1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Hoàng Sa, Trường Sa và các tranh chấp của các bên liên quan với VIệt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi lionking_hau, 15/01/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    Như thế sự kiện Nhật nhòm ngó đảo Pratas vào năm 1907 đã khiến Trung Quốc bắt đầu quan tâm đến việc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa (Paracels), trong khi Việt Nam đang bị Pháp đô hộ, quyền ngoại giao hoàn toàn giao cho Pháp theo hiệp ước Patenôtre (năm 1884). Chính bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp ngày 4 tháng 5 -1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam khi viết: "Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 1 tháng 5 năm 1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến chính phủ Trung Quốc chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều và tới một mức độ nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels".[ 155 , 206 ]
    Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi cho Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây:
    - Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam.
    - Cuộc khảo sát tráiphép đầu tiên là của Đoàn Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò). [ 155 ,207 ]
    - Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con bị bắt đến Hải Nam.[ 155 ,210 ]
    P.A. La Picque hồi năm 1909 đang cư trú ở Hồng Kông đã thuật lại cuộc khảo sát Hoàng Sa của chính quyền tỉnh Quảng Đông năm 1909 như sau:
    "Vào cuối tháng 5 - 1909, hai pháo hạm nhỏ ở Quảng Châu chuẩn bị ra khơi, trên tàu có hai người Đức thuộc Maison Carlwitz, ngoài ra còn có các thủy thủ Trung Quốc, trong đó hình như có một đô đốc "đường sông", nếu như hạm đội nhỏ đó, nhờ có đất liền che chắn, đến được cảng Du Lâm, một cảng ở phía nam đảo Hải Nam một cách khá dễ dàng, thì nó vẫn bị nghẽn ở đó đến nửa tháng, chắc là để chờ ra khơi thì các đợt gió "Fong - sami" trở nên thuần lại và thường làm cho các nhà hàng hải dũng cảm đỡ say sóng".
    "Cuối cùng, ngày 6 tháng 6 năm 1909 (tức là ngày 19 âm lịch) phái đoàn trông thấy một đảo trong quần đảo Paracel rồi thăm vài đảo, và đến ngày 7 tháng 6 năm 1909, lúc 4 giờ chiều, hai pháo hạm thẳng đường quay lại Quảng Châu như ờ báo Kono Che pao (tờ báo lớn nhất Quảng Châu) cho biết trong một bài báo ngày 20 tháng 6 năm 1909. [166].
    Sau việc khảo sát trái phép tượng trưng này, Tổng đốc Trương Nhân Tuấn năm Tuyên Thống thứ nhất liền gởi trát (công văn) ủy cho Tổng Biện Trực Lệ, Nhiệt Hà Đạo Vương Bỉnh Ấn ở Trù Biện Sứ Cục Tư Nghị và Lý Triết Tuấn ở Bổ Phụng Đạo cùng nhau trù liệu đường lối kinh doanh quần đảo Paracels. Trù Biện Tây Sa Đảo Sự Vụ Xứ đã thiết lập 10 điều đại cương về biện pháp khi xem xét lại Paracels, trong đó điều 1 nói về kế hoạch đo đạc ở Paracels (điều mà Việt Nam đã thực hiện rất kỹ càng từ thời các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị vào nửa đầu thế kỷ XIX), và điều 10 xin được phái 3 quân hạm: Phục Ba, Thấm Hàng và Quảng Kim cùng đi và mượn chiếc xuồng con của hải quân treo trên quân hạm để đi lại nhanh chóng và thuận tiện. Hai việc trên đã được Trần Thiên Tích viết lại trong phần Tây Sa Đảo Thành Án Hội Biên trong cuốn Tây Sa đảo, Đông Sa đảo, Thành An Hội Biên, 1928. Sau đó các ty, đạo của "Trù Biện Tây Sa Đảo Sự Vụ Xứ" trên đã báo cáo lên tổng đốc Trương Nhân Tuấn 8 biện pháp cụ thể, tổng đốc Trương Nhân Tuấn đã gửi tờ tấu lên triều đình nhà Thanh.
    Song từ đây cho đến khi Pháp nhân danh Việt Nam có những hành động cụ thể thực thi chủ quyền ở quần đảo Paracel tức Hoàng Sa, chính quyền Trung Ương ở Bắc Kinh vẫn chưa mấy mặn mà với vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, chưa có những hoạt động cụ thể mà chỉ là những hành động của chính quyền địa phương: tỉnh Quảng Đông. Hành động của chính quyền một tỉnh không khi nào được các nước thừa nhận và có giá trị pháp lý quốc tế cả!
    Đáng tiếc là về phía Pháp, theo hiệp ước 1884, lẽ ra phải có nhiệm vụ lên tiếng phản đối những hành động của Trung Quốc (dù đó là của chính quyền địa phương), song lại im lặng. Đúng như nội dung văn thư số 35 của ông Wilden, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp ở Trung Hoa gửi cho Bộ Ngoại Giao Pháp A. Briand ngày 28 tháng 7 năm 1930 :"Mặc dù nước Pháp chưa bao giờ chính thức công nhận các quyền của Trung Quốc trên quần đảo này thì vẫn còn chuyện chúng ta rõ ràng đã bỏ qua không phản đối tất cả các hành vi mà Trung Quốc quan tâm tới việc ngắt quãng định kỳ thời hiệu, có thể chống lại họ, đang tìm cách từ vài năm nay chứng tỏ rằng họ coi quần đảo Hoàng Sa như bộ phận phụ thuộc vào lãnh thổ họ và đang cố gắng đặt chúng ta trước việc đã rồi".[155,232]
    Trong khi đó,Triều đình Huế chỉ còn là hư vị từ thời vua Đồng Khánh. Trong thời vua Khải Định, quyền hành ở trong tay viên khâm sứ người Pháp là Le Fol. Sau khi người Trung Quốc sáp nhập hành chánh quần đảo Paracels vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam, tỉnh Quảng Đông vào ngày 30 tháng 1 năm 1921 bằng một mệnh lệnh của chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa , thì chính quyền thuộc địa Pháp càng ngày càng quan tâm đến Hoàng Sa.
    Từ năm 1909 đến 1925, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam tuy càng ngày càng nhận thức tầm quan trọng của Hoàng Sa về mặt chiến lược, nằm trên lộ trình hàng hải từ Sàigòn đi Hồng Kông, rất e ngại một nước nào đó chiếm cứ vị trí chiến lược này, song còn rất mù mờ về quá trình xác lập vương quyền Việt Nam trên quần đảo này.
    Tài liệu lưu trữ, tư liệu của Phủ Toàn Quyền Pháp ở Sàigòn cũng như Bộ Thuộc Địa Pháp không có thông tin gì về chủ quyền lâu đời của "vương quốc Việt Nam", chỉ biết Hoàng Sa vẫn còn có những người Việt Nam ở Trung Kỳ "mang cả vợ con" đi đánh cá, sống ở đảo Hoàng Sa và có những xô xát đẫm máu với những người Trung Hoa ở Hải Nam và như thế chính quyền Pháp cho rằng có quyền ngang hàng khi chính quyền Trung Quốc chiếm hữu.
    Mãi đến năm 1925, theo Khâm Sứ Trung Kỳ LeFol viết trong thư ngày 22 tháng 1 năm 1926 gởi cho Toàn Quyền Đông Dương, người Pháp mới bắt đầu nghiên cứu sâu quá trình xác lập chủ quyền của "vương quốc Việt Nam" tại quần đảo Hoàng Sa, trước khi cử ông Giám Đốc Viện Hải Dương Học Và Nghề Cá Ở Nha Trang - ông M.A. Krempt đi thám sát Hoàng Sa. [155, 173]
    Qua kết quả nghiên cứu tìm hiểu về Hoàng Sa, Khâm Sứ Trung Kỳ LeFol trong thư ngày 22 tháng 1 năm 1929 gửi Toàn Quyền Đông Dương cho biết : "Trong tác phẩm (Géographie de la Cochinchine được dịch ra Tiếng Anh và đăng trong tạp chí Journal de la Société Asiatique de Bengale năm 1838, đức cha Jean Louis Taberd, giám mục Ismaropolis (Khâm Mạng toà thánh tại Nam Kỳ, Cao Miên và Champa) đã kể lại việc Hoàng Đế Gia Long đã chiếm hữu quần đảo Paracels năm 1816 và long trọng kéo lá cờ Nam Kỳ trên quần đảo. Việc chiếm hữu đó đã được các Biên Niên Sử của chính quyền An Nam hay Đại Nam Nhất Thống chí , Nam Việt Địa Dư tập 2 hay địa dư nước An Nam, xuất bản năm thứ 14 đời Minh Mạng và cuối cùng "Đại Nam Nhất Thống Chí" quyển 6 hay "Địa Dư Duy Tân";?các tài liệu trong kho lưu trữ của chính phủ An Nam cung cấp cho ta những chi tiết về hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải đặt dưới quyền chỉ huy của đội Hoàng Sa?[155, 173]
    Khâm Sứ LeFol viết tiếp: " Sau khi Trung Quốc có yêu sách vào năm 1909, vì nước Pháp thay mặt nước An Nam về quan hệ đối ngoại theo hiệp ước bảo hộ, đáng lẽ phải khẳng định quyền của nước được bảo hộ đối với các đảo hữu quan. Thì trái lại, hình như hoàn toàn không quan tâm đến vấn đề, như vậy làm lợi cho người Trung Quốc và dường như họ chuẩn bị cho việc nắm quyền sở hữu chính thức đối với các đảo đó" [ 155 ,174 ]
    Và cũng chính trong bức thư kể trên, ông LeFol đã cho biết trước khi mất, ông Thân Trọng Huề, thượng thư bộ Binh của triều đình Huế đã viết một văn thư ngày 3 tháng 3 năm 1925 khẳng định rằng : "Các đảo nhỏ đó bao giờ cũng là sở hữu của nước An Nam, không có sự tranh cãi trong vấn đề này".[155 , 174 ]
    Rõ ràng, lúc đầu vì không nắm được lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo, nên chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã bỏ qua sự phản kháng đối với việc khảo sát trái phép của Trung Quốc. Nhưng sau khi nắm được tình hình về cơ bản thì họ đã có một loạt hành động thực hiện và củng cố chủ quyền quốc gia Việt Nam trên hai quần đảo.
    Người Pháp cho rằng Hoàng Sa vốn đã thuộc chủ quyền Việt Nam, không cần một hành động chiếm hữu chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa nữa, nên Viện Hải Dương Học Và Nghề Cá Nha Trang (L?Tinstitut Océanographique de Nha Trang) đã thực hiện cuộc khảo sát đầu tiên năm 1925 bởi tàu khảo sát kéo lưới Chalutier De Lanessan do M.A. Krempt, giám đốc, cùng các nhà Khoa học như De La Cour, Jabouille. Sau đó là tháng 7 năm 1927, Sở Địa Chất Và Sinh Học Đại Dương cho người tiếp tục khảo sát ở Trường Sa (Spratley).
    Các cuộc khảo sát chủ yếu nghiên cứu về những ám tiêu của các bãi ngầm ở Hoàng Sa như ám tiêu Découverte. Từ đó tác giả đưa ra lập luận giải thích về sự thành lập các ám tiêu cùng với ảnh hưởng của gió mùa.
    Ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn Quyền Đông Dương đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Pháp.
    Tháng 11 năm 1928,Thống Đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa cho Công Ty Phosphat mới của Bắc Kỳ.
    Từ năm 1929, dư luận các báo Pháp tại Đông Dương nêu các vấn đề chủ quyền của Việt Nam về Hoàng Sa. Liên tiếp trong các kỳ báo trên tờ Éveil Économique de l?TIndochine (Hà Nội) từ số 606 (27 tháng 1 năm 1929) đến 623 (26 tháng 5 năm 1929), nhà báo Henri Cucherousset đã nhiều lần lược sơ về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và trách cứ chính quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa và đề nghị các hành động cụ thể của chính quyền thuộc địa.
  2. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    Trong thư ngày 20 tháng 3 năm 1930, Toàn Quyền Đông Dương gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp cũng đã xác nhận rằng : "Tôi hoàn toàn đồng ý với những người viết thư cho ông là cần thừa nhận lợi ích nước Pháp có thể có trong việc nhận danh An Nam, đòi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa" [ 155 , 159-160 ].Câu này trong bản ghi chú cho Vụ Châu Á Đại Dương ngày 15 tháng 5 năm1950, Cố Vấn Pháp Luật Bộ Ngoại Giao Pháp đã viết rất rõ: "Việc chiếm hữu quần đảo Spartley do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng Đế "An Nam". Trong trường hợp này cái danh nghĩa duy nhất mà Pháp đòi hỏi ở đây là việc thực thi chủ quyền có từ trước, là những danh nghĩa của "An Nam", và với tư cách là nước bảo hộ, chịu trách nhiệm về các quan hệ đối ngoại của "An Nam", Pháp có thể sử dụng các quyền đó để chặn các nước thứ ba, và có thể nhận được xét xử quốc tế việc thừa nhận các quyền nói trên [155, 183]. Nếu các quan hệ điều ước giữa Pháp và "An Nam" vẫn được xác định bởi Hiệp Ước Bảo Hộ được ký ở Huế ngày 6 tháng 6 năm 1884 thì về phương diện này không thể xuất hiện bất kỳ khó khăn nào; và chính phủ Pháp có quyền bằng cách hành động với danh nghĩa nước bảo hộ, thay mặt nước bị bảo hộ thi hành các thẩm quyền mà nước bị bảo hộ này không thể thi hành.
    Ngày 13 tháng 4 năm 1930, thông báo hạm La Malicieuse đã ra Trường Sa và kéo quốc kỳ Pháp trên một điểm cao. Thông cáo ngày 23 tháng 9 năm 1930 đã thông báo cho các cường quốc khác về sự chiếm đóng của Pháp trên quần đảo Trường Sa.
    Sang năm 1931 và 1932 lại có thêm nhiều bài báo cũng trên tờ Éveil Économique de l?TIndochine rất gay gắt chất vấn đích danh toàn quyền Pasquier. Chính những áp lực dư luận báo chí của người Pháp ở Đông Dương mà chính quyền thuộc địa Pháp không thể làm ngơ.
    Ngày 29 tháng 4 năm 1932, chính phủ Pháp gởi kháng nghị nêu rõ các bằng chứng về sự chiếm hữu của Việt Nam. Sau đó, lần đầu tiên Pháp đề nghị đưa vụ tranh chấp ra các toà án quốc tế và Trung Quốc đã phản đối đề nghị này.
    Ngày 13 tháng 4 năm 1933, một hạm đội nhỏ thuộc các lực lượng hải quân Pháp ở Viễn Đông, dưới sự chỉ huy của trung tá hải quân De Lattre rời Sàigòn đến đảo Trường Sa gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyền Alerte, các tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sự chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ truyền của Phương Tây. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận một bản, được đóng kín trong một cái chai rồi được gắn trong một trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo lá cờ tam tài và thổi kèn trên từng hòn đảo.
    Ngày 26 tháng 7 năm 1933 , Bộ Ngoại Giao Pháp đã có một thông tin đăng ở Công báo Pháp (Journal officiel de la République Française ngày 26-7-1933, trang 7857) về việc hải quân Pháp chiếm hữu một số đảo thuộc quần đảo và thông báo ghi rõ những hải đảo và tiểu đảo ghi trong thông tri từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc. Tất cả gồm 6 nhóm :
    - Đảo Spratly (Trường Sa) 80,39?T vĩ tuyến B - 1110,55?T kinh tuyến Đ và các tiểu đảo phụ thuộc chiếm hữu ngày 13 tháng 4 năm 1930.
    - Tiểu đảo Caye d?TAmboine (70,52?T B - 1120, 55?TĐ) cũng như các tiểu đảo phụ thuộc chiếm hữu ngày 7 tháng 4 năm 1933.
    - Tiểu đảo Itu - Aba (100,22?TB - 1140, 21?TĐ) cũng như các tiểu đảo phụ thuộc chiếm hữu ngày 10 tháng 4 năm1933.
    - Nhóm Hai đảo (110,29?TB, 1140,21Đ ) cũng như các tiểu đảo phụ thuộc, chiếm hữu ngày 10 tháng 4 năm 1933.
    - Tiểu đảo Loaita (100,42?TB, 1140,25Đ) và các tiểu đảo phụ thuộc, chiếm hữu ngày 11 tháng 4 năm 1933.
    - Đảo Thị Tứ (110,7B, 1140,16Đ), cũng như những tiểu đảo phụ thuộc, chiếm hữu ngày 12 tháng 4 năm 1933.
    Như thế theo hai thông tri Pháp đã công bố, từ đầu tháng 4 năm 1933, Pháp chiếm đầu tiên đảo Spratly và đến 12 tháng 4 năm1933 chiếm đảo cuối cùng là đảo Thị Tứ.
    Ngày 21 tháng 12 năm 1933, thống đốc Nam Kỳ M.J. Krautheimer ký nghị định số 4762, sáp nhập hải đảo Spratly ( Trường Sa) và những tiểu đảo Caye d?TAmboire, Itu - Aba, nhóm Hai đảo, Loaita và Thị Tứ thuộc quần đảo Spratley nằm trên Biển Đông vào tỉnh Bà Rịa. (phụ lục 19)
    Nghị định trên được ký đã chiếu theo thông tri đăng trong công báo Cộng Hoà Pháp Quốc ngày 26 tháng 7 năm 1933 của Bộ Ngoại Giao, liên quan đến việc chiếm hữu một số hải đảo do những đơn vị hải quân, cùng lúc với các thư số 634 và 2243 - AP ngày 24 tháng 8 và 14 tháng 9 năm 1933 của Toàn Quyền Đông Dương, liên quan đến việc sáp nhập những hải đảo và tiểu đảo thuộc nhóm Trường Sa (Spratly) hay Bão Tố (Tempête) và chiếu theo các cuộc thảo luận của Hội Đồng thuộc địa ngày 22 tháng 10 năm 1933, cùng sự tham khảo ý kiến của Hội Đồng Tư Vấn.
    Từ năm 1934- 1935, Uy Ban Thẩm Tra Bản Đồ Thủy Lục do các cơ quan của Bộ Ngoại Giao, Bộ Nội Vụ Trung Hoa Dân Quốc vào tháng 3 năm 1935 âm thầm bắt đầu đặt tên quần đảo Đoàn Sa cho quần đảo Spratley tức Trường Sa của Việt Nam và phiên âm dịch nghĩa tên khoảng 124 đảo đá bãi ngầm của quần đảo Paracels và Spratley trong các hải đồ hàng hải phương Tây. Lúc này chỉ mới có tên gọi Đông Sa, Tây Sa, Nam Sa và Đoàn Sa, chưa có tên Trung Sa. Đến tháng 12 năm 1947, mới xuất hiện tên gọi Trung Sa thay thế Nam Sa và Nam Sa thay thế Đoàn Sa . Ngay cả tên gọi mà cũng bất nhất, cứ thay đổi vị trí từ gần bờ biển với Vạn Lý Thạch Đường rồi Nam Sa tiến dần từ đảo Macclesfield xuống tới Spratly ở phía Nam.
    Sau những cuộc khảo sát Hoàng Sa của Viện Hải Dương Học Nha Trang từ năm 1925, đến năm 1937, kỹ sư Trưởng công chính Gauthier, nhân danh chính quyền thuộc địa Pháp, bảo hộ Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khả năng xây dựng một hải đăng trên đảo Hoàng Sa. Để triển khai các kết quả nghiên cứu của Gauthier, từ năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo.
    Ngày 29 tháng 2 năm Bảo Đại thứ 13 ( 30 Mars 1938), Hoàng đế Bảo Đại của nhà Nguyễn đã ký dụ số 10 có nội dung chủ yếu như sau :(xem phụ lục 3.19)
    ?oChiếu theo các cù lao Hoàng Sa ( Archipels des Iles Paracels) thuộc về chủ quyền nước Nam đã từ lâu và dưới các tiên triều , các cù lao ấy thuộc về địa hạt tỉnh Nam Ngãi. Đến đời Đức Thế tổ Cao Hoàng đã vẫn để y như cũ là vì nguyên trước, sự giao thông với các cù lao ấy đều do các cửa bể tỉnh Nam Ngãi.
    Đến nay nhờ sự tiến bộ trong việc hàng hải nên việc giao thông ngày nay có thay đổi , vả lại viên đại diện chính phủ Nam Triều cũng phái ra kinh lý các cù lao ấy cùng qua các đại diện chính phủ bảo hộ có tâu rằng nên tháp các "cù lao" Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên thời được thuận tiện hơn?.
    ?oDụ? Độc khoản : ?oTrước chuẩn tháp nhập các cù lao Hoàng Sa (Archipels des iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chính, các cù lao ấy thuộc dưới quyền quan hiến tỉnh ấy?.[4 ]
    Triển khai dự án nghiên cứu của Gauthier, năm 1938 một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle (Hoàng Sa ) với dòng chữ :
    ?o République Française - Royaume d?TAn Nam - Archipels des Paracels - 1816 - Ile de Pattle 1938?
    Cũng năm này, một hải đăng, một trạm khí tượng (OMM đăng ký số 48860) được đặt ở đảo Hoàng Sa (Pattle) (phụ lục 21), số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Hoàng Sa (Pattle). Cùng một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến cũng được đặt trên đảo Ba Bình (Itu ?" Aba). Tháng 6 năm1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới Hoàng Sa .
    Ngày 5 tháng 5 năm 1939, Toàn Quyền Đông Dương Jules Brévié đã ra nghị định số 3282, sửa đổi nghị định trước và thành lập hai sở địa lý trên quần đảo Hoàng Sa . (Xem phụ lục số 22, nguyên văn nội dung nghị định số 3282 đăng trong Bulletin Administratif de l?TAnnam năm 1939, số 9, tr 872).
    Nghị định này để sửa đổi nghị định số 156 - SC ký ngày 15 tháng 6 năm 1932 (ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên ( Trung Kỳ) mang danh là quận Hoàng Sa) trở thành hai đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên với danh xưng là sở đại lý (délégation administrative) ?oCroissant? cùng phụ cận và sở đại lý Amphytrite cùng phụ cận. Ranh giới giữa hai sở này được phân bởi kinh tuyến 112, trừ rặng đá ngầm Vuladdore hoàn toàn phụ thuộc vào sở đại lý Croissant. Những phái viên hành chánh đứng đầu hai sở đại lý này với tư cách là ủy viên của công sứ Pháp tại Thừa Thiên ở tại đảo Pattle và đảo Boisée . Mỗi phái viên được hưởng phụ cấp là 400đ,00 dự liệu ở nghị định ngày 28 tháng 12 năm 1934. Phụ cấp này sẽ được ngân sách địa phương Trung Kỳ đài thọ, theo chương 12, điều 6, đoạn 3.
    Ngày 31 tháng 3 năm 1939, Bộ ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố Nhật kiểm soát quần đảo Trường Sa. Tuyên bố chuyển tới đại sứ Pháp tại Nhật bằng một thông điệp khẳng định rằng Nhật Bản là người đầu tiên thám hiểm quần đảo Trường Sa vào năm 1917. Nhật Bản nhận rằng ở đó "không có một quyền lực hành chánh địa phương nào, đó là một tình trạng có hại cho các lợi ích của Nhật và về lâu dài có thể gây ra những khó khăn với Pháp",.
    Ngày 4 tháng 4 năm 1939, Bộ Ngoại Giao Pháp gửi một công hàm phản kháng quyết định của Nhật và khẳng định các quyền của Pháp. Pháp được Anh ủng hộ trong cuộc tranh luận ngày 5 tháng 4 năm1939 tại Hạ Nghị Viện, đại diện Bộ Ngoại Giao Anh đã khẳng định chủ quyền quần đảo Trường Sa trọn vẹn thuộc nước Pháp.
    Do nhu cầu lập đầu cầu xâm chiếm Đông Nam Á, Nhật đã nhanh chóng chiếm vào năm 1938 đảo Phú Lâm (Ile Boisée) và đảo Itu - Aba (Ba Bình) của Trường Sa vào năm 1939. Mãi đến ngày Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật mới bắt làm tù binh các đơn vị lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa.
    Suốt thời kỳ Pháp thuộc, các nhà chức trách Pháp tuyên bố chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của vương quốc An Nam ở quần đảo Hoàng Sa mà nước Pháp có trách nhiệm bảo hộ [ 155 ], song các nhà chức trách Pháp vì quyền lợi riêng tư của nước Pháp có những thái độ bất nhất, khi thì thờ ơ, không phản ứng kịp thời khi chủ quyền này bị nước ngoài (Trung quốc) xâm phạm, thậm chí còn lấy Hoàng Sa làm vật trao đổi trong quan hệ với Trung Quốc như Pasquier thú nhận trong bức thư ngày 20 ?" 03 - 1930 gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa [155, 161] hoặc có ý đồ tách các đảo Phía Nam Biển Đông không còn nằm trong khối thống nhất của Hoàng Sa (Paracel) và cho đó là quần đảo Spratly vô chủ để người Pháp chiếm hữu cho riêng nước Pháp, song lại sáp nhập vào Nam Kỳ, mà người Pháp gọi là sự sáp nhập về hành chánh mà thôi. [155, 271]
  3. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    các bài từ đầu có khi phải sửa lại thôi chứ để phông vni thấy ngứa mắt thật
  4. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    3.1.2 Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954.
    Quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946 và một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5 năm 1946, nhưng đơn vị này chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27 tháng 5 năm 1946, đô đốc D?TArgenlieu, cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L?TEscarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle ) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
    Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì ngày 26 tháng 10 năm1946, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng Ngô Tùng ngày 9 tháng 10. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc này Trung Quốc còn gọi là Đoàn Sa chưa phải mang tên Nam Sa (tác giả nhấn mạnh)
    Trong phiên họp ngày 11 tháng 10 năm 1946, Uy Ban Liên Bộ về Đông Dương thuộc chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Theo ý kiến của đại tướng Juin cho rằng ?olợi ích cao nhất? của nước Pháp là phòng ngừa mọi ý đồ của một cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo đó là những đảo kiểm soát việc ra vào căn cứ tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh - Quảng Châu - Thượng Hải (Thư số 199/DN/S. col ngày 7 tháng 10 năm 1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Pháp tại Paris).
    Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Quốc và ngày 17 tháng 10 năm 1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Trung Quốc rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính "Quốc gia Việt Nam" đến đóng một đồn ở đảo Pattle ( Hoàng Sa ). Chính phủ Trung Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 tại Paris. Tại đây, chính phủ Trung Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1 tháng 12 năm 1947, Bộ Nội Vụ chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố tên Trung Quốc cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
    Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập từ năm 1945, không còn ràng buộc vào hiệp định Patenôtre (1884) với Pháp song Pháp cho rằng theo hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Với hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp gây dựng được chính quyền thân Pháp còn gọi là quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với chính quyền Cách Mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, để củng cố cơ sở hình thức pháp lý nào đó dù không có thực chất đại diện thực sự cho Việt Nam, nhất là trên thực tế trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Tháng 4 năm 1949, Đổng Lý Văn Phòng của quốc trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sàigòn đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.
    Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa được thành lập ở lục địa Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã rút lui ra Đài Loan. Tháng 4 năm 1950, đồn lính Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã rút lui. Còn đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn còn duy trì.
    Vào tháng 4 năm 1950, quân lính Trung Hoa Dân Quốc rút hết khỏi quần đảo Hoàng Sa, nơi duy nhất đóng quân là đảo Phú Lâm từ năm 1947.
    Ngày 14 tháng 10 năm 1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.
    Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951, ký kết hoà ước với Nhật. Ngày 5 tháng 9 năm 1951, họp khoáng đại, ngoại trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng Hoà Nhân Dân Trung
    Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận.
    Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam : "Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet Nam » [ 27]

    Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.
    Kết thúc hội nghị là ký kết hoà ước với Nhật ngày 8 tháng 9 năm 1951. Trong hoà ước này có điều 2, đoạn 7 ghi rõ:
    Nguyên văn là "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly". [ 27 ]
    Ngày 24 tháng 8 năm 1951, lần đầu tiên Tân Hoa Xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines và kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
    Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp Ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15 tháng 8 năm 1951, Bộ Trưởng Ngoại Giao nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu An Lai ra bản tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là ?otính lâu đời của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo, trong khi Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc không tham dự hội nghị này.
    Như thế, lợi dụng tình hình rối ren Nhật đầu hàng đồng minh, quân Tưởng Giới Thạch được giao phó giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc theo Hiệp Định Postdam, đã lại chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée) cuối năm 1946 thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa , vào đầu năm 1947. Đến năm 1950, khi quân Trung Hoa Dân Quốc đã rút ra khỏi Hoàng Sa và Trường Sa và hoà ước San Francisco đã buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này, thì thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.
    Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, sự giành giật thế lực ở một nơi trong đó có Biển Đông, phái đoàn Liên Xô đề xuất giao cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không được Hội Nghị chuẩn nhận, song cũng là cái cớ để Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sau năm 1950, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phòng Việt Nam của Chính quyền Bảo Đại.
  5. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0

    3.1.3 Thời kỳ Việt Nam chia cắt (1954 ?" 1975), phản kháng các nước ngoài xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.
    Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.
    Tháng 4 năm 1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam, Philippines nêu vấn đề chủ quyền.
    Trong thời gian trên cho đến năm 1956, quân đội Quốc Gia Việt Nam sau gọi là Việt Nam Cộng Hoà đã chiếm đóng các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa bao gồm đảo Hoàng Sa (Pattle). Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Ngoại Trưởng Chính Quyền Việt Nam Cộng Hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày hôm sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối với hai quần đảo trên từ năm 1933.
    Ngày 22 tháng 8 năm 1956, lục hải quân Việt Nam Cộng Hoà đổ bộ lên các đảo chính của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Sau khi trấn giữ ở các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa, ngày 22 tháng 8 năm 1956, lực lượng hải quân của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương quốc kỳ. Tháng 10 năm 1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Ngày 22 tháng 10 năm 1956, sắc lệnh số 143 ?" NV của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà thay đổi địa giới các tỉnh và tỉnh lỵ tại « Nam Việt » (Nam Bộ). Trong danh sách các đơn vị hành chánh « Nam Việt » (Nam Bộ) đính kèm theo sắc lệnh có những thay đổi tên mới, trong đó có tỉnh Bà Rịa ?" Vũng Tàu nay được gọi là tỉnh Phước Tuy và đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy được gọi là Hoàng Sa cùng tên với quần đảo phía Bắc là Paracels.
    Ngày 13 tháng 7 năm 1961, sắc lệnh số 174 ?" NV của Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải trực thuộc quận Hoà Vang.
    Trong sắc lệnh trên, ghi rằng: "Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam (điều 1). Đặt đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang. Xã Định Hải dưới quyền một phái viên hành chính ( điều 2). Tháng 2 năm 1959, nhiều dân chài Trung Quốc định đến đóng trên phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa , nhưng không thành công, bị hải quân Việt Nam Cộng Hoà bắt và hoàn trả lại Trung Quốc.
    Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hoà, ông Trần Văn Lắm có mặt ở Manila đã lên tiếng nhắc lời yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa làm cơ sở cho những yêu sách đó trên quần đảo Trường Sa.
    Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956 , thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa
    Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tuyên bố việc sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng Hoà là sự lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Ngày 12 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tuyên bố bác bỏ yêu sách của Trung Quốc.
    Ngày 15 tháng 1 năm1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bắt đầu triển khai một lực lượng hải quân mạnh mẽ trong đó có nhiều tàu được ngụy trang thành tàu đánh cá và có phi cơ yểm trợ.
    Mặt khác, Bộ Tư Lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hoà đã điều động tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Hoàng Sa để tuần phòng và canh chừng.
    Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hoà được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo.
    Lực lượng tăng cường của Việt Nam Cộng Hoà có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hoà (Duncan) và một đảo khác.
    Tiếp ngày 16 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã ra tuyên cáo bác bỏ luận cứ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và đưa ra những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hoà trên hai quần đảo này.
    Hai bên bắt đầu phối trí toàn bộ lực lượng, các chiến hạm hai bên cách nhau chừng 200m.
    Sau đó hai bên bỗng tách rời nhau để chuẩn bị, cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10 giờ 25 phút ngày 19 tháng 1 năm 1974.
    Một chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bị bốc cháy trước hoả lực của hộ tống hạm Nhật Tảo. Các chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Nguyễn Văn Thà hy sinh . Sau hơn 1 giờ giao tranh, 2 chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng Việt Nam Cộng Hoà ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích. Một người Mỹ tên Gerald Kosh, một nhân viên dân sự thuộc văn phòng tùy viên quốc phòng toà đại sứ Mỹ ở Sàigòn, được biệt phái làm liên lạc viên cạnh bộ chỉ huy hải quân Quân Khu I Việt Nam Cộng Hoà cũng bị bắt (theo Nhật báo Chính Luận, số 2982, ngày 31 tháng 1 năm 1974). Kosh được trao trả lúc 12 giờ trưa ngày 31 tháng 1 năm 1974. Ngày 17 tháng 2 năm 1974, chính quyền Bắc Kinh trả tự do cho 43 quân nhân và nhân viên của Việt Nam Cộng Hoà tại Tân Giới ( Hồng Kông).
    Văn Trọng, tác giả cuốn "Hoàng Sa quần đảo Việt Nam" xuất bản năm 1979 viết: ?oQuân Trung Quốc đông như kiến ở các tàu nhỏ áp sát bờ, đổ bộ lên đảo. Binh sĩ Sài gòn rút ra phía rừng bắn trả quyết liệt, lính Trung Quốc không dám tiến vào giữa đảo, chỉ nằm ở các bãi cát. Đến khi binh sĩ Sàigòn hết đạn, thì quân Trung Quốc chiếm được đảo. Chúng ném chất nổ vào từng căn phòng trong các nhà ở phá hết mọi thứ trong nhà. Tất cả 42 người Việt Nam gồm sĩ quan, binh lính và nhân viên trạm khí tượng của chính quyền SàiGòn đều bị bắt, xếp thành hai hàng, để bọn xâm lược hỏi cung" . [ 134 ]
    Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Đại sứ Đài Loan tại Sàigòn cũng gửi một công hàm ngoại giao khẳng định lại yêu sách của Trung Hoa Dân Quốc.
    Ngày 20 tháng 1 năm 1974, quan sát viên của Việt Nam Cộng Hoà bên cạnh Liên Hợp Quốc yêu cầu Hội Đồng Bảo An xem xét việc Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa.
    Trong dịp này, Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam công bố lập trường của mình cho rằng: "Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc. Trong vấn đề biên giới lãnh thổ, các nước láng giềng thường có sự tranh chấp do lịch sử để lại, có khi rất phức tạp, cần được nghiên cứu. Trước sự phức tạp của vấn đề, các nước có liên quan cần xem xét vấn đề này theo tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt, và giải quyết bằng thương lượng".
    Lầu Năm Góc được chính quyền Sài Gòn yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ Trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gòn biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
    Qua thông điệp ngoại giao được gởi đến tất cả các nước ký Hiệp Định Paris (1973), chính quyền Việt Nam Cộng Hoà nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, yêu cầu Hội Đồng Bảo An họp một phiên họp đặc biệt.
    Ngày 1 tháng 2 năm 1974, chính quyền Sàigòn quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ ở Manila, chính quyền Sàigòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
    Ngày 1 tháng 2 năm 1974, đoàn đại biểu của Việt Nam Cộng Hoà ra tuyên bố tại hội nghị của Liên Hợp Quốc về luật Biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa .
    Ngày 30 tháng 3 năm1974, đại biểu chính quyền Sàigòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội Đồng Kinh Tài Viễn Đông họp tại Colombia.
    Ngày 14 tháng 2 năm 1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Sàigòn công bố Sách Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
    Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng Miền Nam đã đến. Bộ chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong mùa khô 1975 bao gồm các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc?
    Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các tàu của đoàn vận tải quân sự 125, đoàn 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng lực lượng đặc công tỉnh Khánh Hoà. Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương nhanh chóng đánh đảo Song Tử Tây trước để làm bàn đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa và các đảo còn lại của quần đảo.
    Ngày 9 tháng 9 năm 1975, đại biểu chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam tại hội nghị khí tượng thế giới tiếp tục đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
  6. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    bắt đầu đến những đoạn hay , mong rằng mọi người đọc, hiểu, và nhớ, những thủ đoạn đê hèn của bọn cướp đất đai tổ tiên cha ông ta,
    3.1.3 Chính Quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Ngày 10 tháng 9 năm 1975, Bắc Kinh gửi công hàm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).
    Ngày 24 tháng 9 năm 1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Tổng Bí Thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.
    Ngày 12 tháng 5 năm 1977, chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.
    Tháng 9 năm 1977, khi thăm Philippines và tháng 10 năm 1977 khi đi thăm Malaysia, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với tổng thống Ferdinand Marcos và thủ tướng Hussein On rằng hai bên sẽ giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng thương lượng hoà bình.
    Tháng 3 năm1978, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện thông qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa.
    Ngày 30 tháng 12 năm 1978, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong tuyên bố ngày 29 tháng 2 năm 1978 của người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại lập trường của Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương lượng hoà bình.
    Ngày 30 tháng 7 năm 1979, Trung Quốc đã công bố tại Bắc kinh tài liệu để chứng minh rằng Việt Nam đã ?othừa nhận? chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu củaViệt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.
    Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
    Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam bác bỏ việc Philippines tuyên bố sát nhập hầu hết lãnh thổ Trường Sa vào lãnh thổ Philippines.
    Ngày 30 tháng 1 năm 1980, Bộ ngoại giao Trung Quốc công bố văn kiện về Tây Sa và Nam Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố vạch trần thủ đoạn xuyên tạc của Trung Quốc trong văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980.
    Ngày 29 tháng 4 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm lục địa Việt Nam tại vùng Trường Sa.
    Ngày 8 tháng 5 năm 1980, nhân chuyến viếng thăm và hội đàm với Malaysia, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.
    Tháng 6 năm 1980, tại Hội nghị Khí Tượng Khu Vực Châu Á II họp tại Genève, đại biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của Việt Nam) là bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam được giữ nguyên trạng trong danh sách các trạm như cũ.
    Ngày 13 tháng 6 năm 1980, Việt Nam yêu cầu OMM đăng ký trạm khí tượng Trường Sa vào mạng lưới OMM.
    Tháng 12 năm 1981, Tổng cục Bưu Điện Việt Nam điện cho Chủ Tịch Ủy Ban đăng ký tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
    Tháng 12 năm 1981, Bộ Ngoại Giao Việt Nam công bố sách trắng: ?oQuần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa , lãnh thổ Việt Nam?.
    Tháng 6 năm 1982, Tân Hoa Xã loan tin là một hải cảng lớn được xây dựng tại Hoàng Sa.
    Tháng 10, tại Hội Nghị Toàn Quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp nhận việc thay đổi phát sóng đã được phân chia năm 1978 tại Genève.
    Ngày 12 tháng 11 năm 1982, chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (hình 3.62).
    Ngày 4 tháng 2 năm 1982, chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
    Ngày 9 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh Phú Khánh.
    Tháng 1 năm 1983, Hội Nghị Hành Chính Thế Giới về thông tin vô tuyến đồng ý sẽ xem xét đề nghị của Việt Nam về việc phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa tại hội nghị sắp tới.
    Cũng tháng 01 năm 1983, Hội Nghị Hàng Không Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương họp ở Singapore. Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào FIR Hà Nộivà FIR TP Hồ Chí Minh, nhưng Hội Nghị quyết định duy trì nguyên trạng.
    Từ ngày 4 đến 16 tháng 4 năm 1984, đoàn đại biểu Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng Bộ Thủy Sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.
    Ngày 25 tháng 4 năm 1984, Uy Ban Địa Danh Trung Quốc công bố tên mới cho các đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
    Ngày 6 tháng 5 năm 1984, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối việc đặt tên của Trung Quốc.
    Tại Hội Nghị Tổ Chức Thông Tin Vũ Trụ Quốc Tế (INTU SAT) lần thứ 13 họp tại Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản đối việc Trung Quốc sử dụng những bản đồ ghi Hoàng Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trung Quốc.
    Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối Malaysia chiếm đóng đảo Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa. Việt Nam phản đối việc ngày 1 tháng 6 năm 1984 Quốc hội Trung Quốc tuyên bố việc thiết lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.
    Vào đầu năm 1985, Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
    Sang năm 1986, ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc cùng Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.
    Tháng 5 năm 1987, đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh hải quân Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
    Từ 16 tháng 5 đến 6 tháng 6 năm 1987, hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển Trường Sa.
    Tháng 10 năm 1987, hải quân Trung Quốc diễn tập quân sự tại Tây Thái Bình Dương và Nam Biển Đông.
    Ngày 10 tháng 11 năm 1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đảo Louisa (113 0 ?" 6 0 8)
    Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa, đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước. Quân lính Trung Quốc cắm cờ trên hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ.
    Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử
    dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa.
    Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng: ?oTrung Quốc buộc phải phản kích để tự vệ?. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công (bằng hai tàu vận tải!), còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ tự vệ. Trung Quốc sử dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531 trang bị tên lửa và pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam.
    Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi.
    Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở đầy binh lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ số 605 thì bị mắc cạn.
    Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận tải của Việt Nam vời các tầu chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với kết quả phía Việt Nam có một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương , ngoài ra không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía Trung Quốc cho là « đánh gọn và đẹp mắt» (sic!).
    Sau các va chạm trên, hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.
    Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
  7. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    có ai thích xem tiếp ko?
  8. Freesky

    Freesky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    2.442
    Đã được thích:
    0
    Tiếp đi.
  9. lionking_hau

    lionking_hau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/07/2004
    Bài viết:
    2.078
    Đã được thích:
    0
    các bác biết ko, có nhiều thứ đọc mà nóng hết cả mắt, nhưng cứ để từ từ đã, còn đánh chữ, còn nhiều thứ, còn được phép của người viết, với lại ai cũng muốn đọc nhưng mới có hiện tượng font Vni chữ ko đúng một cái là có nhiều người đã gào lên rồi, tui có mấy quyển sách của một bác bên Hậu Cần nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa, có nhiểu ảnh cực kỳ quý giá, nhưng rất tiếc tôi chưa được tiếp cận với những tấm ảnh ấy, bác ấy còn nói đã ở Đảo Hoàng Sa rồi, thật khó hiểu nhưng mà người cao cấp trong Tổng Cục Hậu Cần mà nói vậy thì cũng đáng tin đáy chứ
  10. farfar

    farfar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/09/2006
    Bài viết:
    941
    Đã được thích:
    0
    bạn kể tiếp đi , nghe hay quá .
    -tớ cũng được nghe người bạn Trung Quốc thông báo và kể cho nghe về vụ chiếm đảo , và cách chiếm đảo . chắc là ngày 14 tháng 3 năm 1988 đấy . tớ sẽ tường thuật lại lời anh ta sau .

Chia sẻ trang này