnh từ trung ương tới địa phương, trong đó Nga hoàng là người có quyền lực tối thượng. Năm 1711, ông giải tán Nghị viện quí tộc và thành lập Viện Tham chính ( Xê nat) với vỏn vẹn có 9 thành viên, thâu tóm toàn bộ quyền điều hành đất nước. Trong cuộc cải cách tiếp theo năm 1717 ?" 1721, trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm tổ chức và quản lí nhà nước của các nước châu Âu, Piôt I cho thành lập các hội đồng quốc phòng, ngoại giao, tư pháp, thương mại, thanh tra v.v. để thực thi hiệu quả hơn các chỉ thị của ông trên từng vấn đề cụ thể. Mặt khác, ông chia nước Nga thành 8 khu vực hành chính lớn, mỗi khu đều có đầy đủ quân đội, cảnh sát và các cơ quan chức năng. Trên cơ sở của các khu vực hành chính này, năm 1719, Piôt I đã ra sắc lệnh thành lập hơn 50 tỉnh thành trên toàn Nga.
    Năm 1722, Piôt I ban hành qui chế mới về hệ thống cấp bậc gồm 14 bậc, áp dụng cho việc bổ nhiệm, đề bạt và khen thưởng đối với tất cả các quan chức dân sự, quân sự và tư pháp của chính quyền. Theo đó, tất cả những người có công đều có thể được ban tước quí tộc, còn bản thân các quí tộc dòng dõi và con cháu của họ nếu không thực sự có tài thì cũng chỉ được bổ nhiệm vào các chức quan bậc thấp mà thôi. Điều này không chỉ giúp Piôt I củng cố chế độ quân chủ chuyên chế của mình mà còn cho thấy: so với các vua chúa châu Âu đương thời, thuật dùng người theo khả năng chứ không phải theo nguồn gốc gia đình của Piôt I đã tiến bộ trước cả trăm năm. Vì vậy, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những trợ lí thân cận của Piôt I rất đa dạng về nguồn gốc: có những quí tộc danh giá như hoàng thân Đôngôruki, nguyên soái Seremetiep ... nhưng cũng có những người nước ngoài như tướng Lơpho, tướng Goocđơn ... và thậm chí có cả những người vốn là tiện dân như hoàng hậu Catơrin, nguyên soái Menchikôp v.v.
    Với nhà thờ, Piôt I cũng thi hành nhiều biện pháp quyết liệt nhằm hạn chế quyền lực ghê gớm của Giáo hội, một quyền lực lâu nay vốn vẫn chi phối chính trường Nga và thống trị nhân dân Nga về mặt tinh thần. Bất chấp mọi phản đối, Piôt I ra lệnh kiểm kê tài sản của Giáo hội và đặt chúng dưới quyền quản lí của nhà nước. Khi quân đội và hạm đội cần pháo, ông không ngần ngại ra lệnh thu dụng cả chuông nhà thờ. Tháng 10 năm 1700, khi giáo chủ Adrien qua đời, Piôt I cố tình không bổ nhiệm giáo chủ mới. Mãi đến 21 năm sau, chức giáo chủ mới được chính thức thay bằng ?ogiáo nghị hội?, và người đứng đầu giáo nghị hội không phải ai khác chính là Phêôphan Prôkôpôvich, một giáo sĩ tin cẩn đã từng làm thư kí riêng cho chính Nga hoàng.
    Piôt I cũng ban hành nhiều sắc luật có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá và xã hội Nga. Chẳng hạn, trước đó người Nga tính niên đại từ mốc coi thế giới được sáng tạo đã 7207 năm. Nay theo lệnh Nga hoàng, người Nga sẽ tính niên đại theo cách tính của châu Âu, tức là tính từ lúc chúa Giê su ra đời. Như vậy sẽ không có năm 7208, mà ngày 1 tháng giêng trở thành mốc mở đầu năm 1700.
    Một thành công khác của Piôt I trong lĩnh vực văn hoá là việc cải cách hệ thống chữ viết. Trước đó, Giáo hội chính thống sử dụng hệ chữ Slavơ cổ, còn giới thương nhân lại dùng hệ chữ Hi Lạp. Nay Piôt I ra lệnh: tất cả các ấn phẩm không phải của Giáo hội đều phải dùng hệ chữ Hi Lạp. Ông cho nhập máy in và tuyển thợ in từ Hi Lạp sang. Ông là người sáng lập tờ báo đầu tiên ở Nga năm 1703 ?" tờ Tin tức Xanh- Petecbua, là người chỉ đạo in các tác phẩm khoa hoc, kĩ thuật, là người thành lập thư viện và kho thư tịch đầu tiên ở Petecbua v.v.
    Piôt I còn thực hiện một cuộc cách mạng trong quan hệ giữa phụ nữ và gia đình. Phụ nữ Nga trước đây suốt đời không được sinh hoạt ngoài phạm vì gia đình của họ. Nay qui định khắc nghiệt, bất công ấy đã bị Nga hoàng bãi bỏ: phụ nữ Nga bắt đầu được tham gia mọi sinh hoạt xã hội và có quyền bình đẳng với nam giới trong nhiều lĩnh vực hoạt động.
    Những nỗ lực cải tổ hành chính, tư pháp, văn hoá, xã hội trên đây của Piôt I đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo nước Nga, đưa nước Nga từng bước thoát khỏi tình trạng hỗn độn và man dại.
    Phá vỡ thế cô lập về địa lí cho nước Nga là mối quan tâm trăn trở suốt thời kì trị vì của Piôt I. Để mở đường cho nước Nga thông ra biển Đen, mùa xuân năm 1695, Piôt I quyết định tuyên chiến với Thổ. Tuy nhiên, chiến dịch bao vây và tấn công pháo đài Adôp lần thứ nhất của Piôt I (kéo dài từ tháng 1 đến tháng 10 năm 1695) đã thất bại thảm hại. Lí do chính là vì Adôp là một pháo đài biển. Nó không thể thất thủ khi chỉ bị quân Nga vây hãm ở mặt đất liền, trong lúc hạm đội Thổ ?" chủ nhân biển Đen- vẫn tự do tiếp tế cho nó.
    Hiểu được điều ấy, mùa đông năm 1695, tại thị trấn Varônhet bên bờ sông Đông, Piôt I trực tiếp chỉ huy việc xây dựng hạm đội cho mục tiêu đánh chiếm Adôp. Bất chấp những khó khăn chồng chất do thiếu thốn nhân lực, vật lực và tài lực, bất chấp những ngọn gió mùa đông lạnh buốt tha hồ gào rú điên cuồng trên những cánh đồng tuyết trắng xoá xung quanh, công trường Varônhet vẫn hoạt động nhộn nhịp. Cuối cùng, ngày 3 tháng 5 năm 1696, khi lớp băng phủ trên mặt sông Đông tan đi, hạm đội đầu tiên của Nga gồm 28 chiến thuyền đóng theo kiểu Hà Lan đã xuôi dòng ra biển. Dẫn đầu hạm đội là soái hạm mang tên Principium do đích thân hoa tiêu Piôt I cầm lái.
    Năm tuần sau, quân Thổ trấn giữ Adôp sững sờ trước một cảnh tượng chưa từng thấy bao giờ: hạm đội Nga đang áp sát pháo đài, và phía Nga bắt đầu ngay cuộc tấn công cả từ hai mặt. Ngày 17 tháng 7, lá cờ xanh của Thổ gục ngã trên đỉnh tháp, Adôp lọt vào tay quân Nga.
    Tất nhiên, chiến thắng tại Adôp năm 1696 của Piôt I không phải ngay lập tức đã đem biển Đen cho Nga. Phải 100 năm nữa, sau thắng lợi ở Ixmain năm 1799 dưới thời của nữ hoàng Eâkatêrina đệ Nhị, ước mơ làm chủ biển Đen của Piôt I mới thành hiện thực nhưng sự kiện Adôp năm 1696 đã trở thành định hướng chiến lược cho Nga trong cuộc chiến dai dẳng với Thổ để bành trướng xuống phía Nam.
    Để mở đường cho nước Nga vươn ra biển Ban tich, Piôt I đã quyết định tuyên chiến với Thụy Điển. Lúc đó, Thụy Điển đang là một cường quốc quân sự của châu Âu, còn quân đội Nga thì vẫn đang ở trình độ trung cổ; thế nhưng từ trận đại bại Narva (1700) đến trận đại thắng Pôntava (1709), quân Nga đã tiến một bước khổng lồ. Giờ đây, nó đã trở thành một quân đội hùng mạnh, được trang bị hiện đại, có quân số thường trực lên đến 20 vạn người cùng 10 vạn lính côdắc. Còn hạm đội từ chỗ là con số không, nay đã trở thành một lực lượng lớn gồm 48 tàu chiến đi biển, 800 chiến thuyền với quân số lên đến 28 ngàn người. Chính hạm đội này năm 1714 đã lập chiến công vang dội trên biển Ban tích, nhấn chìm hạm đội thiện chiến của Thụy Điển. Cùng với thắng lợi ở Pôntava, chiến thắng này đã cho phép Nga khống chế phần phía đông biển Ban tích, uy hiếp trực tiếp Stôckhôlm.
    Sau khi Saclơ XII tử trận (1718), Thụy Điển rơi vào tình trạng hỗn loạn. Không bỏ lỡ cơ hội, Piôt I đã hai lần ?" 1719 và 1720 ?" cho quân đổ bộ đánh phá các tỉnh miền Nam. Năm 1721, Thụy Điển đã phải kí hoà ước Nixtat để chấm dứt ?oCuộc chiến phương Bắc?. Hoà ước này cho phép Nga làm chủ Livônia, Estônia, Ingria, Carêlia và nửa phía đông Phần Lan, tức những phần đất mà Nga đã thường xuyên tranh chấp với các láng giềng, và vì chúng mà Piôt I đã phải đánh nhau suốt 21 năm trong tổng số 27 năm trực tiếp cầm quyền của ông.
    Song song với thắng lợi trên là sự ra đời gần như huyền thoại của thành phố Xanh ?" Peterbua. Đây là sự thể hiện vật chất sinh động nhất của ý chí hướng nước Nga về phương Tây của Piôt I, là thành quả lâu bền nhất mà sự nghiệp cải cách của Piôt I đã để lại cho nước Nga. Dù khi quyết định xây dựng thành phố từ lau sậy, bùn lầy và dùng nó làm kinh đô (1712), Piôt I đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của cả triều đình và những người đương thời, nhưng ý nghĩa của Xanh ?" Peterbua đối với tiến trình phát triển về sau của nước Nga là quá rõ ràng ?" đó là cánh cửa mở ra thế giới phương Tây.
  10. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.248
    Học tập phương Tây, Piôt I đã tìm mọi cách thúc đẩy các hoạt động công nghiệp và thương nghiệp theo quan điểm trọng thương. Ôâng đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất công nghiệp, mời các chuyên gia nước ngoài, ban hành chế độ bảo hộ hàng nội hoá, trợ cấp vốn cho các doanh nhân, nâng cao địa vị xã hội của các thương nhân v.v. Nhờ vậy, đến cuối thời kì tại vị của Piôt I, nước Nga đã có trên 200 công xưởng thủ công, trong đó có những công xưởng rất lớn sử dụng từ vài trăm đến vài ngàn công nhân. Từ những công xưởng này, Nga đã sản xuất đủ số sắt cần dùng, cung cấp đủ vũ khí cho quân đội và hạm đội, đóng những tàu, thuyền buôn và tạo tiền đề cho việc thành lập các đội thương thuyền sau này...
    Điều kiện địa lí và trình độ phát triển của Nga đã khiến sông ngòi trở thành phương tiện giao thông chính trong nước. Piôt I đã cho đào kênh để nối các sông lớn lại với nhau- Nêva và Đơvina với Vonga, Vonga với Đông, và nhờ vậy nối Ban tich và biển Trắng với biển Đen và biển Caxpiên. Tất nhiên, đây là một công trình vĩ đại không thể được hoàn thành trong một thời gian ngắn nhưng Piôt I đã đặt nền móng cho nó khi ông làm lễ khánh thành kênh đào nối Nêva với Vonga năm 1708.
    Một dân tộc với trình độ phát triển còn thấp kém thì khó lòng tiếp nhận những cải cách của Nga hoàng. Thực tế của những năm tháng cầm quyền cho ông thấy, chính cảnh sống tăm tối, lạc hậu của người dân đã trở thành lực cản rất lớn cho sự nghiệp cải cách của ông. Vì vậy, cùng với việc hạn chế ảnh hưởng của Giáo hội, ông tìm cách mở rộng và tăng cường hệ thống giáo dục trong nước. Ông cho mở nhiều viện kĩ thuật và ra lệnh cho con em các quí tộc phải đến học ở đó. Ông cố gắng xây dựng ở mỗi tỉnh một trường dạy toán và tổ chức ở Matxcơva một trường trung học theo mô hình giáo dục của Đức. Năm 1724, Piôt I khánh thành viện hàn lâm Xanh- Petecbua và cho mời nhiều nhà khoa học danh tiếng của châu Âu sang giảng dạy.
    Nhờ tầm nhìn sáng suốt, nghị lực phi thường và những cố gắng không mệt mỏi, Piôt I thực sự là người thợ mộc đã dựng lại nước Nga, là tiếng sấm khổng lồ đánh thức cả nước Nga bừng tỉnh. Từ nay trên bàn cờ chính trị, quân sự và ngoại giao, châu Ââu không thể thiếu vắng vai trò của nước Nga. Tuy nhiên, mục tiêu mà Nga hoàng trọn đời theo đuổi: phương tây hoá nước Nga, đưa nó lên trình độ văn minh ngang bằng với phương tây xem ra vẫn còn xa lắm mới đạt được. Những cải cách mà Piôt I đề ra dù rất quan trọng song đó cũng mới chỉ là khúc dạo đầu của một sự nghiệp lâu dài và lớn lao. Chúng được thực hiện một cách độc đoán, bạo lực và nhiều khi còn phân tán, hời hợt. Nga hoàng không phải là không ý thức được thiếu sót này, nhưng tiếc thay, số phận đã không cho phép ông kịp sửa chữa chúng. Vào một đêm đông lạnh lẽo tháng 11- 1724, trong chuyến đi thị sát việc xây dựng kênh đào Lađôga, Piôt I đã liều mình nhảy xuống dòng sông Nêva giá buốt để cứu những thuỷ thủ của một con tàu đang đắm. Ông, một quân vương, đã không ngần ngại xả thân vì tính mạng của những tiện dân. Hai mươi thủy thủ vô danh đã nhờ Nga hoàng mà thoát chết, nhưng bản thân Nga hoàng lại nhiễm cảm nặng, toàn thân ông run lên ...
    Ngày 26-1-1725, Piôt I rơi vào tình trạng hôn mê. Hai ngày sau, ông qua đời mà không kịp chỉ định người kế vị. Ông thọ 53 tuổi và trị vì nước Nga được 27 năm.
    Cả lịch sử Nga và lịch sử thế giới đều gọi ông là Piôt Đại đế.

Chia sẻ trang này