1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa và các tranh chấp của các bên liên quan với VIệt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi lionking_hau, 15/01/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    2.2 sự khẳng định chủ quyền và những hoạt động xác lập chủ quyền của các nhà nước ở việt nam.
    2.2.1 sự khẳng định chủ quyền hoàng sa, trường sa của vua chúa, triều đình việt nam.
    trong khi tại trung quốc chưa có tài liệu nào nói rõ vua, triều đình trung quốc khẳng định chủ quyền của mình ở hoàng sa và trường sa, thì tài liệu chính sử
    của việt nam cho thấy vua và triều đình việt nam đã nhiều lần khẳng định hoàng sa và trường sa là thuộc lãnh hải việt nam. các tài liệu chính thức của
    nhà nước việt nam, của triều đình việt nam như đại nam thực lục chinh biên, đại nam hội điển sự lệ, châu bản triều nguyễn, đại nam nhất thống chí đã ghi nhận rất rõ ràng rằng hoàng đế việt nam, triều đình việt nam luôn khẳng định hoàng sa thuộc về cương vực mặt biển việt nam.
    tỷ như tháng 8 mùa thu năm qúi tỵ minh mạng thứ 14 (1833), vua minh mạng bảo bộ công rằng: ?odải hoàng sa trong vùng biển quảng ngãi...? (đại nam thực lục chinh biên, đệ nhị kỷ, quyển 104). năm bính thân, niên hiệu minh mạng thứ 17 (1836) (năm đạo quang thứ 16 đời nhà thanh) bộ công tâu lên vua : ?oxứ hoàng sa thuộc cương vực mặt biển nước ta rất là hiểm yếu ( đại nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 165). ngày 20 tháng 12 năm thiệu trị thứ 7 (1847) phúc tấu của bộ công cũng đã khẳng định : ?ohàng năm, vào mùa xuân, theo lệ phái binh thuyền vãng thám hoàng sa thuộc hải cương nước nhà ...? (tập châu bản thiệu trị tập 51, trang 235). sách đại nam nhất thống chí của quốc sử quán triều nguyễn cũng đã chép một cách rõ ràng : ?ophía đông (tỉnh quảng ngãi) chạy ngang đến đảo cát :đảo hoàng sa, liền với biển xanh ...?
  2. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    2.2.2 việc quản lý hành chánh của các chính quyền việt nam tại quần đảo hoàng sa và trường sa.
    trong suốt thời chúa nguyễn, quần đảo hoàng sa và trường sa là một, luôn được quản lý hành chánh bởi thừa tuyên quảng nam dưới danh nghĩa nhà lê hay quảng nghĩa hay ngãi lúc là phủ, khi là trấn trong thực tế tự trị của xứ đàng trong, tùy theo thời kỳ lịch sử. bởi từ khi nguyễn hoàng trở lại trấn thủ thuận quảng (năm 1600) cho tới khi chúa nguyễn phúc khoát (1738-1765) xưng vương năm 1744, trên danh nghĩa chúa nguyễn vẫn là quan trấn thủ thừa tuyên quảng nam của đại việt, do vua lê trị vì . như thế mọi hành động xác lập chủ quyền của các chúa nguyễn vẫn dưới danh nghĩa nước đại việt và trước hết trên danh nghĩa thuộc thừa tuyên, quảng nam quản hạt. năm 1602, với tính cách tự trị, tự quản, nguyễn hoàng lại đặt thành dinh quảng nam, quản hạt phủ quảng nghĩa (hay ngãi) (trước đó là phủ tư nghĩa). cũng từ năm 1602, phủ quảng nghĩa có chức tuần phủ và khánh lý cai trị.
    như thế, trên thực tế tự trị trên, phủ quảng nghĩa có huyện bình sơn (trước đó là huyện bình dương) quản lý xã an vĩnh. toản tập thiên nam tứ chí lộ đồ thư hay toản tập an nam lộ đã ghi "bãi cát vàng (hoàng sa) trong phủ quảng nghĩa". phủ biên tạp lục của lê qúi đôn chép "hoàng sa ở phủ quảng nghĩa (thuộc dinh quảng nam) huyện bình sơn, xã an vĩnh" địa dư chí của phan huy chú chép "hoàng sa ở trấn quảng nghĩa". sang thời tây sơn từ 1773, phủ quảng nghĩa được đặt tên thành phủ hoà nghĩa.
    năm 1801, hoà nghĩa đã được gọi lại với tên quảng nghĩa, (cùng nghĩa với ngãi đọc chệch). tại phủ quảng nghĩa ngoài viên tuần phủ, khánh lý còn có một viên chính hộ lý, một viên đề lãnh, một viên ký lục, một viên cai phủ và một viên thư ký. sau quảng nghĩa trở thành trấn, rồi tỉnh. năm 1829, tiếp tục quản lý xã an vĩnh. dần dần xã an hải phía bắc cửa biển sa kỳ cũng cung cấp lính hoàng sa. dân hai làng hay xã an vĩnh, an hải di dân ra cù lao ré lập 2 phường an vĩnh và an hải mà nguyễn thông gọi là hai hộ an vĩnh, an hải. đến đầu triều nguyễn, khi dân hai phường cù lao ré phát triển, xin tách khỏi hai làng cũ ở đất liền trở thành nơi cung cấp chính dân binh cho đội hoàng sa. chính phạm quang anh được cử làm đội trưởng đội hoàng sa năm 1815 là người thôn an vĩnh ở đảo cù lao ré, nay thuộc thôn đông, xã lý vĩnh thuộc huyện đảo lý sơn. nhiều tài liệu như việt sử cương giám khảo lược của nguyễn thông và đại nam nhất thống chí của quốc sử quán triều nguyễn đã xác nhận đảo hoàng sa thuộc tỉnh quảng ngãi. hoàng sa là nơi hiểm yếu và rộng lớn, nên phủ rồi trấn rồi tỉnh quảng nghĩa là đơn vị hành chánh luôn trực tiếp can thiệp vào những hoạt động có định kỳ hàng năm của đội dân binh hoàng sa để có phương tiện tốt và đảm bảo những yêu cầu của chính quyền trung ương ở phú xuân gọi là chính dinh, thủ phủ của xứ đàng trong hay kinh đô của triều nguyễn sau này.
    Được lionking_hau sửa chữa / chuyển vào 16:34 ngày 15/01/2007
  3. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    2.2.3 sự thành lập và hoạt động của đội hoàng sa từ thế kỷ xvii đến thế kỷ xix.
    trước năm 1909, trung quốc cũng như các nước khác ở đông nam á không có bằng chứng nào minh chứng họ quan tâm đến việc xác lập chủ quyền của họ trên quần đảo hoàng sa và trường sa. trong khi đó, suốt trong ba thế kỷ từ thế kỷ xvii đến đầu thế kỷ xix, một tổ chức dân binh việt nam, đội hoàng sa đã hoạt động tại hoàng sa và trường sa, vừa có nhiệm vụ kiểm soát, vừa khai thác tài nguyên ở các hải đảo thuộc hoàng sa, trường sa.
  4. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    2.2.3.1 địa bàn ra đời của đội hoàng sa là ở vùng cửa biển sa kỳ (hình 2.51) và cù lao ré.
    trước hết cù lao ré (2.21) (hình 2.52) còn gọi là lý sơn, người bồ đào nha gọi là pulo catah, người trung quốc gọi là ngoại la. cù lao ré ở vĩ độ 15040 bắc và kinh độ 1090 đông, nằm về phía đông bắc vịnh dung quất, cách thủ phủ quảng ngãi 50km, cách cửa biển sa kỳ khoảng 27 km. xa về phía bắc là cù lao chàm, phía nam là đảo phú quí.
    đảo cù lao ré hình đa giác không đều cạnh, chiều dài lớn nhất 7 km, chiều ngang 3 km, diện tích gần 11km2 (2.22). núi chiếm 1/4 ở bốn chung quanh, trống ở giữa, gồm 5 ngọn : hòn tiền, hòntai, hòn sỏi, hòn vung và lớn nhất là thới lới. về phía tây bắc, ngoài biển còn có hòn bé, phía đông là hòn mù cu. tại hòn bé có đất trồng trọt , có giếng nước ngọt ngay sát bờ biển. ở ngoài biển quanh đảo có san hô và có những hải sản qúi như hải sâm (đồn đột), đảo trồng nhiều lạc và ngô, bây giờ trồng hành tỏi.
    dân cư sống ở đây từ lâu đời, còn di tích văn hoá sa huỳnh gồm các mảnh gốm, các mộ chum cách nay hơn 2000 năm(2.23) và văn hoá chăm. theo gia phả các dòng ho, những người việt đầu tiên di dân ra đảo vào đầu thế kỷ xvii từ vùng cửa biển sa kỳ ở đất liền tiến ra.
    có 2 nhóm dân chiếm 2 vùng khác nhau của đảo. sáu họ (lục tộc) của làng an vĩnh (huyện sơn tịnh) ra ở phường an vĩnh, nay là lý vĩnh và bảy hộ (thất tộc) của làng an hải (huyện bình sơn) ra ở phường an hải, nay là làng lý hải (2.24). tại chùa hang còn gọi là ?othiên khổng thạch tự? ở núi thới lới, có thờ các vị tiên hiền khẩn hoang, mở đầu của phường an vĩnh (lý vĩnh) và an hải (lý hải). dần dần, dân các nơi thậm chí cả vùng gia định cũng đến đây định cư. theo gia phả họ phạm văn (thôn tây lý vĩnh) cho biết các vị tiên hiền ra đảo lập nghiệp vào năm hoàng định thứ 9 (1609). dân các phường an vĩnh, an hải đã nhiều đời sinh ra và lớn lên ở cù lao ré nhưng họ vẫn phải chịu đầy đủ mọi nghĩa vụ với làng quê gốc mình ở đất liền. mãi đến năm gia long thứ 3 (1804), hai phường an vĩnh và an hải mới thực sự được tách ra thành các đơn vị hành chính độc lập với làng quê gốc , theo đơn của các viên chức phường an vĩnh xin tách khỏi xã an vĩnh. tài liệu này còn được lưu giữ tại nhà thờ họ phạm quang, phường an vĩnh, nay là xứ lý vĩnh, huyện lý sơn [ 87 ] [88]
    đối diện với cù lao ré ở đất liền là vùng cửa biển sa kỳ và mũi ba làng an (batangan) ở vị trí nhô ra biển với kinh độ ở gần quần đảo hoàng sa nhất so với các nơi ở bờ biển trung bộ của việt nam, lại là địa bàn của làng quê gốc của dân cù lao ré. đó là xã an vĩnh ở một bên bờ cửa biển sa kỳ thuộc huyện sơn tịnh, và phía bắc là xã an hải thuộc huyện bình sơn, quảng ngãi. xã an vĩnh gồm đất liền ở cửa biển sa kỳ và phường an vĩnh, xã an hải cũng thế, gồm phường an hải ở cù lao ré mà đến đời gia long thứ 3 (1804) mới tách ra như nói trên. tại phía nam cửa biển sa kỳ còn di tích vườn đồn, nơi đồn biển sa kỳ xưa. tại đây cũng còn di tích miếu cá ông và di tích đình của xã an vĩnh xưa (nay là thôn an vĩnh, xã tịnh kỳ, huyện sơn tịnh, quảng ngãi).
    vùng cửa biển sa kỳ bao gồm cửa biển, không có sông chảy ra nên không có hiện tượng cát bồi, có độ sâu tương đối tốt để làm cảng (thuyền) thời bấy giờ. vì thế, hai bên cửa biển thuận lợi cho dân cư sinh sống, nhất là bờ phía nam, xã an vĩnh, sống về nghề biển và cả nông nghiệp, cách phủ lỵ quảng ngãi gần 30km. bờ phía bắc thuộc xã an hải, ít trù phú, ít dân cư hơn.
    những hải sản qúi ở vùng cù lao ré như hải sâm, đồi mồi có nơi tiêu thụ dễ, gần đó là đô thị hội an ở phía bắc. vùng cửa biển sa kỳ và cù lao ré cũng dễ dàng được cung cấp các vật liệu làm thuyền buồm như tre, lá, gỗ, kể cả gỗ kiền kiền làm cột buồm từ vùng rừng núi quảng ngãi, quảng nam ở cách không xa.
    hoàn cảnh địa lý tự nhiên, từ vị trí, địa thế cũng như nhân văn nói trên của vùng cửa biển sa kỳ- cù lao ré khiến dân cư ở đó giỏi đi biển, thường đi tìm những hải sản qúi như hải sâm, ốc tai tượng ngay ở vùng kế cận cù lao ré. hiển nhiên những nơi như hoàng sa đầy ắp những hải sản tất sẽ có sức hút những cư dân trên đi tới. đó cũng là lý do đầu tiên khiến cù lao ré - cửa biển sa kỳ là cái nôi ra đời của đội hoàng sa.
    ngoài ra, do hoàn cảnh lịch sử của xứ đàng trong, muốn tồn tại, từ thời nguyễn hoàng đã nghĩ đến phát triển giao thương ra biển khơi, tạo điều kiện phát triển mạnh của đô thị giao thương quốc tế hội an với sự có mặt của người nhật, trung quốc, nhất là người phương tây (từ đầu thế kỷ xvi phát triển giao thương về phương đông, khi thiết lập được các thương điếm từ malacca đến macao). trận thủy chiến với người hà lan (hợp tác với quân trịnh) ở gần cửa thuận an thời chúa nguyễn phúc nguyên đã thúc đẩy xứ đàng trong phải có kế hoạch thường xuyên thu lượm không những hải sản qúi mà còn sản vật do đắm tàu, nhất là súng ống để tăng cường sức mạnh trong cuộc chiến tranh với họ trịnh ở đàng ngoài.
    2.2.3.2. thời gian hoạt động của đội hoàng sa.
    về thời gian bắt đầu ra đời của đội hoàng sa, các sử sách việt nam và của cả trung quốc đều chép đội hoàng sa được thành lập vào đầu thời chúa nguyễn. hải ngoại kỷ sự (trung quốc) viết năm 1696, chép thời quốc vương trước đã có những hoạt động của đội ?ohoàng sa? và phủ biên tạp lục viết năm 1776, chép ?otiền nguyễn thị?. đại nam thực lục tiền biên (1821) chép ?oquốc sơ trí hoàng sa?. tất nhiên việc thành lập đội hoàng sa phải có trước hoặc trong thời chúa nguyễn phúc tần (1648-1687), tức là trước ?ohoặc trong thời ra đời? cuốn sách thiên nam tứ chí lộ đồ thư (năm 1686), đã chép bắt đầu các hoạt động ở hoàng sa. đó chính là thời chúa nguyễn phúc lan (1635-1648) hay chúa nguyễn phúc nguyên (1613-1635) hoặc chính trong thời chúa nguyễn phúc tần.
    theo sách phủ biên tạp lục của lê qúi đôn, nguyễn hoàng vào năm hoàng định năm thứ 3 (1602) mới đi chơi núi hải vân, thấy núi non hiểm trở nói rằng : ?ochỗ này là đất yết hầu của miền thuận quảng?. rồi vượt qua núi, xem xét hình thế, đến tận đất xã câu húc thuộc duy xuyên hiện nay, sai người con thứ 6 là nguyễn phúc nguyên đến trấn giữ dinh quảng nam này. từ đó cho đến khi mất vào năm 1613, mọi việc ở phía nam đèo hải vân đều giao cho nguyễn phúc nguyên trực tiếp lo liệu.
    ngoài ra, như ta đã biết ở trên, phủ biên tạp lục cũng như các tài liệu khác đều cho biết đội hoàng sa khi trở về đất liền vào tháng tám âm lịch vào cửa eo hay tư hiền rồi nộp sản vật tại chính dinh ở phú xuân. từ thời nguyễn phúc nguyên tuy không còn ở ai tử, quảng trị nữa mà mới vào vùng phước yên, quảng điền, bên bờ sông bồ, chi nhánh của sông hương, song chính dinh chưa tới phú xuân. thời chúa nguyễn phúc lan mới bắt đầu dời chính dinh đến kim long vào năm dương hoà năm đầu (1635) và thời chúa nguyễn phúc tần mới dời qua phú xuân. như thế, chúng ta có cơ sở để kết luận đội hoàng sa ra đời sớm nhất từ thời chúa nguyễn phúc lan (1635-1648), hay chắc chắn từ thời chúa nguyễn phúc tần (1648-1687), bởi chính vào thời kỳ này, các thuyền của đội hoàng sa mới đi vào cửa eo (thuận an ) và nộp sản vật tại chính dinh phú xuân.
    dù ở thời chúa nguyễn nào thì thời điểm lập ra đội hoàng sa cũng chắc chắn ít ra là vào nửa đầu thế kỷ xvii, hoặc nói như sử sách vào đầu thời chúa nguyễn.
    đội hoàng sa đã hoạt động kể từ chúa nguyễn phúc lan hay nguyễn phúc tần đến hết thời kỳ chúa nguyễn,cả thảy 7 đời chúa, gần một thế kỷ rưỡi.
    phong trào tây sơn nổi dậy, chúa nguyễn chạy vào đất gia định thì đội hoàng sa đặt dưới quyền kiểm soát của tây sơn mà trong tài liệu còn lưu giữ tại nhà thờ họ võ tại phường an vĩnh, cù lao ré đã cho biết năm 1786 thái đức năm thứ 9, dân cù lao ré đã xin chính quyền tây sơn cho đội hoàng sa hoạt động trở lại.[ 88 ] .đến những năm cuối cùng của tây sơn, hoạt động của đội hoàng sa cũng bị ảnh hưởng, nên đến khi gia long năm thứ 2 (1803) mới cho đội hoàng sa hoạt động trở lại như đại nam thực lục chính biên, quyển xxii đã ghi rõ:?cai cơ võ văn phú làm thủ ngự cửa biển sa kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội hoàng sa?.năm 1815, vua gia long sai đội hoàng sa đi đo đạc thủy trình ở hoàng sa.
    từ năm 1816, vua gia long bắt đầu cử thủy quân cùng với đội hoàng sa, không còn giao phó hoàn toàn cho đội hoàng sa lo kiểm soát, đo đạc thủy trình ở hoàng sa. đội hoàng sa trở thành tổ chức mang tính dân sự nhiều hơn. theo truyền thống, dân cù lao ré vẫn tiếp tục đi biển trong đó có vùng hoàng sa có nhiều sản vật qúi. không có một văn bản nào ghi lại việc quyết định bãi bỏ đội hoàng sa ngoài việt sử cương giám khảo lược soạn năm 1877 của nguyễn thông cho biết đội hoàng sa bị bãi bỏ từ lâu, trước năm soạn cuốn sách này (1877). thời tự đức, người ta không thấy biên niên sử còn chép các hoạt động của đội hoàng sa, vì theo phàm lệ của đại nam thực lục đệ tứ kỷ chép vào đời tự đức, những việc thành lệ thường không được chép nữa mà thôi. những hoạt động của đội hoàng sa cũng như thủy quân từ năm minh mạng thứ 17 (1836) đã trở thành lệ thường, như đã chép trong sách khâm định đại nam hội điển sự lệ
    ngoài ra có văn tế sống lính đội hoàng sa thời vua tự đức còn lưu lại ở đảo cù lao ré. tóm lại tuy không biết thời gian chính xác đội hoàng sa đã ngưng hoạt động, chỉ biết vào năm 1877, khi nguyễn thông viết sách việt sử cương giám khảo lược thì đội hoàng sa đã bị bãi bỏ từ lâu rồi. từ năm 1816, thủy quân đã đảm trách những việc xem xét, đo đạc thuỷ trình, không còn giao phó hoàn toàn cho đội hoàng sa như trước nữa.
    về lịch hoạt động ở ngoài đảo, theo những tài liệu như dư địa chí, hoàng việt địa dư chí, đại nam thực lục tiên biên, đại nam nhất thống chí, hàng năm đội hoàng sa bắt đầu đi từ tháng 3 âm lịch đến tháng 8 âm lịch thì về. riêng theo thiên nam tứ chí lộ đồ thư hay toản tập an nam lộ thì lúc đi cuối đông, không nói thời gian về; theo phủ biên tạp lục có bản đồ thường đi vào tháng giêng âm lịch đến tháng 8 về (nếu lương thực mang đi có 6 tháng, chép tháng giêng là nhầm). từ tháng 3 đến tháng 8 tức khoảng từ tháng 4 đến tháng 9 dương lịch ở quảng ngãi là mùa khô, có gió tây nam rất thuận lợi cho việc đi biển, nhất là vùng quảng ngãi lại chỉ có bão trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch (tháng 9 dương lịch đến tháng 12 dương lịch), nhất là hai tháng 9 và 10 âm lịch. như thế việc chọn thời gian hoạt động trên của đội hoàng sa là một lựa chọn rất khôn ngoan của tiền nhân. đến tháng 8 gió tây nam yếu, chuyển qua gió đông bắc thì thuyền của đội hoàng sa trở về vào cửa eo để nộp sản phẩm ở chính dinh là đúng lúc, hợp lý nhất. lúc đầu đi sớm quá không thấy lợi, nên dời đến tháng 3 là điều hợp lý. song chấm dứt vào tháng 8 để tránh bão là điều rất khôn ngoan của tiền nhân ta. hầu hết các tài liệu đều viết tháng ba âm lịch đi từ cù lao ré đến nơi bắt đầu hoạt động ở hoàng sa là 3 ngày 3 đêm. riêng đại nam nhất thống chí 3, 4 ngày đêm. thời gian trên đều là thời gian thực tế đối với loại thuyền buồm nhẹ chạy nhanh khởi hành từ đất liền hay cù lao ré đến đảo gần nhất thuộc quần đảo hoàng sa. dĩ nhiên trong suốt 6 tháng hoạt động, đội hoàng sa tiếp tục đi khắp nơi, xa hơn, suốt các đảo từ phía bắc. riêng các hòn đảo xa phía nam, ở cuối quần đảo trường sa hiện nay là côn đảo, hà tiên thì đã có đội bắc hải phụ trách và cũng lệ thuộc vào đội hoàng sa.
    hoàng sa và trường sa nằm trong khu vực có nhiều bão tố, nên điều kiện lúc bấy giờ không cho phép trú cả năm mà phải theo mùa. như thế, quá trình hoạt động của đội hoàng sa cũng là quá trình xác lập và thực thi chủ quyền việt nam trên quần đảo hoàng sa và trường sa, kéo dài từ đầu thế kỷ xvii đến thế kỷ xix và theo luật lệ rõ ràng của nhà nước việt nam.
  5. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0

    2.2.3.3. nhiệm vụ của đội hoàng sa.
    về nhiệm vụ, đội hoàng sa cần phải làm những công việc sau:
    1. thu lượm các sản vật từ các tàu đắm, các hải sản qúi từ vùng biển phía bắc quần đảo hoàng sa (phía nam tức phần trường sa hiện nay do đội bắc hải phụ trách).
    2. kiêm quản, trông coi đội khác cùng làm nhiệm vụ song ở địa bàn khác như đội bắc hải ở phía nam. (phủ biên tạp lục, quyển 2, đại nam thực lục tiền biên quyển 10, đại nam nhất thống chí, quyển 6..). ngoài ra, về sau còn đảm trách đi xem xét, đo đạc thủy trình vùng quần đảo hoàng sa. nhiệm vụ này bắt đầu thời gia long mới được ghi (đại nam thực lục tiên biên đệ nhất kỷ, quyển 50, quyển 52).
    3. riêng về nhiệm vụ dọ thám ngoài biển, giữ gìn ngoài biển, trình báo về các bọn thổ phỉ ngoài biển thì đơn xin phường an vĩnh tách khỏi xã an vĩnh ngày 1 tháng 2 năm gia long thứ 3 (1804) đã đề cập đến ở trên đây, chứng tỏ người dân đã tha thiết tự thấy có nhiệm vụ này. đương nhiên nhà nước được dân binh tình nguyện thì dễ chấp nhận vì đâu có mất mát gì, vả lại tính chất bán quân sự của đội hoàng sa đương nhiên phù hợp với nhiệm vụ này. ngoài ra chức cai đội hoàng sa kiêm chức cai cơ thủ ngự mà thủ ngự lại có nhiệm vụ do thám ngoài biển. nhiều tài liệu cho biết cai đội hoàng sa kiêm quản cai cơ thủ ngự như đại nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển xxiighi rõ: võ văn phú được sai tái lập đội hoàng sa chính khi ấy là thủ ngự cửa biển sa kỳ.
    như thế nhiệm vụ của đội hoàng sa rất nặng nề, không thuần túy về kinh tế, khai thác tài nguyên mà còn làm công tác xem xét, đo đạc thuỷ trình, dò thám trên quần đảo hoàng sa, nhất là trong thời các chúa nguyễn và thời kỳ đầu nhà nguyễn. chính từ công tác kiêm quản của đội hoàng sa kiêm quản đội bắc hải cho ta có quan niệm về quản lý biển đông của chính quyền chúa nguyễn và buổi đầu nhà nguyễn thời ấy. dân vùng cửa biển sa kỳ, cũng như dân cù lao ré rõ ràng rất giỏi nghề đi biển xa mà thời nay gọi là ?oviễn dương?, mà vị trí địa lý vùng này (sa kỳ, cù lao ré) lại là nơi nhô ra biển đông xa nhất. cũng như dân đất liền thời mở cõi ấy, dân cửa biển sa kỳ và cù lao ré (quảng ngãi) được chính quyền thời chúa nguyễn tín nhiệm giao trọng trách khai khẩn tới đâu, quản lý tới đó, còn được giao nhiệm vụ khác: kiêm quản.
    2.2.3.4 tổ chức và nội dung hoạt động của đội hoàng sa
    về tổ chức, đội hoàng sa là một tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang tính quân sự; vừa mang tính tư nhân vừa mang tính nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý thời ấy ở biển đông, ra đời từ đầu thời chúa nguyễn trong hoàn cảnh tay cầm cuốc, tay cầm gươm để mở đất khai hoang mà người đứng đầu đơn vị hành chánh lớn nhất là chưởng dinh. cần có dinh lũy để vừa cai quản về hành chánh, khai hoang vừa chỉ huy quân sự sẵn sàng chiến đấu. đây là một tổ chức đặc biệt ở đàng trong cũng như những tổ chức khác dưới triều nguyễn như các sở đồn điền khẩn hoang, mà đứng đầu mỗi đồn điền là một quản cơ .
    thời chúa nguyễn, theo phủ biên tạp lục của lê qúi đôn quyển 3, có nhiều tổ chức dân binh như đội thủ ngự (đội coi về canh gác, ngăn chặn trộm cướp), đội thổ binh.
    do đội là một tổ chức dân binh nên tổ chức phải thể hiện hình thức tổ chức quân sự của đàng trong.
    theo binh chế ở đàng trong, ngoài chính binh (tinh binh còn gọi là nội binh), các quan trấn thủ, lưu thủ ở địa phương thường lấy dân địa phương làm binh canh giữ các nơi, gọi là ngoại binh (binh ấy còn gọi là thổ binh hoặc tạm binh, hoặc thuộc binh). số binh này rất đông, gấp mấy lần chánh binh mà lại không được trả lương tháng như chánh binh, họ chỉ được miễn sưu thuế mà thôi. phiên chế gồm dinh, cơ, đội, thuyền. thuyền là đơn vị thấp nhất. mỗi đội gồm từ 50 , 60 hoặc 40, 50 người. điều khiển đội có cai đội và đội trưởng. đứng đầu đội hoàng sa là một cai đội, những thành viên trong đội được gọi là quân nhân, đã thể hiện tính quân sự hoá trên. vì thế có dịch giả phương tây dịch đội hoàng salà "compagnie hoàng sa", phải hiểu là một tổ chức quân đội, chứ không phải là tổ chức hội buôn, mới đúng.
    thời chúa nguyễn mỗi năm lấy 70 suất đinh để làm những nhiệm vụ của đội hoàng sa theo phép tuyển như trên, song còn dựa vào khả năng đi biển mà tuyển chọn. số lượng 70 là số lượng đặc biệt cho một đội dân binh như đội hoàng sa. cũng theo phủ biên tạp lục của lê qúi đôn đã gọi quân nhân để chỉ những người trong đội hoàng sa, trong đó có 2 người bị trôi dạt vào cảng thanh lan (hải nam) khi bị bão vào năm càn long thứ 17 (1754), còn tám người khác bị mất tích. như thế mỗi thuyền trong đội hoàng sa có số lượng khoảng 10 người.
    tại xã an vĩnh, nay thuộc thôn an vĩnh, xã tự kỳ còn di tích một ngôi miếu ở cạnh cửa biển sa kỳ là ngôi miếu hoàng sa vốn thờ bộ xương đầu của con cá voi, (tương truyền do binh hoàng sa đưa từ hoàng sa về) và thờ lính hoàng sa , ngôi miếu này bị phá hủy trong thời kỳ chiến tranh và bộ xương cá voi thần linh ở miếu này được chuyển sang thờ tại lăng thánh, ngay cạnh ngôi miếu xưa.
    tại cù lao ré nay là huyện đảo lý sơn vẫn còn âm linh tự tức miếu hoàng sa, ở thôn tây xã lý vĩnh, tức phường an vĩnh xưa và âm linh tự ngoài trời ở xã lý hải tức phường an hải xưa. cũng tại xã an vĩnh và cả làng an hải (cả đất liền lẫn ngoài đảo cù lao ré) có tục tế đình và làm lễ khao quân tế sống để tiễn lính đội hoàng sa lên đường làm nhiệm vụ hàng năm vào ngày 20 tháng 2 âm lịch, tại các đình làng. hiện nay chỉ còn đình làng xã lý hải, tức phường an hải xưa (xem hình 2.53 ). lính hoàng sa được tế sống vì nhiệm vụ quá nguy hiểm: "lính hoàng sa đi dễ khó về". trừ các chỉ huy như đội trưởng, thuyền trưởng, các lính thường lấy trai tráng chưa có gia đình, vừa khoẻ mạnh vừa không vướng vợ con. tại thôn an vĩnh thuộc xã tự kỳ hoặc tại đảo cù lao ré có nhiều gia đình còn gia phả và bàn thờ những người đi lính hoàng sa như nhà ông phạm quang tỉnh ở thôn đông, xã lý vĩnh có nhà thờ (hình 2. 54) và gia phả ông tổ phạm quang anh, người được vua gia long cử làm đội trưởng đội hoàng sa năm 1815.
  6. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    trong buổi tế sống lính hoàng sa đó, họ làm những hình nộm bằng khung tre và dán giấy ngũ sắc để giả hình người và đem tế tại đình. tế xong họ đốt đi, hoặc đóng thuyền bằng thân cây chuối đặt hình nộm lên và thả trôi ra biển gọi là ?okhao lễ thế lính hoàng sa? còn gọi là "lễ tế sống lính hoàng sa" với quan niệm các hình nộm kia sẽ gánh chịu mọi hiểm nguy, tai nạn trên biển thay cho đội hoàng sa và cầu mong cho người thân của họ bình an trở về . ngày nay tại các nhà thờ tộc họ có người đi lính hoàng sa đều có tổ chức tục lễ như thế và hiện tại gia đình các tộc họ cũng còn giữ bài văn khao thế lính hoàng sa gồm một nửa chữ hán, một nửa chữ nôm có đoạn :
    ?ongày hôm nay (hoặc đêm nay, buổi sáng nay) có theo ý người ______ ở tỉnh ______ nước đại nam, xin cúng thế một cỗ thuyền mô hình, trôi theo đường thủy hoàng sa, mấy cỗ bàn, vàng bạc, đáp lễ thần quan, xin dâng lên khảo thủy đạo một tiệc, thành kính bày lễ la liệt...? văn tế do ông nguyễn xuân cảnh, 72 tuổi, thôn tây, xã lý hải, huyện lý sơn cất giữ. [ 88 ]
    về địa bàn hoạt động, đội hoàng sa có không gian rất rộng. khởi đầu những đảo gần bờ biển nhất. song trong 6 tháng hàng năm từ năm này qua năm khác, đội hoàng sa mở rộng phạm vi hoạt động khắp các đảo san hô ở biển đông gồm quần đảo hoàng sa và kiêm quản đội bắc hải ở trường sa bây giờ.
    nếu các đảo phía bắc gần phủ liêm châu, hải nam (trung quốc) thì các đảo ở phía nam tiếp tới là côn lôn, hà tiên. dù chính đội hoàng sa không đủ lực lượng tự chính mình đi khắp nơi song lại kiêm quản các đội khác (như đội bắc hải) thì phạm vi hoạt động rõ ràng rất rộng, khắp các đảo biển đông chạy dài ngoài khơi dọc các tỉnh miền trung bộ việt nam khoảng quảng trị, thừa thiên, từ phía tây nam đảo hải nam xuống tới vùng trường sa hiện nay.
    các nhà cầm quyền việt nam từ đầu thế kỷ xvii đã biết rằng hoàng sa hay bãi cát vàng hoặc vạn lý trường sa là một dải dài hàng ngàn, vạn dặm chạy dọc biển đông. khái niệm chung nhất này cũng ở việc giao nhiệm vụ cho đội hoàng sa, đứng đầu là cai đội hay đội trưởng do nhà nước bổ dụng, được kiêm quản đội bắc hải ở phía nam cùng nhiệm vụ để thâu tóm vào một đầu mối. đây cũng là một quan điểm về quản lý các hoạt động kinh tế tại biển đông của nước ta thời ấy.
    như trình bày trên, vì đội hoàng sa là một tổ chức dân binh có nhiều chức năng, nhiệm vụ đặc biệt ở biển đông, nên tổ chức này cũng rất đặc biệt. đứng đầu là cai đội như phủ biên tạp lục, quyển 2 đã ghi : ?olịnh cai đội hoàng sa tính quản?. như binh chế thời chúa nguyễn mà chúng ta đã biết đội có cai đội và đội trưởng chỉ huy. chức cai đội hoàng sa thường được kiêm luôn các chức khác như trường hợp phú nhuận hầu kiêm cai thủ đồn cửa biển sa kỳ, kiêm cai cơ thủ ngự, như theo tài liệu tờ kê trình của phú nhuận hầu, ngày 1 tháng 10 năm gia long thứ 2 (1803), tài liệu hiện lưu trữ tại nhà thờ họ võ phường an vĩnh nay là thôn tây, xã lý vĩnh, huyện lý sơn, tỉnh quảng ngãi . thủ ngự là đơn vị cai quản, tuần tra chống trộm cướp thời nguyễn.
    tùy theo mỗi năm, số thuyền đi từ 4 hay 5 chiếc đến 18 chiếc. mỗi chiếc thuyền do chủ thuyền hay thuyền trưởng cai quản. thuyền cũng là đơn vị nhỏ nhất trong phiên chế thời nguyễn như chúng ta đã từng biết.
    số lượng 70 suất chia ra ở các thuyền , đều là dân binh được gọi là ?oquân nhân? như phủ biên tạp lục, quyển 2 ghi chép như đã trình bày ở trên. những quân nhân này chủ yếu là dân gốc xã an vĩnh và một phần là dân xã an hải ở đất liền và ngoài đảo cù lao ré.
    xã an vĩnh và xã an hải ở hai bên cửa biển sa kỳ. cùng với 2 phường an vĩnh và phường an hải do di dân đất liền ra cù lao ré, trong đó xã an vĩnh là chính, cung cấp dân binh cho đội hoàng sa. trong hầu hết các sử liệu chỉ nói đến xã an vĩnh, chỉ riêng việt sử cương giám khảo lược, quyển 4 của nguyễn thông là nói đến hai hộ an hải và an vĩnh tức hai phường an vĩnh và an hải ở đảo lý sơn hay cù lao ré.
    theo lời truyền miệng của dân địa phương cù lao ré để lại, cho biết việc tuyển lựa 70 suất của đội hoàng sa theo nguyên tắc định suất cho các dòng họ. song cụ thể vẫn là theo lệ bổ tuyển quân nhân thời chúa nguyễn. những người gọi là quân nhân ấy được tuyển theo hệ thống xã, huyện, phủ. do phải luân phiên, nên hàng năm các đội hoàng sa phải lo điều chỉnh quân số sao cho đảm bảo lệ này. các quân nhân đội hoàng sa có nghĩa vụ của một dân binh bình thường, không giống như binh lính chính qui, về mặt quyền lợi, ngoài việc được miễn sưu thuế, họ còn được hưởng phần dư, phần còn lại ngoài số qui định phải nộp cho nhà nước. lương thực mang đi cho 6 tháng được nhà nước cấp phát. song chủ yếu là gạo còn thức ăn phần lớn họ phải tự bắt cá, bắt chim ở các đảo để sống. họ phải mang củi lửa và theo lối truyền thống, bọn họ dấu những bếp ở mỗi thuyền bằng các nùi dây dừa khô giữ lửa lâu. đời sống của quân nhân trong đó có đội hoàng sa thời chúa nguyễn khả quan hơn đời sống của người dân theo như thích đại sán đã tả, rất khổ, phải nộp vào công khố bảy tám phần mười hoa lợi. "người làm nghề đánh cá đem về nộp cả cho cai trưởng. bọn này cấp hoàn cho bao nhiêu được bấy nhiêu... gặp lúc nhà nước có việc công, cai xã bắt dân phu ra ứng dịch, mọi người phải lo cơm đơm, gạo bới đi làm?.
    các quân nhân đội hoàng sa còn mang theo một đôi chiếu, 7 sợi dây mây (hay cây ré), 7 cái đòn tre. nếu chẳng may có mệnh một ở giữa biển thì dùng chiếu ấy quấn xác, đòn tre dùng làm nẹp và lấy dây mây bó lại rồi thả xuống biển. chiếc thẻ tre nhỏ ghi rõ tên tuổi, quê quán, phiên hiệu đơn vị của người mất được cài kỹ trong bó chiếu, cũng là dấu hiệu nhận biết nếu có ai vớt được [ 88 ]
    đội hoàng sa sử dụng các loại thuyền buồm nhẹ và nhanh. theo j. barrow viết trong "a voyage to cochichina" thì các tàu thuyền xứ đàng trong dùng vào việc buôn bán ven biển, chài lưới thu lượm hải sản và tổ yến trong nhóm quần đảo gọi là paracels thuộc nhiều kiểu dạng khác nhau .
    cũng theo cuốn du ký ?osuma oriental? của người bồ (tomé pires), được a. cortesas dịch với nhan đề ?o the suma oriental, an account of the east, from the red sea to japan", xuất bản tại london năm 1944, khoảng những năm 1513- 1514 kể lại cuộc hành trình và những nhận xét của tác giả về các miền đất đã đi qua ở phương đông từ biển đỏ cho tới nhật bản, trong đó có tả vương quốc cauchy - chyna tức đàng trong nước đại việt thời lê - mạc. tác giả cho biết có rất nhiều cư dân khai phá vùng bờ biển với một số lớn các ?olancharas?, một loại thuyền buồm đi nhanh.
    trong các tài liệu cổ của việt nam đã dẫn trên cho biết đội hoàng sa chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ gọi là ?o tiểu điếu thuyền? (phủ biên tạp lục ) hay ?otiểu thuyền? ( dư địa chí và hoàng việt địa dư chí).
    thích đại sán trong hải ngoại kỷ sự như đã trình bày ở trên, cũng viết ?othời quốc vương trước, hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền buôn tấp vào. mùa thu nước ròng cạn, chảy rút về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa thuyền đi có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió dâng mạnh, sợ có hiểm họa trường sa...?. [ 116 ,125 ] cũng trong hải ngoại kỷ sự, thích đại sán có nói đến thuyền đánh cá ấy gọi là thuyền điếu xá. chính chúa nguyễn phúc chu cũng đã cho thuyền điếu xá (thuyền đánh cá) đón tiếp đệ tử và vật hàng của thích đại sán đến sau tại đảo tiên bích sa (cù lao chàm).
    khi thích đại sán rời quảng đông đi bằng loại thuyền lớn, chứa tới bốn trăm người phải dùng cả 2 chiếc thuyền nhỏ dẫn đường. tuy thuyền đi mau như bay nhưng có lần bị mắc cạn, có lần suýt bị nạn vì không theo lối thuyền con chỉ dẫn.
    căn cứ vào ghi chép của sách sử việt nam, phạm vi hoạt động của đội hoàng sa đi bằng thuyền này, ngoài quần đảo lý sơn ở đó có hoàng sa chử, còn bao gồm đảo chiêm bà.
    thuyền đánh cá thế kỷ xvii, xviii ở nước đại việt giản dị nhất ở khu vực sa kỳ, cù lao ré. theo tài liệu được lưu lại ở đảo cù lao ré mà ông nguyễn hạp xuất thân từ gia đình ngư dân lâu đời ở cù lao ré đã vẽ, thì thuyền loại này có mê hay đáy dưới bằng tre đan rồi quét *** trâu, rồi dầu rái lên. song phía trên thành thuyền làm bằng gỗ trò hay sao, có 3 cột buồm bằng gỗ kiền kiền và các bộ phận không quan trọng như các then thì làm bằng gỗ mù u có sẵn ở địa phương. chính dân chài tự đóng thuyền lấy. tuy nhỏ song lại nhẹ dễ chạy nhanh và thường chạy bằng buồm, có loại buồm như thích đại sán kể giống chiếc rìu. nhỏ, nhẹ, ít người lại chọn thời điểm thuận gió thì thuyền đi nhanh gấp 10 lần như thích đại sán ghi chép như trên. thường thuyền ở khu cù lao ré - sa kỳ có 3 cánh buồm đan bằng lá, các dụng cụ như lu chứa nước đều bằng tre. gần đây ở cù lao ré còn thấy một vài thuyền đánh cá có cấu trúc tương tự như những thuyền truyền thống xưa của vùng này, đi biển xa như hoàng sa. (xem hình vẽ 2.55 và 2.56).
    sự thực lịch sử đã cho biết các thuyền đánh cá việt nam với vật liệu nhẹ như trên, nhỏ bé đã dễ dàng né tránh các đá san hô cũng như dễ dàng cập được vào bờ các đảo san hô ở hoàng sa và cũng thích hợp hoàn cảnh dân chài biển vùng sa kỳ - cù lao ré, đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình.
    với những nhiệm vụ và tổ chức hoạt động kể trên, đội hoàng sa thu lượm trước hết những hải vật qúi lạ ở hoàng sa như hải sâm, ốc hoa, ốc tai voi có chiếc lớn như chiếc chiếu, bụng có châu ngọc lớn như ngón tay trẻ em, sắc đục không bằng sắc con trai châu song vỏ ốc có thể tách ra từng phiến, cũng có thể dùng vỏ ốc làm thành vôi; có thứ ốc xà cừ , người ta có thể dùng để dát các đồ dùng; có thứ đại mạo hay đại mội , tức con đồi mồi rất lớn hay con hải ba (ba ba biển tục gọi là con trắng bông, cũng giống như con đồi mồi, nhưng nhỏ hơn).
    những hải sản quí trên tuy cũng có nộp cho nhà vua theo qui định, song thường vẫn cho đội hoàng sa bán, thường thì bán cho thị trường ở hội an tiêu thụ nhiều và có giá hơn.
    quan trọng nhất là các hàng hoá từ các tàu đắm mà toản tập thiên nam tứ chí lộ đồ thư viết rằng hàng hoá thu được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng ống. phủ biên tạp lục thì ghi : những đồ hải vật như gươm và ngựa bằng đồng hoa bạc, tiền bạc, vàng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, khẩu súng, ngà voi, sáp ong , đồ sứ.
    lê qúi đôn hồi làm hiệp trấn thuận hoá trong phủ biên tạp lục có viết: ?oông tra khảo sổ biên của cai đội thuyên đức hầu? , người chỉ huy đội hoàng sa trong nhiều năm đã vào phú xuân nộp các sản vật thu lượm được từ hoàng sa cụ thể như sau:
    - năm nhâm ngọ (1702) , đội hoàng sa lượm được bạc 30 thoi.
    - năm giáp tuất (1704), lượm được thiếc 5100 cân.
    -năm ất dậu, lượm được bạc 126 thoi.
    còn từ năm kỹ sửu (1709) đến năm qúi tỵ (1713), tức là trong khoảng 5 năm, thỉnh thoảng họ cũng lượm được mấy con đồi mồi và hải sâm. cũng có lần họ chỉ lượm được mấy khối thiếc, mấy cái bát đá và hai khẩu súng đồng.
    chính p. poivre viết trong du ký năm 1750 rằng : ?ongười ta đã thấy ở đô thành huế những khẩu súng thần công bằng sắt cỡ đạn 6 livres, có trang trí chữ ghi của công ty đông an hà lan, những khẩu súng này đã thu lượm được ở quần đảo paracels, trong số các di vật của các tàu đi qua đây bị đắm". ( journal r.e.o, iii, 1885).
    chắc chắn trong thời còn chiến tranh, súng đạn thu được ở các tàu đắm ở hoàng sa là rất qúi giá. việc đi biển xa (viễn dương) khiến các thành viên đội hoàng sa rất giỏi đi biển. chính từ thời gia long, minh mạng, thiệu trị thủy quân hoạt động mạnh ở hoàng sa cũng đều nhờ những người hướng dẫn hải trình từ những dân đi biển giỏi trong đó có dân binh đội hoàng sa. chính vì thế, các thuyền thuộc lưu lượng thủy quân triều nguyễn từ kinh thành huế trước khi ra hoàng sa phải tới tập trung ở quảng ngãi.
  7. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    ôi còn nhiều quá, đầy đủ chắc phải ốm mất hehe
    2.2.5 Các hoạt động của thủy quân triều đình Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
    2.2.5.1 Các hoạt động đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ về Hoàng Sa và Trường Sa
    Từ thế kỷ XVI, các nhà hàng hải và thám hiểm Bồ Đào Nha, rồi sau đó Hoà Lan đã khảo sát và vẽ những bản đồ về quần đảo. Hoàng Sa gọi là Parcel hay Pracel
    được vẽ trên bản đồ thành suốt một vệt dài hình lưỡi kiếm từ vĩ độ 17 Bắc xuống tới vĩ độ 10 Bắc. Càng xuống phía Nam, càng hẹp như đã trình bày ở trên đây. Sang thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong bắt đầu quan tâm đến Biển Đông. Bản đồ xưa nhất có ghi Bãi Cát Vàng ở Biển Đông còn lưu giữ đến ngày nay là bản đồ của Đỗ Bá Công Đạo trong Toản Tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư (năm 1686). (hình 1. 1)
    Tuy nhiên, còn rất ít tài liệu được lưu giữ đến ngày nay, một phần do chiến tranh tàn phá, song chắc chắn các chúa Nguyễn đã có những cuộc khảo sát, đo đạc thủy trình để vẽ bản đồ ở vùng biển Hoàng Sa, bởi không có công việc như thế , làm sao có được bản đồ ghi Bãi Cát Vàng trong Toản Tập An Nam Lộ Đồ hay Toản Tập An Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hoặc ?oThuận Hoá Quảng Nam Địa Đồ Nhật Trình? có vẽ ?o Trường Sa ?o ở ngoài xã Du Trường (Cù Lao Ré và đi mất 2 ngày! Vả lại,Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, quyển 8 còn chép: "Năm Tân Mão, Hiến Minh Hoàng Đế năm thứ 20 (1711), mùa hạ, tháng 4 (âm lịch), sai đo bãi cát Trường Sa dài ngắn, rộng hẹp bao nhiêu" . Cho dù bãi cát ?oTrường Sa? ở đây chính là Bãi Hoàng Sa ở ngoài biển hay ở đất liền cũng có bãi gọi là ?oTrường Sa ?o , thì đoạn văn ghi trên đã khẳng định một điều rằng Chúa Nguyễn đã có kế hoạch đo đạc các bãi cát ! Đo đạc các bãi cát trong đất liền đâu có quan trọng mà còn làm, huống chi bài cát dài ở ngoài biển còn có nhu cầu đo đạc hơn nhiều nhất là cần thiết cho hàng hải, tất cũng phải đo đạc không sớm thì chầy !
    Trước khi lên ngôi hoàng đế 1802, Nguyễn Anh cũng đã được anh em Dayot giúp đo đạc hải trình ở Biển Đông trong đó có vùng quần đảo Hoàng Sa .
    Lúc đầu đội Hoàng Sa có trách nhiệm xem xét đo đạc thủy trình như thời Gia Long, tháng giêng, năm Ất Hợi (1815), Phạm Quang Anh, thuộc đội Hoàng Sa được lệnh ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình. Phạm Quang Ảnh hiện được thờ tại từ đường tộc họ Phạm (Quang) tại thôn Đông, xã Lý Vĩnh, xưa là phường hay hộ An Vĩnh tại huyện đảo Lý Sơn ( Cù Lao Ré). Đến năm Gia Long thứ 15, năm Bính Tí (1816), vua Gia Long lại ra lệnh cho cả thủy quân phối hợp với đội Hoàng Sa đi ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc thủy trình ?
    Sang đến đời Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho thủy quân có trách nhiệm và thuê thuyền của dân hướng dẫn hải trình.
    Đại Nam Thực Lục Chinh Biên, đệ nhị kỷ, quyển 165 : ?oXem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái thủy quân biền binh và giám thành đáp một chiếc thuyền ô nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa?. [101]
    Đo đạc thủy trình hay hải trình là đo đạc đường đi ngoài biển. Đây là một trong những nhiệm vụ chỉ đạo của Bộ Công cốt để đảm bảo an toàn cho các thuyền bè đi trên biển trong đó có vùng biển Hoàng Sa . Việc đo đạc thủy trình và sau đó vẽ bản đồ ở Hoàng Sa do Bộ Công chỉ đạo cùng với thủy quân phối hợp với giám thành,với địa phương Quảng Ngãi và đội Hoàng Sa.
    Mỗi lần đi đo đạc phải chọn được thợ lái có năng lực, biết được các nơi đường biển nông sâu, khó dễ, cát ngầm, đá mỏm mà tránh, còn phải biết lấy núi nào làm chuẩn, biết chiều trời, tiết gió để chuyển phương hướng, nên tiến hay dừng. Theo sách Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, quyển 220 của triều Nguyễn thì Bộ Công tâu rằng người nào mười phần am hiểu thông thạo thì cho vào hạng ưu, thạo tám chín phần là hạng bình, thạo năm sáu phần là hạng thứ, châm chước bàn đinh, ai đáng đề bạt bổ nhiệm làm chánh đội trưởng, ngoại ủy đội trưởng, ai đáng cấp tiền gạo gấp đôi... thì kê sách tâu rõ đợi chỉ gia ân. Những lời dụ và bàn được chuẩn y như sau: "Thơ lại thủy sư thì cửa biển hiểm hay dễ, xem gió, trông khí trời, nghiên núi, dò nước, nhìn kiếm tìm hướng, nhớ rõ địa cầu, ai được mười phần am hiểu thông thuộc là hạng ưu, ai được tám chín phần là hạng bình, ai được có năm sáu phần là hạng thứ. Các tên dư hạng ưu mà nguyên là chánh đội trưởng thì đề bạt bổ nhiệm làm cai đội, nguyên là đội trưởng thì đề bạt bổ nhiệm làm chánh đội trưởng suất đội, ai là ngoại ủy đội trưởng thì đề bạt bổ nhiệm làm đội trưởng, gặp khi có khuyết thì ưu tiên bổ nhiệm ngay" [ 93 ].
    Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, quyển 220 cũng chép: ?oNhư trong một năm, sai phái đường bể nhiều lần, được xong xuôi ổn thoả cả, hoặc trong một lần mà đi ngoại quốc, cũng là không phái ra ngoại quốc mà hằng gặp sóng gió khác thường, thuyền rất nguy khốn, mà tự mình chủ trì tiến ngừng phải tốt, rốt cuộc được xong xuôi yên ổn thì đều là hạng ưu. Phàm trong năm ấy sai phái đường bể hai lần, không cứ xa gần, được xong xuôi yên ổn cả thì là hạng bình. Sai phái đường bể một lần xong xuôi yên ổn là hạng thứ. Phái đi không được xong xuôi yên ổn là hạng liệt? [ 93 ]
    Trên đây là quy định chung cho thuỷ quân đi biển và thủy quân đi đến Hoàng Sa vừa là dịp để khảo hạch và cũng là dịp luyện tập thủy quân, căn cứ vào đó mà thưởng phạt. Có thể đối với việc đo đạc ở Hoàng Sa, thưởng phạt đặc biệt hơn. Vì thế từ thời vua Minh Mạng năm thư 17, việc phái thủy quân ra Hoàng Sa hàng năm rất đều đặn. Cũng có khi vì gió bão phải đình lại, sau lại tiếp tục. Tỷ như năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có dụ chỉ của vua Thiệu Trị đình hoãn, đến năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) cũng cho đình hoãn do Bộ Công tâu xin hoãn. Sau đó đến thời Tự Đức không còn ghi chép trong sử sách nữa bởi theo phàm lệ sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên thời Tự Đức những việc đã thành lệ rồi không còn chép nữa.
    Thời gian đi vãng thám đo đạc ở Hoàng Sa thì bắt đầu triều Nguyễn theo lệ khởi đi vào mùa Xuân, (kể từ kinh thành Huế đến Quảng Ngãi), song cũng tùy năm sớm trễ khác nhau. Từ kinh thành Huế, thuỷ quân tới Quảng Ngãi nghỉ ngơi và chuẩn bị cũng mất một thời gian đáng kể . Như năm Minh Mạng 19 (1838) lúc đầu ấn định khởi hành hạ tuần tháng 3, nhưng vì gió Đông nổi lên liên tục kèm theo mưa lớn, tới hạ tuần tháng 4 vẫn chưa khởi hành được . Lúc đầu kế hoạch tính đo đạc giáp vòng Hoàng Sa từ hạ tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 6 là hoàn tất công việc. Sau dù có đi trễ, thời gian hoàn tất tháng 6 vẫn không thay đổi.
    Nếu chậm trễ mà có lý do chính đáng thì không sao, song nếu tùy tiện thì bị phạt, hay làm không chu tất cũng bị phạt. Nếu hoàn tất tốt đều được thưởng. Trong khi năm Minh Mạng thứ 16 (1835) , cai đội Phạm Văn Nguyên trên đường công tác đi Hoàng Sa về chậm trễ, đã có chỉ giao Bộ Công trị tội và bị phạt 80 trượng, song cho phục chức cai đội . Tộc họ Phạm Văn hiện có nhà thờ họ và lăng mộ tộc họ ở thôn Đông xã Lý Vĩnh (trước đây là phường An Vĩnh). Hiện có hàng trăm hậu duệ đang sống tại huyện đảo Lý Sơn. Các viên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoằng vẽ hoạ đồ Hoàng Sa chưa chu tất cũng bị phạt mỗi người 80 trượng. Song cùng đi chuyến này những người trong đội Hoàng Sa như Võ Văn Hùng (tộc họ Võ hiện còn từ đường ở thôn Tây, xã Lý Vĩnh, xưa là phường An Vĩnh, thuộc huyện đảo Lý Sơn), Phạm Văn Sanh (hiện họ Phạm Văn còn từ đường và khu "lăng" mộ ở thôn Đông, xã Lý Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn) hướng dẫn, đo hải trình vất vả, được thưởng mỗi người 1 quan tiền Phi Long ngân tiền và bình thệ, dân phu 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo cũng được thưởng mỗi người 1 quan tiền. Cũng thế vào năm Minh Mạng 18 (1837), do khởi hành chậm trễ, những người được kinh phái như thủy sư suất đội Phạm Văn Biện, tỉnh phái hướng dẫn Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh (lần trước được thưởng) đều bị phạt. Trong khi các dân binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo vẫn được thưởng 2 quan tiền . Những chi tiết trên đã minh hoạ rất hùng hồn việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trong việc đo đạc thủy trình và vẽ bản đồ.
    Nhiệm vụ đo đạc ở Hoàng Sa được qui định cũng rất rõ ràng có ghi trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ quyển 165 cũng như Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ , quyển 221 như sau:
    ?oKhông cứ đảo nào, cửa bể nào thuyền chạy đến, sẽ đo nơi ấy chiều dài, chiều ngang, bề cao, bề rộng, chu vi bao nhiêu, rà bên bờ nước bể nông hay sâu. Có cát ngầm, đá mỏm hay không, ở tình thế hiểm trở hay bình thường, xem đo tỏ tường vẽ thành đồ bản, chiếu khi khởi hành, do cửa bể nào ra bể, trông phương hướng nào mà lái đến nơi ấy, cứ theo đường thủy đã đi khấu tính ước được bao nhiêu dặm đường? lại ở chốn ấy trông vào bờ bể đối thẳng là tỉnh hạt nào? và phương hướng nào? Ước lượng cách bờ bao nhiêu dặm đường? Ghi nói minh bạch trong hoạ đồ để về trình lên. Lại từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chiếu theo lệ ấy mà làm? [ 93 ].
    Như thế việc đo đạc phải kết hợp với việc vẽ hoạ đồ mà chuyên viên vẽ hoạ đồ lại là các viên giám thành (2.26).
    Việc đo đạc để vẽ bản đồ về Hoàng Sa dưới triều Nguyễn đã được bắt đầu từ thời Gia Long 14 (1815), song đến đời Minh Mạng mới được thúc đẩy mạnh. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) các viên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoàng vẽ hoạ đồ Hoàng Sa chưa chu tất đã bị phạt mỗi người 80 trượng như đã nêu trên. Tấu của Bộ Công vào năm Minh Mạng thứ 17 (1836) cũng chỉ vẽ được một nơi và cũng chưa biết rõ nên làm thế nào. Theo dụ vua Minh Mạng ngày 13 tháng 7 năm thứ 18 (1837), thủy quân đi Hoàng Sa vẽ thành đồ bản 11 nơi, tuy nhiên chưa được chu đáo lắm. Theo Tấu Bộ Công ngày 21 tháng 6 Minh Mạng thứ 19 (1838), thủy quân đệ trình sau khi đo đạc 3 nơi với 12 hòn đảo đã vẽ được 4 bức đồ bản, 3 bức vẽ riêng và 1 bức vẽ chung , song cũng chưa vẽ rõ ràng lắm , Bộ Công phải yêu cầu vẽ lại tinh vi hơn [ xem phụ lục số 2.8 (a) , 2.8(b) ]
    Kỹ thuật đo đạc và vẽ bản đồ Hoàng Sa của Việt Nam vào thời kỳ nhà Nguyễn tuy có kỹ, chu đáo hơn trước, song vẫn còn lạc hậu so với kỹ thuật tân tiến của Phương Tây lúc bấy giờ (2.27), nhất là chưa xác định được toạ độ theo kinh độ và vĩ độ trên toàn địa cầu. Vì thế, các hải đồ tuy có nhiều chi tiết, song không phải chỉ có hải đồ là có thể đi biển chính xác mà lúc nào cũng cần đến những người từng trải đã từng lái thuyền đến các vùng biển đã đi qua. Các hải đồ về Hoàng Sa vốn được các giám thành vẽ hoặc được lưu ở vệ giám thành, hoặc ở thủy quân và Bộ Công. Rất tiếc qua cuộc binh biến ngày 4 - 7 - 1885 và cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp vào năm 1946, kinh thành bị đốt phá, đã không còn giữ lại những tập bản đồ qúi giá về Hoàng Sa đã được vẽ rất kỹ lưỡng. Chúng ta chỉ biết chắc từ năm 1838 thủy quân triều Minh Mạng đã vẽ được một bản đồ chung về Hoàng Sa.
  8. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    2.2.5.2 Các hoạt động cắm cột mốc, bia chủ quyền để xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đầu thế kỷ XIX.
    Sang thế kỷ XIX, sau khi lên ngôi hoàng đế, thiết lập triều Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long vào năm 1802, Nguyễn Anh đã bắt đầu tiếp tục tái lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các hoạt động của đội Hoàng Sa trong thời gian đầu và của thủy quân.
    Những người Pháp cộng tác với vua Gia Long, Minh Mạng như Chaigneau, giám mục Taberd đã viết rất rõ về những hành động của vua Gia long như Chaigneau đã viết trong hồi ký ?oLe mémoire sur la Cochichine" ?oChỉ đến năm 1816, đương kim hoàng đế đã chiếm hữu quần đảo ấy? hay giám mục Taberd viết: ?oChính là vào năm 1816 mà Ngài (vua Gia long) đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong. Gutzlaff năm 1849 đã cho biết chính quyền Việt Nam thời Gia Long đã thiết lập một trại quân nhỏ để thu thuế và bảo trợ người đánh cá Việt Nam ". Những người Phương Tây trên không phải là những nhà nghiên cứu nên chỉ ghi nhận sự kiện trước mắt, đương xảy ra, chứ không biết quá khứ từ lâu việc thực thi chủ quyền của Việt Nam như thế nào ở Hoàng Sa. Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhất kỷ, quyển 50 đã ghi chép hoạt động của đội Hoàng Sa để xem xét, đo đạc thủy trình do Phạm Quang Anh làm đội trưởng vào năm 1815. Đến năm 1816, vua Gia Long lần đầu tiên ban lệnh cho thủy quân với sự hướng dẫn của dân binh đội Hoàng Sa đi xem xét, đo đạc thủy trình ở quần đảo Hoàng Sa (Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quyển 52).
    Chính hoạt động lần đầu tiên của thủy quân này đã đánh dấu mốc thời gian rất quan trọng về việc tái xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, nên đã khiến cho những người Phương Tây như Chaigneau hay sau này là Taberd khẳng định vua Gia Long đã chính thức xác lập chủ quyền của mình như đã nói trên. Thực ra sự kiện năm 1816 chỉ đánh mốc là Hoàng Đế Gia Long sử dụng thủy quân thay vì chỉ có đội Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình , khai thác hải vật như trước.
    Sang thời Nhà Nguyễn, nhất là từ thời Minh Mạng, thủy quân hàng năm liên tục đã thành lệ đều đặn ra Hoàng Sa, Trường Sa đi vãng thám, đo đạc thủy trình, cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền, và các hoạt động khác trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ?
    Lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ xác lập và thực thi chủ quyền này là một ?olực lượng đặc nhiệm? gồm kinh phái, tỉnh phái và dân binh địa phương trong có dân binh đội Hoàng Sa. Kinh phái đứng đầu là thủy quân cai đội hay thủy quân chánh đội trưởng chỉ huy cùng với lực lượng thủy quân lấy trong vệ thủy quân đóng ở kinh thành hay ở cửa Thuận An. Ngoài thủy quân kinh phái còn các viên giám thành trong vệ giám thành, là những chuyên viên vẽ bản đồ như đã trình bày ở trên. Tỉnh phái là các viên chức ở tỉnh Quảng ngãi có nhiệm vụ phối hợp với kinh phái trong công tác hướng dẫn, cung cấp dân công, lo xây dựng, đồng thời còn điều động binh dân ở tỉnh Quảng Ngãi, Có khi gồm cả dân binh tỉnh Bình Định như trong chuyến công tác năm 1835 và 1837 đã dẫn trên đây.
    Nhiệm vụ của ?o lực lượng đặc nhiệm? luôn được hoàng đế Việt Nam theo sát và ra chỉ dụ cụ thể nhất là dưới triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, cho ta thấy nhiệm vụ của lực lượng đặc nhiệm này quan trọng đến chừng nào.
    Cũng chính vua Minh Mạng ra chỉ dụ nói rõ việc làm cụ thể của từng chuyến đi. Tỷ như năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu trình lên vua về chuyến vãng thám Hoàng Sa của thủy quân, chính đội trưởng Phạm Hữu Nhật, vua Minh Mạng phê sửa (châu cải) : ?oBáo gấp cho Quảng Ngãi thực thụ ngay, giao cho tên ấy (Phạm Hữu Nhật) nhận biên" và rồi vua Minh Mạng lại phê (châu phê): ?oThuyền nào đi đến đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu?. Cũng chính vua Minh Mạng theo dõi các chuyến đi công tác Hoàng Sa và đã nhiều lần ra chỉ dụ thưởng phạt. Thường dân binh đội Hoàng Sa Quảng Ngãi, Bình Định luôn được thưởng 1 hay 2 quan tiền và miễn thuế về sự cực khổ vất vả theo đoàn. Còn các viên chỉ huy như cai đội, chánh suất đội, các viên chức tỉnh phái mà chậm trễ đều bị tội.
    Các chuyến đi công tác ở Hoàng Sa cũng được tổ chức chuẩn bị kỹ lưỡng. Chỉ đạo ở trên có Hoàng đế và Bộ Công, thi hành có vệ thủy quân là chính phối hợp với vệ giám thành, và tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định.
    Thời gian chuẩn bị, từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quyển 154 có ghi rõ: ?oXem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái thủy quân biền binh (28) và giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa?. Như thời gian hàng năm chuẩn bị từ hạ tuần tháng giêng (tháng 2 dương lịch) đến thượng tuần tháng hai (tháng 3 dương lịch) thì có mặt ở Quảng Ngãi, để sang tháng 3 âm lịch (tháng 4 dương lịch) là lúc biển yên nhất thì khởi hành đi Hoàng Sa .
    Thuyền ô là thuyền sơn đen từ mũi đến lái dài 4 trượng thước, rộng 8 thước 4 tấc, 3 thước 2 tấc, 30 cọc chèo . Từ thời Minh Mạng thứ 15 (1834), có chỉ dụ các tỉnh có vùng biển như tỉnh Quảng Ngãi nên đóng hai ba chiếc thuyền nhanh, cứ mộ dân ven biển sung làm thợ lái, thủy thủ, mỗi thuyền cần đủ trên dưới 20 người, làm thủy binh thuộc tỉnh khi gặp việc khẩn cấp để tuần tiễu, thông báo, vận tải cho nhanh. Thuyền nhanh này cũng theo qui thức hình dáng thuyền Điếu hải dài 4 trượng thước 5 tấc, rộng 1 trượng 5 thước 5 phân, sâu 5 thước 1 tấc.
    Từ Quảng Ngãi, phải thuê 4 chiếc thuyền của dân. Đó là loại thuyền câu, song nhẹ và nhanh hơn, nhỏ hơn thuyền Điếu hải thuộc thủy quân ở các tỉnh trong đó có tỉnh Quảng Ngãi. Sở dĩ phải thuê vì thuyền của dân binh đội Hoàng Sa vốn nhanh nhẹ, dễ dàng cặp đổ bộ vào đất liền, dễ dàng tránh né các bãi ngầm, các thủy thủ lại quá quen thuộc, chưa kể thuyền ít người mang lương thực cung cấp cho sáu tháng dễ dàng hơn, và việc bắt chim, đánh cá để tự cung ứng cấp dưỡng cũng không còn là vấn đề lớn, để có thời giờ làm việc, đi thu lượm hải vật qúi, lấy hàng hoá, súng ống từ tàu đắm. Tài liệu không cho biết rõ thuyền ô có đi theo ra Hoàng Sa hay không. Song ít nhất lực lượng thủy quân trên có 4 chiếc thuyền câu. Cũng có năm đi 5 thuyền thì có thể cả thuyền ô khi lực lượng thủy quân đặc nhiệm này đã kết hợp với công tác của đội Hoàng Sa. Và như vậy sau này người ta không thấy sử sách nói nhiều về đội Hoàng Sa nữa, vì lực lượng thủy quân đặc nhiệm này trở thành chủ yếu và thường xuyên của nhà nước Việt Nam, và đội Hoàng Sa mang tính dân sự càng ngày càng đậm nét hơn, chủ yếu hoạt động về lợi lộc tư nhân, về kinh tế mà thôi.
    Đến đời vua Minh Mạng, thuỷ quân mới được tổ chức thật qui củ có nhiệm vụ ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ còn có cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển 6 đã ghi chép rằng trước năm Minh Mạng thứ 16, nhà vua sai quân lính ra dựng bia đá làm dấu đã thấy có nơi phía Tây Nam đảo có ngôi cổ miếu, không biết kiến thiết vào thời đại nào và có bia khắc bốn chữ ?oVạn Lý Ba Bình?. Như thế trước thời Minh Mạng đã có việc khắc bia, dựng miếu chùa rồi.
    Đến năm Minh Mạng thứ 14 (1833), vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công sang năm Minh Mạng thứ 15 (1834) phái người ra dựng bia chủ quyền . Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ công tâu vua cứ hằng năm cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: ?oMỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc". Đại Nam Thực Lục Chinh Biên, đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : ?oVua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mội bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ:
    ?o Minh Mạng Thập Thất Niên Bính Thân thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phâm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương đồ chí thử, hữu chí đẳng tư (tờ 25b)?.
    ( Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
    Mỗi năm cột mốc đều khắc rõ niên hiệu, năm, chức vụ, họ tên viên chỉ huy ?olực lượng thủy quân đặc nhiệm?, được phụng mệnh ra Hoàng Sa và ghi dấu để nhớ. Nếu chỉ tính sử sách có ghi rõ tên những người chỉ huy đội thủy quân đặc nhiệm của các năm cụ thể thời Minh Mạng như cai đội thuyền Phạm Văn Nguyên năm Minh Mạng thứ 16 (1835), chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật năm Minh Mạng thứ 17 (1836), thủy sư suất đội Phạm Văn Biện năm Minh Mạng thứ 18 (1837), thì số đảo được đánh mốc cũng rất đáng kể. Mỗi thuyền 10 bài gỗ. Mỗi năm 4,5 thuyền có thể cắm mốc tối đa 40, 50 cột mốc tại các đảo, song rất khó tổng kết tổng cộng trên thực tế cắm cột mốc được bao nhiêu đảo.
  9. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    2.2.5.3 Xây dựng chùa miếu và trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Các vị vua chúa Việt Nam, nhất là thời vua Minh Mạng rất quan tâm đến việc dựng chùa miếu và trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công cho tỉnh Quảng Ngãi cất miếu Hoàng Sa một gian theo thể chế nhà đá . Việc dựng miếu này theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 154, đã cho biết rõ năm Minh Mạng thứ 15 (1834) đã không thực hiện việc xây dựng miếu như dự kiến mà đến mãi đầu tháng 6 mùa hạ, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua Minh Mạng đã cử cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính và giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu cách toà miếu cổ 7 trượng. Bên trái miếu, phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong việc chớ không như các đoàn khác có nhiệm vụ lâu dài hơn.
    Thường ba mặt miếu Hoàng Sa bên trái, bên phải và đằng sau đều trồng các loại cây. Theo Việt Sử Cương Giám Khảo Lược của Nguyễn Thông, thì các quân nhân đến đảo thường đem những hạt quả thủy nam mà rải ở trong và ngoài miếu, mong cho mọc cây để tìm dấu mà nhận. Như thế cây trồng ở Hoàng Sa chủ yếu trồng bằng cách gieo hạt, quả chứ không trồng theo kiểu trồng loại cây con. Đó cũng hợp lý vì mang cây con ra biển đi trên thuyền nhỏ như thế cũng khó khăn, khó bảo dưỡng được cây sống để mà trồng. Thời gian hoạt động hàng năm của thủy quân vào cuối mùa khô, kéo dài sang mùa mưa nhiều tháng trời, rất thuận lợi cho việc gieo hạt trồng cây. Ý của vua Minh Mạng sai trồng cây cũng cho rằng gần đây thuyền buôn thường bị hại, nên trồng cây cũng cốt làm dấu dễ nhận ra đảo mà tránh thuyền bị tai nạn đâm vào đảo.
  10. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    CHƯƠNG 3
    TIẾP TỤC CỦNG CỐ, KHẲNG ĐỊNH VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ KHI BỊ CÁC NƯỚC NGOÀI XÂM PHẠM
    3.1. TIẾP TỤC CỦNG CỐ, KHẲNG ĐỊNH VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1909 ĐẾN NAY.
    3.1.1 Thời kỳ từ năm 1909 đến 1945.
    Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, chế độ bảo hộ Pháp có viên Khâm sứ đứng đầu Trung Kỳ, khu vực có trách nhiệm quản lý quần đảo Hoàng Sa. Trong khi Nam Kỳ, quản lý quần đảo
    Trường Sa, lại ở dưới chế độ thuộc địa Pháp, song thực chất tất cả đều thuộc chế độ đô hộ kiểu trực trị của Pháp. Mọi quyền hành trong tay Pháp. Chính quyền Nam Triều chỉ có trên danh nghĩa, song trên thực tế chính quyền thuộc địa Pháp đã có những hành động cụ thể củng cố, khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Trước năm 1909 chưa hề có một bản đồ nào của Trung Quốc ghi tên Tây Sa và Nam Sa. Cuốn sách "Trung Quốc Địa Lý Giáo Khoa Thư" do Thượng Hải Thượng Vụ An Thư Quán, xuất bản năm 1906 ghi điểm cực nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam như sau: "Phía nam bắt đầu là vĩ độ 18013B lấy bờ biển Châu Nhai đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) làm điểm mút". [ 58 ]
    Ngay trong những bộ sưu tập tư liệu để minh chứng chủ quyền Tây Sa của Trung Quốc đối với cái gọi là Tây Sa như "Ngã Quốc Nam Hải Chư Đảo Sử Liệu Hội Biên" do nhóm Hàn Chấn Hoa chủ biên, xuất bản năm 1988, người ta cũngchỉ thấy đến năm 1913 mới bắt đầu xuất hiện bản đồ vẽ Đông Sa, rồi sau đó mới vẽ Đông Sa và cả Tây Sa vào những thập niên 20 của thế kỷ XX. Đến tháng 4 -1935, chính quyền Trung Quốc mới in bản đồ có tên quần đảo Nam Sa song lại là bãi ngầm Macclesfield Bank, và Đoàn Sa là khu quần đảo Spratly tức Trường Sa của Việt Nam.
    Sau chiến tranh Trung - Nhật năm 1894 -1895, Nhật chiếm Đài Loan và có chiều hướng bành trướng thế lực xuống Đông Nam Á. Sau đó, Nhật chiến thắng trong chiến tranh Nga - Nhật 1905, Trung Quốc rất e ngại thế lực của Nhật, tìm cách hạn chế thế lực của Nhật xuống phía Nam.
    Ngày 2 tháng 7 năm 1907, thương gia Nhật Bản tên là Nishizawa Yoshiksugu (Si - Chứa - Cô - Sư) vốn ở Cơ Long thuộc Đài Loan đã liên kết 120 người đổ bộ lên đảo Pratas (3.29) làm nhà, dựng cột dài 70 thước, treo cao cờ Nhật và trồng cây nêu cao 15 thước, ghi chép tỉ mỉ lịch sử phát hiện, đặt tên đảo là Nishizawa (Si- Chức hay Tây Trạch); quần đảo này ở 19042 vĩ độ Bắc va 116042 kinh độ Đông, cách Hương Cảng 108 hải lý. Người Nhật đã cắm cột gỗ có viết ghi tháng 8 năm Minh Trị và mặt sau viết "đảo Tây Trạch".
    Sau đó chính quyền Đài Loan thuộc Nhật đã cử viên chức đến đây và đuổi thuyền đánh cá thổ dân đi. Tổng Đốc Quảng Đông lúc bấy giờ là Trương Nhân Tuấn đã nhiều lần trình lên cho triều đình Nhà Thanh ở Bắc Kinh để thương thảo với chính phủ Nhật trả lại. Bộ Ngoại Giao Trung Quốc điện cho Tổng Đốc Trương Nhân Tuấn giao thiệp với lãnh sứ Nhật ở Quảng Châu để giành lại đảo này. Để có căn cứ, Trung Quốc đã lấy tên Đông Sa, một hòn đảo nằm ngoài khơi tỉnh Quảng đông, đã được ghi trên bản đồ ?oDuyên Hải Toàn Đồ? trong sách Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1730) để đặt tên cho đảo Pratas. Đến ngày 7 tháng 10 năm 1907, Nhật trao lại đảo này cho Trung Quốc.
    Khi xảy ra sự kiện Nhật dòm ngó đảo Pratas vào năm 1907, chính quyền Trung Quốc, nhất là chính quyền Quảng Đông rất nhạy bén về chủ quyền của Trung Quốc, mới bắt đầu đặt tên Đông Sa cho quần đảo Pratas như nói trên, sau đó là Tây sa cho quần đảo Paracels tức Hoàng Sa của Việt Nam, rồi mãi về sau vào thập niên 30 mới đặt tên Nam Sa cho bãi ngầm Macclesfield Bank (sau gọi là Trung Sa).

Chia sẻ trang này