1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa và các tranh chấp của các bên liên quan với VIệt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi lionking_hau, 15/01/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. RC_PLANE

    RC_PLANE Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    6
    Quần đảo Hoàng Sa có đảo lài, có đảo cao nhưng cũng chỉ cao hơn mặt biển chừng vài chục thước. Các đảo phần nhiều trơ trụi, hiếm có cây cao, toàn đá lởm chởm, chỗ cao chỗ thấp, ít có nơi bằng phẳng. Gần bờ thì có đá ngầm, san hô. Hết đá ngầm, san hô thì biển rất sâu. Đáy biển cũng có đá nên neo tàu không an toàn. Quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa không thể lập căn cứ hải quân được vì không có chổ ẩn núp cho tàu bè, chỉ có thể lập căn cứ trên đảo mà thôi.
    Tất cả các đảo đều không có nước ngọt, trừ đảo Hoàng Sa mà chúng tôi thường gọi là « đảo khí tượng » vì có đài khí tượng do người Pháp thiết lập và sau này luôn luôn có nhân viên khí tượng Việt Nam làm việc cho đến ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra. Người Pháp xây một hồ chứa nước bên trong nhà, có các máng xối hứng nước mưa chuyền vào bên trong hồ chứa để dùng cho cả năm.
    Trên đảo Hoàng Sa mấy năm đầu tiên có một trung đội Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ. Về sau vì nhu cầu chiến trận, Thủy Quân Lục Chiến phải rời đảo và được thay thế bởi Địa Phương Quân của tiểu khu Quảng Nam. Họ phải ở trên đảo Hoàng Sa vì chỉ đảo này mới có nước ngọt. Thủy Quân Lục Chiến hay Địa Phương Quân đều được trang bị xuồng cao su để di chuyển quanh các đảo mà kiểm soát.
    Sau khi biết tổng quát vị trí các đảo, quí độc giả có thể theo dõi diễn tiến trận chiến Hoàng Sa sau đây. Tôi cũng xin thưa trước là những gì xảy ra tôi không nhớ chính xác giờ giấc, chỉ phỏng chừng. Nhưng những sự kiện thì xác thực. Ngày giờ và sự kiện xảy ra đều có ghi trong «nhật ký hải hành» và «nhật ký chiến hạm» nhưng nay không có thể tham khảo được.
    Ngày 15 tháng 1 năm 1974 tàu tôi, HQ-16, được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một Thiếu tá bộ binh thuộc Quân đoàn 1 (mà nay tôi không còn nhớ tên).
    Tàu khởi hành tối ngày 15 tháng 1 năm 1974 và đến Hoàng Sa sáng 16 tháng 1 năm 1974. Khi đến nơi, Địa Phương Quân trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên Thiếu tá Bộ binh lên đảo. Trong khi chờ đợi đưa Thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận chuyển tàu rời đảo Hoàng Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hòa. Tôi lấy ống nhòm nhìn lên các đảo chung quanh để ngắm nhìn phong cảnh và tiêu khiển thì giờ.
    Khi nhìn lên đảo Quang Hòa thì thấy có một dãy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có mái. Tôi thấy lạ, liền gọi máy về Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải (BTL/HQ/VIZH) hỏi thì nơi đây hỏi lại tôi là có biết người nào trên đó không? Tôi trả lời chỉ thấy bốn, năm người di chuyển tới lui nơi dãy nhà đang xây cất chứ không biết là ai. Họ ăn mặc thường dân, có người ở trần, nhưng có nhà xây cất thì chắc là người ngoại quốc mà không ai khác hơn là Trung Cộng, vì cách đảo Quang Hòa chừng 20 hải lý về phía đông bắc có căn cứ của Trung Cộng, cũng nằm trong quần đảo Hoàng Sa.
    HQ-16 vẫn thả trôi tàu để chờ Thiếu tá Bộ binh và chờ lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.
    Trưa ngày 16 tháng 1 năm 1974 một chiến hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng.
    Tối ngày 17 tháng 1 năm 1974 Bộ Tư Lệnh Hải Quân gởi ra một toán người nhái do HQ-4 chở ra. Toán người nhái này rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16.
    Sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 HQ-5 và HQ-10 có mặt ở khu vực Hoàng Sa. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là người chỉ huy cuộc chiến.
    HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (khoá 11) chỉ huy.
    HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá 10) chỉ huy.
    HQ-4 do Trung tá Vũ Hữu San (khoá 11) chỉ huy.
    HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà (khoá 12) chỉ huy.
    Khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Vĩnh Lạc.
    Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang Hòa đổ bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung Cộng xuất hiện, cản trước mũi, không cho tàu tôi tiến gần đến đảo (xin xem hình 1).
    Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh đụng tàu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây an toàn chung quanh tàu Trung Cộng và làm rách bè nổi của tàu Trung Cộng. Nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu Trung Cộng số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12.7 của tàu tôi. Tàu Trung Cộng nhỏ hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh nhẹn hơn.
    Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì xảy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái vào mặt ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hòa vào chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974.
    HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16 không thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu chừng non một tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi người liên lạc máy là có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên được bờ chưa? Họ trả lời là đang lội nước ngang ống chân, còn vài chục thước nữa mới tới bờ. Họ cũng cho biết là không thấy người trên bờ.
    Vài phút sau thì nghe báo cáo là một Thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an toàn được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui. Toán người nhái đã trở về lại HQ-16.
    Chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974, khoảng 6 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho tôi và ra lệnh cho tôi chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán người nhái lên đảo Quang Hòa. Sau khi đại tá Ngạc ra lệnh này xong, thì từ đó về sau tôi không còn nghe lệnh lạc gì thêm từ Đại tá Ngạc nữa.
    Đến tối ngày 18 tháng 1 năm 1974 máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Cộng phá rối tần số, không liên lạc được. Tôi không thể gọi Đại tá Ngạc, HQ-4 hay bộ tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải. Tôi chỉ liên lạc được với HQ-10 bằng máy PRC-45 là loại máy truyền tin xách tay, chỉ liên lạc được trong vòng 10 hải lý.
    Sau khi nhận lệnh, tôi nghĩ chỉ còn cách đổ bộ toán người nhái vào ban đêm mới may ra lên được đảo, nhưng chưa chắc toán người nhái đã vào trót lọt được vì có thể tàu Trung Cộng theo dõi và liên lạc chỉ điểm cho người của họ trên đảo canh chừng để bắn khi người nhái vào bờ. Ngoài ra thức ăn, nước uống không có, làm sao toán người nhái có thể hoạt động lâu hơn một ngày được, và ít nhất cũng phải có một tiểu đội hay trung đội Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ gần bờ yểm trợ cho toán người nhái khi họ rút lui nếu bị phát hiện hay khi gặp lực lượng địch mạnh hơn. Vì thế, muốn thi hành lệnh của Đại tá Ngạc, tôi nghĩ chỉ còn cách là phải tiêu diệt tàu Trung Cộng trước rồi mới tính chuyện đổ bộ người nhái lên đảo sau.
    Lúc này phía Trung Cộng xuất hiện thêm hai chiếc tàu nữa cùng loại với chiếc đã có trước.
    Tôi gọi Thiếu tá Thà HQ-10 và nói ý định của tôi: Đêm nay HQ-16 và HQ-10 ra thật xa đảo, làm tối chiến hạm (không cho ánh sáng lọt ra ngoài) để tàu Trung Cộng không biết chúng tôi ở đâu. Sáng mai (19 tháng 1 năm 1974) sẽ tiến vào lòng chảo. HQ-16 vào cái ?opass? gần đảo Hoàng Sa, HQ-10 vào cái ?opass? gần đảo Quang Hòa (xin xem hình 2).
    Tôi cũng nói với Thiếu tá Thà là anh cũng như tôi, phải cố gắng hết sức mình. Nếu một trong hai đứa mà loạng quạng, chỉ còn lại một, thì bọn chúng (ba chiếc tàu Trung Cộng) xúm lại, mình không thể nào chống nổi.
    Đêm hôm đó (18 tháng 1 năm 1974) khoảng nửa đêm, tôi tập họp thủy thủ đoàn HQ-16 để thông báo ngày mai sẽ tiến vào đánh tàu Trung Cộng. Tôi cũng nói với thủy thủ đoàn là tất cả mọi người phải can đảm, cố gắng hết sức mình, ai làm phần việc của mình cũng phải nhanh nhẹn, chính xác mới mong thắng và còn sống. Nhất là các ổ súng và toán phòng tai phải lo chuẩn bị trước, xem xét lại súng ống, đạn nước phải đem từ hầm đạn lên để sẵn ở các ụ súng, ống nước cứu hoả phải trải sẵn ra. Máy bơm nước phải sẵn sàng.
    Sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo như dự định.
    Tôi gọi máy cho Thiếu tá Thà và nói là nếu chừng nào thấy tôi khai hỏa là phải khai hỏa theo liền.
    Khi HQ-16 và HQ-10 qua khỏi hai cái ?opass? và vừa tầm súng, tôi quay ngang tàu HQ-16 đưa phía hữu hạm của HQ-16 hướng về ba tàu Trung Cộng. Mục đính của tôi là để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Cộng thì chỉ sử dụng được hỏa lực ở phía trước mũi thôi.Với lợi thế sử dụng tối đa hỏa lực nhưng cũng có cái bất lợi là hứng đạn của địch nhiều hơn. Nhưng vì tôi đánh phủ đầu tàu Trung Cộng nên phải sử dụng tối đa hỏa lực. So với tàu Trung Cộng, tàu tôi có đủ loại súng tàu Trung Cộng có, ngoài ra còn có thêm khẩu 127 ly mà tàu Trung Cộng không có. HQ-10 chỉ có hỏa lực ngang bằng tàu Trung Cộng.
    Khi đang tiến vào lòng chảo, tôi đã mừng thầm khi thấy ba tàu Trung Cộng đều ở trong lòng chảo, tức là những mục tiêu tốt cho HQ-16 và HQ-10 tác xạ. Nếu chúng ở rải rác, chiếc trong chiếc ngoài lòng chảo thì tôi cũng chưa biết tính sao vì tàu Trung Cộng tuy nhỏ nhưng linh động hơn, nếu chúng ra ngoài biển thì khó bắn trúng hơn vì nó nhỏ và chạy nhanh, còn tàu tôi lại là mục tiêu tốt cho tàu Trung Cộng vì to con nên nặng nề, chậm chạp nên dễ lãnh đạn hơn. Nhưng nay thì cả ba tàu địch bị vây trong vòng chảo vì hai cái ?opass? đã bị HQ-16 và HQ-10 chặn rồi.
    Khi đã ở đúng vị trí và vị thế dự định (xin xem hình 2), HQ-16 cách HQ-10 chừng một hải lý, hai tàu HQ-16 và HQ-10 cách ba tàu Trung Cộng từ 3 đến 4 hải lý, tôi ra lênh lần chót: các ổ súng phải luôn luôn theo dõi mục tiêu, mục tiêu nào thuận lợi thì bắn mục tiêu đó. Sau khi hỏi tất cả các ổ súng đã sẵn sàng chưa, tôi ra lệnh khai hỏa.
    HQ-16 và HQ-10 đứng yên một chỗ còn ba tàu Trung Cộng di chuyển loanh quanh sát vòng cung lòng chảo gần đảo Duy Mộng và bắn trả chúng tôi.
    ..................
  2. RC_PLANE

    RC_PLANE Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    6
    Tôi hy vọng trong 5,10 phút là triệt hạ được tàu Trung Cộng vì khai hỏa trước và sử dụng tối đa hỏa lực trong khi tàu Trung Cộng bị tấn công bất ngờ vì ngày hôm trước, tàu tôi bị họ chặn, tôi bỏ đi mà không có gì xảy ra nên họ không ngờ rằng tôi sẽ tấn công họ.
    Mười phút trôi qua mà chưa thấy tàu Trung Cộng hề hấn gì, tôi bắt đầu sốt ruột, trong khi đó tôi nghe tiếng lách tách, lép bép trên trời như tiếng pháo bông, giữa tàu tôi và HQ-10 và về phía HQ-10 nhiều hơn. Tôi nghĩ chắc là đạn thời chỉnh tức là đạn tự động nổ mà không cần chạm mục tiêu. Trận chiến vẫn tiếp tục. Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung Cộng bốc khói, một tàu khác có thể bị trúng đạn làm hư hệ thống tai lái nên tàu cứ xoay quanh như gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.
    Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.
    Sau đó hầm máy hữu HQ-16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu.Trung sĩ điện khí Xuân bị thương. Nhân viên cứu hỏa tìm cách bít lỗ thủng. Chừng vài phút sau, tàu bắt đầu nghiêng. Hầm máy báo cáo lỗ thủng bít không được vì nước vào quá mạnh, chỗ thủng nằm trong kẹt không có chỗ cho nhân viên cứu hỏa xử dụng đà chống để chặn tấm bố và tấm gỗ bít lỗ thủng. Nước ngập đến đầu gối. Tôi ra lệnh nếu không bít được lỗ thủng thì đóng nắp hầm máy lại đừng cho nước chảy ra khỏi hầm máy. (Tôi nhớ hầm máy hữu trúng đạn mà trong bài viết của ông Dân thì lại viết là hầm máy tả !).
    Tàu chỉ còn một máy tả và một máy điện, phòng vô tuyến liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy tình thế không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, tôi vận chuyển tàu quay trở ra theo cái ?opass? đẻ rời lòng chảo.
    Tàu mỗi lúc một nghiêng thêm (trên 10°) và chỉ còn một máy nên vận chuyển rất khó khăn. Hầm máy hữu báo cáo nhân viên phải rời hầm máy vì tàu sắp chìm.
    Thấy độ nghiêng của tàu đến mức gần hết độ an toàn, có thể tàu sẽ lật, nên tôi ra lệnh: toàn thể nhân viên vào nhiệm sở đào thoát vì sợ họ không còn thì giờ đào thoát kịp. Ra lệnh xong, tôi nắm lấy tay lái tiếp tục lái thay cho nhân viên ra nhiệm sở.
    Trong khi tôi đang lái thì Đại úy Hiệp, cơ khí trưởng, chạy lên đài chỉ huy, nói với tôi: ?oVì sao hạm trưởng cho nhiệm sở đào thoát? Tôi đang ráng làm cân bằng tàu?. Tôi nói là tàu mỗi lúc một nghiêng thêm, không biết sẽ lật chìm lúc nào nên phải chuẩn bị đào thoát.
    Lúc này tàu nghiêng đã đến độ bão hòa (không nghiêng thêm nữa) vì nước đã vào đầy hầm máy. Tôi cho giải tán nhiệm sở đào thoát và vào lại nhiệm sở tác chiến. Lúc này ở đài chỉ huy có Trung úy Đoàn Viết Ất, tôi nói với Trung úy Ất: ?oTàu nghiêng như thế này, khó mà lái ra biển an toàn được, chắc tôi phải ủi tàu vào đảo khí tượng (đảo Hoàng Sa) để cố thủ và chờ HQ-4, HQ-5 tiếp viện?.
    Trung úy Ất nói với tôi: ?oXin Hạm trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung Cộng bắt làm tù binh. Làm tù binh Trung Cộng thì kể như chết rục xương trong tù, không còn thấy cha mẹ, vợ con, quê hương xứ sở. Xin Hạm trưởng cứ lái ra biển. Tàu có chìm thì đào thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết trên biển vẫn sướng hơn?.
    Bây giờ viết lại câu nói này của Trung úy Ất tôi vẫn còn xúc động đến chảy nước mắt. Nghe Trung úy Ất nói, tôi suy nghĩ thêm: Nếu tôi cứ ủi vào đảo khí tượng thì cũng không thể nào ủi sát vào bờ được vì gần bờ đá ngầm rất nhiều. Nếu ủi, tàu sẽ mắc cạn, lườn tàu sẽ bị đá ngầm rạch nát, nước sẽ vào thêm, tàu sẽ hoàn toàn tê liệt mà thủy thủ đoàn cũng không thể nào lên đảo được. Do đó tôi tiếp tục lái tàu ra khỏi ?opass? đồng thời ra lệnh nhân viên hướng súng về đằng sau và về phía quần đảo Hoàng Sa canh chừng tàu Trung Cộng truy kích theo.
    Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi có lệnh đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung uý Liêm và toán nhân viên sau đó đã mạo hiểm vượt biển bằng bè vì không muốn Trung Cộng bắt làm tù binh. Sau hơn mười ngày lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước uống nên Hạ sĩ quản kho Nguyễn Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui Nhơn.
    Ra khỏi ?opass? tôi hướng tàu về Đà Nẵng, lúc này khoảng 5 - 6 giờ chiều ngày 19 tháng 1 năm 1974. Tàu chỉ còn một máy và nghiêng nên chạy chậm. Khi trời bắt đầu tối, tàu cách Hoàng Sa chừng 15 hải lý. Lúc này tôi mới thở ra nhẹ nhõm vì chắc tàu Trung Cộng cũng bị thương tích cả người lẫn tàu nên không truy kích tàu tôi.
    Bây giờ mối lo khác lại đến với tôi là tàu có thể lật chìm bất cứ lúc nào nếu có sóng chếch xuôi rất dễ làm tàu lật. Tôi cho nhân viên chuẩn bị các bè nổi, xem xét lại cách xử dụng để khi hữu sự thì làm cho nhanh chứ khi tàu lật thì không có thì giờ mà mò mẫm.
    Lúc này hệ thống truyền tin vừa được sửa chữa xong. Nhân viên vô tuyến báo cáo tình trạng chiến hạm về Bộ Tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nhưng không thấy HQ-4 và HQ-5 lên tiếng.
    Một tin làm bàng hoàng mọi người trên chiến hạm là Trung sĩ Điện khí Xuân trút hơi thở cuối cùng vì vết thương quá nặng mà không được săn sóc đúng mức.
    Đại úy Hiệp mang họa đồ chiến hạm các khoang hầm trên tàu lên đài chỉ huy cho tôi biết đã làm cân bằng tàu bằng cách bơm nước và dầu từ hầm này sang hầm khác và dồn về phía tả hạm, nhưng tàu cũng không bớt nghiêng bao nhiêu. Đại úy Hiệp nói: ?oBây giờ chỉ còn cách bơm xả nước ngọt và dầu ra biển may ra mới làm tàu bớt nghiêng?. Xả nước ngọt và dầu ra biển thì tôi rất ngại mà cũng không chắc là khi xả xong tình trạng có khá hơn không hay lại tệ hơn vì phải biết trọng tâm con tàu trước và sau khi xả nằm ở đâu rồi mới dám làm.
    Học môn lý thuyết thuyền bè trong trường Hải Quân nhưng ra trường lâu ngày và gặp lúc hữu sự, lại không còn nhớ cách tính trọng tâm con tàu nên tôi không dám bảo Đại úy Hiệp làm và giữ nguyên tình trạng như vậy mà chạy về Đà Nẵng. Cũng may nhờ biển rất êm nên không có gì xảy ra.
    Sáng 20 tháng 1 năm 1974, khoảng 7 - 8 giờ, tàu vào vịnh Tiên Sa Đà Nẵng nhưng tôi không vận chuyển cặp cầu được. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải phải xin tàu dòng từ Ty Thương Cảng Đà Nẵng, kẹp ngang hông HQ-16 mà cặp cầu quân cảng Đà Nẵng.
    Cặp cầu xong, Thủy xưởng Đà Nẵng sang bơm dầu, nước ngọt ra, làm nhẹ tàu cho tàu nổi lên rồi tìm cách bít tạm lỗ thủng dưới nước (do người nhái lặn xuống nước mà bít, tôi nhớ như vậy không biết có đúng không?). Sau đó bơm nước ngập hầm máy ra và hàn lại lỗ thủng ở hầm máy.
    Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải xin toán tháo gỡ đạn dược từ Quân đoàn I sang để tháo gỡ viên đạn còn nằm lại trên tàu. Viên đạn được bắn vòng cầu, rơi xuống nước gần HQ-16, do tốc độ của viên đạn nên khi xuống nước gặp sức cản của nước, viên đạn không đi thẳng xuống nước mà bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước. Viên đạn vẫn còn tốc độ di chuyển, xướt qua một góc máy điện, xuyên đứt tay Trung sĩ điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó. May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ!
    Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn ?omade in USA? và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.
    Sau khi sửa chữa xong, sơn phết lại, làm sạch sẽ, chiến hạm HQ-16 được lệnh về Sài Gòn làm lễ tiếp đón chiến hạm trở về từ Hoàng Sa. Phần thượng tầng kiến trúc của chiến hạm bị lỗ chỗ các lỗ thủng do đạn 40 ly và 20 ly bắn vào vẫn để y nguyên, mục đích cho dân chúng Sài Gòn ai tò mò muốn xem chiến hạm dự trận Hoàng Sa về ra sao, khi lên tàu xem sẽ thấy dấu tích còn để lại trên tàu. Tàu cặp cầu B ở bến Bạch Đằng.
    Trong buổi lễ tiếp đón, tôi cùng 4 - 5 nhân viên được Tư Lệnh Hải quân gắn huy chương. Sau buổi lễ dân Sài Gòn được lên xem tàu.Và phóng viên BBC là ông Tôn Thất Kỳ phỏng vấn tôi. Ông hỏi tôi có thấy máy bay phản lực Trung Cộng dự chiến trong trận Hoàng Sa không? Tôi trả lời là tôi không thấy.
    Ngày hôm sau, Khối Chiến Tranh Chính Trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân (lúc đó Đại tá Trần Văn Triết làm trưởng khối thì phải), phái một Thiếu úy hay Trung úy (mà tôi không nhớ tên hay cấp bậc), xuống HQ-16. Anh ta nói với tôi ?oTại sao Hạm trưởng trả lời phỏng vấn đài BBC là không thấy phản lực cơ Trung Cộng??
    Tôi trả lời vị sĩ quan đó: ?oAnh về nói lại trên Bộ Tư Lệnh là tôi không thấy nên tôi trả lời không có. Nếu Bộ Tư Lệnh muốn tôi nói có thì phải báo trước cho tôi biết?.
    Tôi nghĩ nguồn tin này do Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân nên Bộ Tư Lệnh Hải Quân muốn tôi trả lời phỏng vấn cho phù hợp với nguồn tin. Cũng như Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân: HQ-10 và HQ-16 mất tích.
    Lúc HQ-16 về Sài Gòn, tôi nghe nói lại (không biết có đúng không) là khi nhận được tin HQ-16, HQ-10 mất tích, Đại tá Võ Sum, Trưởng khối Truyền tin Hải quân, đã dùng con lắc (một loại dụng cụ cảm ứng) để xem thử HQ-16 còn hay mất. Tôi không nghe nói kết quả của việc dùng con lắc này.
    ...................
  3. RC_PLANE

    RC_PLANE Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    6
    2. II
    Sau khi trình bày chi tiết những gì xảy ra trong trận Hoàng Sa, tôi xin nêu lên những nhận xét của tôi về trận chiến này:
    1. Trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16, HQ-10 là loại tàu cồng kềnh, vận chuyển chậm, súng quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là tối tân nhất, các súng đều sử dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại không xung trận.
    Lúc trước sở phòng vệ Duyên Hải ở Đà Nẵng có loại tàu PT chuyên đi bắn phá phía bắc vĩ tuyến 17 là loại chiến hạm thích hợp với trận chiến Hoàng Sa. Nhưng tôi nghe nói Hoa Kỳ đã thu hồi lại loại tàu này khi họ rút quân khỏi Việt Nam, trước ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra.
    2. Không có kế hoạch hành quân. Kể từ khi có mặt ở Hoàng Sa, tôi chỉ có biết một lệnh duy nhất từ Đại tá Ngạc qua máy âm thoại, chỉ định tôi chỉ huy HQ-10 và có nhiệm vụ phải đổ bộ toán người nhái, mà trong bài viết của ông, ông gọi là Biệt Đội Hải Kích, lên đảo Quang Hòa bằng bất cứ giá nào. Ngoài ra tôi không biết gì về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng như nhiệm vụ của họ.
    Gần đây đọc bài ?oTường Thuật Trận Hải Chiến Lịch Sử Hoàng Sa? của Đại tá Ngạc, tôi mới biết là ông chia bốn chiến hạm thành hai phân đoàn:
    · Phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5 (Đại tá Ngạc ở trên HQ-5), do Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy là nổ lực chính.
    · Phân đoàn II gồm HQ-10 và HQ-16 do Hạm trưởng HQ-16 chỉ huy là nổ lực phụ.
    Nội việc chỉ định Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy Phân đoàn I là sai nguyên tắc chỉ huy, vì Đại tá Ngạc ở trên HQ-5, như vậy thì Hạm trưởng HQ-4 (Trung tá Vũ Hữu San) chỉ huy luôn cả Đại tá Ngạc sao? Đại tá Ngạc là người chỉ huy trận chiến thì phải kiêm luôn chỉ huy Phân đoàn I mới đúng. Suốt trận chiến, HQ-4 và HQ-5 làm gì tôi không được biết. Và cho đến lúc rời Hoàng Sa về Đà Nẵng, tôi chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 đâu.
    Sau trận chiến, tôi thấy phải đổi lại Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) là nỗ lực phụ. Phân đoàn II (gồm HQ-10 và HQ-16) mới đúng vì Phân đoàn II trực chiến với tàu Trung Cộng trong lòng chảo, trong khi Phân đoàn I chỉ ở bên ngoài ?owait and see?. Và vì quá lo sợ Trung Cộng nên tin chắc thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh chìm, Đại tá Ngạc mới ra lệnh HQ-5 bắn vào lòng chảo 5-7 phát trước khi rút lui. Tôi không trách HQ-4 và HQ-5 vì họ chịu sự điều động của Đại tá Ngạc.
    Vì không có kế hoạch hành quân nên máy truyền tin bị Trung Cộng phá rối không liên lạc được mà không có tần số dự trù thay thế.
    ................
  4. RC_PLANE

    RC_PLANE Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    6
    3. Muốn thanh toán quân Trung Cộng trên đảo (tôi nghĩ không nhiều, chừng một tiểu đội) mà dự định đổ bộ một toán người nhái 9, 10 người thì khó mà thành công. Phải có 1, 2 tiểu đội Thủy Quân Lục Chiến tăng cường yểm trợ mới được. Cần thêm xuồng cao su để đổ bộ quân, tiếp tế lương thực, nước uống và vật dụng.
    4. Ra lệnh đưa quân lên giữ đảo mà không cung cấp lương thực, nước uống đầy đủ. Thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm tác chiến trên bộ, chỉ có súng cá nhân và một ít đạn bắn chừng nửa tiếng là hết, làm sao giữ được đảo. Nếu chiến hạm bận tác chiến hay bị thiệt hại thì số quân nhân đưa lên đảo phải bị bỏ rơi như trường hợp HQ-16. Đúng là lệnh lạc kiểu mang con bỏ chợ. Phải có kế hoạch đưa Bộ binh hay Thủy Quân Lục Chiến giữ đảo và phải có kế hoạch tiếp tế.
    5. Không có bác sĩ trên chiến hạm, chỉ có y tá không kinh nghiệm cứu thương cũng như ngoài khả năng của họ nên ai bị thương thì khó mà sống sót.
    6. Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị, chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở của ba chiến hạm Trung Cộng tập trung một chỗ trong lòng chảo để tấn công. Nếu thủy thủ đoàn HQ-10 và HQ-16 có kinh nghiệm tác xạ, HQ-16 không bị trúng đạn của HQ-5 và Hạm trưởng HQ-10 không bị thương thì chắc chắn ba tàu Trung Cộng phải bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm trưởng HQ-10 bị thương là do đạn thời chỉnh của Trung Cộng hay của HQ-4, HQ-5 ?
    7. Sau trận chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân hay ít nữa là Bộ Tư Lệnh Hạm Đội cần có một buổi hội gồm các cấp chỉ huy các đơn vị tham dự trận chiến để mỗi người trình bày những hoạt động của đơn vị mình, nói lên những nhận xét để rút kinh nghiệm học hỏi, cùng những đề nghị nếu được áp dụng thì trận chiến sẽ có kết quả tốt hơn để mọi người cùng thảo luận. Đằng này mọi chuyện đều cho trôi xuôi luôn.
    ?"­?"
    Bài viết của tôi đến đây xem như đã trình bày xong trận chiến Hoàng Sa, nhưng cũng xin nối tiếp thêm bài viết ?oTường thuật trận hải chiến lịch sử? của Đại tá Hà Văn Ngạc.
    Toàn bài viết của Đại tá Ngạc từ đầu đến cuối là sai sự thật. Những điều ông nói khó mà kiểm chứng. Chỉ những người ở trên HQ-4, HQ-5, HQ-10 và HQ-16 mới thấy là hoàn toàn do óc tưởng tượng dàn dựng ra. Tôi chỉ nêu lên một số chi tiết mà tôi thấy vô lý hoặc có liên hệ đến tôi mà sai sự thật.
    Ông viết: ?oBất thần về phía đông vào khoảng 11 giờ 25 sáng, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung Cộng loại có trang bị mỗi bên một giàn phóng kép hỏa tiễn loại hải - hải đang tiến vào vùng giao tranh?. Cách xa chừng 8 đến 10 hải lý khó mà thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn. Chỉ tưởng tượng thôi!
    Sau đó cũng chẳng thấy ông nói đến chiến hạm Trung Cộng này làm gì. Ngoài ra ông còn lo sợ cả phản lực cơ và tiềm thủy đỉnh Trung Cộng. Vì quá lo sợ nên không còn tinh thần để chiến đấu nữa. Ông Ngạc viết: ?oKhoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1, 1974 thì hai chiến hạm Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn. Tuần dương hạm HQ-16 cũng đã về bến trước đó ít lâu ??.
  5. RC_PLANE

    RC_PLANE Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    01/01/2006
    Bài viết:
    532
    Đã được thích:
    6
    Sự thực, sáng ngày 20 tháng 11 năm 1974, HQ-16 về đến quân cảng Đà Nẵng và sau đó chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 ở Đà Nẵng. Chỉ một mình tôi lên trình diện Tư Lệnh Phó Hải Quân trong phòng hội của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải để trả lời những câu hỏi liên quan đến tổn thất giữa địch và ta trong trận chiến.
    Ông Ngạc viết: ?oSau khi di tản các chiến sĩ thương vong và tử vong lên căn cứ thì chỉ có ba vị Đô đốc cùng Hải Quân Đại tá Nguyễn Viết Tân, chỉ huy trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải lên Tuần dương hạm HQ-5 và vào phòng Hạm trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh. Ba vị Hạm trưởng (HQ-5, HQ-16 và HQ-4 ?" ghi chú của người viết) đều có mặt để trình bày chi tiết về chiến hạm của mình .v.v??.
    Tôi (Hạm trưởng HQ-16) đâu có mặt trên HQ-5 như Đại tá Ngạc viết.
    Trong bài của ông có viết HQ-4, HQ-5 bị trúng đạn, thiệt hại khá nhiều, định chạy về Subic Bay Phi Luật Tân để xin Hoa Kỳ sửa chữa.
    Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16 được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay HQ-4 và HQ-5.
    Trong bài viết ?oBiển Đông dậy sóng? của ông Trần Bình Nam, có câu: ?oĐại tá Ngạc biết có một cái gì đó sau lưng trận đánh nên đã dè dặt đôi lời trước khi viết rằng, ? vân vân ??. Cái gì sau lưng đó, nay được ông Trần Bình Nam nói ra: Đó là chuyến công du Trung Quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 của ông Henry Kissinger mà nội dung ghi lại trong cuốn hồi ký chính trị ?oYears of Upheaval? và được ông Trần Bình Nam trích ra trong bài viết của ông ta. Đại khái là Hoa Kỳ bắt tay với Trung Cộng để chống lại Nga Sô và qua một vài câu dẫn chứng, ông Trần Bình Nam kết luận có lẽ có sự thỏa thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để Trung Quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa.
    Ông Trần Bình Nam viết: ?oMột tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung Quốc lén lút đổ bộ quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels và vân vân ?? Phần tiếp theo của đoạn này chỉ dựa vào những chi tiết sai sự thật trong bài viết ?oTường thuật trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa? của Đại tá Ngạc. Như trước ngày trận chiến xảy ra, quân Trung Cộng đã chịu rời đảo mà họ đã chiếm khi có quân từ các chiến hạm Việt Nam đổ bộ chiếm lại đảo (Trung Cộng chỉ chiếm một đảo duy nhất là đảo Quang Hòa. Còn quân từ các chiến hạm chỉ đổ bộ lên các đảo không có quân Trung Cộng như đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc. Toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa nhưng bị bắn nên phải rút ra - lời người viết).
    Những điều ông Trần Bình Nam viết chỉ là những phỏng đoán, chẳng có gì chứng tỏ được Hoa Kỳ ngầm thỏa thuận cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Ngược lại, theo nhận xét của tôi, khi dự trận chiến Hoàng Sa, tôi thấy Trung Cộng rất dè dặt trong việc xâm chiếm Hoàng Sa. Trước sau họ chỉ đưa ra vỏn vẹn có ba chiến hạm không thuộc loại tối tân, có thể vì họ ngần ngại có sự can thiệp của Hoa Kỳ. Họ không đưa ra một lực lượng hùng hậu để đánh chiếm Hoàng Sa vì họ sợ nếu Hoa Kỳ phản ứng thì sẽ thành lớn chuyện khó xử. Ngoài ra họ còn sợ dư luận thế giới nữa.
    Ông Trần Bình Nam nói, nhờ Hoa Kỳ can thiệp nên Trung Cộng đã nhanh chóng trao trả (qua ngả Hồng Kông) số quân nhân và dân chính trên đảo Hoàng Sa cùng một số ít thủy thủ đoàn của HQ-10 còn sống sót. Tôi không chắc có phải do Hoa Kỳ can thiệp không. Theo tôi, Trung Cộng đã chiếm được đảo Hoàng Sa rồi thì sá gì mấy chục mạng người mà không trao trả. Giữ để làm gì? Không cần Hoa Kỳ can thiệp họ cũng tự động dàn xếp để trao trả, vừa được tiếng nhân đạo vừa xoa dịu sự công phẫn của dân chúng Miền Nam Việt Nam và có thể của cả dư luận thế giới nữa.
    Có sự bắt tay giữa Hao Kỳ và Trung Cộng để hai bên rảnh tay chống lại Nga Sô nhưng không chắc có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa. Có thể một trong những lý do Trung Cộng chiếm Hoàng Sa là để thăm dò mức độ hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng sau khi đã ngầm bắt tay nhau. Trung Cộng chỉ cần đưa tới Hoàng Sa ba chiếm hạm để thăm dò vừa Hoa Kỳ vừa Việt Nam Cộng Hòa.
    Nếu Việt Nam Cộng Hòa sợ oai hùm của anh khổng lồ mà tháo lui thì họ không còn gì mong đợi hơn nữa. Còn nếu Việt Nam Cộng Hòa tận lực bảo vệ về đánh thắng họ thì họ sẽ chờ lúc khác, chắc cũng không lâu, nếu Hoa Kỳ không tỏ thái độ trong lần này. Còn giả sử nếu có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa đi nữa thì dân nước Việt chúng ta có đánh hay không?
    Nếu có ai hỏi Đại tá Ngạc hay ông Trần Bình Nam là những người thức thời, nhìn xa hiểu rộng, thì tôi chắc hai người này sẽ dõng dạc công khai tuyên bố: ?ophải đánh?. Còn đánh như thế nào, đồng tâm hiệp lực mà đánh hay đánh chiếu lệ, nửa nạc nửa mỡ, xem đồng đội như vật hy sinh, thì cái đó không phải là chuyện công khai ?
    Lê Văn Thự
    March 2004
  6. lionking_arc

    lionking_arc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2005
    Bài viết:
    4.722
    Đã được thích:
    1.621
    cho cái này lên cái chứ ở đằng sau mấy trang liền
  7. shamanking_quang

    shamanking_quang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/02/2007
    Bài viết:
    1.591
    Đã được thích:
    360
    Lời kể ngư dân bị tàu Trung Quốc bắn
    Nguyễn Trung

    Một ngư dân bị phía Trung Quốc bắt trên quần đảo tranh chấp
    Anh Tiêu Viết Là (46 tuổi) bị phía Trung Quốc giữ tàu thuyền và tài sản
    Chạy vào đảo của Trung Quốc để núp gió, tàu đánh cá của anh Tiêu Viết Là đã bị tàu Trung Quốc bắn. Sáu nhân công trên tàu bị thương, trong đó có một người bị nặng là Huỳnh Văn Hưng.
    Ngày tàu của tôi bị bắn là 27/6/2007. Nơi chúng tôi núp gió thuộc hải phận của Trung Quốc, nằm trên khu vực quần đảo Hoàng Sa. Vì nơi đó gần chỗ chúng tôi khai thác hải sản nên vào đó tránh gió.
    Khi thấy tàu của họ, chúng tôi chạy ra xa nhưng tàu Trung Quốc vẫn đuổi theo bắn. Trên tàu đánh bắt của tôi lúc đó có 13 người.
    Vì sao khi thấy tàu Trung Quốc, các anh không dừng lại?
    Tiêu Viết Là: Nếu dừng lại thì người ta sẽ lấy hết đồ và sẽ đưa vào đảo bắt phạt tiền chuộc khoảng hơn 100 triệu. Vì sợ bị nhốt nên chúng tôi buộc phải chạy đi.
    Cứ tưởng chạy xa thì tàu của người ta sẽ dừng lại không bắn nữa. Khi thả chúng tôi về, chiếc tàu đánh bắt hôm đó cũng bị thu luôn, mà tiền mua tàu trước đó, tôi phải vay mượn.
    Một ngư dân bị tàu Trung Quốc bắn bị thương
    Huỳnh Văn Hưng (26 tuổi) bị thương nặng ở tay ngay trong lần đầu tiên đi đánh bắt xa bờ.
    Co?n sau đây la? lơ?i kê? cu?a Huỳnh Văn Hưng, 26 tuổi, tư? xóm 2, thôn Phước Thiện, xã Bình Hải, Bình Sơn, Quảng Ngãi:
    Khi bị tàu Trung Quốc bắn, lúc đó anh đang làm gì?
    Huỳnh Văn Hưng: Chiều hôm bị bắn, gió rất lớn, thuyền của tụi tôi vào gần phía đảo để nấp gió thì thấy tàu của quân đội tiến ra. Vì thấy lính mặc đồng phục và trang bị súng nên sợ và bỏ chạy.
    Ông ba Là (chủ tàu) kéo neo chạy được một đoạn thì người ta bắn. Thấy thế, sợ quá, tụi tôi vào trong khoang máy để nấp. Năm sáu anh em ngồi co cụm lại một chỗ. Sau đó, tụi tôi bị bắn bị thương.
    Thấy tụi tôi bị thương, chủ tàu cho thuyền chạy xông vào đảo của người ta để cứu chữa vì nếu không làm vậy, có vấn đề gì mình sẽ chết.
    Một đêm sau, người ta đưa chúng tôi tới đảo Hải Nam để các bác sĩ điều trị. Những anh em bị thương nhẹ được chữa khỏi và cho về trước. Còn tôi và ba người khác nữa bị nặng được chữa khoảng hai tháng.
    Tàu Trung Quốc có bắn nhiều phát đạn không?
    Huỳnh Văn Hưng: Lúc đầu tôi nghe vài phát, nhưng sau đó nghe thấy đùng, đùng, đùng rồi tôi bị thương. Sáu anh em ngồi liền nhau trong khoang máy đều bị thương hết. Lúc bị bắn vào tay, tôi rất sợ và một lát sau thì bất tỉnh, không biết gì nữa.
    Khu vực đánh bắt đó gọi là gì?
    Huỳnh Văn Hưng: Tôi không rõ nhưng các anh khác trên tàu nói khu vực bị bắn người dân đi biển thường gọi là đảo Phú Lâm trên quần đảo Hoàng Sa.
    Các bác sĩ bên đó chữa trị cánh tay bị thương cho anh ra sao?
    Huỳnh Văn Hưng: Tôi nằm ở bệnh viện Trung Quốc hai tháng. Vết thương ở tay của tôi chỉ được họ chữa ở phần mềm ngoài, còn xương thì không chữa gì hết.
    Khi về Việt Nam, hồi đầu tôi qua một bệnh viện của quân đội để chữa trị nhưng người ta không dám chữa, bảo rằng vết thương bị nhiễm trùng nặng. Bây giờ cánh tay của tôi chưa co thẳng ra được do khớp bị cứng.
    Bác sĩ ở Việt Nam nói rằng các dây thần kinh ở tay bị đứt. Còn phần xương bị gãy, phải chờ mấy năm nữa cho nó mọc dần ra mới lành được.
    Hiện chỗ bị thương vẫn còn sưng nên rất đau. Tiền chữa trị mất khoảng mấy chục triệu. Tôi vay mượn của anh em, bạn bè và bà con hàng xóm.
  8. shamanking_quang

    shamanking_quang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/02/2007
    Bài viết:
    1.591
    Đã được thích:
    360
    Trung Quốc mở rộng du lịch Hoàng Sa


    Cục Du lịch tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) mới thông qua một dự án phát triển du lịch ở khu vực biển đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa.
    Yunghsing (ngư dân Việt Nam hay gọi là Phú Lâm), nằm cách đảo Hải Nam 300km, là đảo chính trên quần đảo Hoàng Sa.
    Theo tờ Nhật báo Lao động (Trung Quốc), đảo Yunghsing với những rặng san hô trải dài là một điểm du lịch ưa thích của những người yêu lặn biển.
    Trên đảo có một đường băng hàng không và hai cầu cảng có thể là chỗ thả neo cho tàu có tải trọng lên tới 5.000 tấn.
    Trên thực tế, Trung Quốc bắt đầu tiến hành các tour tham quan tại đó một vài năm trước và sử dụng tàu thuyền quân sự để vận chuyển du khách.
    Một tour kéo dài ba ngày và bốn đêm có giá khoảng 4.000 đến 5.000 tệ (hơn 10 triệu đồng).
    Trong hai năm qua, khoảng 4 nghìn khách du lịch Trung Quốc đã mua tour du lịch trên. Phần lớn các du khách là các doanh nhân thành đạt của các công ty tư nhân và nhà nước.
    Tờ Nhật báo Lao động cũng trích lời một quan chức chính phủ Trung Quốc nói rằng du lịch sẽ mang lại những lợi ích kinh tế lớn cho Hoàng Sa cũng như củng cố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này.
    Trung Quốc đaf chiếm hoa?n toa?n quâ?n đa?o Hoa?ng Sa tư? năm 1974, sau một trận chiến dưf dội với ha?i quân cu?a chính quyê?n miê?n Nam Việt Nam.
    Hiện có ba bên la? Việt Nam Trung Quốc va? Đa?i Loan tuyên bố chu? quyê?n với quâ?n đa?o na?y.
  9. vdminhquan

    vdminhquan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/04/2007
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    0
    Đợi chờ ngư phủ trở về nhà
    Chị Nguyễn Thị Chung ngày ngày ngóng tin chồng
    Hơn tháng nay, chị Nguyễn Thị Chung ở thôn Tây An Hải, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), bặt tin ông xã, dù khoản tiền chuộc chị đã chuyển sang Trung Quốc đúng theo yêu cầu.
    Sau khi bị tàu Trung Quốc bắt khi đang đánh bắt cá trên khu vực quần đảo Hoàng Sa hai tháng trước đây, chồng chị, anh Dương Oanh, cũng đôi lần gọi điện thoại về nhà, nhưng lần nào cũng gấp gáp.
    Anh không nói gì nhiều, mà chỉ giục chị chuẩn bị hơn 120 triệu đồng ?" khoản tiền không nhỏ đối với các ngư dân chỉ trông vào đánh bắt cá - để chuộc anh về.
    ?oLần nào gọi về nhà anh ấy cũng chỉ bảo chuẩn bị tiền sớm chừng nào hay chừng đó để gửi sang bên Trung Quốc. Anh nói cứ nộp đủ tiền đi rồi người ta sẽ cho về?, chị kể, mắt hướng về phía ông bố chồng có khuôn mặt u buồn đang liên tục rít thuốc lá.
    Dù anh không nói rõ bị giữ trong hoàn cảnh nào, chị Chung cũng cùng với thân nhân 13 người khác cùng bị bắt với chồng chị trên con tàu đánh cá (mua với giá 400 triệu hồi năm ngoái) gom góp đủ số tiền anh Oanh bảo chuẩn bị.
    Bặt tin
    Đi biển là một trong hai nghề chính trên đảo Lý Sơn
    Những tưởng chuyển đúng số tiền theo yêu cầu từ phía những người bắt, anh sẽ được thả sớm. Nhưng từ ngày lên ngân hàng nhờ chuyển khoản tiền trên tới nay, không có tin tức gì của chồng chị.
    Chị đã tìm cách gọi đến số điện thoại mà anh Oanh hay gọi về trước đây, nhưng cũng không gặp được người chồng 36 tuổi.
    Vì lo lắng quá do không có tin tức hay thông tin liên lạc gì từ chồng, chị đã nhờ người ta viết thư lên Thủ tướng can thiệp, điện sang Trung Quốc để xem tình hình anh ấy thế nào hay bao giờ về.
    Nhưng anh vẫn bặt tin. Chị chỉ biết mòn mỏi chờ đợi.
    Cùng cảnh ngộ với chị Chung là gia đình ngư phủ Lê Khởi (40 tuổi), cũng ở thôn Tây An Hải. Anh Thắng, em trai anh Khởi, cho biết anh mình đang khai thác hải sản ở khu vực lân cận gần với chỗ chồng chị Chung đánh bắt thuộc quần đảo Hoàng Sa thì bị tàu Trung Quốc bắt.
    Giọng trầm trầm, anh Thắng kể rằng anh Khởi gọi điện thoại về nhà, cho biết anh cùng 13 người khác bị giữ trong một khu căn cứ của Trung Quốc và gia đình cần phải chuyển 60 nghìn nhân dân tệ (gần 130 triệu đồng) sang gấp.
    Cũng như chị Chung, gia đình anh Khởi gửi tiền sang Trung Quốc từ hơn một tháng trước, theo số tài khoản bên đó báo về. Nhưng kể từ đó anh Khởi cũng không thể liên lạc với người nhà nữa.
    Anh Thắng nói: ?oCông an tỉnh Quảng Ngãi vừa rồi có thông báo là khoảng 1/10 thì phía Trung Quốc trao trả tàu và người về nhưng cũng chưa thấy đâu?.

    Ông Ninh nói chính quyền chỉ hỗ trợ ngư dân ổn định cuộc sống sau khi trở về.
    Về các vụ ngư dân bị bắt trên biển, ông Lê Văn Ninh, Phó chánh văn phòng huyện đảo Lý Sơn, cho biết mỗi năm xảy ra khoảng bốn đến năm vụ ngư dân ?ogặp nạn? trên vùng biển tranh chấp.
    Ông nói: ?oCác ngư phủ thường bị bắt ở khu vực tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa. Các thuyền bị phía Trung Quốc hoặc Malaysia bắt, ngư dân phải tự trả tiền chuộc. Chính quyền không hỗ trợ về mặt tài chính mà chỉ giúp họ ổn định cuộc sống khi trở về quê hương?.
    Tranh chấp
    Chủ tàu Nguyễn Văn Danh (41 tuổi) thôn Tây An Hải từng bị tàu Trung Quốc bắt giữ trong vòng hai tuần và được thả sau khi gia đình nộp tiền.
    Ngày 28/2/2007, anh cùng với 11 anh em khác xuất bến chạy ra Hoàng Sa, tới neo làm ở đó được hơn một tiếng đồng hồ thì bị bắt. Những người bắt giữ anh và đội tàu yêu cầu phải trả tiền chuộc là 70 nghìn nhân dân tệ.
    Anh Danh cho biết khu vực tàu của anh hay đánh bắt nằm ở giữa biển Đông, trong khu vực tranh chấp. Anh kể: ?oNếu trên hải đồ của mình, vùng tôi bị bắt thuộc về Việt Nam. Tôi có đưa hải đồ ra chỉ cho những người bắt mình, bảo đó là vùng biển của Việt Nam nhưng người ta không chịu?.

    Anh Danh tạm ngừng đi biển từ khi từ Trung Quốc trở về. Anh nói kinh tế nhà anh suy giảm sau khi anh bị bắt.
    Anh nói tiếp: ?oNó bắt thì cũng phải chịu thôi vì không biết tiếng. Thêm nữa, súng ống như vậy thì cũng nên đầu hàng cho rồi. Lực lượng bắt tôi được trang bị đầy đủ và có khoảng 50 người?.
    Kể cả khi tàu được trả về, mọi phương tiện trên tàu của anh đều bị lấy sạch, trừ lượng dầu đủ để chạy tàu về nhà.
    Theo văn bản báo cáo của Cục Cảnh sát biển, Quân chủng Hải quân, trong tám tháng đầu năm 2007, các lực lượng chức năng nước ngoài (các nước trong khu vực có chung đường biển với Việt Nam), đã bắn bị thương tám người và chết hai người, đòi tiền chuộc gần 130 nghìn USD.
    Trong đó, từ đầu năm tới nay, chín tàu của ngư dân đảo Lý Sơn đã bị bắt cùng với 126 lao động.
    Trên bản đồ đánh bắt xa bờ, các ngư dân được cảnh báo không vào gần các đảo bị nước ngoài tạm thời chiếm đóng trên khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Đại tá Lê Phúc Nguyên, phó Tô?ng biên tập báo Quân đội Nhân dân, từng nói với tờ The Straits Times: "Ngư dân rất khó ma? biết được đâu la? lă?n ranh chính xác giưfa hai bên".

    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/
  10. cosmonaut

    cosmonaut Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/10/2005
    Bài viết:
    42
    Đã được thích:
    0
    Các báo VN gần (T11/07) đưa tin bão thường nhắc tên QĐ Trung SA, không biết quý vị đó có kịp kiểm tra lại hay đăng vội cho tin nóng. Trung Sa là tên do China đặc cho bãi ngầm Macclesfield Bank (trên bản đồ của Việt Nam ghi là Bãi ngầm Mắc Len Phiên, thuộc quần đảo Hoàng Sa). Không có cấu trúc nào cao hơn mặt nước biển nên ta gọi là bãi ngầm nhưng China vẫn gọi là quần đảo (cho đủ bộ Đông Tây Nam Bắc Trung Sa trên biển Đông).
    Gọi Trung Sa là thừa nhận chủ quyền của China rồi !

Chia sẻ trang này