1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa và các tranh chấp của các bên liên quan với VIệt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi lionking_hau, 15/01/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    Lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa và các tranh chấp của các bên liên quan với VIệt Nam

    thể theo nguyện vọng của rất nhiều bạn mới tham gia ttvn và box giáo dục QP, chúng ta đều quan tâm đến chủ quyền và lịch sử dân tộc liên quan đến 2 quần đảo của Việt nam chúng ta là Hoàng Sa và Trường Sa, tôi có một tài liệu nhỏ, ko biết ai đã có chưa nhưng tôi post lên đây, tài liệu này nói về lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa, những xích mích, những khiêu khích của thế lực thù địch và các tranh chấp diễn ra của các bên liên qua,

    Mong rằng anh em đừng bàn luận gì nhiều và đừng nói linh tinh, tài liệu là môtụ nghiên cứu, ko biết ai có chưa, nhưng tôi post, nếu có đụng hàng với ai, nói trước là xin lỗi nếu đụng hàng nhé,

    Nào ta bắt đầu đi vào vấn đề chính (tài liệu được viết trên phông chữ VNI_VNTIMES ai chưa có phông chữ này thì cài lại font hệ thống và cài phần phông vni là đọc được, yêu cầu ko spam, mà có spam thì cần trích rõ câu hỏi, vấn đề cần khúc mắc và cần hỏi)

    (Xoá đoạn font chữ ko đọc được, xin xem bản sửa của Iceface ở dưới, Maseo)
  2. Iceface

    Iceface Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/06/2004
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    1
    Bình tĩnh đi bác!
    Tại ông lionking post bài sử dụng bảng mã VNI nên có mấy bác đọc không được (vì máy không có font VNI). Thôi tui xin phép chuyển mã sang font Unicode giùm nhé.

    Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam từ nhiều thế kỷ nay. Quần đảo này có tầm quan trọng đặc biệt về mặt chiến lược (nằm trên thủy đạo và đường bay quốc tế) cũng như có tiềm năng quan trọng về kinh tế (dầu khí, các sản vật khác) và hiện đang bị xâm phạm bởi nhiều nước như Trung Quốc (bao gồm Đài Loan), Philippines, MaLaysia, Brunei khiến trở thành điểm nóng chính trị của khu vực.
    Nghiên cứu đề tài này không những là do nhu cầu của giới nghiên cứu khoa học mà còn đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đối với quốc dân cũng như các nhà lãnh đạo, nhất là cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Ngoài ra, bản thân người nghiên cứu vốn quan tâm đến vấn đề này từ hơn 25 năm nay, muốn có cơ hội để hệ thống hoá, tổng hợp tất cả các tài liệu và tìm hiểu đầy đủ, thấu đáo việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Công trình nghiên cứu nhằm mục đích :
    1. Cung cấp tư liệu một cách tổng hợp, hệ thống và cặn kẽ về quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ đó rút ra những luận điểm vững chắc minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    2 Cũng từ đó, giúp cho việc phản bác những luận điểm biện minh cho sự xâm phạm của các nước ngoài đối với chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hầu thấy được thực chất của tình trạng xâm phạm chủ quyền để xây dựng các đối sách lâu dài bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    3. Góp phần xây dựng nhận thức rõ ràng về trách nhiệm tranh đấu giành lại chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Trường Sa của nhà nước và nhân dân Việt Nam.
    2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
    ? Trước năm 1975.
    Trước năm 1909, chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bị Trung Quốc và các nước khác xâm phạm. Năm1907 là năm xảy ra việc người Nhật chiếm đảo Pratas. Trung Quốc đã phản đối sự chiếm đảo Pratas này của người Nhật cho rằng đảo vô chủ. Để ngăn chặn sự bành trướng của Nhật xuống phía Nam và tránh xảy ra sự kiện "Pratas thứ 2", Trung Quốc đã đặt tên một loạt các đảo ở Biển Nam Hải trong đó có Tây Sa và Nam Sa mà Trung Quốc cho là đảo vô chủ. Lúc này, Nam Sa chưa xuống dưới vị trí của Trường Sa của Việt Nam mà chỉ ở vị trí Trung Sa. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh đã thấy xuất hiện những thư tịch cổ Việt Nam đề cập chung chung đến Hoàng Sa. Xưa nhất, ít ra vào cuối thế kỷ XVII như tập bản đồ ?oToản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư?hay Toản Tập An Nam Lộ của Đỗ Bá Công Đạo [23], [191], có vẽ và ghi chú về ?obãi Cát Vàng? tức Hoàng Sa, tiếp đó là Phủ Biên Tạp Lục [28], [192] của Lê Quí Đôn, mô tả chi tiết về các hoạt động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải minh chứng sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sang đến thời nhà Nguyễn, từ triều Gia Long, cả một hệ thống biên niên sử và địa dư chí của Quốc Sử Quán, sách hội điển, châu bản của Nội Các triều đình nhà Nguyễn đã ghi chép những hoạt động của đội Hoàng Sa một cách rất kỹ và rõ ràng thể hiện sự xác lập và bảo vệ chủ quyền của nhà nước Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Trong đó có bộ chính sử Đại Nam Thực Lục Tiền Biên [96], [195], Chính Biên [97], [98], [99] , [100], [101] ,{102], [199], [200], [203], [204], [205], [206] cũng như Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu [104], [210] và bộ địa chí như Đại Nam Nhất Thống Chí [103], [209], Hoàng Việt Địa Dư Chí [135], [194]. Đặc biệt Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Minh Mạng) [93], [201], Châu Bản Triều Nguyễn (triều Minh Mạng & Thiệu Trị) [5], [6], [7], [8], [9], [196], [197], [198] đã đề cập đến việc dựng bia chủ quyền đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bằng chứng hùng hồn Hoàng Sa được vua và triều đình Việt Nam quan tâm và bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa ở bậc quyền lực tối cao (điều này khác hẳn với Trung Quốc cũng như các nước khác không hề có chứng tích xác lập và bảo vệ chủ quyền trong suốt các triều đại phong kiến).
    Ngoài nhà nước Việt Nam, các nhà nghiên cứu nước ta cũng đã quan tâm, ghi chép các hoạt động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải như Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục, Phan Huy Chú trong Dư Địa Chí (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí), Nguyễn Thông trong sách Việt Sử Cương Giám Khảo Lược (quyển 4, năm 1877)..., [207]
    Cũng trong thời gian chưa có sự xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa, nhiều tác giả trong đó có cả người Trung Quốc và các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng đã đề cập đến Hoàng Sa hoặc đến việc xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa của các nhà cầm quyền Việt Nam như Giám Mục Taberd [185], [186] Gutzlaff [157], quan trọng là những người Pháp từng hoạt động giúp Nguyễn Anh tức Vua Gia Long như Dayot, Chaigneau đã xác định Vua Gia Long đã tái xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.
    Ngoài công việc vẽ bản đồ hàng hải trong đó tại Biển Đông có dải đảo Hoàng Sa (Paracels) chạy dài suốt dọc ngoài khơi biển Champa hay Cochinchine, những bút ký, thư từ của người Tây Phương (Bồ, Hoà Lan, Pháp, Anh) về hải trình, các vụ đắm tàu đều được ngư dân và quân lính Đàng Trong đem về đất liền giải quyết.
    Sau năm 1909, tổng đốc Quảng Đông bắt đầu có ý định xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, cho rằng Hoàng Sa chưa thuộc về nước nào (sic!). Lúc này, Việt Nam đang còn bị ách đô hộ của đế quốc Pháp, bắt đầu mới có nhiều người thực sự quan tâm nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, song mới chỉ là những bài báo. Rộ lên nhất là cuối thập niên 20 đầu thập niên 30. Tiêu biểu là Lapicque viết trong Revue Indochinoise số 38, 1929 [166] sưu tầm một số tài liệu xác định chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa và trưng bằng cớ chính quyền địa phương Trung Hoa nhân vụ những người Trung Quốc cướp trên tàu bị đắm Le Bellona năm 1895 và tàu Imazi Maru năm 1896 đã từ chối chủ quyền, không trách nhiệm về việc cướp nói trên ở quần đảo Hoàng Sa vì cho rằng ?oParacel? không thuộc chủ quyền Trung Quốc. Sau đó hàng loạt những bài báo của Henri Cuchrousset đăng trên báo Eveil Economique de l?TIndochine từ năm 1929 đến 1931 [146 -152] đưa ra những bằng chứng chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, trách cứ chính quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền ở đảo Hoàng Sa, đến nỗi đã bị dự thẩm Barbet ra lệnh khám xét ban đêm để buộc nhà báo phải nộp cho toà các hồ sơ liên quan đến Hoàng Sa. Chính vì vậy đã có tác động, chính quyền Pháp, vào những năm sau đó đã tái xác nhận chủ quyền ở Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly) với những hành động cụ thể như khảo sát, cắm cọc, thiết lập hải đăng, đài khí tượng và trại lính (vào những năm đầu thập niên 30). Trong những năm này có nhiều công trình nghiên cứu địa lý Hoàng Sa.
    Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai và chiến tranh kháng chiến chống Pháp, ít ai quan tâm nghiên cứu đến Hoàng Sa.
    Sau năm 1954, theo hiệp định Genève, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về chính quyền Sàigòn kiểm soát. Năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Việt Nam, Philippines lên tiếng đòi chủ quyền của mình ở quần đảo Trường Sa. Năm 1956, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc chiếm đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và sau đó Đài Loan chiếm đảo Itu Aba, vấn đề tranh chấp chủ quyền được đặt ra gay gắt, từ đó nhiều bài nghiên cứu đã được đăng báo. Nổi bật hơn cả là hai công trình nghiên cứu về chủ quyền của Hoàng Sa tương đối có hệ thống và dầy công sưu tầm. Đó là công trình ra đời vào năm 1971, L?Taffaire des ýles Paracels et Spratly devant le droit International, 298 trang đánh máy, luận án tiến sĩ đệ tam cấp của ông Lê Thành Khê, tại Institut International d?TEtudes et de Recherches Diplomatiques [161]. Công trình này đi sâu về mặt công pháp quốc tế, chủ yếu theo luật pháp quốc tế của thế giới tư bản chủ nghĩa và những án lệ của toà án quốc tế La Haye. Tác giả trên chưa có điều kiện đi sâu vào những chứng liệu về lịch sử.
    Tiếp đó, năm 1972 xuất hiện công trình luận văn tốt nghiệp Ban Đốc Sự của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (Sàigòn ) của Đinh Văn Cư với đề tài : ?oChủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?, dày 137 trang đánh máy [24]. Công trình trên dành hơn 1/4 nội dung nói về hoàn cảnh địa lý và trình bày diễn tiến sự tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia tại Hoàng Sa.
    Tới năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, nhiều công trình đã được thực hiện trong năm này, trong đó có tập tư liệu bằng tiếng Pháp của Võ Long Tê với nhan đề ?o Les Archipels de Hoang Sa et de Truong Sa selon les Anciens Ouvrages Vietnamiens d?THistoire et de Geographie?, in năm 1974 dày 201 trang [187]. Đây là bản dịch tiếng Pháp các đoạn trích những thư tịch cổ Việt Nam về Hoàng Sa. Tiếp đó ?oHoàng Sa, lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà?, dày 96 trang của Bộ Dân Vân Chiêu Hồi (chính quyền Sàigòn) [10] và sách Trắng của Bộ Ngoại Giao chính quyền Sàigòn vào năm 1975 [170]. Cũng vào năm 1975 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử nghiên cứu vấn đề chủ quyền của Hoàng Sa là Tập San Sử Địa số 29 (1975), đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, 352 trang gồm nhiều tư liệu, hình ảnh, bản đồ ,đã được đánh giá cao.
    Sau năm 1975.
    Một số cơ quan như Ban Biên Giới Chính Phủ, Viện Nghiên Cứu về Trung Quốc, các trường đại học bắt đầu quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa, đặc biệt sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc tháng 2 năm 1979. Tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố tài liệu ?ochủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa?. Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại công bố cuốn sách trắng ?oquần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam?. Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại Giao nước Cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lại công bố tài liệu: ?o Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế?. Mẫn Khánh Dương Kỵ và Trần Xuân Cầu viết bài ?oTừ Bãi Cát Vàng đến Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam? trong Sử Học số 2 (nhà xuất bản Đại Hoc và Trung Học Chuyên Nghiệp) [79] đã đưa ra một vài thông tin mới, cách tiếp cận mới qua thực địa tại cù lao Ré.
    Cuốn ?oHoàng Sa, quần đảo Việt Nam? 90 trang của Văn Trọng [134] là đúc kết cô đọng và chú trọng về phần tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc thêm một số hình ảnh, như bia chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa chụp năm 1938, trên quần đảo Trường Sa chụp năm 1961.
    Gần đây có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia về Hoàng Sa, Trường Sa đang được tiến hành. Trong đó có đề tài như "Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học Về Lịch Sử Chủ Quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", mã số BĐHĐ 01 - 01 do PTS Nguyễn Quang Ngọc (ĐHTH Hà Nội) chủ trì đã báo cáo tổng kết ngày 30/4/1995 và Hội Thảo Quốc Gia ?oLuận cứ Khoa Học Lịch Sử, Địa Lý và Pháp Lý chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? tại Hà Nội ngày 18/1/1996 cùng một số kết quả được tiếp tục công bố trong những năm sau đó.
    Riêng bản Hợp Đồng Nghiên Cứu Khoa Học trên, bước đầu đã có những đóng góp đáng kể về bản đồ cổ Việt Nam do Trần Bá Chí phụ trách tìm ra được 22 sách cổ có bản đồ vẽ Hoàng Sa và Trường Sa. Về thư tịch cổ Việt Nam do Phạm Kim Hùng, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Hữu Thành phụ trách, ngoài kiểm tra, đối chiếu với nguyên bản 25 cuốn sách chữ Hán đã được dịch, còn phát hiện thêm một số thông tin mới ở Đại Nam Thực Lục và còn tìm thêm 15 cuốn sách như Địa Dư Toát Yếu, Nam Việt Địa Dư Chí, Cao Chu Thần Di Cảo, Chu Nguyên Tập Vựng Khảo, Mân Hành Thi Thảo, Việt Hành Ngân Thảo, Đông Hành Thi Thuyết, Quảng Thuận Đạo Sử Tập, Trung Kỳ Dư Địa Lược Sao, Hải Trình Chí Lược ? Tuy các sách trên không trực tiếp đề cập đến vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa , song các sách đó đã đề cập đến Hoàng Sa , cũng đã phản ảnh sự hiểu biết và quan tâm của người Việt xưa đối với Hoàng Sa. Về tư liệu Châu Bản do Võ Văn Sạch, Vũ Văn Quân phụ trách đã phát hiện được một số tư liệu rất qúi về bằng chứng rõ ràng quá trình thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa trong hai triều Minh Mệnh và Thiệu Trị. Về tư liệu Phương Tây do PTS Nguyễn Thừa Hỷ phụ trách đã có những phát hiện đáng kể trong đó có vụ Dayot giúp xây dựng hải quân và vẽ lại bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Anh hay một thương nhân Bồ Đào Nha dâng bản đồ Hoàng Sa cho Nguyễn Anh. Ngoài ra cuộc khảo sát thực địa ở Cù Lao Ré do PTS Nguyễn Quang Ngọc, PTS Vũ Văn Quân thực hiện đã phát hiện các nguồn tư liệu ở dòng họ, làng xã có liên quan đến hoạt động của các đội Hoàng Sa qua các thời kỳ Chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn dưới triều Nguyễn.
    Trong Hội Thảo Quốc gia 18/1/1996 trên, gồm 15 bản báo cáo đóng góp đáng kể về việc nghiên cứu lịch sử tranh chấp Hoàng Sa với Trung Quốc cũng như tư liệu về phía Trung Quốc, từ tìm hiểu hệ thống bản đồ của Trung Quốc của Nguyễn Quang Ngọc để chứng minh cho đến 1909 bản đồ Trung Quốc chưa bao giờ vẽ đến Hoàng Sa đến quan điểm của Trung Quốc về Hoàng Sa - Trường Sa của Hoàng Ngọc Bảo, quan điểm của Đài Loan về Hoàng Sa - Trường Sa của Nguyễn Huy Quy hay tìm hiểu về bộ sưu tập tư liệu Hoàng Sa của Hàn Chấn Hoa (Trung Quốc) chủ biên do Phạm Kim Hùng phụ trách. Ngoài ra vấn đề pháp luật quốc tế về thủ đắc lãnh thổ của Nguyễn Đăng Dũng hoặc án lệ đảo Clipperton của Đinh Ngọc Linh hoặc xây dựng hệ quản trị tư liệu Hoàng Sa - Trường Sa bằng máy tính của Nguyễn Quốc Toản.
    Một số công trình khác cũng được công bố như vấn đề Hoàng Sa - Trường Sa trong quan hệ Việt Trung trong cuốn "Sự Thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt Trung" do nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 1996 hay có tác giả tổng hợp lại những tài liệu đã công bố in thành sách như ông Nguyễn Q. Thắng. Một số luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ có liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa hay Biển Đông như luận án cuả PTS Trần Công Trục ở Việt Nam, của TS Nguyễn Hồng Thao ở Pháp (1996), của PTS Đỗ Hòa Bình ở Liên Xô cũng đã được bảo vệ, song chủ yếu về vấn đề pháp lý của Hoàng Sa và Trường Sa hay Biển Đông .
    Ngoài ra còn có một số bài báo của nhiều tác giả đăng trên báo Nhân Dân, Tạp Chí Lịch Sử Quân Sự, Tạp Chí Hán Nôm, Tạp Chí Xưa và Nay?
    Như thế, các nhà nghiên cứu Việt Nam thật sự đã quan tâm và càng ngày càng đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Hoàng Sa và Trường Sa.
    Các nhà nghiên cứu Phương Tây cũng ngày càng quan tâm hơn về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Pierre Bernard LaFont viết phần ?oLes Archipels Paracels et Spratley trong cuốn Confit de frontières en mer de Chine Méridionale, xuất bản năm 1989 [165]. Đăc biệt cuốn ?oLa souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratley? của bà M.C. Gendreau [155], chủ tịch Hội Luật Gia Châu Au là một công trình khoa học có quan điểm khách quan cho rằng Việt Nam là nước có đủ danh nghĩa thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên mạng internet tháng 12-1999 cũng có hơn 900 tài liệu nói đến Paracels và Spratley (hiện nay có 970 tài liệu).
  3. Iceface

    Iceface Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/06/2004
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    1
    Hix, đây là cách chuyển mã:
    1. Download phần mềm Unikey từ website unikey.sourceforge.net về cài vào.
    2. Chạy Unikey, nhấn phải vào biểu tượng của nó (ở góc dưới bên phải - System Tray), chọn mục Công cụ.
    [​IMG]
    3. Mục Bảng mã, chọn Nguồn là VNI Windows, Đích là Unicode
    4. Dùng MS Word mở file cần chuyển, Copy đoạn muốn chuyển mã
    5. Quay lại bảng Công cụ của Unikey, nhấn nút Chuyển mã. Sau khi xong sẽ có thông báo OK.
    6. Vào lại Word, nhấn Ctrl+V để paste nội dung đã được chuyển mã. Xong. Hoặc paste luôn vào hộp post bài của TTVNOL.
  4. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    bản đồ TS và HS
    [​IMG]
  5. Iceface

    Iceface Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/06/2004
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    1
    (post lại từ bài của lionking_hau)
    PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI HẠN ĐỀ TÀI.
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả đi sâu nghiên cứu những tư liệu minh chứng và những hoạt động cùng những lời khẳng định của nhà nước Việt Nam về việc xác lập, chiếm hữu, bảo vệ chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong quá trình lịch sử khi chưa có sự xâm phạm của nước ngoài và trong thời kỳ bị xâm phạm chủ quyền. Qua đó trình bày những luận điểm, luận cứ, luận chứng về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa .
    Trọng tâm nghiên cứu của đề tài là quá trình xác lập chủ quyền Việt Nam về mặt lịch sử trong thời kỳ chưa có xâm phạm của các nước ngoài và khi đề cập đến sự xâm phạm của các nước ngoài trong bối cảnh sự xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc là chủ yếu và đưa ra những luận điểm phản bác đối với những biện minh xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc vì chỉ có nước này mới thực sự quan tâm đến các luận điểm về lịch sử. Từ đó đưa ra những đối sách lâu dài về việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Luận án là công trình tổng hợp, có hệ thống, có tính đúc kết một cách mới mẻ những công trình nghiên cứu, những tư liệu đã được phát hiện từ trước đến nay, vừa đầy đủ nhất, với một số tư liệu mới và những luận cứ, luận chứng xác đáng góp phần đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa.
    Với những kinh nghiệm tập hợp trên qui mô lớn những tư liệu trong và ngoài nước hồi biên tập Tập San Sử Địa số 29, đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, người nghiên cứu đã nỗ lực, có những khám phá mới về mặt tư liệu chưa có ai đề cập tới như tài liệu của chính người Trung Quốc, Thích Đại Sán trong Hải Ngoại Ký Sự [116] đã cho biết Chúa Nguyễn sai thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam hoặc phát hiện thêm đoạn văn thứ 2 rất dài viết về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa ở thời Vua Minh Mạng trong cuốn sách rất quan trọng có tính cách luật lệ của triều Nguyễn. Đó là Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, cùng tài liệu vẽ sơ đồ các thuyền buồm đóng theo truyền thống ở Cù Lao Ré được sử dụng đi biển, trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa còn lưu giữ trong dân gian tại thôn Đông, xã Lý Hải, Huyện Đảo Lý Sơn tức Cù Lao Ré khi xưa, do ông Nguyễn Hạp vẽ [38].
    Luận án cũng đã trình bày việc Việt Nam quản hạt từ đầu thế kỷ XVII quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Quảng Ngãi khi là phủ, trấn, tỉnh trong thời kỳ chưa bị các nước ngoài xâm phạm. Sau đó thuộc quản hạt của tỉnh Thừa Thiên rồi hiện thuộc Đà Nẵng đối với Hoàng Sa và Bà Rịa Vũng Tàu, rồi Phú Khánh , Khánh Hoà đối với Trường Sa. Cũng trong thời kỳ chưa có sự xâm phạm của nước ngoài, vua, triều đình Việt Nam (thời Minh Mạng) đã tuyên bố khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc cương vực hiểm yếu của Việt Nam. Luận án cũng đi sâu, trình bày một cách hệ thống những hoạt động mang tính nhà nước, xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của đội Hoàng Sa (địa bàn ra đời, thời gian hoạt động, nhiệm vụ, tổ chức và nội dung hoạt động khoảng 17 trang), cũng như đội Bắc Hải hoạt động dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa trong khu vực phía Nam của Biển Đông tức quần đảo Trường Sa và vùng phụ cận (Côn Đảo, Hà Tiên). Luận án cũng đi sâu vào các hoạt động mang tính nhà nước rất cao là thủy quân suốt thời Nhà Nguyễn bắt đầu năm 1816, trở thành lệ hàng năm thời Minh Mạng thứ 17 (1836), với những hoạt động cắm cột mốc, bia chủ quyền xây dựng chùa miếu, trồng cây tại Hoàng Sa và Trường Sa.
    Từ năm 1909, Hoàng Sa bắt đầu bị Trung Quốc và sau đó bị các nước khác xâm phạm chủ quyền, luận án trình bày các chính quyền ở Việt Nam có nhiệm vụ quản lý Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của mình và luôn luôn củng cố, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Tác giả còn phân tích về giá trị pháp lý của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Tác giả đưa ra luận điểm, luận cứ và luận chứng về sự chiếm hữu thật sự, hoà bình và thực thi chủ quyền một cách liên tục, tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả phản bác lại những luận điểm sai trái biện minh cho sự xâm phạm của nước ngoài như của Trung Quốc về sự phát hiện sớm nhất, kinh doanh sớm nhất, quản hạt sớm nhất hoặc luận điểm vô chủ và địa lý kế cận của các nước khác ở Đông Nam Á. Tác giả cũng gián tiếp phản bác lại những phản bác của Trung Quốc về tư liệu Việt Nam hay các luận điểm của chính quyền Việt Nam.
    VỊ TRÍ, ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA .
    1.1 .TÊN GỌI VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA.
    Trước đây trong một thời gian dài, người Việt và người Phương Tây đều tưởng ở giữa Biển Đông chỉ có một quần đảo dài, đều gọi một tên chung, rất nhất quán. Người Việt gọi là Bãi Cát Vàng ( ) hay Cồn Vàng hoặc Hoàng Sa ( ). Hoặc có khi gọi là Đại Trường Sa ( ) hay Vạn Lý Trường Sa ( ).
    Bãi Cát (Kát) Vàng hay Cồn Vàng là gốc từ chữ Nôm, Hoàng Sa gốc từ chữ Hán, đều đồng nghĩa ( Sa = Cát, Hoàng = Vàng; Trường = Dài; Đại = Lớn; Vạn Lý = Vạn Dặm; Bãi là chỗ đất nổi lên ở ven hay giữa sông , biển; Cồn là gò đống nổi lên ở giữa sông hay biển).
    Danh xưng từ chữ nôm"Cát Vàng" rất được thông dụng trong dân gian, được dân gian đặt tên sớm. Tên gọi từ chữ Hán ?oHoàng Sa? được giới nho sĩ dịch và viết ra về sau.
    Người Bồ Đào Nha, Hòa Lan gọi quần đảo là Parcel hay Pracel ( tiếng Bồ Đào Nha, Parcel có nghĩa là đá ngầm - ám tiêu; xem Eduardo Pinheiro, Dictionário Da Língua Portuguesa, Porto, Tipografia Sequeira, L.DA, 1948, tr.1042) vào đầu thế kỷ XVI; khi ấy người Phương Tây chưa biết đến các đảo ở phía Nam mà sau này gọi là Trường Sa; trên bản đồ thường ghi?I de Pracell?như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590).,bản đồVan Langren (1595)?
    Người Pháp, Anh gọi là Paracel vào thế kỷ XVII, XVIII trên các bản đồ hàng hải.
    Mãi đến năm 1787-1788, khi đoàn khảo sát Kergariou Locmaria xác định rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện nay, người Phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Paracel ở phiá Bắc với quần đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 trong thế kỷ XX người Pháp mới gọi là Spratly(1.1) chỉ chung cho quần đảo Trường Sa .
    Còn đối với người Việt, từ đầu thế kỷ XVIII đã kiểm soát vùng Biển Đông tới tận Hà Tiên, như Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục đã cho biết Đội Bắc Hải trực thuộc Đội Hoàng Sa đã phụ trách riêng các đảo phía Nam của Bắc Hải và tới tận Côn Lôn, Hà Tiên. Tuy sang thế kỷ XIX, đã thấy địa danh Vạn Lý Trường Sa ở phía Nam ghi cùng với Hoàng Sa ở phía Bắc trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, song vẫn chưa phân biệt thật rõ rệt mà vẫn chỉ chung một quần thể. Ngay thời Ngô Đình Diệm năm 1956 cũng thể hiện khái niệm ?ohai quần đảo là một? khi trong văn bản ghi Hoàng Sa chỉ cả hai quần đảo Paracel và Spratley.
    Một điều hết sức đặc biệt là có sự nhất quán hết sức rõ ràng giữa danh xưng quần đảo tên Việt và tên Phương Tây, khi Giám Mục Taberd ghi rất rõ ràng ở bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ với hàng chữ: Paracel seu Cát Vàng . (Tiếng Latinh seu = hoặc là). Cũng chính Giám mục Taberd đã viết Paracels được người Việt gọi là Cát Vàng trong cuốn Univers, Histoire et Description de Tous Les Peuples, de Leurs Religions, Moeurs et Coutumes (1833). Điều này không hề có ở Trung Quốc cũng như bất cứ nước nào khác. Chỉ ở Việt Nam mới chắc chắn Cát Vàng hay Hoàng Sa chính là Paracel do Phương Tây đặt tên.Chính điều này là bằng chứng rất rõ ràng người Phương Tây ít ra từ đầu thế kỷ XIX đã xác nhận Paracel chính là Cát ( Kát) Vàng tức Hoàng Sa của Việt Nam.
    Thật khác với người Phương Tây hay Trung Quốc, tên gọi được đặt hai quần đảo này chỉ thuần túy do nhu cầu hàng hải,tên gọi Hoàng Sa được người Việt đặt do việc xác lập chủ quyền ở hai quần đảo này, bởi đồng thời ?oHoàng Sa ?odùng để chỉ tên một tổ chức do nhà nước thành lập khai thác, kiểm soát, làm chủ các hải đảo mang tên ?oHoàng Sa?. Như thế bản thân tên gọi?Hoàng Sa?là bằng chứng cho sự xác lập cũng như thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
    Quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa nằm trong Biển Đông. Đã từ lâu, người Việt đã nói đến Biển Đông trong ca dao tục ngữ: ?oThuận vợ, thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn? hay ?oDã tràng xe cát Biển Đông?. Người Trung Hoa thường gọi là Nam Hải, song cũng tùy theo từng thời kỳ lịch sử người Trung Hoa đã tên gọi khác nhau như biển Giao Chỉ ( Giao Chỉ Dương). Ngoài ra, ven tỉnh Quảng Đông, người Trung Hoa còn gọi là Việt Hải,Việt Dương.
    Các nhà hàng hải Phương Tây từ thế kỷ XVI thường gọi là biển Champa (Ciampa), hay biển Trung Hoa hay Nam Trung Hoa. Cũng như người ta thường gọi biển kế cận Ấn Độ là Ấn Độ Dương. Song chẳng bao giờ Ấn Độ Dương là của Ấn Độ cũng như Biển Trung Hoa là của Trung Hoa cả. Đúng ra, Biển Đông bao quanh hầu hết các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, nên phải gọi là Biển Đông Nam Á mới đúng.
    Từ nhiều thập niên qua, đã có nhiều nhà khoa học cố gắng giải thích sự hình thành nền văn hóa hàng hải của dân Việt nói riêng và của dân Đông Nam Á nói chung, có những sắc thái hoàn toàn khác với văn hoá lục địa Trung Hoa. Một số lý thuyết được tóm tắt như sau:
    Chrester Norman cho rằng nền Văn Minh Hòa Bình được tạo dựng trong thời gian lục địa Sunda bị ngập nước. Khi đó Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan lúc trước là hai vùng đồng bằng trũng. Lý thuyết Norman cho rằng một số dân Đông Nam Á khởi sự trước hết bằng cuộc sống ở duyên hải, sau này hội nhập với dân cư vùng cao nguyên, nhưng rồi lại trở về vùng đồng bằng gần biển, sau nữa phát triển về hàng hải (?oThe Hoabinhian and After: Subsistence Patterns in Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Periods?,World Archaecology 2, No.3, 1971, pp 300-320). [107]
    Wilheim G.Solheim cho rằng 6000 năm trước, dân Đông Nam Á đã mạo hiểm ra khơi. Gió bão và hải lưu của Biển Đông và Thái Bình Dương đã cuốn trôi một số người tới Nhật Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Philippines, Indonesia, Malaysia. Tiếp theo, những toán dân chúng di chuyển tới các đảo ở ngoài khơi Thái Bình Dương và sang Madagascar.
    Cũng theo Solheim, Biển Đông thời cổ còn là nơi phát sinh những đường hàng hải giao tiếp với các nơi ở dọc biển Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và cả Mỹ Châu nữa. Solheim lý luận rằng chỉ có sự kiện Đông Nam Á giữ vai trò trung tâm phân tán như trục một cái bánh xe tỏa nan hoa ra khắp nơi mới giải thích được hiện tượng lịch sử là tại sao các chủng tộc khác biệt của loài người sống xa cách nhau trên thế giới lại có nhiều sự tương đồng về sinh hoạt văn hoá như vậy (?oWorld Ethnographic Sample...A Possible Historical Explanation?,American Anthropologist, 70, 1968, p569). [107]
    Nhà ngữ học Pháp Paul Rivet đã có nhiều cuộc nghiên cứu và kết luận rằng: ?oTừ Đông Nam Á, một thứ ngôn ngữ đã được truyền bá đi bằng đường hàng hải đến Nhật Bản, Tasmania, Địa Trung Hải, Phi Châu và Mỹ Châu?(Sumerien et Océanien, Collection Linguistique, Paris, 1929).(hình 1.1) [107]
    Carl Sauer duyệt xét những biến chuyển về địa lý Biển Đông, ý thức tầm quan trọng của ngư nghiệp và hàng hải trong tiến trình văn minh Đông Á thời cổ, khác biệt hẳn với các nơi khác trên thế giới. Vì Biển Đông có hai vụ gió mùa, nên việc hải hành viễn duyên khi đi cũng như khi về rất tiện lợi. Sự trao đổi hàng hóa nâng cao kỹ thuật chế tạo phẩm vật. Trước đây 2500 năm, trống đồng chính là thành tích rõ ràng nhất minh chứng khả năng hàng hải của dân Lạc Việt.(Agricultural Origins and Dispersals, Series Two, New York, 1952, pp24-25)[ 107 ]. Những hoa văn nhiều hình thuyền trên trống đồng, thạp đồng thời đại Đông Sơn, thời đại Hùng Vương đã minh chứng hùng hồn dân Việt thời cổ đã coi trọng phương tiện đi lại bằng thuyền như thế nào!
    Có những dự đoán của các nhà khoa học, chừng một vài thiên kỷ sắp đến, mực nước Biển Đông sẽ bắt đầu rút trở xuống. Căn cứ vào mực nước biển lên xuống trong quá khứ, nếu không có gì thay đổi, trong vòng dăm ba ngàn năm tới, cả Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan sẽ trở thành khô cạn, Biển Đông trở thành biển nội địa, đường hàng hải quốc tế không còn qua Biển Đông nữa (Xem bản đồ của National Geographic, March, 1971) . (hình 1.2, hình 1.3) [107]
    Hai quần đảo cách nhau khoảng 500km, trải dài từ Bắc xuống Nam khoảng 11 vĩ độ, từ vĩ độ 17o 05B xuống 6o20?T9?T?TB, từ Tây sang Đông khoảng 7 kinh độ, từ kinh độ 110o Đ đến kinh độ 117oĐ. Cả hai quần đảo này gồm nhiều đảo, đá, bãi cạn có nguồn gốc san hô. Tổng diện tích phần thường xuyên nổi lên mặt nước của mỗi quần đảo khoảng hơn 10km2. Tuy hai quần đảo cách xa nhau song mỗi quần đảo lại có một số đảo gần miền bờ biển đất liền nhô ra biển của Việt Nam tức vùng đất từ mũi Ba Làng An đến mũi Kê Gà (từ Quãng Ngãi đến Bình Thuận). Vị trí này khiến dân từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận có mối liên hệ lâu đời với hai quần đảo trên mà người Việt trong một thời gian dài đã coi gộp chung là một như chúng ta đã biết hoặc gọi là Hoàng Sa, hoặc gọi là Vạn Lý Trường Sa
  6. Iceface

    Iceface Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/06/2004
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    1
    1.2 QUẦN ĐẢO HOÀNG SA
    Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 , giữa kinh tuyến 111 độ Đ đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý (1 hải lý = 1,853 km), từ 17o05?T xuống 15o,45?Tđộ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là vùng biển có độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
    Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi.
    Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần đất liền Việt Nam hơn cả:
    Từ đảo Triton đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan:15độ vĩ B, 108độ 6?T kinh Đ), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý , cách Cù Lao Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoàng Sa-Pattle:16 độ vĩ B, 111độ6?T kinh Đ và Ling-Sui hay Leong Soi : 18độ vĩ B, 110 độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất liền lục địa Trung Hoa còn xa hơn nhiều, tối thiểu là 235 hải lý . (hình 1.7 )
    Đoạn bờ biển từ Quảng Trị chạy dài xuống tới Quảng Ngãi đối mặt với các đảo Hoàng Sa luôn hứng gió Mùa Đông Nam hay Đông Bắc thổi vô, nên thường tiếp nhân các thuyền bị bão làm hư hại ở vùng biển Hoàng Sa ( hình 1.8). Các vua chúa Việt Nam hay chu cấp phương tiện cho các thuyền bị nạn ấy về nước, nên họ thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển của Việt Nam để nhờ cứu giúp. Chính vì thế, Hoàng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới, hết sức quan tâm, cùng xác lập và thực thi chủ quyền của mình.
    Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn trên, hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Các đảo trên không cao, cao nhất là Đảo Hòn Đá (50 feet), đảo thấp nhất là Đảo Tri Tôn (10 feet). Các đảo chính gồm 2 nhóm:
    - Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group) ở Tây Nam.
    - Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group) ở Đông Bắc.
    1.2.1 Nhóm Lưỡi Liềm:
    Nhóm Lưỡi Liềm còn gọi là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, theo như Sơn Hồng Đức nếu nhìn từ máy bay xuống , nhóm đảo này trông hình như chiếc bánh ?ocroissant? châu đầu vào nhau. Có 7 đảo chính và vô số mỏm đá:
    . Đảo Hoàng Sa (Pattle, Shanhu Dao) (hình 1.9, đảo Hoàng Sa) [Tập San sử Địa số 29]
    Tuy là đảo chính nhưng không phải là đảo lớn nhất, có vị trí quân sự quan trọng nhất cho việc phòng thủ bờ biển Việt Nam, hơn cả đảo Phú Lâm.
    Đảo nằm trên tọa độ 16 độ 32,3 vĩ B , 111độ 35,7 kinh Đ, hình bầu dục, dài khoảng hơn 900m, rộng khoảng gần 700m, diện tích chừng 0,3km2 (30ha) [27, tr.21]gồm cả vòng san hô bao quanh.
    Trước ngày 19 tháng 1 năm 1974, ngày Trung Quốc xâm chiếm, đảo này đã được Việt Nam xây dựng căn cứ quân sự, nhà cửa, đài khí tượng, hải đăng, miếu thờ Bà, cầu tàu, bia chủ quyền. Cho đến ngày Trung Quốc xâm chiếm, bia chủ quyền vẫn còn giòng chữ như sau: ?oRépublique Fran?aise - Empire d?TAnnam-Archipel des Paracels?. Về Đông Bắc Đảo vẫn còn vài ngôi mộ binh lính thời Nhà Nguyễn. Phía Tây Nam đảo có một am thờ gọi là Miếu Bà, có một pho tượng Phật Bà Quan Am (hình 1.10). Đài khí tượng với danh xưng ?oStation d?TObservation 838? chính thức hoạt động từ năm 1938 thường với 5 nhân viên thuộc ty Khí tuợng Hoàng Sa do chính quyền Nam Việt Nam quản lý (hình 1.11). Từ năm 1931 đến 1975 thường xuyên có một trung đội lính từ Quảng Nam (Trung bộ Việt Nam) (hình 1.12, hình 1.13) [Tập San Sử Địa số 29].
    . Đảo Hữu Nhật (Robert, Canquan Dao hay Cam Tuyền) (hình 1.14, hình 1.15)
    Đảo mang tên suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật được vua Minh Mạng phái ra Hoàng Sa đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ vào năm 1836.
    Phía Nam đảo Hoàng Sa cách độ 3 hải lý, hình bàu tròn, đường kính 800m, chu vi 2000 m, diện tích khoảng 0.32km2 (32ha) [17,tr.20] có vòng đai san hô bao ngoài xa, giữa là vùng bể lặng. Nằm ở tọa độ 111độ344?Tkinh Đ, 16độ 30?T60 vĩ B . Chung quanh đảo cây cối um tùm, chính giữa là lòng chảo không sâu cho lắm. Biển quanh đảo có nhiều rong biển, phủ kín cả mặt biển. Nơi đảo này vì không người ở, nên con vít thường lên bờ đẻ la liệt từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch.
    . Đảo Duy Mộng (Drummond, Jinquing Dao)
    Đảo ở phiá Đông Nam đảo Hữu Nhật, phía Đông Bắc đảo Quang Hoà, nằm trên tọa độ 111 o 44?Tkinh Đ,16 o 28?T vĩ B, cũng do san hô cấu tạo thành, bãi san hô ra xa đảo, nhô lên khỏi mặt nước khoảng 4m. Đảo hình bầu dục, diện tích khoảng 0,41km2(41ha) [17,tr.21] không có loại cây lớn, chỉ toàn loại cây nhỏ. Giữa đảo là vùng đất trống, có thể định cư được. Đảo có một con lạch nhỏ, có thể dùng ghe nhỏ vào sâu trong nội địa. Tàu có thể neo cách đảo 200m. Có nhiều chim biển và con vít sống trên đảo.
    . Đảo Quang Hòa (Duncan, Chenhang Dao) (hình 1.16)
    Đảo nằm trên toạ độ 111o42?Tkinh Đ, 16o 26?T vĩ B cũng do san hô tạo thành, là đảo lớn nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group), Chung quanh đảo là bãi cát mầu vàng (hoàng sa hay cát vàng). Vòng san hô lan ra rất xa khỏi bìa đảo. Cạnh đảo lớn còn có những đảo nhỏ, nối liền nhau bằng bãi cát dài. Một vài bản đồ địa chất ghi Quang Hoà thành hai đảo Quang Hoà Đông và Quang Hoà Tây.
    - Quang Hoà Đông có rừng cây nhàu, một loại cây dùng để làm thuốc thường thấy ở Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam và cây phosphorite mọc ở phía Tây của đảo, nhiều cây cao tới 5 m. Phần đảo phía Đông trơ trụi chỉ có dây leo sát mặt đất. Chu vi đảo 2.700m, diện tích khoảng 0,48km2 (48ha) [17, tr.21]
    - Quang Hoà Tây là một đảo nhỏ, gần hình tròn, chu vi 1000m, chỉ bằng 1/10 đảo Quang Hoà Đông, khoảng 0,09 km2 (9ha), cùng có những loại cây như ở đảo Quang Hoà Đông nhưng chỉ cao khoảng 3m.
    . Đảo Quang Anh ( Money Island, Jinyin dao, Kim Ngân (TQ)) (hình 1.17)
    Đảo nằm ở trên toạ độ 1110 36?Tkinh Đ, 1600 27?T vĩ B do san hô tạo thành, nhô lên mặt nước độ 6 m, nơi cao nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Chung quanh đảo bờ biển có nhiều đá ngầm sắc nhọn rất nguy hiểm, tàu lớn không thể cặp neo được. Các tàu lớn phải neo ở ngoài khơi, muốn vào đảo phải sử dụng thuyền nhỏ. Vì địa thế hiểm trở và trên đảo không có nước ngọt, nên ít vết chân người lui tới.
    Đảo mang tên Phạm Quang Anh, một đội trưởng Hoàng Sa được vua Gia Long sai đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa năm 1815, hiện có hậu duệ và nhà thờ họ ở Cù Lao Ré.
    Đảo hình bầu dục, hơi tròn, chu vi khoảng 2.100 m, diện tích khoảng 0,3 km2 (30 ha) [17,tr.21] Có một số cây lớn mọc ở giữa đảo cao tới 5 m. Ở phía ngoài của đảo có các cây phosphorite và một loại cây khác giống cây mít không có trái.
  7. Iceface

    Iceface Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/06/2004
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    1
    Nhóm đảo Lưỡi Liềm ngoài 5 đảo trên còn 4 đảo nhỏ như đảo BaBa (Hoàn Thử, 1110 40 kinh Đ, 160 36 vĩ B), đảo Ốc Hoa (Toàn Phủ, 1110 38 kinh Đ, 160 36 vĩ B), đảo Lưỡi Liềm (Crescent Island, Đảo Thạch, 1110 46 kinh Đ, 160 34 vĩ B), đảo Xà Cừ (1110 42 kinh Đ, 160 33 vĩ B ), và các đá như đá Hải Sâm (Antelope Reef, 1110 34 kinh Đ, 160 29 vĩ B), đá Lồi (Discovery Reef, Yuzhuo Jiao, 1110 40 kinh Đ, 160 14 vĩ B), đá Chim Yến (Vuladdore Reef, 1120 04 kinh Đ, 160 21 vĩ B), đá Bạch Qui (Passu Keah Reef,Panshi Yu, 1110 455 kinh Đ, 160 03 vĩ B).
    1.2.2 Nhóm An Vĩnh (1.2) (Amphitrite Groupe, (1.3)
    Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn và cao nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa, cũng là các đảo san hô lớn nhất của Biển Đông.Đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm.
    .Đảo Phú Lâm (Woody Island, YongxingDao)
    Đảo nằm ở toạ độ 112 20 kinh Đ, 160 50 vĩ B. Đảo lớn nhất trong quần đảo,bề dài 3.700m và ngang 2.800m [31, tr.185].Trên đảo cây cối um tùm, có vài cây dừa, nên gọi là Phú Lâm. Ở đây chim hải âu sinh nở từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, để lại một lớp guano (phân đen) dày tới 50 cm. Đây là đảo duy nhất từ xa có thể nhìn thấy được.
    Đảo có cầu tàu lớn, sân bay, đài kiểm báo và nhiều phương tiện quân sự khác.
    . Các đảo khác
    Tất cả các đảo, bãi thuộc quần đảo Hoàng Sa đều ở dưới vĩ tuyến 17, trừ Đá Bắc (North Reef, Beijiao, 1110 381 kinh Đ, 170 05 vĩ B), tại bãi này có nhiều xác tàu bị đắm nhiều nhất. Cụm An Vĩnh còn có đảo Cây (Tree Island, Zhaoshudao), 112016 kinh Đ, 160 50 vĩ B) Nhà cầm quyền thực dân Pháp đã xây dựng một đài quan trắc khí tượng, số hiệu trong danh sách World Meteorological Organisation là 48859.
    Đảo Bắc (North Island, Beidao, 1120 183 kinh Đ, 160 57 vĩ B)
    Đảo Nam (South Island, Nandao, 1120 197 kinh Đ, 160 567 vĩ B)
    Đảo Giữa (Middle Island, Zhongdao, 1120 197 kinh Đ, 160 567 vĩ B)
    Đảo Đá (Rocky Island, 1120 19 kinh Đ, 160 51 vĩ B) ở phía Tây Bắc đảo Phú Lâm.
    Cồn Cát Tây (West Sand, Xi Shazhou, 1120 12 kinh Đ, 160 587 vĩ B)
    Cồn Cát Nam (South Sand, Nan Shazhou, 1120 203 kinh Đ, 160 57 vĩ B)
    1.2.3 Nhóm Linh Côn
    Nằm về phía cực Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đảo nằm vào kinh độ 1120 44 kinh Đ, vĩ độ 160 40.
    Các đảo thuộc nhóm này không mấy quan trọng, chỉ là những mỏm san hô nhấp nhô trên mặt nước biển.
    Linh Côn là tên một chiếc tàu bị nạn ở đây vào đầu thế kỷ XX. Lớn nhứt là đảo Linh Côn, diện tích chừng 1,62 km2, trên đảo có nước ngọt. Vùng san hô bao quanh kéo dài về phía Nam tới 15 hải lý.
    Phía Tây nhóm đảo Linh Côn, còn có Đá Tháp (Pyramid Island, 1120 385 kinh Đ, 160 345 vĩ B), bãi Thủy Tề (Neptuna Bank, Beibianlang, 1120 31 kinh Đ, 160 30vĩB ). Phía Nam, Tây Nam còn có bãi Quảng Nghĩa (Jehangir Bank, Zhanhan tan), bãi Châu Nhai (Bremen Bank, Bimmeitan), bãi Tân Mê (1120 32 kinh Đ, 160 18 vĩ B), bãi Bồng Bay (Bombay Reef, Langhua jiao, 1120 30 kinh Đ, 160 02 vĩ B), bãi Gò Nói (Dido Bank, Xidu tan, 1120 55 kinh Đ, 160 49 vĩ B), bãi Ốc Tai Voi (Herald Bank, 1120 16 kinh Đ, 150 40 vĩ B), Bãi La Mác (1110 34 kinh Đ, 160 31 vĩ B).
    Ngoài ra ở cực Nam còn có đảo Tri Tôn (Triton Island, Zhongjian dao, 1110 12kinh Đ, 150 46 vĩ B). Đây là hòn đảo đơn độc, ít người lui tới, nhưng rất nhiều hải sản, san hô đủ màu.
    1.3 QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA.
    Người Pháp gọi là Archipel des ýles Spratly, người Anh, Mỹ gọi là Spratley Islands hay Spratlies. Trung Quốc gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan Wei quần đảo, Philippines gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinnan Guto.
    Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa hiện nay tính đến đảo gần nhất vào khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 hải lý, Cam Ranh 250 hải lý, đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý.
    Quần đảo trải dài từ vĩ độ 60 2 vĩ B tới 110 28 vĩ B, (1.4) từ kinh độ 1120 Đ đến 1150Đ trong vùng biển chiếm khoảng 160.000km2 - 180.000km2 . Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng khoảng 11 km2.
    Về số lượng đảo theo thống kê của Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ Biển thuộc Ban Biên Giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá, bãi (1.5) không kể 5 bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tứ Chính) (1.6).
    Theo thống kê của Pháp năm 1933 gồm 9 đơn vị chính và các đảo, đá, bãi phụ cận. Philippines đã liệt kê một danh sách 53 đơn vị gồm hòn đảo và cù lao trong một khu vực 976 dặm vuông. Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979 của Cục Bản Đồ Quân Sự Bộ Tổng Tham Mưu (Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia làm 9 cụm chính kể từ Bắc xuống Nam :
    1. 3.1 Cụm Song Tử gồm 2 đảo, 2 đá, 2 bãi :
    ? Đảo Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây.
    Song Tử Đông (Northeast Cay, Pei Zi Dao hay Pei -tzu Tao (Trung Quốc), Parola Isl. (Phi), 11027 vĩ B, 1140 21 kinh Đ)
    Song Tử Tây (Southwest Cay, Nan Zi Dao hay Nan -tzu Tao (Trung Quốc), Pugad Isl., (Phi) 110255 vĩ B, 1140 20 kinh Đ)
    Hai hòn đảo này như sinh đôi nằm ở cực Bắc của quần đảo Trường Sa, ngang vĩ độ với Phan Rang (Ninh Thuận). Chính vì có vị trí này mà đội Bắc Hải hoạt động ở vùng này từ cuối thế kỷ XVII lấy xuất đinh từ tỉnh Bình Thuận. Trên đảo có những cây cao trung bình, nhiều phân chim có thể chế biến thành phân bón. Vòng quanh hai đảo này, về phía Đông và Nam chừng năm hải lý có nhiều mỏm đá ngầm. Rong biển mọc nhiều ở đây.
    Song Tử Đông hơi tròn( hình.1.19), diện tích gần 20 acres, dài 900m , rộng 250m, cao độ 3m, có nhiều bãi cát và san hô xung quanh, nhiều cây cối, một ít dừa. Năm 1963, Việt Nam Cộng Hoà có dựng một bia chủ quyền (hình 1.20). Philippines cho quân chiếm đóng từ năm 1968.
    Song Tử Tây hình lưỡi liềm (hinh 1.21), diện tích nhỏ hơn Song Tử Đông, dài 700m, rộng 300m, có nước ngọt, có một vườn dừa và nhiều cây nhỏ. Có tháp rađa thời Việt Nam Cộng Hoà. Hiện Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đang trấn giữ cả hòn đảo ( hình 1.22) .
    Cụm Song Tử còn có Đá Bắc (North Reef , Pei Jiao hay Tung - pei -Chiao (Trung Quốc), 11028 vĩ B, 114023 kinh Đ), Đá Nam (South Reef, Nan Jiao hay Nai -lo - Chiao, 11023 vĩ B, 1140 18 kinh Đ)
    Phía Đông cụm Song Tử còn có bãi cạn Đinh Ba ở phía Bắc (Trident Shoal, Yong deng Ansha hay Yung -teng An - sha (Trung Quốc ), TatLong, Tulis Shoal (Phi), 11020, 1140 42 kinh Đ) và bãi Núi Cầu (Lys Shoal, Lesi Ansha (Trung Quốc ), Bisugo Shoal (Phi), 110205 vĩ B, 1140 35 kinh Đ ở phía Nam.
  8. Iceface

    Iceface Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    20/06/2004
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    1
    1.3.8. Cụm đảo Bình Nguyên.
    Cụm đảo ở về phía Đông, gồm đảo Bình Nguyên (Flat island, Fei xin dao, 100 49 vĩ B, 1150 495 kinh Đ) và đảo Vĩnh Viễn (Nanshan island, Ma huan dao, 100 44 vĩ B, 1150 48 kinh Đ). Mỗi đảo diện tích khoảng 15 acres. Đảo Vĩnh Viễn dài chừng 580m, cao khoảng 2m, Đảo Bình Nguyên thấp hơn, rất hẹp bề ngang.
    Phía Nam gần đảo Vĩnh Viễn có Đá Hoa (100 32 vĩ B, 1150 432 kinh Đ), Đá Đít Kim - Sơn (100 325 vĩ B, 1150 472 kinh Đ), Đá Đin (100 30 vĩ B, 1150 421 kinh Đ), Đá Hàn Sơn (100 28 vĩ B, 1150 438 kinh Đ), Đá Pet (100 276 vĩ B, 1150 464 kinhĐ), Cồn san hô Giắc - xôn. Về phía Nam xa hơn nữa có Đá Vành Khăn (Mischief Reef, Mei ji jiao, 90 55 vĩ B, 1150 32 kinh Đ), Bãi Cỏ Mây (2nd Thomas Shoal, Ren ai ansha, 90 44 vĩ B, 1150 515 kinh Đ), Bãi Cạn Suối Ngà(1st Thomas Shoal, Xinyu jiao, 90 195 vĩ B, 1150 555 kinh Đ), Đá Bốc Xan (Boxall Reef, Pai she jiao, 90 355 vĩ B, 1160 095 kinh Đ), Bãi Cạn Sa Bin (Sabina Shoal, Xian xin ansha, 90 45 vĩ B, 1160 29 kinh Đ). Phía Đông cụm đảo Bình Nguyên và đảo Vĩnh Viễn có Đá Hợp Kim ( Hopkins Reef, Huo xing jiao, 100 49 vĩ B, 1160 06 kinh Đ) , Bãi Mỏ Vịt (Hirane Shoal, An tang tan, 100 54, 1160 205 kinhĐ), Đá Ba Cờ ( Baker Reef, Pei she jiao, 100 43 vĩ B 5, 1160 10 kinh Đ), Đá Khúc Giác (Iroquois Reef, Feng lai jiao, 100 37 vĩ B, 1160 10 kinh Đ), Đá Bá, Đá Gò Già (North Pennsylvania Reef, Yang ming jiao, 100 485 vĩ B, 1160 515 kinh Đ), Bãi Cạn Nam ( Southern Bank, Nan fang gian tan, 100 28 vĩ B, 1160 42 kinh Đ), Đá Chà Và (Brown, 100 345 vĩ B, 1170 017 kinh Đ), Bãi Cạn Nâu (Brown Bank, Dong tan 100 44 vĩ B, 1170 189 kinh Đ), Bãi Cạn Rạch Vang (Templer Bank, Zhong xi tan, 100 40 vĩ B, 1170 165 kinh Đ), Bãi Cạn Rạch Lấp (Carnatic Shoal, Hong shi ansha, 100 06 vĩ B, 1170 205 kinh Đ), Bãi Cạn Na Khoai (Lord Auckland Shoal, Elan ansha, 100 205 vĩ B, 1150 165 kinh Đ).
    Hiện quân Philippines chiếm đóng cả 2 đảo Bình Nguyên và đảo Vĩnh Viễn và cho phá bỏ hầu hết khu vực bao quanh Bãi Cỏ Rong, Bãi Trăng Khuyết, Bãi Kiều Ngựa. Trung Quốc từ 1995 cũng chiếm đóng đá ngầm Vành Khăn.
  9. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    tớ dốt quá cơ, mãi mới biết chuyển sang phôngnày , xin lỗi bà con nhé, tớ sẽ phục vụ nhiệt tình hêê
    1.4 điều kiện tự nhiên, thảo mộc của quần đảo hoàng sa và trường sa.
    điều kiện tự nhiên tuy thuận lợi song không phải là yếu tố quyết định cho sự xác lập chủ quyền của việt nam. tuy vậy cũng có những bằng chứng khoa học minh chứng những điều kiện thuận lợi và những chứng tích cho sự xác lập chủ quyền của việt nam trên quần đảo hoàng sa cũng như trường sa.
    trước hết, quần đảo hoàng sa và trường sa nằm trong vùng biển đông, ở đó, ngoài độ từ sai bằng zéro, độ sai lệch từ không thay đổi (hay thay đổi rất nhỏ), và còn nằm trong vùng xích đạo từ. tại vùng xích đạo, gần vùng côn đảo, địa từ mới mạnh. người trung quốc nhận rằng họ sáng chế kim chỉ nam, nhưng không hề biết những đặc tính về từ trường của biển đông. như sách cổ trung hoa ghi rằng vùng đất ma, họ kính ngưỡng cầu khẩn thần núi linh sơn vùng varella (việt nam), họ sợ các đảo san hô ở biển đông, hút sắt lại, làm tàu thuyền của họ mắc cạn ở biển đông.
    mặt nước biển đông có độ cao tiêu chuẩn trong hệ thống geoid, trong khi các biển khác có thể cao quá 90m, có biển thấp tới 80m. ,
    về địa chất, quần đảo hoàng sa và trường sa đều là những ám tiêu san hô tiêu biểu cho vùng biển nhiệt đới của việt nam . khí hậu ôn đới của trung hoa không cho phép có sự cấu tạo của các quần đảo san hô rộng lớn như vậy. các đảo từ bành hồ, đài loan trở lên phía bắc, cấu tạo bằng đất đá của nền đại lục như granit, igneons rock khác hẳn các đảo cấu tạo bằng san hô ở biển đông.
    thềm lục địa nếu theo quan niệm nằm trong khu vực có độ sâu nước biển tới 200m, thì thềm lục địa ở vịnh bắc bộ lớn, trung bộ nhỏ hẹp lại, nhất là ở vùng mũi varella, càng về phía nam càng rộng. nếu theo quan điểm của luật biển 1982 thì với khoảng cách vùng hải phận 200 hải lý, các bãi san hô như bãi tư chính? nằm trong khu vực thềm lục địa đặc quyền kinh tế của việt nam. độ sâu của biển đông với đường phân thủy 100m bao kín các vùng về phía bắc và phía đông. (nếu mực nước biển hạ xuống chừng 600m - 700m, thì hoàng sa sẽ dính vào việt nam như một khối thịt liền và cách trung quốc bằng một vùng biển nước sâu) và như thế quần đảo hoàng sa là một phần của việt nam (theo quan điểm của krempf, giám đốc hải học viện đông dương trong cuộc khảo sát năm 1925).
    các sinh vật trên các đảo và dưới biển quần đảo hoàng sa và trường sa như rùa, đồi mồi, vít, đồn đột, ốc tai voi, ốc hương đều tương tự như các đảo ven biển việt nam như đảo cù lao ré. khi ngư dân việt bắt cạn hết sinh vật ở đảo gần bờ biển, tất họ phải tìm ra xa biển như ở ngoài quần đảo hoàng sa, trường sa. theo nhà nghiên cứu la fontaine [61, 209], các cuộc khảo sát cho thấy các thú vật sống ở các đảo hoàng sa và trường sa đều là các loài đã gặp ở đất liền việt nam, có môi trường sinh sống gần với việt nam hơn là trung hoa, các sinh vật ở hoàng sa và trường sa không có nhiều liên hệ với sinh vật ở trung quốc. biển đông cũng như việt nam nằm trong khu vực mà các nhà sinh vật gọi là wallacca, đặt theo tên của nhà thiên nhiên học người anh alfred russel wallace. wallacca là vùng đất sinh sống của các động vật á đông mà trung hoa nằm ngoài vòng môi sinh á đông này (hình 1.31).
    tại biển đông không giống như thái bình dương, có dòng hải lưu chảy thay đổi theo chiều gió mùa. trong mùa gió đông bắc từ tháng 9 đến tháng 3, hải lưu biển đông chảy ngược theo chiều kim đồng hồ (hình 1. 32). dòng nước biển chảy mạnh từ đài loan qua hoàng sa vận tốc chừng 1 feet. khi xuống ngang bờ biển trung bộ việt nam, vận tốc dòng nước tăng thêm, có khi tối đa tới 3,4 feet trên mặt nước. các nạn nhân đắm tàu, hoặc như các nhân viên khí tượng việt nam ở hoàng sa sau vụ nhật đảo chính pháp tháng 3 năm 1945 và quân lính hải quân việt nam cộng hoà sau khi trung quốc đánh chiếm quần đảo tháng 1 năm 1974, đã nhờ dòng nước này thả bè trôi về tới qui nhơn và ngoài khơi cù lao ré để được cứu vớt. ở phía tây vùng trường sa, nước chảy ngược lại như mặt đối lưu hướng về phía đông bắc. vận tốc đối lưu thường thấp, vùng gần đảo palawan (philippines) nước chảy theo chiều tây nam. trong mùa gió tây nam, hải lưu chảy theo chiều kim đồng hồ, từ phía mã lai đi dọc bờ biển trung bộ việt nam ra hoàng sa với vận tốc chừng 5 feet. đối lưu từ phía đông của quần đảo hoàng sa chảy về trường sa rất yếu.
    quanh năm, hải lưu vùng hoàng sa và trường sa sẽ thay đổi chiều hai lần. dòng nước vùng trường sa không mạnh như dòng nước vùng hoàng sa. sau trận hải chiến năm 1988, các chiến hạm quân đội nhân dân việt nam bị hải quân trung quốc đánh chìm, các thủy binh việt nam sống sót trên các bè nổi không trôi đâu xa vì nước chỉ chảy chừng 1/4 đến 1/2 feet.
    vùng biển đông nhất là hoàng sa thường xảy ra bão nhiệt đới hoặc áp thấp nhiệt đới xuất hiện gần 2 quần đảo sinh ra bão, hoặc bão từ philippines thổi qua. đa số các cơn bão khởi sự từ phía đông philippines. không tới 1% giông bão phát sinh từ biển đông tiến về hải nam, cũng không tới 1% giông bão phát sinh từ ngoài khơi brunei thổi về vịnh thái lan. có chừng 1/3 các trận đại phong từ thái bình dương thổi về, qua hoàng sa và trường sa, tức vào bờ biển trung bộ và vịnh bắc bộ việt nam. thời gian có bão thường xảy ra vào lúc giao mùa, từ tháng 6 đến tháng 9, gió xoáy đến 90 gút. bão giảm đi từ tháng 9 nhưng vẫn còn ở tháng 1. (hình 1.33) [107, 37]
    khi có bão xuất hiện từ philippines, các người đi biển kinh nghiệm đã thấy triệu chứng căn cứ vào làn sóng cao và dài, di chuyển nhanh trước khi bão tới hoặc trời oi, khí áp xuống nhanh, mây cao bay nhanh. vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một màng mây rất mỏng (cirros status), mặt trời xung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. sau đó đến lượt những mây thấp có hình vẩy cá (cirro cumulus), rồi đến một lớp mây đen, dòng cao tới 3000m (altostatus) cả bầu trời trở nên đen, u ám, mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống mạnh, mây thấp dần xuống 100m hay 50m, mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, rồi bão tới.
    mỗi khi có triệu chứng bão như vậy, các thuyền bè phải chạy nhanh về phía nam, tới bờ biển trung bộ việt nam. [107 , 38] chính điều kiện thiên nhiên trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ giữa đất liền ở việt nam với các hải đảo ở hoàng sa.
    cũng chính do tàu tránh bão hay bị nạn rồi theo dòng hải lưu chảy tấp vào bờ biển như trình bày trên , nên việt nam có dịp biết hoàng sa từ những người bị nạn ở hoàng sa. điều kiện thiên nhiên như thực tế trên đã gắn liền với những hoạt động xác lập chủ quyền của việt nam trên quần đảo hoàng sa và trường sa.
    những khảo sát về thảo mộc của la fontaine, vào thập niên 40, 50 tại hoàng sa đã đi đến kết luận rõ ràng rằng không có loại thảo mộc nào là tại chỗ cả, tất cả từ vùng đất liền du nhập bằng nhiều cách. cũng theo sự phân tích một cách khoa học của h. fontaine và lê văn hội trong "contribution à la connaissance de la flore des ýles paracels" (khảo cứu niên san khoa học đại học đường - annales de la faculté des sciences, sàigòn 1957, pp 133 - 137), thì mỗi thảo mộc hiện có ở hoàng sa đều tìm thấy ở việt nam nhất là ở các tỉnh trung bộ. người ta cũng thấy những cây như cây mù u, cây nhàu, cây bàng ? ở hoàng sa, trường sa đều thấy có ở cù lao ré hay những nơi khác dọc bờ biển việt nam
    thảo mộc ở hoàng sa, trường sa có gốc ở việt nam không những căn cứ vào khảo sát của các nhà khoa học mà chính sử liệu thời nguyễn như đại nam thực lục chinh biên đệ ii kỷ, quyển 104 cũng như đai nam hội điển sự lệ (1851), quyển 207, tờ 25b, việt sử cương giám khảo lược (1876), quyển 4 của nguyễn thông đã viết rất rõ lệnh vua minh mạng đã cho trồng nhiều cây cối, để ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người ta sẽ nhận biết, có thể tránh nhiều nạn mắc cạn.
    chính sự kiện triều đình nhà nguyễn, thời vua minh mạng có chủ trương trồng nhiều cây cối trên đã minh chứng chủ quyền của việt nam trên quần đảo hoàng sa cũng như trường sa và đã đem đến kết quả về tình trạng thảo mộc như trên mà các nhà khoa học đã khảo sát.
  10. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    1.5 tầm quan trọng về chiến lược quân sự và tài nguyên của hoàng sa và trường sa dẫn đến sự xâm phạm chủ quyền việt nam của các nước ngoài.
    quần đảo hoàng sa và trường sa nằm trong biển đông mà người trung hoa gọi là biển nam hải, người phương tây thường gọi là biển nam trung hoa, có tầm quan trọng về chiến lược quân sự.
    không có một vùng biển nào trên thế giới với diện tích tương đương 3/4 địa trung hải mà lại có tầm mức quan trọng về phương diện giao thông như biển đông. muốn từ ấn độ dương qua thái bình dương, tàu thuyền phải chạy qua biển đông. nếu đi vòng sẽ tốn kém hơn và mất thời gian nhiều hơn. biển đông nằm ngay trên ngã tư đường hàng hải quốc tế, nhất là lượng hàng hoá quan trọng như dầu hoả, khí đốt đến nhật đều qua ngả này. nếu lấy giữa biển đông làm trung tâm nhìn ra thế giới:
    -trong vòng bán kính 1500 hải lý có các cảng quan trọng như bangkok, rangoon, calcutta, singapore, djakarta, manila, taipei, hongkong, shangai, nagasaki.
    -trong vòng 2500 hải lý, có các cảng quan trọng như madras, colombo, bombay, bali, darwin, guam, tokyo, yokohama, seoul, beijing...bao trùm hầu hết lãnh thổ các nước đông dân nhất thế giới, bao gồm một nửa nhân loại. [ 107, 19 ]
    đường bay quốc tế cũng thế, từ singapore, bangkok, qua hong kong, manila, tokyo ? đều qua biển đông. chính vì vậy hai quần đảo hoàng sa và trường sa không những là nơi hiểm yếu như các chính quyền phong kiến của việt nam đã khẳng định mà còn có giá trị chiến lược đối với việt nam và quốc tế. vì thế nên trước khi nhật bản xâm lăng các nước đông nam á hồi thế chiến thứ ii, quân nhật đã chiếm đóng hai quần đảo hoàng sa và trường sa. đến khi ký kết hội nghị san francisco năm 1951, nhật bản mới tuyên bố từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này.
    tài nguyên thiên nhiên, nhờ sự phát triển khoa học kỹ thuật, nhiều tài nguyên qúy giá dần dần được khai thác từ lòng biển, nhất là khi tài nguyên trên đất liền ngày càng bị khai thác cạn kiệt, lãnh hải càng ngày càng có thêm giá trị. hai quần đảo hoàng sa và trường sa tuy diện tích bề mặt nổi lên mặt nước không lớn, song lại rải rác, chiếm diện tích rất rộng. ai chiếm được nhiều hải đảo có thể kiểm soát nhiều lãnh hải và khai thác được nhiều tài nguyên ở dưới lòng biển.
    từ khi có sự thăm dò cụ thể dầu khí ở biển đông, các nước trong khu vực bắt đầu quan tâm nhiều hơn trước, dẫn đến tranh chấp chủ quyền với việt nam tại hai quần đảo này.
    trước năm 1957, đã có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lý và khoan thăm dò ở thềm lục địa nam việt nam, trong đó có hai giếng đã phát hiện dầu thương mại. vào cuối những năm 1970, có nhiều công ty như agip (ý), diminex (chlb đức), bow valley (canada) đã thăm dò 5 lô dầu ở thềm lục địa miền nam việt nam. sau đó đến 1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. tháng 9/1975, tổng cục dầu khí việt nam được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí. thềm lục địa việt nam rộng chừng 1,3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung bình mỗi lô khoảng 8000 km2. trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50m, 35 lô từ 50 -100m, 10 lô từ 100 - 250m, 38 lô từ 200-2000m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000m.trong phạm vi thềm lục địa việt nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triền vọng chứa dầu khí.cho đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa việt nam, chủ yếu ở phía nam, đã khảo sát trên 100.000 km tuyến địa vật lý, khoan hàng chục giếng tìm kiếm thăm dò và đã phát hiện được ba mỏ dầu khí (bach hổ, rồng và đại hùng). từ năm 1986, mỏ bạch hổ bắt đầu được khai thác. sản lượng năm 1986: 0,04 triệu tấn, 1988: 0,68 triệu tấn, 1989: 1,5 triệu tấn, 1990: 2,7 triệu tấn, 1991: 3,96 triệu tấn? (pts nguyên hiệp, phó tổng giám đốc công ty dầu khí việt nam, " thăm dò và khai thác dầu khí ở việt nam", khoa học và tổ quốc, (số 93), 1992, tr5).
    việc thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa việt nam trên khiến người ta thấy tiềm năng vùng biển đông có nhiều triển vọng về dầu khí.
    [​IMG]
    bản đồ về các túi dầu tại biển Đông Việt Nam

Chia sẻ trang này