1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử cổ đại Trung Quốc

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi binhnhat, 29/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. binhnhat

    binhnhat Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2006
    Bài viết:
    782
    Đã được thích:
    7
    Lịch sử cổ đại Trung Quốc

    Mấy hôm nay nghe các bác tranh luận bên topic "Lịch sử Việt Nam hỏi và đáp ..." về nguồn gốc Thần Nông nhưng em mù tịt về lịch sử cổ đại TQ nên không hiểu lắm.
    Rất mong các bác có thể giúp em biết rõ hơn về lịch sử cổ đại TQ từ thuở sơ khai mới hình thành. Cám ơn các bác.
  2. binhnhat

    binhnhat Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2006
    Bài viết:
    782
    Đã được thích:
    7
    Mới tìm thấy bài này do bác jeudi post bên box Phú Thọ, xin mạn phép post lại
    -------------------------------------------------------------------------------------
    Cổ Sử Trung Quốc
    Theo ông Vương Đồng Linh trong "Trung Quốc dân tộc học" thì sau 4 lần băng tuyết, những người sống còn trên cao nguyên Thiên Sơn tức Hy Mã Lạp Sơn tiếp giáp đến Mông Cổ, túa ra đi tìm đất sống. Nhóm đi về hướng Đông có 2 nhánh : 1 là Thiên Sơn bắc lộ, gọi là Bắc tam hệ, Mãn (Manchourie), Mông (Mongolia) và Hồi (Islam). 2 là Thiên Sơn nam lộ, gọi là Nam tam hệ, Miêu (polynesien), Hoa (asia), Tạng (indo). Miêu gồm có Âu Việt(Miêu,Thái,Lào), Miêu Việt (Mèo,Mán) và Lạc Việt (Việt-Nam, Mường), sử cổ gọi chung là Viêm Việt, sau nầy sử ký Tư Mã Thiên viết là Bách Việt .
    Theo ông Chu Cốc Thành trong quyển "Trung Quốc thông sử", nhóm Miêu Việt theo dòng sông Dương Tử vào nước Tàu lập thành 7 tỉnh tại Trường Giang, tỏa lên mạn Bắc lập thành 6 tỉnh tại Hoàng Hà, tràn xuống phương Nam lập thành 5 tỉnh tại Việt Giang, vị chi 18 tỉnh . Vào thời bấy giờ vùng Tân Cương hãy còn trù phú chưa bị sa mạc hóa, vẫn còn là phúc địa nên Hoa tộc sinh cơ lập nghiệp tại đấy .Nhóm Tạng tộc thì thẳng tiến về phía Nam khai thác vùng Cao Nguyên Tây Tạng và lân cận .
    Theo ông Phan Khoang trong "Trung Quốc Sử Lược", thì sắc tộc Tam Miêu thuộc giống người Cữu Lê (còn có tên là Lý) cư ngụ ở phương Nam. Tại phương Đông, dọc miền duyên hải là sắc tộc Việt (tiền thể là nước Ngô, nước Việt của thời Chiến Quốc). Ở Tây-Nam thì có sắc tộc người Bộc, người Quả La (thuộc Tạng tộc). Tây-Bắc là người Hoa, người Khương (sau nầy là người Hung Nô, Đột Quyết). Phương Bắc là người Mông, người Mãn .
    Tổng hợp và góp nhặt nhiều mảnh vụn từ cổ sử các nhà cổ sử, đến nay đi đến một kết luận chung là, toàn vùng Viễn Đông và Đông Á thời xưa, có rất nhiều sắc tộc cư ngự và dần theo tiến trình tự nhiên những dân tộc nầy đã tiến bộ tuần tự như sau :
    Thị tộc chuyễn sang Bộ Lạc, và thành Bộ Tộc (thời hoang sơ)
    Bộ Lạc Cộng Chủ (thời Tam Hoàng tCN hơn 5000 năm)
    Bộ Lạc Liên Minh (thời Ngũ Đế tCN 2697 năm)
    Vương Quốc Liên Bang (thời Tam Đại tCN 2205 năm)
    Hoàng Triều Nhất Thống (kể từ Tần Hán tCN 221 năm, và trở về sau)
    Khoa Cổ Sử Trung Quốc, có trường phái công nhận khởi thủy từ thời Tam Hoàng, vào khoảng 5000 năm tCN (theo Tư Mã Quang), gồm có : Hữu Sào Toại Nhân, Phục Hy Nữ Oa, Thần Nông Thị .
    Có trường phái lại thảy bỏ Hữu Sào Toại Nhân thay Hoàng Đế vào thời Tam Hoàng, thành ra : Phục Hy Nữ Oa, Thần Nông Thị và Hoàng Đế vào khoảng 4480 năm tCN (theo Tư Mã Thiên) .
    Trường phái khác lại chỉ công nhận từ thời Hoàng Đế trở về sau, vào khoảng 2697 năm tCN. Dù vậy đại chúng Trung Quốc nói riêng và toàn vùng Châu Á nói chung vẫn hiểu cổ sử theo Kinh Dịch, với Phục Hy, Thần Nông và chuyện cổ về Tam Hoàng, Ngũ Đế, Tam Đại .
    (to be continued)
    Trần Kim Khử
    Source:
    Saigonmedia.net
  3. binhnhat

    binhnhat Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2006
    Bài viết:
    782
    Đã được thích:
    7
    tiếp
    --------------------------------------------------------------------------------------
    Thời Tam Hoàng
    Sách cổ Tam-phần, Ngũ-điển là sách góp nhặt nhiều mảnh vụn truyền khẩu từ thời xưa, đến thời Xuân Thu được Khổng Tử (500 năm tCN) san định lại thành Kinh Thư, và tu chỉnh lại vào thời Tây Hán (133 năm tCN) . Chúng ta nên chú ý, nội dung cổ sử Trung Quốc nên hiểu một cách khách quan như sau : cái nền là căn cứ vào chuyện truyền khẩu, cái nét là chủ kiến của triều đại đang trị vì, và cái nếp thì chung chung lấp lửng không có gì rõ ràng, và thật mơ hồ về bản sắc dân tộc . Tước hiệu của thời Tam Hoàng, nhiều học giả đã khẳng định rõ là "Đức Hiệu" để đặc trưng cho thời đại lúc sơ khai còn sinh hoạt bằng du-canh và du-cư . Còn về phần niên kỷ, thì các nhà sử gia đều đồng ý là chỉ có giá trị tam khảo chứ không xem là niên đại chính thức của lịch sử .
    Hữu-Sào Toại-Nhân : (?tCN) Con người biết đến kết cành làm tổ trên cây để ở và để tránh thú dữ (hữu là có, Sào là tổ để ở). Biết khoan cây , cọ đá để tạo lửa nấu ăn (toại là thỏa mãn, nhân là người ; người biết dùng lửa cho toại sống). Huyền thoại có ghi : Toại Nhân tuần thú xuống Nam Thùy, nghĩa là, những tiến bộ vào lúc bấy giờ cũng được lan truyền xuống cả phương Nam .
    Phục Hy Nữ Oa : (4480-3365? tCN) con người biết nuôi thú vật, biết kết thằng làm lưới bắt cá . Biết chế đàn cầm. Biết trồng dâu nuôi tằm, dệt vải . Biết xây nhà trên đất bằng . Hiểu được lý tự nhiên mà phát kiến ra dấu gạch của âm-dương bát-quái . Kinh Dịch có ghi "Phục Hy thị một" , nghĩa là Phục Hy khai sáng đầu tiên bằng dấu gạch trên đá, trên thẻ tre, gọi là quải (treo), sau nầy đọc trại ra thành quái, rồi dần biến thành từ quẻ như hiện nay hay dùng .
    Thần Nông Thị : (3320-3080? tCN) con người biết đẽo gỗ chế tác cày bừa, đốt rừng làm ruộng rẫy. Biết họp chợ trao đổi hóa vật cần dùng . Biết dùng cây cỏ làm thuốc trị bệnh . Và xiễn minh, lý âm dương . Kinh Dịch có câu "Thần Nông Thị Tác", nghĩa là Thần Nông kế tục tác thành trọn bộ Kinh Dịch bằng những dấu gạch liền, dấu gạch đứt, và những dấu chấm den trắng làm biểu tượng đồ hình cho : Thái Cực, Âm Dương, Tứ Tượng, Bát Quái, Trùng Quái, Hà Đồ, Lạc Thư ... , phần lý giải thì truyền miệng (như tầm sư học đạo, vì thời nầy chưa có chữ viết) .
    ...
    Thời Tam Hoàng, được gọi là Thời Bộ Lạc Cộng Chủ, thời nhân sinh đại đồng . Vào thời nầy, chưa có bộ lạc nào lấn hiếp đồng loại, đời sống con người lẻ tẻ từng thị tộc, bộ tộc, hoặc là du mục du cư, hoặc là trồng trọt định cư . Đất thì quá rộng, người thì quá ít, nhu cầu lượm hái đuổi bắt từ thiên nhiên thừa mứa cho cuộc sống .
    Đời sống con người thời ấy thật sự thái bình, không bị trị, không biết tranh giành . Chủ yếu cho đời sống của thời đó, tất cả các Thị Tộc, Bộ tộc, Bộ lạc cùng suy tôn và thánh hóa một Cộng Chủ thần minh truyền dạy cho con người : biết dùng lửa để nấu ăn và làm nông nghiệp . Biết tầm tang để mặc ấm . Biết làm nhà để ở trên đất . Biết dùng thảo mộc để làm thuốc trị bệnh . Biết tôn thờ Thần Thánh để làm chổ tựa cho tâm linh . Và nhất là thành tâm học hỏi "Âm Dương Dịch Lý" .
    Kinh Dịch là bộ sách cổ nhất tóm lược lịch sử thời Tam Hoàng nhiều nhất, nhờ vào bộ sách nầy mà ngày nay chúng ta mới hiểu được thời Tam Hoàng .
    Thời Ngũ Đế
    Kinh thư có ghi lại hai Đế cuối là Đế Nghiêu va Đế Thuấn, còn trên nữa thì không . Sách cổ "Trúc Thư Kỷ Niên", và sử ký "Ngũ Đế Bãn Kỷ" có kể chuyện Hiên-Viên Hoàng Đế, Đế Chuyên-Húc, Đề Cốc, Đế Nghiêu, và Đế Thuấn , ghi chép đủ 5 Đế . Nhiều học giả ước định có đến 7 Đế, nhưng người xưa thích gói gọn vào các huyền số 3, 5, hay 18 của Dịch Lý .
    Hoàng Đế (2697-2600 tCN) Mẹ Hoàng Đế tên là Phụ Bão, thấy vầng sáng bao quanh sao Su (chòm sao Bắc Đẩu) mà thụ thai, sinh ra Hoàng Đế, có tên tộc là Hiên-Viên thuộc bộ lạc Hữu Hùng . Truyền thuyết kể rằng Hoàng Đế thắng Xuy Vưu và Viêm Đế , là nhờ chế ra trống bịt da thú và nhờ sự trợ giúp của bốn mãnh thú Hổ, Báo, Hùng, Bi (4 bộ lạc liên minh). Thắng được Viêm Đế, Hiên-Viên tức vị Hoàng Đế (Đại Tù Trưởng) . Tung tích của Hoàng Đế ở Cam Túc và vùng hoạt động lẩn quẩn trong phạm vi tỉnh Hà Nam ngày nay. Tương truyền vào thời Hoàng Đề đã chế ra được xe, thuyền, ... mão áo xiêm y may thêu được ngũ sắc . Sai Thương-Hiệt chế tác văn tự, chữ viết khoa Đẫu (?) , sau nầy giới ngữ pháp gọi là chữ chân chim .
    Đế Chuyên-Húc Cao Dương Thị (?tCN) năm 20 tuổi lên ngôi Cộng Chủ, 30 tuổi sinh Bá Cổn. Bá Cổn sau nầy trị thủy không thành . Cuối đời Chuyên-Húc có Thuật-Kế dòng Thần-Nông dấy loạn .
    Đế Cốc, Cao Tân Thị (?tCN) Đế Cốc là cháu Nguyên Hiệu . Nguyên Hiệu là con của Hoàng Đế , lập lệ người mù đánh chuông khánh , rồi phượng hoàng đập cánh múa hát . Đai ý, đến thời nầy cung cách sinh sống đã nghiên về văn hóa nông nghiệp và tôn quí chim như tục lệ cư dân địa phương .
    Đế Nghiêu (2359-2259 tCN) là hậu duệ của Hoàng Đế, đô ở Thái Nguyên (nam bộ tỉnh Sơn Tây) lấy hiệu là Đường . Sai Hy Trọng, Hy Phúc, Hòa Trọng, Hòa Phúc, tung đi bốn phương, trông mặt trời, mặt trăng để làm lịch, định các tháng, một năm 366 ngày, theo tháng nhuận, cho dân biết thời tiết mà làm ruộng . Đế Nghiêu ở ngôi được 70 năm không truyền ngôi cho con, mà truyền cho hiền tài là Đế Thuấn người Đông Di) .
    Đế Thuấn (2259-2208 tCN) lúc Đế Thuấn còn là nhiếp chính đã đày Ông Cổn về tội đấp đập ngăn nước làm sông Hoàng Hà bị đại hồng thủy gây lũ lụt tai vạ lớn. Tiếp đó, Đế Thuấn sai Ông Vũ, con của Ông Cổn, thay cha trị thủy. Ông Vũ khai ngòi sông, nước chãy thuận dòng ra bễ, đạt thành công trạng . Đế Thuấn truyền ngôi cho Ông Vũ . Đến khi Đế Thuấn băng, Ông Vũ tránh đi, nhưng các chư hầu (bộ lạc) không đến chầu triều của con Đế Thuấn, mà lại theo chầu Ông Vũ . Ông Vũ lên ngôi lập thành nhà Hạ .
    ...
    Thời Ngũ Đế (2697-2205 tCN) còn gọi là thời bộ lạc liên minh, vào thời nầy đã có bộ lạc mạnh yếu, lấn hiếp xâm chiếm, bạo lực bạo hành, đánh đuổi cướp giựt, để được sinh tồn, các bộ lạc buộc phải chống cự hoặc tùng phục. chống cự thì phải liên minh, còn thuận theo kẻ mạnh cũng là một cách liên minh . Liên minh với kẻ mạnh đồng nghĩa với a tòng, tất phải tham gia chiếm đoạt, vừa được yên thân lại thêm được chia chiến lợi phẩm. Nếu không thì phải dời cư thật xa thật sâu vào nơi rừng rậm hay đồng vắng lúc bấy giờ vẫn còn hoang dã mênh mông . Phương Nam đang là Đất Hứa .
    Thời Tam Đại
    Theo truyền thuyết, trời ban cho vua Đại Vũ "Hồng Phạm Cửu Trù" là phạm qui lớn nằm trong 9 trù của Lạc Thư Kinh Dịch để trị nước xem chương IX, Cửu Trù) . Sau nầy nhà Thương Ân tiếp giữ . Khi nhà Thương Ân mất Cơ Tử truyền lại cho Võ Vương nhà Chu . Qua công tác trị thủy đồng nghĩa là trị nước, vua Đại Vũ khai phá được thêm một vùng bình nguyên phía Đông của người Đông Di khá rộng lớn .
    Nhà Hạ (2205-1784 tCN) Ông Đại Vũ là con của Ông Cổn, hậu duệ Đế Chuyên Húc, thuộc bộ tộc trung bộ tỉnh Hà Nam , lên ngôi thiên tử, lập thành triều đại nhà Hạ, đô ở Hưng Thành (Hà Nam) . Tập tục du mục vẫn còn dời đổi đô ấp và thể chế bấy giờ mới có hình thức vương triều liên bang, chưa thành thể chế phong kiến phức tạp như ngày nay . Nhà Hạ trị vì 442 năm ... Trước kia con lấy họ mẹ (tính), đến đời vua Đại Vũ vì có phân chia đất ruộng cho bộ lạc liên minh, cha đã lấy họ theo tên vùng đất đang ở, nên từ đó con theo họ cha (tích thổ tính) . Và cũng từ đó : tôn tổ (tôn Cha), kính tông (trọng Họ), báo bản (trình gốc), truy viễn (xét xưa), tế tự (gia phã, tộc phã) dân chúng mãi đến thời nay vẫn còn tuân giữ .
    Nhà Thương (1783-1134 tCN) tổ nhà Thương là Ông Tiết được sắc phong ở đất Thương (Hà Nam) đánh đuổi vua Kiệt, vị vua cuối đời nhà Hạ, lên ngôi thiên tử lấy hiệu triều đại là Thương, đô ở đất Bạc (Hà Nam). Đến đời Bàn Canh đổi hiệu lại là Ân. Đến đời Trụ bị Vũ Vương Nhà Chu thay. Nhà Thương Ân trị vì 648 năm, Thương triều trãi qua 10 đời với 18 vị vua, Ân triều thì 17 đời với 30 vị vua . Nhà Thương Ân chuộng võ, trọng tế tự, văn hóa thịnh hơn nhà Hạ . Khai quật thu lượm từ khảo cổ học cho thấy nhiều chứng cứ về chữ viết và nét gạch bát quái trên di chỉ mai rùa bói toán của thời nhà Thương . Nước Tàu thời cổ bắt đầu thịnh về chữ viết có lẽ bắt đầu vào thời nầy .
    Nhà Chu (1134-256 tCN) nhà Chu dấy lên tại huyện Kỳ Sơn (tỉnh Thiễm Tây ngày nay). Thủy tổ là Khí, làm quan Hậu Tắc thời Đế Thuấn được phong ở đất Thai (thuộc Thiễm Tây), truyền đến Bất Quật thì mất chức quan, trốn ở chung với người Nhung Dịch. Đến thời Hậu Tắc thì phục hồi được chức quan, truyền 10 đời kế tục, đến thời Đãn Phụ bị Nhung Dịch bức bách dời cư về Kỳ Sơn (Thiễm Tây), lấy hiệu là Chu . Đãn Phụ truyền ngôi cho Qui Lịch, Qui Lịch truyền lại cho Xương, tức là Văn Vương nhà Chu ... Vua Trụ bỏ ngục Văn Vương tại Dũ Lý . Sau đó cho giữ chức Tây Bá sai đi đánh dẹp Khuyễn Nhung, Mật Tu ở phía Tây, và nước Kỳ, nước Vu, nước Sùng tại phía Đông. Lúc bấy giờ Văn Vương được 2/3 chư hầu phương Bắc qui phục, và thu dụng được hìn tài Lữ Vọng, tức Khương Tữ Nha ... Tây Bá Cơ Xương tức Văn Vương mất, con là Cơ Phát nối ngôi hiệu là Võ Vương, liên kết cùng 800 chư hầu (bộ lạc) phá tan quân nhà Ân của Trụ Vương tại Mục Dã . Diệt Trụ xong nhà Chu giáng chức Võ Canh con của Trụ Vương về Lạc Ấp ... Võ Vương băng, con là Trung lên ngôi lấy hiệu Thành Vương, việc triều chính giao cho Chu Công nhiếp chính 7 năm và các đời tiếp theo, sử gọi là thời Tây Chu, trị vì được 324 năm ... Tiếp thời Tây Chu là Đông Chu Xuân Thu (722-481 tCN) và Đông Chu Chiến Quốc (403-221 tCN) kéo dài 424 năm, truyền ngôi được 35 đời vua ... nhà Tần diệt Chu lập thành nước Tần vào năm 221 tCN .
    ...
    Thời Tam Đại, còn gọi là thời Vương Triều Liên Bang, tuy hình thức liên minh có tiến bộ, thể chế phong kiến bắt đầu có tổ chức, nhưng trong Trung quốc Sử Lược có viết rằng, nhà Hạ liên tục dời đô trong phạm vi tỉnh Hà Nam (cho thấy vẫn còn tình trạng du cư) . Nhà Thương Ân cũng luôn dời cư trong vòng tỉnh Hà Nam . Đến thời nhà Chu, tuy có một thời gian dài an định tại Tây An, Thiễm Tây (Tây Chu), nhưng rồi cũng phải dời cư về Hà Nam, vì người Nhung Dịch ở miền Tây Bắc luôn đến cướp phá .
    Vào thời nầy danh từ "Quốc Gia" không đồng nghĩa với "Nhà Nước" như hiện nay . Nghĩa cổ của "quốc" là tư sản của vua, thời Ngũ Đế, Hạ, Thương, quốc chỉ có tỉnh Hà Nam và Sơn Tây . đến thời Tây Chu thì quốc của vương triều mới có thêm được Thiễm Tây ... Còn "Gia" là tư sản của quan Đại Phu gọi là đất phong ... Đồng nghĩa với từ "Quốc Gia" như bây giờ thì thời ấy gọi là "Xã Tắc" (xã là thần đất, tắc là thần lúa) . Đất riêng của các chư hầu (bộ lạc) thì gọi là Bang . Đến thời nhà Hán, vì húy chữ Bang là tên của Lưu Bang Hán Cao Tổ, nên dùng chữ "Quốc" thay vào, nên từ đó gọi là Trung Quốc mãi cho đến ngày nay, thay Trung Bang .
    Nhà Tần lập quốc năm 221 tCN, danh từ Tần phiên âm là tsin, Pháp văn đọc là Chine (Sin-nờ), Anh văn đọc là China (tờ-chai-na), và Việt văn là Tàu . Danh từ gọi Hán nhơn bắt đầu từ nhà Hán (208 tCN), Đường nhơn từ thời nhà Đường (571 sCN), danh từ Trung Hoa bắt đầu từ ngày thành lập Trung Hoa Dân Quốc (1937), và danh từ Trung Quốc dùng để gọi chung toàn bộ các sắc tộc hiện sống trên lãnh thổ Trung Quốc ngày nay .
    (to be continued)
    Trần Kim Khử
    Source:
    Saigonmedia.net
  4. binhnhat

    binhnhat Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2006
    Bài viết:
    782
    Đã được thích:
    7
    tiếp
    --------------------------------------------------------------------------------------
    Họ Thần Nông
    Theo ông Ville Durant viết trong Lịch Sử Văn Minh Trung Quốc như sau : thời thượng cổ Trung Quốc không bao gồm một dân tộc duy nhất và thuần chất, mà là một kết hợp của nhiều giống người, nhiều sắc tộc, khác nhau từ nguồn gốc, ngôn ngữ , chí đến nghệ thuật và đặc tính ... Nền văn minh Trung Quốc ngày nay đã phát triển ít nhất là 7000 năm rồi ...
    Theo nhà Nhân Chủng Học Eberhard đã khẳng định như sau : ngay từ xưa đã thấy dấu vết người Việt trong tất cả miền Nam sông Dương Tử cũng như tại phương Nam và Đông Nam .
    Thời Thần Nông có 5 tiến bộ nổi bật là,
    Biết làm nông nghiệp (lúa nước)
    Biết dùng cây cỏ làm thuốc trị bệnh
    Biết nghề tầm tang để được mặc ấm
    Biết âm dương dịch lý, do Phục Hy phát kiến
    Biết luyện kim, chế tạo ra đồ đồng
    Truyền thuyết kể rằng, cháu 3 đời họ Thần Nông là Đế Minh nhân lúc đi tuần du phương Nam thì lấy con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục Kinh Dương Vương (con Thứ), phong cho cai quản phương Nam. Đế Minh lại phong cho con trưởng là Đế Nghi cai quản phương Bắc vùng Hoàng Hà. Đại ý nói lên cội nguồn Bách Việt là đa sắc tộc của cả 2 miền có mặt khắp mọi nơi trong thời cổ Trung Quốc .
    Lúa nước ngày xưa trồng trên đất rừng và triền núi, chỉ trồng được vào mùa mưa tại những nơi mà mùa mưa kéo dài từ 4 đến 6 tháng trong năm, còn gọi là lúa rẫy. Lúa trồng trên ruộng cạn, phải có hệ thống và phương cách dẫn thủy nhập điền, nên còn gọi là lúa cấy . Hoặc, lúa trồng dưới ruộng sâu, đến mùa nước nổi bị ngập lụt từ 2 đến 5 mét , thì cần phải trồng loại lúa thích ứng cao vượt theo ngọn nước dâng lên nên gọi là lúa sạ ... Vì thế công xuất trồng lúa nước ngày xưa đòi hỏi phải có kỷ thuật nông nghiệp tương xứng với kinh nghiệm về thời tiết, khí hậu, kỷ thuật từ gieo tới gặt, từ vận chuyễn đến lưu trữ, từ thô sản đến thành lương thực ... nhất nhất đều phải thích nghi, tương ứng, đòi hỏi một sự điều hợp tài tình. Trình độ cư dân thời xưa mà được truyền dạy trồng lúa nước, đạt kỷ thuật nông nghiệp, tất người khai sáng và hướng dẫn xứng đáng được suy tôn là Thần Nông .
    ...
    Năm 1965, ông Chester German (thuộc khoa Khảo Cổ) phát hiện ở Hang Thần tại vùng Bắc Thái Lan có hóa thạch của vỏ lúa, đậu, mè, hồ tiêu, bí, dưa leo ... phân chất carbon xác định các di chỉ nầy có từ niên kỷ 3000 đến 6000 năm trước Công Nguyên (tCN), chứng cứ nầy đưa đến xác định là dân cư vùng Đông Nam Á biết trồng cây, trồng ngũ cốc, trồng lúa nước, trước tiên trên thế giới .
    Theo ông Needham thì Thần Nông (tên gọi theo ngữ pháp, Việt) là nhân vật thần thoại liên quan mật thiết về nông nghiệp, vốn là của dân bản địa phương Nam.
    Theo Lịch Sử Văn Hóa Trung Quốc của ông Đoàn Gia Kiên chủ biên, thì "lúa đạo" được du nhập vào trồng tại vùng Trung Nguyên sông Hoàng Hà từ đời nhà Chu, thế kỷ XIII tCN . Căn cứ theo bút tích nầy ông Trần Ngọc Thêm, TVBSVHVN, suy diễn , có thể danh từ gạo là do từ "đạo" nầy mà có .
    Việc tôn thờ Thần Nông là thủy tổ, chứng minh một trong những dấu vết của người Việt kế thừa những thành tựu của cơ tầng văn hóa Nam Á cổ xưa ... Theo GS Đinh Gia Khánh, đối với người Tàu thì họ không hề coi Thần Nông là thủy tổ mà xem đó là một thiên đế quản lãnh phương Nam . Thần Nông chỉ được những cư dân trồng lúa, và dân Lạc Việt đặc biệt tôn thờ .
    ...
    Trần Kim Khử
    Source:
    Saigonmedia.net
  5. binhnhat

    binhnhat Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2006
    Bài viết:
    782
    Đã được thích:
    7
    Bác jeudi còn post một số phần khác cùng với phần trên nói về nguồn gốc dân tộc Việt, em thấy không thuộc chủ đề này nên không post lại vào đây.
    Link gốc các bài trên tại : http://www.ttvnol.com/Phutho/429038/trang-2.ttvn
    tuy nhiên không hiểu sao link trên không vào được Các phần trên được lấy từ bản lưu của Google.
  6. binhnhat

    binhnhat Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2006
    Bài viết:
    782
    Đã được thích:
    7
    Ở phần đầu các bài trên có nhắc đến 4 lần băng tuyết, và sau đó những người còn sống sót trên dãy Hy Mã Lạp Sơn mới tỏa đi các miền. Vậy 4 lần băng tuyết ở trên có nghĩa là gì? phải chăng đã có một thảm họa thiên nhiên nào đó? và thảm họa này có liên quan đến trận Đại Hồng Thuỷ trong Kinh Thánh không?
    Bác nào biết trả lời giúp em với.
  7. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Trần Kim Thử cũng nhắc lại những điều sử cổ không có căn
    cứ mà thôi . Điều đó chứng tỏ ông ta cũng không có óc suy luận.
    Điều bậy bạ trong sử cổ là: Lạc Long Quân (tổ Việt) là em
    Đế Minh (tổ Hoa), con của Thần Nông ở Trung Hoa.
    Giá mà người đọc có chút suy nghĩ một chút, thì không dễ tin
    sử cổ như thế.
    Điều bậy bạ nữa: "Thần Nông chỉ được những cư dân trồng lúa,
    và dân Lạc Việt đặc biệt tôn thờ." trong khi đã nói Thần Nông
    ở hồ Động Đình nam sông Dương Tử ở trên kia. Câu này hoàn
    toàn không có căn cứ ở nguồn tin khoa học nào.
  8. YoutaMoutechi

    YoutaMoutechi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    967
    Đã được thích:
    0
    Đoạn 1 : Đoạn 4 của Codep chứng tỏ là ông Thử cũng biết suy luận, suy diễn
    Đoạn 2 : Theo cổ sử thì Đế Minh là ông nội Lạc Long Quân cơ. đây là huyền sử mà thôi, không hiểu nó bậy bạ là vì cớ gì ?
    Đoạn 3 : Chẳng có ai tin cổ sử cả, người ta post ra đây chỉ là để cho những người chưa biết có thêm kiến thức văn hoá nên Codep cũng không cần chắt lưỡi làm gì.
    Đoạn 4 : Tất cả những điều ông Thử viết và suy diễn là dựa trên cổ sử, Codep đã biết cổ sử là huyền hoặc vậy thì sao lại còn yêu cầu "căn cứ ở nguồn tin khoa học", có buồn cười quá không ?
    Tóm lại, xem lại đoạn 3.
  9. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Hay quá.
    Ít ra cũng có người nghĩ như thế.
    Ông Thử suy diễn những điều không ai tin.
    Bài trích dẫn bài viết của ông Thử cho biết trên đời có người
    làm những chuyện như thế.
  10. vnhn

    vnhn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2004
    Bài viết:
    840
    Đã được thích:
    0
    Đồng ý,không thể tin cổ sử,tất cả phải có chứng minh khảo cổ.

Chia sẻ trang này