1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Liên Xô

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 17/09/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1
    Bọn em bàn rồi
    @ chiangshan: cái vụ Patton ở Prague sách báo Nga cũng chửi dữ lắm, mà ông Patton cũng là dân chống CS, ko biết đâu mà lần
  2. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    xin lỗi vì đã post vào bài của bạn , nếu bạn có những thông tin rồi thì hãy xóa nó di giùm mình :
    Lịch sử Liên bang Xô viết bắt đầu từ cuộc Cách mạng Nga năm 1917 trong một nỗ lực thực thi chủ nghĩa cộng sản ở mức độ rộng lớn hơn của Vladimir Ilyich Lenin, cho tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết năm 1991 khi chính phủ trung ương của nó bị giải tán
    Cuộc cách mạng Nga
    Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Nga của Sa hoàng trải qua nạn đói và sụp đổ kinh tế. Quân đội mất tinh thần của Nga phải chịu nhiều cuộc thoái trào quân sự ghê gớm, và nhiều binh sỹ rời bỏ trận địa. Bất mãn với chế độ quân chủ và chính sách tiếp tục leo thang chiến tranh của nó. Sa Hoàng Nikolai II thoái vị vào tháng hai 1917.
    Một chính phủ lâm thời được thành lập, do Hoàng tử Georgy Yevgenyevich Lvov lãnh đạo, sau đó bởi Aleksandr Kerensky, nhưng vẫn tiếp tục tham chiến. Chính phủ lâm thời không thể ban hành các cải cách đất đai theo yêu cầu của tầng lớp nông dân, những người chiếm hơn tám mươi phần trăm dân số.
    Bên trong quân đội, binh biến và đảo ngũ lan tràn trong binh sỹ; giới trí thức không bằng lòng với tốc độ cải cách chậm chạp; nghèo đói lan rộng; sự chênh lệch và bất bình đẳng trong thu nhập càng tăng cao trong khi chính phủ lâm thời càng ngày càng chuyên quyền, độc đoán và và có vẻ biến dần thành một hội đồng quân sự. Các binh sỹ đảo ngũ quay trở lại các thành phố và trao vũ khí của họ cho các công nhân xã hội trong các nhà mày đang giận giữ. Các điều kiện trong các vùng đô thị rất thuận lợi cho một cuộc cách mạng.
    Trong cách mạng, những người Bolsheviks đã thông qua khẩu hiệu phổ biến ?otất cả chính quyền về tay Xô viết!? và ?oruộng đất, hoà bình và bánh mỳ!?. Các Xô viết là các hội đồng được thành lập tại các địa phương trong một thành phố với các đại biểu được bầu từ công nhân trong nhiều nhà máy và các ngành khác. Các Sô viết là các hội của dân chủ nhân dân trực tiếp, mặc dù chúng không có vị trí chính thức về quyền lực trong chính phủ lâm thời, chúng sử dụng ảnh hưởng lớn từ trái tim và khối óc của tầng lớp lao động.
    Sau cách mạng, giới lãnh đạo đảng đặt ra một hiến pháp có vẻ công nhận quyền lực của các Xô viết địa phương. Hội đồng lập pháp cao nhất là Xô viết tối cao. Cơ quan hành pháp cao nhất là Bộ chính trị (xem Tổ chức của Đảng cộng sản Liên Xô).
    Lãnh đạo đầu tiên của Liên bang Xô viết là Vladimir Ilyich Lenin, người lãnh đạo nhóm tư tưởng Bolshevik của những người cộng sản. Áp lực quần chúng xui khiến Lenin tuyên bố Bolshevik nắm quyền lực vào tháng mười 1917. Một trong những việc làm đầu tiên của Chính phủ cộng sản là rút lui khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tiếp theo Thoả ước hoà bình Brest-Litovsk, Liên bang Xô viết chuyển giao phần lớn Ukraina và Belarus cho Đức.
  3. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Nội chiến Nga
    Tuy nhiên, ngay sau đó, những người ủng hộ chính quyền Sa Hoàng vùng dậy bạo động, dẫn tới nhiều năm nội chiến toàn diện, và chỉ kết thúc vào năm 1922. Được gọi với biệt danh ?otrắng?, các lực lượng đó được can thiệp phương Tây giúp đỡ. Các quân đội đồng minh được chỉ đạo bởi Hoa Kỳ, Anh quốc và Pháp tìm cách ngăn cản sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản hay cố gắng rút khỏi cuộc chiến của Nga, nhằm mục đích xâm nhập Liên bang Xô viết và giúp đỡ các lực lượng thù địch với người Bolshevik với ý định lật đổ chế độ Xô viết.

    Vladimir Ilyich LeninNhững người Bolshevik, sau này là Đảng cộng sản Liên bang Xô viết (CPSU), ban đầu chỉ giữ được quyền lực trong tình trạng yếu ớt, hiểm nghèo. Trong chính đảng của họ cũng bị chia rẽ giữa sỹ quan và binh lính về cách thức và một số vấn đề chính sách. Mặc dù có những vấn đề đó, họ nhanh chóng củng cố việc nắm giữ quyền lực và từng bước mở rộng phần lãnh thổ kiểm soát, và ban hành các đạo luật ngăn cấm bất kỳ một đảng chính trị đối lập nào dưới khẩu hiệu ?ochủ nghĩa tập trung dân chủ?.
    Trước cách mạng, học thuyết Bolshevik về dân chủ, chủ nghĩa tập trung kết luận rằng chỉ một tổ chức chặt chẽ và bí mật là có thể lật đổ chính phủ thành công; sau cách mạng, họ cho rằng chỉ một tổ chức như vậy có thể đánh bại các kẻ thù bên trong và bên ngoài. Việc tham gia cuộc nội chiến càng đưa họ đến việc đưa các nguyên tắc đó ra thực hiện.
    Cho rằng cái cách mạng cần không phải là một tổ chức nghị viện nhỏ nhặt mà là một đảng hành động với các chức năng như một tổ chức khoa học chỉ đạo, một đội quân tiên phong gồm những nhà hoạt động và một cơ quan kiểm soát trung ương, Lenin cấm các bè phái trong đảng. Ông cũng cho rằng đảng phải là một tổ chức tinh hoa gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp cống hiến đời mình cho sự nghiệp và thực hiện cách quyết định của họ với kỷ luật sắt, theo thế việc đưa các nhà hoạt động trung thành với đảng nắm trách nhiệm quản lý các viện chính trị cũ và mới, các đơn vị quân đội, nhà máy, bệnh viện, trường đại học, và các điểm phân phối thực phẩm. Dựa trên nền tảng đó, hệ thống nomenklafura sẽ tiến triển và trở thành tiêu chuẩn thông lệ.
    Về lý thuyết, hệ thống đó là dân chủ bởi vì mọi cơ quan của đảng lãnh đạo được bầu từ bên dưới, nhưng cũng là tập trung hoá bởi vì các hội đồng cấp dưới sẽ chịu trách nhiệm trước các tổ chức cấp trên. Khi thực hiện, ?ochủ nghĩa tập trung dân chủ? còn tập trung hơn, với các quyết định của cơ quan cấp trên bắt buộc các cơ quan cấp dưới. Theo thời gian, các cán bộ đảng ngày càng trở thành những người đam mê địa vị và chuyên nghiệp. Tư cách đảng viên đòi hỏi các kỳ thi, các lớp học đặc biệt, các trại, các trường và sự đề cử của ba đảng viên đương chức.
    Vào tháng 12 năm 1917, Cheka lực lượng an ninh nội bộ đầu tiên của Bolshevik được thành lập. Sau đó nó đổi tên thành GPU, OGPU, MVD, NKVD và cuối cùng là KGB. Những ?ocảnh sát mật? này chịu trách nhiệm tìm ra những kẻ bị đảng coi là chống đối cách mạng và trục xuất họ khỏi đảng hay đưa ra toà. Vào mùng 5 tháng Chín 1918 Cheka được giao trách nhiệm nhắm tới các thành phần sót lại của chính quyền Sa Hoàng, chống đối đảng từ cánh tả như Các mạng xã hội và các nhóm chống Bolshevik khác như Cossacks, chính sách Khiếp sợ đỏ. Felix Dzerzhinsky, lãnh đạo đầu tiên của Cheka nói vào tháng Sáu 1918 với tờ New Life: ?oChúng tôi hiện thân là sự khiếp sợ được tổ chức - điều này cần phải được nói rất rõ ràng - sự khiếp sợ như vậy là rất cần thiết trong điều kiện cuộc sống của chúng ta hiện nay trong thời gian cách mạng.?
    Chiến tranh Nga-Ba Lan
    Các biên giới giữa Ba Lan, vốn đã được thành lập một chính phủ yếu ớt sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, và chính quyền Sa Hoàng cũ, vốn rất hỗn loạn với các ảnh hưởng của các cuộc cách mạng Nga và nội chiến. Jozef Pilsudski người Ba Lan hình dung ra một liên bang mới (Miedzymorze), tạo nên một khối Đông Âu do Ba Lan lãnh đạo để hình thành một bức tường chống lại Nga và Đức, trong khi RSFSR tìm cách mang cách mạng về phía Tây. Khi Pilsudski tiến hành cuộc tấn công quân sự vào Ukraina năm 1920, ông gặp một cuộc tấn công của Hồng quân đánh sâu vào lãnh thổ Ba Lan đến tận gần Warsaw. Tuy nhiên, Pilsudski đã chặn đứng bước tiến của người Sô viết tại trận chiến Warsaw và lấy lại thế tấn công. Hoà ước Riga được ký kết vào đầu năm 1921 phân chia lãnh thổ Belarus và Ukraine giữa Ba Lan và Nga Sô Viết.
    Sự hình thành Liên bang Xô viết
    Ngày 29 tháng 12 năm 1922, RSFSR, Liên bang các nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa vùng cáp ca và Các nước cộng hoà Sô viết xã hội chủ nghĩa thuộc Belarus và Ukraine ký một Hiệp ước thành lập Liên bang cộng hoà sô viết tạo nên Liên bang sô viết bằng một hội nghị các đại diện và sau đó được khẳng định vào ngày 30 tháng Mười Hai 1922 bởi đại hội các sô viết của USSR.
  4. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Chính sách kinh tế mới
    Trong cuộc nội chiến (1917-1921), Lenin thông qua Cộng sản thời chiến, bắt buộc giải tán các bất động sản ruộng đất và sự cưỡng ép tịch thu thặng dư nông nghiệp. Cuộc nổi loạn Kronstadt là dấu hiệu cho Cuộc chiến tranh chủ nghĩa cộng sản không được dân chúng ủng hộ ở vùng nông thôn: tháng Ba 1921, vào thời điểm cuối của cuộc nội chiến, các thuỷ thủ bị vỡ mộng, các nông dân ban đầu từng là những người ủng hộ tích cực của Bolshevik thời chính phủ lâm thời, nổi loạn chống chính quyền mới. Mặc dù Hồng quân, dưới sự chỉ huy của Leon Trotsky, vượt qua biển Baltic băng giá và nhanh chóng tiêu diệt cuộc nổi loạn nhưng dấu hiệu về sự bất mãn ngày càng lớn đã buộc chính quyền dưới sự lãnh đạo của Lenin phải tạo điều kiện thuận lợi cho một liên minh rộng lớn của tầng lớp lao động và nông dân (tám mươi phần trăm dân số), mặc dù các bè phái cánh tả trong đảng thích một chính quyền được đại diện và có lợi ích dành riêng cho giai cấp vô sản hơn. Vì thế, Lenin chấm dứt cuộc chiến tranh chủ nghĩa cộng sản và thành lập Chính sách kinh tế mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường giới hạn được tồn tại. Công việc kinh doanh tư nhân nhỏ được cho phép và các hạn chế về hoạt động chính trị được nới lỏng một chút.
    Tuy nhiên, sự thay đổi to lớn nhất liên quan tới vấn đề thặng dư nông nghiệp. Thay vì trưng thu thặng dư nông nghiệp để nuôi dân thành phố (phần cốt yếu của Chiến tranh chủ nghĩa cộng sản), NEP cho phép nông dân bán sản lượng thặng dư của họ ra thị trường tự do. Tuy nhiên, nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu của cái mà Lenin cho là ?ochỉ đạo tối cao? nền kinh tế: công nghiệp nặng như các lĩnh vực than, thép và luyện kim cùng với các thành phần ngân hàng và tài chính của nền kinh tế. Sự ?ochỉ đạo tối cao? đã sử dụng phần lớn công nhân trong các vùng đô thị. Theo chính sách NEP, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình.
    NEP của Sô viết (1921-29) hầu như là một giai đoạn ?othị trường xã hội chủ nghĩa? tương tự như các cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình tại Trung Quốc sau năm 1978 theo đó dự tính trước một vai trò cho những nhà thầu tư nhân và các thị trường bị hạn chế dựa trên thương mại và giá cả hơn là hoàn toàn kế hoạch hoá tập trung. Một điều khá thú vị, trong cuộc gặp đầu tiên vào đầu những năm 1980 giữa Đặng Tiểu Bình và Armand Hammer, một nhà công nghiệp Mỹ và là nhà đầu tư lớn vào Liên bang sô viết của Lenin, Đặng đã cố tranh thủ được càng nhiều thông tin về NEP càng tốt.
    Trong giai đoạn NEP, sản lượng nông nghiệp không chỉ hồi phục ở mức đã đạt được trước cách mạng Bolshevik mà còn tăng trưởng mạnh. Việc phá bỏ các lãnh địa gần như phong kiến tại các vùng nông thôn ở thời Sa Hoàng trước đây cho phép nông dân có được sự khích lệ lớn nhất từ trước tới nay để tăng cao sản xuất. Khi đã có thể bán thặng dư của họ ra thị trường tự do, sự chi tiêu của nông dân tạo ra một sự bùng nổ trong các lĩnh vực sản xuất tại các vùng đô thị. Kết quả của NEP và sự xoá bỏ lãnh địa trong thời gian Đảng cộng sản củng cố quyền lực từ 1917-1921 là Liên bang sô viết trở thành nhà sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới.
    Tuy nhiên, nông nghiệp phục hồi sau cuộc nội chiến nhanh hơn so với công nghiệp nặng. Các nhà máy bị hư hại nặng trong cuộc chiến và sự sụt giá tư bản có sản lượng kém hơn rất nhiều. Hơn nữa việc tổ chức các nhà máy vào các tờ rớt (trust) hay liên đoàn thuộc một lĩnh vực của nền kinh tế đóng góp nhiều vào việc làm mất cân bằng giữa cầu và cung đi liền với độc quyền. Vì thiếu sự thúc đẩy từ cạnh tranh thị trường, và với rất ít hoặc không có kiểm soát nhà nước về các chính sách bên trong của họ, các tờ rớt sẽ bán hàng với giá cao hơn. Việc công nghiệp phục hồi chậm càng đặt thêm các vấn đề cho giới nông dân, những người chiếm tám mươi phần trăm dân số. Bởi vì sản xuất nông nghiệp có năng suất cao hơn, vì vậy giá của hàng hoá công nghiệp cao hơn giá hàng hoá nông nghiệp. Hậu quả của nó là thứ mà Trotsky gọi là ?okhủng hoảng kéo? bởi vì hình dáng giống như cái kéo của biểu đồ biểu thị sự đi lên trong bảng chỉ số giá liên quan. Đơn giản là nông dân phải sản xuất thêm nhiều lúa gạo nữa để mua các hàng hoá tiêu thụ từ các vùng thành thị. Hậu quả, một số nông dân giấu thặng dư nông nghiệp vì đoán trước chúng sẽ tăng giá, điều đó góp phần làm dịu sự khan hiếm trong các thành phố. Tất nhiên điều đó là sự tích trữ đối với thái độ của thị trường, nó đã gây khó chịu cho nhiều cán bộ đảng cộng sản, nhưng người coi đó là việc bóc lột những người tiêu thụ tại các thành phố. Trong lúc ấy đảng tiến hành các bước suy diễn để bù đắp sự khủng hoảng, cố gắng hạ giá các mặt hàng sản xuất và ổn định lạm phát, bằng việc áp đặt giá được kiểm soát trên các mặt hàng công nghiệp chính và phá bỏ các tờ rớt nhằm tăng hiệu năng nền kinh tế.
    [sửa]
    Cái chết của Lenin và sự từ bỏ NEP
    [sửa]
    Chủ nghĩa bè phái trong đảng
    Bởi vì nhiều bộ máy kế tiếp nhau không được thành lập trong thủ tục của đảng, cái chết của Lenin vào năm 1924 làm tăng sự lo sợ về cuộc đấu tranh bè phái về việc từ bỏ NEP. Đối lập cánh tả trong đảng, dẫn đầu là Trotsky từ lâu đã phản đối NEP vì nhiều lý do ý thức hệ và thực tiến (hệ thống thị trường đã bắt đầu tạo ra những kết quả xấu theo kiểu chủ nghĩa tư bản: lạm phát, thất nghiệp, và sự nổi lên của tầng lớp giàu có). Họ thường sử dụng ?oCuộc khủng hoảng kéo? để chiếm đoạt vốn ý thức hệ của cánh ôn hoà trong đảng (những người ủng hộ NEP), do Nikolai Ivanovich Bukharin lãnh đạo. Ban đầu, Stalin thống nhất với phe cánh của Bukharinite để đấu tranh với Trotsky. Nhưng cuối cùng ông chuyển sang chống những người ôn hoà, những người ủng hộ NEP sau khi Trotsky phải lưu vong, để củng cố sự kiểm soát của ông ta đối với đảng và nhà nước.
    [sửa]
    Sự củng cố quyền lực của Stalin
    Nhằm đưa ra một hoàn cảnh để từ bỏ NEP, Stalin gắn các vấn đề bóc lột cùng ?oKhủng hoảng kéo?. Hơn nữa, ông ta chĩa mũi nhọn vào việc nổi lên của Nepmen (những người buôn bán nhỏ kiếm lời từ sự tăng thương mại giữa thành phố và nông thôn) và Kulack (tầng lớp trung lưu bên trên đang nổi lên của những nông dân giàu có) dưới chế độ NEP như những tầng lớp tư bản mới. Ông cũng nâng những sự tranh cãi được những kẻ thù của mình trong Đối lập cánh tả sử dụng, như lạm phát và thất nghiệp như những con quỷ của thị trường.
    Stalin đã thay đổi và tống khứ khỏi đảng những bè phái bằng cách đặt ra một con đường phát triển tổng hợp các ý kiến của cả hai phe. Ông chấp nhận lập trường ?ophe tả? phản đối thị trường nông nghiệp bởi vì họ muốn sản xuất ra vật tư căn bản cho chủ nghĩa cộng sản một cách nhanh chóng, thông qua một nền kinh tế kế hoạch hoá, mặc dù đang ở các điều kiện bất lợi. Nhưng ông ta cũng tán thành ý kiến của ?ophe hữu? về ?ochủ nghĩa xã hội trong một quốc gia? muốn tập trung vào phát triển bên trong hơn là xuất khẩu cách mạng. Trong bối cảnh đó, ông cũng thích tăng xuất khẩu lúa gạo và vật liệu thô; tiền từ buôn bán với nước ngoài cho phép Liên bang sô viết nhập khẩu kỹ thuật cần thiết cho phát triển công nghiệp.
    Đầu tiên Stalin thành lập troika với Zinoviev và Kamenev chống lại Trotsky. Sau đó cùng với việc Trotsky bị cách ly và hất khỏi vị trí Uỷ viên nhân dân chiến tranh và thành viên Bộ chính trị, Stalin nhập với Bukharin chống lại đồng minh cũ. Sau đó, cuối cùng ông quay lại chống NEP, bắt buộc Bukharin, người đề xuất chính của nó vào vị trí đối lập và để lại Stalin là khuôn mặt thống trị trong đảng và trong nước.
    Vào thời điểm đó, Stalin đã có danh tiếng là một nhà cách mạng, ?omột người Bolshevik tận tuỵ? và là ?ocánh tay mặt? của Lenin. Tuy nhiên, trên thực tế Lenin đã không còn tin cậy Stalin, và trước khi chết ông đã viết một bức thư, thường được cho là Di chúc của Lenin, cảnh báo việc trao quyền lực cho Stalin, gọi ông ta là ?othô lỗ?, ?ocố chấp? và ?othất thường?. Stalin và những người ủng hộ mình đã che giấu bức thư này. Các phần của nó đã bị rò rỉ ra tới các thành viên của đảng nhưng nội dung đầy đủ không được công bố tới tận khi Stalin chết vào năm 1953.
  5. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Sự phát triển của Stalin
    [sửa]
    Kế hoạch
    Tại đại hội thứ mười bốn Đảng cộng sản Liên Xô tháng Mười Hai 1927, Stalin tấn công cánh tả bằng cách trục xuất Trotsky và những người ủng hộ ông ta khỏi đảng và sau đó chuyển sáng chống lại những người cánh hữu bằng cách từ bỏ Chính sách kinh tế mới của Lenin vốn được bênh vực bởi Nikolai Bukharin và Alexei Ivanovich Rykov. Cảnh báo các đại biểu về một sự bao vây sắp xảy đến của chủ nghĩa tư bản, ông nhấn mạnh rằng sự tồn tại và phát triển chỉ có thể đến bằng cách theo đuổi sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp nặng. Stalin lưu ý rằng Liên Xô đang ?ochậm hơn các nước phát triển từ năm mươi đến một trăm năm? (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Anh Quốc vv.), và vì vậy phải thu hẹp ?okhoảng cách này? trong mười năm. Có lẽ trong một sự sợ hãi kỳ cục và linh tính của Chiến tranh thế giới thứ hai, Stalin tuyên bố, ?oChúng ta phải thực hiện điều đó hoặc chúng ta sẽ bị tiêu diệt.?
    Để giám sát được sự chuyển đổi triệt để của Liên bang sô viết, đảng, dưới sự lãnh đạo của Stalin, đã thành lập Gosplan (Uỷ ban kế hoạch quốc gia), một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chỉ huy nền kinh tế xã hội về hướng tăng cường công nghiệp hoá. Tháng Tư 1929, Gosplan đưa ra hai điều cơ bản rằng quá trình đầu tiên sẽ công nghiệp hoá quốc gia trồng trọt. Bản báo cáo 1,700 trang này trở thành cơ bản của Kế hoạch năm năm cho việc Xây dựng nền kinh tế quốc gia, hay Piatiletka, mục tiêu tăng gấp hai dự trữ vốn Sô viết từ 1928 đến 1931.
    Thay đổi từ NEP của Lenin, kế hoạch năm năm lần thứ nhất thành lập kế hoạch trung ương như là cơ sở căn bản để đưa ra quyết định và nhấn mạnh vào công nghiệp hoá nhanh chóng công nghiệp nặng (xem Kinh tế của Liên bang sô viết). Nó bắt đầu quá trình chuyển đổi nhanh chóng các quốc gia trồng trọt gồm những nông dân thành những siêu cường công nghiệp. Trên thực tế, các kế hoạch ban đầu để đưa ra những cơ sở cho sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc trong tương lai.
    Hệ thống kinh tế mới do kế hoạch năm năm lần thứ nhất đòi hỏi có được một serie những sắp đặt kế hoạch rất phức tạp (xem Khái quát quá trình kế hoạch hoá kinh tế Sô Viết). Kế hoạch năm năm lần thứ nhất nhắm tới việc huy động các nguồn tài nguyên thiên nhiên để xây dựng cơ sở công nghiệp nặng quốc gia bằng cách tăng khai thác than, thép, và những nguồn tài nguyên quan trọng khác. Với một giá nhân lực rất cao, quá trình này đã thành công lớn, tạo lập một nền tảng tư bản cho sự phát triển công nghiệp hoá nhanh chóng hơn bất kỳ một quốc gia nào trong lịch sử.
    [sửa]
    Tiến hành công nghiệp hoá
    Sự huy động các nguồn lực bởi uỷ ban kế hoạch nhà nước tăng cường cơ sở công nghiệp quốc gia. Từ 1928 đến 1932, sản xuất gang, cần thiết cho sự phát triển của hạ tầng công nghiệp chưa hiện hữu tăng từ 3.3 triệu đến 10 triệu tấn một năm. Than, sản phẩm trung gian cung cấp năng lượng cho các nền kinh tế hiện đại và cuộc công nghiệp hoá của Stalin tăng mạnh từ 35.4 triệu đến 75 triệu tấn, và sản xuất quặng thép từ 5.7 triệu đến 19 triệu tấn. Một số tổ hợp công nghiệp như Magnitogorsk và Kuznetsk, các nhà máy ô tô Moscow và Gorky, các nhà máy máy công nghiệp nặng Urals và Kramatorsk, các nhà máy máy kéo Kharkov, nhà máy sản xuất máy kéo Stalingrad và Cheliabinsk đã được hoặc đang trong quá trình xây dựng. Dựa phần lớn ở những con số trên kế hoạch sản xuất công nghiệp năm năm đã được hoàn thành tới 93.7% chỉ trong bốn năm, trong khi những phần dành cho công nghiệp nặng được hoàn thành tới 108%. Tháng Mười Hai 1932, Stalin tuyên bố kế hoạch là một sự thành công trước Uỷ ban trung ương, bởi vì sự tăng trưởng sản xuất than và thép có thể đáp ứng cho sự phát triển tương lai.
    Trong khi không nghi ngờ đã có được một bước nhảy vọt trong năng lực công nghiệp, kế hoạch năm năm đã quá khắc nghiệt đối với công nhân công nghiệp; các định mức rất cao khó được hoàn thành, đòi hỏi thợ mỏ phải làm việc 16 đến 18 giờ một ngày. Việc không hoàn thành định mức có thể dẫn đến trách nhiệm phản bội tổ quốc. Các điều kiện làm việc rất kém, thậm chí nguy hiểm. Một số con số, 127,000 công nhân đã chết trong bốn năm (từ 1928 đến 1932). Vì sự phân phối các nguồn tài nguyên cho công nghiệp cùng sự giảm sút năng suất của sự tập thể hoá, một nạn đói diễn ra. Việc sử dụng lao động cưỡng bức cũng không bị bỏ qua. Trong việc xây dựng các tổ hợp công nghiệp, những người trong các trại lao động cũng được sử dụng như những nguồn tài nguyên có thể lãng phí.
    Từ 1921 đến 1954, trong giai đoạn nhà nước chỉ huy, bắt buộc công nghiệp hoá, 3.7 triệu người bị cho là đã bị kết án vì cái gọi là các tội phản cách mạng, gồm 0.6 triệu bị tử hình, 2.4 triệu bị đưa đến các trại lao động, và 0.7 triệu bị đày biệt xứ. Một số ước tính khác cho các con số này cao hơn rất nhiều. Giống như với nạn đói, chứng cớ ủng hộ con số lớn đang còn bị các nhà sử học tranh cãi mặc dù đây là một quan điểm của số ít.
  6. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Tập thể hoá
    Tháng Mười Hai 1928, Uỷ ban trung ương quyết định thực hiện tập thể hoá bắt buộc. Sự kiện này đánh dấu chấu hết cho NEP, vốn từng cho phép nông dân bán thặng dư của họ ra thị trường tự do. Việc trưng thu lương thực xuất hiện và nông dân bị bắt buộc phải dừng làm việc trên cánh đồng nhỏ và đất đai riêng, để làm việc trong các nông trại tập thể, và bán sản phẩm của họ cho nhà nước với một giá thấp do nhà nước đặt ra.
    Đã được kế hoạch năm năm lần thứ nhất đưa ra các mục tiêu, nhà nước tìm cách tăng cường kiểm soát chính trị nông nghiệp, hy vọng cung cấp đủ cho số lượng vùng thành thị gia tăng nhanh chóng và để xuất khẩu lúa gạo, một nguồn ngoại tệ cần thiết để nhập khẩu công nghệ cần thiết cho hiện đại hóa công nghiệp.
    Tới năm 1936 khoảng 90% nông nghiệp Sô Viết đã được tập thể hoá. Trong nhiều trường hợp nông dân cay đắng chống đối lại quá trình này và thường giết chết những con vật của họ hơn là đưa chúng vào các nông trại tập thể. Kulak, những người nông dân giàu có, bị cưỡng bức dời đến Siberia (một tỷ lệ lớn kulak phải làm việc trong các trại lao động). Tuy nhiên, vì bất kỳ ai phản đối tập thể hoá đều bị coi là kulak. Chính sách thanh toán kulak như một tầng lớp xã hội, được Stalin đưa ra vào cuối 1929, nghĩa là sự hành hình và trục xuất tới các trại lao động.
    Mặc dù được mong đợi, tập thể hoá dẫn tới một sự sụt giảm thảm hại trong sản xuất nông nghiệp, chỉ đạt lại được mức của NEP tới tận 1940. Sự biến động cùng với sự tập thể hoá rất kinh khủng ở Ukraine và đặc biệt nghiêm trọng ở những vùng lân cận Volga của Ukraine, một sự thực dẫn tới việc nhiều học giả Ukraine tranh cãi rằng đã có một chính sách có cân nhắc về việc bỏ đói người dân Ukraine. Số người chết vì nạn đói được ước tính khoảng từ ba đến mười triệu người chỉ riêng ở Ukrane, không tính các vùng lân cận. Tục ăn thịt người không phải là hiếm gặp. Các nguồn tại Liên Xô phủ nhận sự hiện diện của nạn đói hoặc ước tính một con số người chết thấp hơn rất nhiều. Con số hiện nay về thương vong được tranh cãi cho mãi đến tận bây giờ. Năm 1975, Abramov và Kocharli ước tính rằng 265,800 gia đình kulak đã bị tống đến Gulag năm 1930. Năm 1979, Roy Medvedev đã sử dụng ước tính của Abramov và Kocharli để tính rằng 2.5 triệu nông dân đã bị trục xuất từ 1930 đến 1931 nhưng ông vẫn cho rằng mình còn ước lượng dưới mức con số thực.
    [sửa]
    Những thay đổi trong xã hội Xô viết
    Được xác nhận bởi Hiến pháp USSR năm 1924, biểu tượng của Liên bang sô viết là một cái búa và một cái liềm tượng trưng sự liên minh của tầng lớp lao động và tầng lớp nông dân. Những bông lúa mì quận vào nhau trong một dải đỏ với dòng chữ bằng các ngôn ngữ của tất cả 15 nước liên bang cộng hoà: ?oCông nhân tất cả các nước liên hiệp lại!? Bông lúa tượng trưng cho nông nghiệp Xô Viết. Một ngôi sao năm cáh, biểu tượng sự thống nhất của Liên bang sô viết với các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên năm châu, được vẽ ở phần trên của biểu tượng. Các chính sách công nghiệp của Stalin đã cải thiện rất nhiều điều kiện sống của đa phần dân số, mặc dù sự tranh cãi về mức độ thiệt mạng dẫn tới việc các chính sách của Stalin làm nhơ thành tích Xô Viết.
    Ví dụ, công ăn việc làm đã tăng mạnh; được cho là 3.9 triệu một năm vào năm 1923, nhưng con số hiện nay còn đáng kinh ngạc hơn 6.4 triệu. Từ 1926 đến 1930, danh số thành thị tăng 30 triệu người. Thất nghiệp từng là một vấn đề dưới thời Sa Hoàng và thậm chí cả ở thời kỳ NEP, nhưng nó không còn là vấn đề nữa sau khi thực hiện chương trình công nghiệp hoá của Stalin. Việc tập trung các nguồn tài nguyên cho công nghiệp hoá các xã hội nông nghiệp đã tạo ra nhu cầu lao động, có nghĩa là thất nghiệp gần như bằng không. Nhiều dự án tham vọng được khởi động, và chúng cung cấp vật liệu thô không chỉ cho vũ khí quân sự mà cả cho hàng hoá tiêu dùng.
    Nhà máy ô tô Moscow và Gorky sản xuất ô tô mà dân chúng có thể sử dụng mặc dù không cần thiết phải đủ khả năng, và việc mở rộng các cơ sở công nghiệp nặng và sản xuất thép làm cho việc sản xuất một số lượng lớn ô tô thành hiện thực. Ví dụ, sản xuất xe con và xe tải, đã đạt tới con số 200,000 vào năm 1931.
    Bởi vì các công nhân công nghiệp cần được đào tạo, số lượng trường học tăng lên. Năm 1927, 7.9 triệu sinh viên đến 118,558 trường học. Con số này lên tới 9.7 triệu sinh viên và 166,275 trường vào năm 1933. Hơn nữa, 900 cơ sở chuyên nghiên cứu và 566 viện cũng được xây dựng và hoạt động vào năm 1933. Nhân dân Sô viết cũng được hưởng lợi từ việc tự do hoá xã hội ở một mức độ. Phụ nữ được bình đẳng, giáo dục tương đương, và phụ nữ cũng có quyền tương đương trong lao động, thúc đẩy cải thiện đời sống cho phụ nữ và các gia đình. Những phát triển của Stalin cũng góp phần vào việc tăng cường chăm sóc sức khoẻ, ảnh hưởng lớn tới sự tăng tuổi thọ cho công dân Sô viết và chất lượng cuộc sống. Các chính sách của Stalin cấp cho toàn bộ dân Sô viết tiếp cận chăm sóc sức khoẻ và giáo dục, hình thành một cách hữu hiệu thế hệ đầu tiên không bị sốt rét, dịch tả. Tỷ lệ các bệnh trên đã giảm xuống con số thấp kỷ lục, tăng tuổi thọ lên hàng thập kỷ.
    Phụ nữ Sô Viết dưới chế độ Stalin cũng là thế hệ phụ nữ đầu tiên được sinh sản trong những bệnh viện an toàn, với khả năng tiếp cận chăm sóc trước sinh. Giáo dục cũng là một ví dụ về tăng chất lượng cuộc sống với sự phát triển kinh tế. Thế hệ sinh ra dưới thời cai trị của Stalin là thế hệ có trình độ đại học cao đầu tiên. Các kỹ sư được cử ra nước ngoài học công nghệ công ngiệp, và hàng trăm kỹ sư nước ngoài được thuê đến Nga. Các đường vận tải được cải thiện với việc nhiều tuyến đường sắt được xây dựng. Công nhân làm vượt khoán, Stakhanovites, nhận được khuyến khích cho công việc của họ. Vì thế họ có thể đủ khả năng mua hàng hoá được sản xuất hàng loạt bởi nền kinh tế đang phát triển nhanh của Sô viết.
    [sửa]
    Cuộc thanh trừng vĩ đại
    Khi quá trình này được thực hiện, Stalin đã củng cố quyền lực của mình ở gần mức tuyệt đối vào năm 1934 với sự sát hại Sergei Kirov (việc mà nhiều người ngờ rằng Stalin đã sắp đặt kế hoạch) như một hoàn cảnh để tung ra Cuộc thanh trừng vĩ đại chống lại những kẻ bị cho là đối thủ chính trị và tư tưởng của ông ta, nổi tiếng nhất là những cán bộ cao tuổi và những thành viên từ chức vụ thấp đến cao trong Đảng Bolshevik. Trotsky đã bị tống khỏi đảng năm 1927, bị đầy tới Kazakhstan năm 1928 và sau đó bị trục xuất hoàn toàn khỏi USSR năm 1929. Stalin đã sử dụng các vụ thanh trừng để huỷ hoại về mặt tinh thần và thể chất những đối thủ chính thức khác của ông ta (và cựu đồng minh) buộc tội Zinoviev và Kamenev đứng đằng sau vụ sát hại Kirov và có kế hoạch lật đổ chế độ Stalin. Cuối cùng, những người bị cho là liên quan đến việc này và các âm mưu khác với số lượng hàng chục nghìn người gồm nhiều cựu Bolshevik và thành viên cao cấp của đảng bị buộc tội âm mưu và phá hoại để giải thích cho những vụ tai nạn công nghiệp, sự thâm hụt sản xuất và các tai nạn khác của chế độ Stalin. Các biện pháp để chống lại những người đối lập và bị nghi ngờ gồm việc giam giữ trong các trại lao động (Gulag) tới hành quyết (con trai Trotsky, Lev Sedov và giống như Sergei Kirov - bản thân Trotsky cũng chết dưới bàn tay những kẻ giết người của Stalin năm 1940). Thời kỳ từ 1936 đến 1937 thường được gọi là Nỗi khiếp sợ vĩ đại, với hàng nghìn người (thậm chí chỉ đơn giản bị nghi ngờ chống đối chế độ Stalin) bị giết hoặc bị bỏ tù. Stalin nổi tiếng đã đích thân ký 40,000 giấy phép giết hại người tình nghi đối thủ chính trị.
    Trong thời kỳ đó, việc thực hiện các cuộc bắt giữ hàng loạt, tra tấn và phạt tù hay hành quyết không cần toà án, đối với bất kỳ kẻ tình nghi nào là chống đối chính quyền Stalin của cảnh sát mật trở thành chuyện thường tình. Chỉ riêng ước tính của NKVD, 681,692 người đã bị bắn chỉ riêng từ 1937-38 (mặc dù nhiều nhà sử học nghĩ rằng con số này vẫn còn dưới mức sự thực), và hàng triệu người đã bị chuyển tới các trại lao động Gulag.
    Nhiều toà án trình diễn đã được tổ chức ở Moscow, để phục vụ như ví dụ cho những phiên toà mà toá án địa phương sẽ tiến hành ở những nơi khác trong đất nước. Có bốn vụ xử quan trọng từ 1936 đến 1938, Phiên toà Mười sáu tên là vụ đầu tiên (tháng Mười Hai 1936); sau đó là Phiên toà Mười bảy tên (tháng Một 1937); rồi Phiên toà các vị tướng Hồng Quân, gồm cả Marshal Tukhachevsky (tháng Sáu 1937); và cuối cùng là Phiên toà Hai mốt tên (gồm cả Bukharin) tháng Ba 1938. Xem thêm: Các vụ xử án Moscow. Mặc những hiến pháp có vẻ được ra liên tục dưới chế độ Stalin năm 1936, quyền lực của đảng trên thực tế đã lệ thuộc vào cảnh sát mật, bộ máy mà nhờ đó Stalin nắm vững quyền lãnh tụ thông qua Nỗi sợ hãi quốc gia.
  7. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại
    [sửa]
    Chiến tranh và sự phát triển của chủ nghĩa Stalin
    Sự công nghiệp hoá công nghiệp nặng góp phần vào chiến thắng của Liên bang sô viết trong thời gian chiến tranh với Phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai (được biết đến trên toàn USSR với cái tên Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại). Hồng Quân một mình đập tân sự mở rộng của Phát xít về hướng đông (mặc dù có sự trợ giúp lớn vũ khí từ Hoa Kỳ và Anh), với việc khuynh hướng chiến tranh trên Mặt trận phía Đông sau chận chiến Stalingrad. Người Đức không bao giờ còn phục hồi được nữa sau nỗ lực đảo ngược tình thế tại chận chiến Kursk bị đánh tan; sau trận chiến này thế chủ động hoàn toàn thuộc về Hồng Quân.
    Mặc dù Liên bang sô viết có được sự trợ giúp vũ khí lớn lao từ Hoa Kỳ, nhưng sản xuất phương tiện chiến tranh riêng của họ cũng lớn hơn Phát xít Đức nhờ vào sự phát triển nhanh chóng sản xuất công nghiệp của Sô Viết trong những năm giữa hai cuộc chiến. Kế hoạch năm năm lần thứ hai tăng sản xuất thép lên 18 triệu tấn và than lên 128 triệu tấn. Trước khi bị gián đoạn, Kế hoạch năm năm lần thứ ba đã sản xuất ra không ít hơn 19 triệu tấn thép và 150 triệu tấn than. Trong chiến tranh, đồng minh có thể vượt xa Phát xít Đức trong sản xuất nguyên liệu chiến tranh, ở một số mặt còn gấp mười lần. Ví dụ, sản xuất xe tăng tương đương 40,000 chiếc một năm đối với đồng minh trong khi đó Phát xít Đức chỉ đạt 4,000.
    Sản lượng công nghiệp của Liên bang sô viết cho phép họ chặn đứng bước tiến ban đầu của Phát xít Đức, và tước bỏ lợi thế của chúng. Theo Robert L. Hutchings, ?oMọi người khó có thể nghi ngờ rằng nếu sự xây dựng công nghiệp diễn ra chậm hơn, thì cuộc tấn công đã có thể thành công và lịch sử thế giới có lẽ đã tiến triển khác đi.? Tuy nhiên, đối với những người lao động trong ngành công nghiệp, cuộc sống rất khó khăn. Công nhân được khuyến khích hoàn thành và vượt mục tiêu thông qua các khẩu hiệu, như phong trào năng suất cao. Từ giữa 1933 đến 1945, một số người tranh cãi rằng bảy triệu thường dân đã chết vì đòi hỏi lao động. Từ 1930 đến 1940, sáu triệu người bị đưa vào lao động thông qua hệ thống cưỡng bức lao động.
    Một số nhà sử học, tuy nhiên, coi tình trạng không sẵn sàng chiến đấu của Liên bang sô viết để tự bảo vệ mình là một sai lầm trong kế hoạch kinh tế của Stalin. Ví dụ David Shearer cho rằng đã có một ?onền kinh tế mệnh lệnh hành chính? nhưng nó không phải là ?omột nền kinh tế kế hoạch?. Ông cho rằng Liên bang sô viết là một quốc gia hỗn loạn về chính sách của Bộ chính trị vì Cuộc thanh trừng vĩ đại, và hoàn toàn không được chuẩn bị cho sự xâm lược của Phát xít Đức. Khi Liên bang sô viết bị tấn công năm 1941, Stalin vì thế đã rất ngạc nhiên. Hơn nữa, nhà kinh tế Hà Lan Hunter trong bài viết Kế hoạch năm năm lần thứ nhất quá tham vọng cho rằng một lực lượng ?onhững đường lối có thể được thay đổi, gây ra tình huống hiện hữu vào cuối thập kỷ 1920... đã có thể cũng tốt như những thứ đã được hoàn thành vào năm 1936 với ít hỗn loạn, rác rưởi, phát hoại và hy sinh hơn.? Không khi không có phương tiện nào để là một nền kinh tế ?omệnh lệnh? hay một nền kinh tế hiệu quả, Kế hoạch năm năm rõ ràng đã đặt kế hoạch một thế tấn công, nhưng bởi vì Liên bang sô viết đã bị tấn công, tình hình đòi hỏi một sự trả lời phòng thủ. Kết quả, như Shearer đã chỉ ra, nền kinh tế mệnh lệnh phải được nới lỏng và vì vậy sự động viên nguồn lực cần thiết đã có thể hoàn thành. Sapir ủng hộ quan điểm này, cho rằng các chính sách của Stalin đã phát triển và động viên nền kinh tế (vốn không hiệu quả), với sức ép giữa việc đưa ra quyết định giữa trung ương và địa phương. Các lực lượng thị trường trở nên quan trọng hơn những cưỡng ép của hành chính trun ương. Tuy nhiên, quan điểm này bị Stephen Lee bác bỏ, ông cho rằng ?ocuộc công nghiệp hoá công nghiệp nặng (của Liên bang sô viết) là cách duy nhất để tồn tại?.
    [sửa]
    Những phát triển trong thời gian chiến tranh
    Cuộc tấn công của Phát xít đúng lúc quân đội Sô Viết không chuẩn bị. Một điều được nhiều người tin tưởng rằng đó là bởi vì một số lượng lớn sỹ quan cao cấp (ước tính 40,000) người đã bị bỏ tù trong ?oCuộc thanh trừng vĩ đại? từ 1936-1939. Để giữa ảnh hưởng của Sô Viết đối với Đông Âu cũng như mở rộng quan hệ kinh tế với Đức, Stalin đã dàn xếp Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau với Đức Phát xít vào 23 tháng Tám, 1939 và Thoả thuận thương mại Sô-Đức. Một phụ lục của hiệp ước trao Đông Ba Lan, Latvia, Estonia và Phần Lan cho USSR và Tây Ba Lan và Lithuania cho Đức Phát xít. Đức Phát xít xâm chiếm Ba Lan vào 1 tháng Chín; Liên Xô hùa theo ngày 17 tháng Chín, đẩy sự tự vệ của Ba Lan vào hỗn loạn bằng cách mở mặt trận thứ hai. Với việc Ba Lan bị phân chia giữa hai cường quốc, Liên bang sô viết đưa ra yêu cầu lãnh thổ của mình trước Phần Lan đối với một phần nhỏ của Karelian Isthmus, một căn cứ hải quân tại bán đảo Hanko (Hango) và một số đảo trong Vịnh Phần Lan. Phần Lan từ chối đòi hỏi này vào 30 tháng Mười Một, Liên bang sô viết tấn công Phần Lan và vì thế gây ra Cuộc chiến mùa đông. Dù đông hơn quân Phần Lan với tỷ lệ 50:1, chiến tranh thực tế rất khó khăn cho Hồng Quân, mặc dù cuối cùng họ cũng chiếm được những vùng biên giới quan trọng chiến lược, đặc biệt là các vùng gần bắc Leningrad. Chiến tranh gây ra sự phản đối quốc tế và vào 14 tháng Mười Hai Liên bang sô viết bị trục xuất khỏi Hiệp hội các quốc gia.
    22 tháng Sáu 1941, Hitler bất ngờ xé bỏ hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và tấn công Liên bang sô viết (xem Chiến dịch Barbarossa).
    Sử dụng các quan hệ của mình với đảng Phát xít Đức, điệp viên của NKVD Richard Sorge đã khám phá được chính xác thời gian kế hoạch tấn công Liên bang sô viết của Đức. Thông tin này được báo với Stalin, nhưng bị bỏ qua, mặc dù lời cảnh báo không chỉ đến từ Sorge, mà cả từ Winston Churchill và các nguồn khác.
    Người ta cho rằng ban đầu Stalin từ chối tin rằng Phát xít Đức đã xé bỏ hiệp ước. Tuy nhiên những chứng cứ mới cho thấy Stalin đã gặp nhiều thành viên cao cấp chính phủ Sô viết và nhiều tướng lĩnh, gồm cả Vyacheslav Molotov (Uỷ viên uỷ ban nhân dân về đối ngoại), Semyon Timoshenko (Uỷ viên uỷ ban nhân dân về quốc phòng), Georgy Zhukov (Lãnh đạo Hồng Quân), Nikolai Kuznetsov (Chỉ huy cả vùng Bắc Caucasus và quân đội Baltic), và Boris Shaposhnikov (Phó Uỷ viên nhân dân về quốc phòng). Tất cả trong thời gian đầu tiên của cuộc tấn công, Stalin đã gặp hơn 15 thành viên chính phủ Sô viết và bộ máy quân sự.
    Các đội quân Phát xít Đức tiến tới vùng ngoại ô Moscow tháng Mười Hai 1941, nhưng bị làm chệch hướng về sườn phía Nam. Tại Trận chiến Stalingrad năm 1942-43, sau khi mất khoảng 1 triệu quân trong trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử, Hồng Quân đã có thể lấy lại thế chủ động chiến tranh. Vì Nhật Bản không muốn mở một mặt trận thứ hai tại vùng Mãn Châu, những người Sô viết đã có thể điều động hàng chục sư đoàn quay trở lại từ phía Đông Nga. Các đơn vị đó là công cụ để làm thay đổi trào lưu cuộc chiến, bởi vì đa số sỹ quan của họ đã thoát khỏi các cuộc thanh trừng của Stalin. Các lực lượng Sô viết nhanh chóng chiếm lại các vùng đất bị mất trước kia và đẩy kẻ thù đang bị giãn căng quá mức của họ quay trở lại nước Đức Phát xít.
    Đánh dấu thắng lợi của Liên bang sô viết là hình ảnh một binh sỹ giương lá cờ Sô viết bên trên toà nhà quốc hội Đức (German Reichstag) trong thủ đô Phát xít, Berlin. Từ cuối năm 1944 đến 1949 nhiều vùng đông nước Đức nằm dưới sự chiếm đóng của Liên xô và ngày 2 tháng Năm 1945, thành phố thủ đô Berlin bị chiếm, trong khi hơn mười lăm triệu người Đức bị dời từ phía Đông tới vùng Trung Đức (sau này gọi là Cộng hoà dân chủ Đức GDR) và tây Đức (sau này được gọi là Cộng hoà liên bang Đức FRG). Người Nga, Ukraine, Ba Lan, Czech vv. sau đó bị chuyển đến vùng đất của Đức. Người Sô viết đã phải chịu gánh nặng chủ yếu của Chiến tranh thế giới thứ hai bởi vì phương Tây không thể mở mặt trận thứ hai tại Châu Âu cho tới tận khi tấn công Italy vào D-Day. Gần 28 triệu người Sô viết, trong đó 17 triệu thường dân đã bị giết hại trong ?oChiến dịch Barbarosa,? cuộc tấn công Liên xô của nước Đức Phát xít. Dân thường bị bao vây và bị đốt hoặc bắn chết trong nhiều thành phố bị Đức chiếm đóng. Nhiều người cho rằng bởi vì người Slav bị coi là ?obán khai?, về mặt đạo lý việc này nhằm mục đích giết hại hàng loạt. Tuy nhiên, sự rút lui của quân đội Sô viết cũng đã được lệnh thực hiện chính sách ?~tiêu thổ kháng chiến?T nhờ thế đội quân rút lui của Sô viết được lệnh phá huỷ hạ tầng dân sự và các nguồn cung cấp lương thực để các đội quân Phát xít Đức không thể sử dụng.
    Chiến tranh thế giới thứ hai dẫn tới kết cục là sự phá huỷ kinh khủng hạ tầng và dân số trên khắp Âu Á, từ Atlantic đến biển Thái Bình Dương, với hầu như không một quốc gia nào không bị tổn hại. Liên bang sô viết bị tổn hại rất nặng nề bởi sự phá huỷ hàng loạt các cơ sở công nghiệp họ đã xây dựng trong những năm thập kỷ 1930. Cường quốc công nghiệp lớn duy nhất trên thế giới không bị sứt mẻ và thậm chí còn lớn mạnh hơn nhờ vào một triển vọng kinh tế là Hoa Kỳ.
    Như đã đề cập, người Sô viết chịu thương vong nặng nề nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Những thiệt hại đó có thể giải thích cách xử sự của nước Nga sau cuộc chiến. Liên bang sô viết tiếp tục chiếm đóng và cai trị Đông Âu như ?ovùng đệm? để bảo vệ nước Nga khỏi cuộc tấn công khác từ phương Tây. Nga đã bị tấn công ba lần trong 150 năm trước cuộc Chiến tranh lạnh, trong thời chiến tranh Napoleon, Chiến tranh thế giới thứ nhất, thứ hai, chịu hàng chục triệu tổn thất nhân mạng.
    Người Sô viết quyết tâm trừng phạt những kẻ mà họ cho là hợp tác với Đức trong chiến tranh. Hàng triệu người Ba Lan, Latvia, Georgia, Ukraine và các sắc tộc thiểu số khác bị trục xuất tới các Gulag ở Siberi. (Trước đó, sau việc sáp nhập Ba Lan năm 1939, hàng ngàn sỹ quan Ba Lan gồm cả quân dự bị, đã bị hành quyết vào mùa xuân năm 1940, trong cái sau này được biết đến là Cuộc thảm sát Katyn.) Stalin cũng tống tất cả các binh lính Nga từng bị Đức bắt giữ tới các trại cách ly tại Siberia. Việc này được tiến hành bởi vì nhiều tù binh chiến tranh Sô viết đã từng được tuyển lựa để chiến đấu bên cạnh người Đức trong quân đội Vlasov, và để giảm thiểu bất kỳ một tư tưởng chống cách mạng nào mà họ có thể đã có trong thời gian bị giam giữ.
  8. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Chiến tranh lạnh
    [sửa]
    Quyền bá chủ của Sô viết ở Đông Âu
    Với hậu qủa của Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên bang xô viết trải rộng ảnh hưởng chính trị và quân sự của mình trên toàn Đông Âu, trong một động thái mà một số người coi là sự tiếp tục của chính sách xưa cũ của Đế chế Nga. Một số vùng đất nước Nga xô viết đã từng mất theo Hiệp ước Brest-Litovsk (1918) đã bị Liên bang xô viết sáp nhập sau Chiến tranh thế giới II: các nước vùng Baltic và những phần phía đông trong thời gian giữa hai cuộc chiến của Ba Lan. SFSR của Nga cũng chiếm Transcarpathia (như Zakarpattia Oblast) từ Slovakia, và Ukrainian vùng đông dân cư Bắc Bukovina (như Chernivtsi Oblast) từ Romania. Cuối cùng, vào cuối thập kỷ 1940, tiền thân Các đảng cộng sản xô viết thắng cử tại năm quốc gia Trung và Đông Âu (Ba Lan, Czechoslovakia, Hungary, Romania và Bulgaria) và vì vậy đã trở thành các nước độc tài kiểu Stalin. Các cuộc bầu cử này thường được coi là gian lận, và các quốc gia phương Tây không công nhận các cuộc bầu cử là hợp pháp. Trong thời gian Chiến tranh lạnh diễn ra, các nước Đông Âu trở thành các nước vệ tinh của Liên xô - họ là các nước độc lập, nhưng chính phủ của họ thường giữ chính sách của mình theo mong muốn của Liên bang xô viết.
    [sửa]
    Chiều hướng của các mối quan hệ Xô-Mỹ
    Mối quan hệ đồng minh trong thời chiến giữa Hoa Kỳ và Liên bang sô viết chỉ là chút sai lầm của thói quen thông thường của các mối quan hệ Xô-Mỹ. Đối thủ chiến lược giữa một liên hiệp các quốc gia vĩ đại, trải dài đã từng có từ những năm 1890 khi sau một thế kỷ thân thiện, người Mỹ và người Nga trở thành các đối thủ trên vùng Mãn Châu đang phát triển. Các Sa Hoàng Nga không thể cạnh tranh về mặt công nghiệp tìm cách đóng kín và chiếm các phần thuộc địa ở Đông Á, trong khi người Mỹ đòi mở cửa cạnh tranh cho các thị trường.
    Năm 1917 sự đối đầu chuyển sang về ý thức hệ. Người Mỹ không bao giờ quên rằng chính quyền Sô viết đã đàm phán riêng rẽ hoà bình với Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1917, bỏ mặc Đồng minh phương Tây một mình chiến đấu với các quốc gia Trung Âu. Kết thúc bằng sự mất tin cậy của người Nga khi quân đội Mỹ đổ bộ vào nước Nga sô viết năm 1918, dù trực tiếp hay gián tiếp ủng hộ lực lượng Bạch vệ (quân trắng) chống Bolshevik trong cuộc nội chiến.
    Hơn nữa, Sô viết không bao giờ quên những đòi hỏi của họ về việc Hoa Kỳ và Anh mở một mặt trận thứ hai trên lục địa Châu Âu; nhưng sự tấn công của Đồng minh chỉ diễn ra mãi tận cuối tháng Sáu 1944, hai năm sau khi người Sô viết yêu cầu. Cùng lúc đó, người Nga phải chịu thương vong khủng khiếp, tới hai mươi triệu người chết và họ bắt buộc phải chống lại sức mạnh chính của quân Đức. Đồng minh cho rằng một mặt trận thứ hai đã được mở vào năm 1943 ở Italy và không chuẩn bị trước cho một cuộc tấn công ngay tức thì vào nước Pháp bị Phát xít chiếm đóng.
    [sửa]
    Sự tan vỡ của hoà bình sau chiến tranh
    Khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu ngày 8 tháng Năm, 1945, quân đội Sô viết và phương Tây (Hoa Kỳ, Anh, và Pháp) chủ yếu đối mặt với nhau dọc theo giới tuyến ở Trung Âu chạy dài từ Lubeck đến Triest. Bên cạnh một chút thêm thắt, việc này sẽ là ?obức màn sắt? của Chiến tranh lạnh. Phía sau, Yalta biểu hiện sự đồng thuận của hai phía về việc họ sẽ dừng ở đó và không bên nào sẽ dùng sức mạnh để đẩy lùi bên kia. Sự ngầm hiểu này cũng được áp dụng ở Châu Á, như minh chứng bởi sự chiếm đóng của Mỹ tại Nhật Bản và sự phân chia Triều Tiên. Vì thế, về mặt chính trị, Yalta là một thoả thuận về tình trạng nguyên trạng sau chiến tranh theo đó Liên bang sô viết thống trị khoảng một phần ba còn Hoa Kỳ chiếm hai phần ba.
    Người Sô viết đã có thể sử dụng mạng lưới tình báo được tổ chức tốt tại Hoa Kỳ để tìm kiếm lợi thế cao nhất trong các cuộc gặp gỡ với các đại biểu Anh và Hoa Kỳ. Nhiều cố vấn của FDR và các thành viên chính phủ thường thông báo các hoạt động của họ cho lãnh đạo NKVD.
    Có những đối nghịch căn bản giữa cách nhìn của Hoa Kỳ và Liên bang sô viết, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Và những đối nghịch đó đã đơn giản hoá và cải tiến thành ý thức quốc gia để đại diện thành hai phương cách sống, mỗi bên đã chứng minh mình vào năm 1945 bằng nhiều thảm hoạ. Phản ánh các model chính sách tự cấp tự túc chống lại xuất khẩu, của kế hoạch nhà nước chống lại nhà sản xuất tự do, đã ganh đua bổn phận với thế giới đang phát triển và đã phát triển trong những năm sau chiến tranh.
    Tuy nhiên, thậm chí là như vậy, Chiến tranh lạnh không phải rõ ràng là không tránh được trong năm 1945. Mặc dù tình trạng thừa tiền của Hoa Kỳ để thúc đẩy tầm nhìn của một Châu Âu sau chiến tranh, Stalin coi sự tái xuất hiện của Đức và Nhật là những mối đe doạ chính của Nga, chứ không phải Mỹ. Vào thời gian đó, viễn cảnh về một mặt trận Anh-Mỹ chống lại USSR có vẻ không đáng chú ý nhiều theo quan điểm của Stalin. Các cố vấn kinh tế như Eugen Varga tăng cường quan điểm này, dự đoán một cuộc khủng hoảng sau chiến tranh về sự sản xuất dư thừa tại các nước tư bản đã lên đến cực điểm vào 1947-1948 trong một thời kỳ suy thoái khác. Đối với một điều, Stalin dự đoán rằng phe tư bản sẽ nhanh chóng hồi phục bất đồng nội bộ về thuộc địa và thương mại và sẽ không phải là một mối đe doạ cho nước Nga. Phân tích của Varga một phần dựa trên khuynh hướng chi tiêu của Hoa Kỳ. Phần lớn vì cố gắng trong chiến tranh, trong khoảng thời gian hoà bình đầu tiên năm 1946, chi tiêu liên bang vẫn ở mức 62 tỷ $, hay 30% GDP, tăng từ mức 3% GDP năm 1929, trước Cuộc suy thoái nghiêm trọng, Kinh tế mới và Chiến tranh thế giới thứ hai. Vì vậy Stalin giả thiết rằng người Mỹ sẽ cần nhìn sang Nga để duy trì mức xuất khẩu và chi tiêu ngân sách như cũ.
    Tuy nhiên, đã không có cuộc khủng hoảng sản xuất dư thừa thời hậu chiến. Và như Varga đã đoán trước, Mỹ vẫn giữ một mức so sánh chi tiêu chính phủ chặt chẽ ở thời hậu chiến. Chỉ là để giữ một thứ to lớn theo một cách khác. Cuối cùng chính phủ Mỹ hậu chiến không giống với chính phủ thời chiến, với việc thành lập quân đội cùng an ninh quân đội chiếm một phần to lớn của chi tiêu quốc gia.
    [sửa]
    Hai cái nhìn về thế giới
    Tuy nhiên nước Mỹ dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Harry S. Truman từ tháng Tư 1945, đã quyết tâm hình thành một thế giới hậu chiến để mở ra các thị trường của thế giới cho thương mại tư bản theo các nguyên tắc được đưa ra bởi Hiến chương Atlantic: tự quyết, tiếp cận kinh tế công bằng và tái thiết một Châu Âu tư bản có thể một lần nữa trở thành trung tâm của các phi vụ thế giới. Franklin D. Roosevelt đã không bao giờ quên rằng ông đã chào mừng các nguyên tắc của chủ nghĩa lý tưởng Wilsonian trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và ông đã thấy trách nhiệm của mình trong thập kỷ 1940 là mang lại hoà bình lâu dài và dân chủ thực sự đến cho thế giới.
    Chiến tranh thế giới thứ hai dẫn đến sự phá hoại khủng khiếp cơ sở hạ tầng và dân số trên khắp Âu Á, từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương, với hầu như không một nước nào không bị ảnh hưởng. Quyền lực công nghiệp to lớn duy nhất không bị ảnh hưởng ?" mà thậm chí còn mạnh mẽ thêm về triển vọng kinh tế - là Hoa Kỳ, nước đã nhanh chóng củng cố vị trí của mình. Với tư cách là quyền lực công nghiệp lớn nhất thế giới, là một trong ít nước không bị chiến tranh tàn phá, Hoa Kỳ đứng nhìn để thu nhận được nhiều hơn bất kỳ một nữa nào từ việc mở cửa thị trường thế giới cho xuất khẩu của họ và tiếp cận được với nguồn nguyên liệu thô tối quan trọng.
    [sửa]
    Khởi đầu Chiến tranh lạnh
    [Truman] có thể phát triển các nguyên tắc đó với một nhóm quyền lực sản xuất ra 50% hàng hoá công nghiệp của thế giới và một năng lực quân sự to lớn độc quyền về bom nguyên tử mới xuất hiện (xem thêm [Dự án bom nguyên tử của Liên Xô]). Một cường quốc như vậy có thể nặn ra và kiếm lời từ việc khôi phục Châu Âu, lục địa một lần nữa lại cần tới một nước Đức mạnh mẽ làm trung tâm của họ; mục tiêu của họ chính là điều mà Liên bang sô viết tìm cách tránh như sự đổ vỡ của liên minh trong chiến tranh diễn ra.
    Việc Hoa Kỳ có đủ nguồn lực để thúc đẩy một kiểu thế giới sau chiến tranh khác xung đột với các quyền lợi của Liên xô. An ninh quốc gia đã thực sự là một phần quan trọng trong chính sách của Liên xô từ những năm thập kỷ 1920, khi đảng cộng sản thông qua ?o[chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia]? của Stalin và loại bỏ ý tưởng của Trotsky về ?o[cách mạng thế giới]?. Trước chiến tranh, Stalin không cố gắng mở rộng biên giới nước Nga ra tới mức họ từng có ở thời Nga Hoàng.
    Trong chiều hướng này, các mục tiêu của Liên bang sô viết có thể không phải là sự mở rộng kiểu gây hấn mà là củng cố, ví dụ như cố gắng giữ vững biên giới phía tây đất nước. Stalin cho rằng Nhật và Đức có thể một lần nữa đe doạ Liên bang sô viết vào thập kỷ 1960, vì vậy dẫn thới việc nhanh chóng dựng lên một cách áp đặt các chính phủ trong vùng đệm cách ly Phát xít: Ba Lan, Romania và Bulgaria. Tuy nhiên, đa số trong phần còn lại của thế giới coi hành động này là một cố gắng mang tính khiêu khích nhằm mở rộng ảnh hưởng Sô viết và nói chung luôn quan sát sự nhận thức của Sô viết với thái độ hoài nghi.
    Những bất đồng về các kế hoạch hậu chiến ban đầu chỉ tập trung ở Đông và Trung Âu. Vì đã tổn thất 20 triệu người trong cuộc chiến, bị Đức và Phát xít Đức tấn công, và chịu hàng chục triệu thương vong vì những cuộc tấn công từ phía Tây tới ba lần trong vòng 150 năm, lần đầu của [Napoleon], Liên bang sô viết kiên quyết loại bỏ khả năng của Đức cho một cuộc chiến khác bằng cách giữ họ dưới sự kiểm soát chặt chẽ. Toan tính của Mỹ lại khá khác biệt, bởi vì họ cần một chế độ dân chủ, giữ nước Đức như là một đối tác thương mại và có lẽ cả quân sự.
    Winston Churchill, từ lâu đã là một người phản đối cộng sản từ trong tiểm thức, buộc tội Stalin dựng một hàng rào bao quanh đế chế Nga với một ?o[bức màn sắt]?. Sau đó, Truman cuối cùng đã từ chối trao phần bồi thường thiệt hại chiến tranh cho Liên bang sô viết từ các cơ sở công nghiệp của Tây Đức, Stalin đã trả đũa bằng cách tách riêng Đông Đức thành một nước cộng sản.
    Việc thiếu điểm tiếp cận hàng hải lịch sử của Nga, một mối lo ngại từ lâu của chính sách đối ngoại của Nga từ trước khi có cuộc cách mạng Bolshevik, cũng là một vấn đề của Nga, đó cũng là một vùng nơi quyền lợi bị chia rẽ giữa Đông và Tây. Stalin ép người Thổ cải thiện đường tiếp cận tới Biển Đen thông qua Dardanelles Strait của Thổ, điều này sẽ cho phép Liên xô thông từ Biển Đen đến Địa Trung Hải. Churchill từ trước đó đã công nhận yêu cầu của Stalin, nhưng sau đó người Anh và Mỹ buộc Liên bang sô viết phải lùi bước.
    Nhưng khi lãnh đạo Liên xô không nhận thấy rằng an ninh quốc gia đang bị đe doạ, các chính sách của họ được cân nhắc hơn: Liên bang sô viết cuối cùng đã rút khỏi Bắc Iran, theo đòi hỏi của Anh-Mỹ; Stalin không tuân thủ thoả thuận năm 1944 với Churchill và không giúp những người cộng sản trong cuộc chiến chống chính phủ ở Hy Lạp; tại Phần Lan ông đã chấp nhận một chính phủ thân thiện, không cộng sản; và quân đội Nga đã rút khỏi Czechoslovakia vào cuối năm 1945. Tuy nhiên, một cuộc đảo chính cộng sản xảy ra ở Prague năm 1948 biến Czecholovakia thành một nước vệ tinh hiệu quả của Sô viết ngay sau chiến tranh tới tận cuối Chiến tranh lạnh.
  9. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Chính sách ngăn chặn" và kế hoạch Marshall
    Trong khi Liên xô đồng ý với phác thảo Anh-Mỹ nhằm ngăn cản sự tiếp cận của Sô viết tới Địa Trung Hải (một mục tiêu cốt yếu của chính sách đối ngoại Anh từ Chiến tranh Crimean những năm 1850), Hoa Kỳ làm nóng lên kiểu tu từ học của họ; điều đã trở thành những cố gắng Anh-Mỹ để giúp đỡ chính phủ Hy Lạp trở thành một cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ những người dân ?otự do? chống lại những chế độ ?ochuyên chế?. Điều này có thể được thấy trong Bài phát biểu về học thuyết Truman tháng Ba, 1947, tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ chi tối đa 400 triệu $ cho nỗ lực ?ongăn chặn? chủ nghĩa cộng sản. Bằng việc giúp đỡ Hy Lạp một cách hiệu quả, Truman cũng đặt ra một tiền lệ cho việc giúp đỡ chống các chế độ cộng của Mỹ trên khắp thế giới, thậm chí cả các chính thể chuyên chế. Chính sách đối ngoại của Mỹ chuyển thành liên kết với lý lẽ của viên chức Bộ ngoại giao Mỹ George Kennan rằng người Sô viết phải được ?ongăn chặn? bằng cách sử dụng ?olực phản kháng không thể thay đổi được tại mọi điểm?, tới tận khi sự đổ vỡ quyền lực Sô viết diễn ra.
    Hoa Kỳ đã tung ra nhiều cố gắng hồi phục kinh tế, đầu tiên là ở Tây Âu, sau đó ở Nhật Bản (cũng như ở Nam Triều Tiên và Đài Loan). Kế hoạch Marshall bắt đầu bơm 12 tỷ $ vào Tây Âu. Lý do căn bản là các nước ổn định về mặt kinh tế sẽ ít dễ rơi vào tầm ảnh hưởng Sô viết, một quan điểm đã được chứng minh là đúng đắn trong thực tế sau đó.
    Để trả lời lại việc Stalin phong toả Berlin, nằm sâu trong vùng của Sô viết mặc dầu là đối tượng dưới quyền kiểm soát của bốn cường quốc. Người Sô viết cắt toàn bộ đường sắt và đường bộ tới Tây Berlin. Tin rằng ông ta có thể làm chết đói và lạnh cóng Tây Berlin dẫn tới sự quy phục, không có xe tải hay tầu hoả được phép vào thành phố. Tuy nhiên, quyết định này đã mang lại kết quả trái ngược khi Truman lao vào một nỗ lực dễ nhận thấy sẽ làm bẽ mặt người Sô viết trên trường quốc tế - cung cấp cho thành phố bị bao vây bằng đường không. Sự đương đầu quân sự đã đe doạ xảy ra khi Truman, với sự giúp đỡ của người Anh, cho các chuyến bay tiếp tế bay qua Đông Đức vào Tây Berlin trong giai đoạn phong toả 1948-1949. Vụ tiếp tế tốn kém này cho Tây Berlin được gọi là Cầu hàng không Berlin.
    Truman gia nhập cùng mười một quốc gia khác thành lập lên Tổ chức hiệp ước Bắc Đại tây dương (NATO) năm 1949, sự ?odính líu? đầu tiên của Hoa Kỳ tới liên minh Châu Âu trong 170 năm. Stalin đáp trả các hành động đó bằng cách hợp nhất các nền kinh tế Đông Âu trong kế hoạch Marshall của riêng mình, nổ thử quả bom nguyên tử đầu tiên của Sô viết năm 1949, ký liên minh với Trung Quốc cộng sản tháng Hai 1950, và tạo nên khối Hiệp ước Warsaw, đối thủ Đông Âu của NATO.
    Các quan chức Mỹ nhanh chóng nâng cao và mở rộng ?ongăn chặn?. Trong một tài liệu mật năm 1950, NSC-68, họ dự định tăng cường sức mạnh các hệ thống liên minh của mình, tăng chi tiêu quốc phòng lên gấp bốn lần, và lao vào một chiến dịch tuyên truyền tỉ mỉ để thuyết phục người Mỹ gia nhập cuộc chiến tranh lạnh tốn kém này. Truman ra lệnh phát triển bom hydro; vào đầu năm 1950 Mỹ lao vào cố gắng đầu tiên nhằm hỗ trợ chủ nghĩa đế quốc tại Đông Dương thuộc Pháp đối lại cuộc kháng chiến do những người cộng sản lãnh đạo; và Hoa Kỳ đã lao vào cái mà người Sô viết gọi là sự xâm phạm hiển nhiên tới các hiệp ước thời chiến tranh: các kế hoạch tạo dựng quân đội Tây Đức.
    Giai đoạn ngay sau 1945 có thể là điểm nhấn của lịch sử cho tính quần chúng của tư tưởng cộng sản. Các đảng cộng sản thắng đa số các cuộc bầu cử trong các cuộc bầu cử tự do tại các nước như Bỉ, Pháp, Italy, Czechoslovakia, và Phần Lan; và thắng một lượng lớn ủng hộ của dân dúng tại Châu Á (Việt nam, India, và Nhật Bản) và khắp Mỹ Latin. Hơn nữa, họ được ủng hộ rộng lớn ở Trung Quốc, Hy Lạp và Iran, nơi các cuộc bầu cử tự do vẫn chưa có hoặc bị cản trở nhưng là nơi những người cộng sản có sự phát triển mạnh.
    Để đối lại, Hoa Kỳ kéo dài một chiến dịch công kích chống cộng rộng lớn. Mỹ dự định ?ongăn chặn? chủ nghĩa cộng sản thông qua cả chính sách ngoại giao công kích và các chính sách ngăn chặn. Xem lại quá khứ, chính sách này đầu tiên rất hiệu quả: Washinton đưa vai trò của mình thành lãnh đạo ?othế giới tự do? và ít nhất thì cũng hiệu quả như việc Liên bang sô viết đưa vai trò của mình thành lãnh đạo phong trào ?otiến bộ? và ?ochống đế quốc?.
    [sửa]
    Chiến tranh Triều Tiên
    Năm 1950 Liên xô phản đối sự thực rằng ghế của Trung Quốc tại Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc do nước Cộng hoà Trung Hoa (Trung Hoa dân quốc - do những người Quốc gia) nắm giữ, và tẩy chay các cuộc gặp. Họ sau đó đã hối tiếc quyết định này khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra. Liên hiệp quốc thông qua một nghị quyết lên án các hành động của Bắc Triều Tiên và cung cấp ủng hộ quân sự cho Nam Triều Tiên. Nếu Liên xô có mặt ở các cuộc gặp có thể họ đã chắc chắn phủ quyết nghị quyết này. Sau sự kiện đó, Liên xô không bao giờ còn vắng mặt tại các cuộc gặp của Hội đồng bảo an.
  10. smile_candy

    smile_candy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/04/2006
    Bài viết:
    206
    Đã được thích:
    0
    Sự loại bỏ chủ nghĩa Stalin và kỷ nguyên Khrushev
    Sau khi Stalin chết tháng Ba 1953, ông được kế tục bởi Nikita Khrushchev cho chức vụ Thư ký thứ nhất của Uỷ ban trung ương và Georgi Malenkov là Thủ tướng Liên bang sô viết. Ban lãnh đạo mới tuyên bố một sự ân xá cho một số tù nhân bị kết tội vì các vi phạm tội ác, tuyên bố cắt giảm giá cả, và bỏ bớt những cấm đoán tự do cá nhân. Việc loại bỏ chủ nghĩa Stalin cũng được báo hiệu một sự kết thúc cho phai trò của những trại lao động ở mức độ lớn trong nền kinh tế. Trong giai đoạn lãnh đạo tập thể, Khrushev từng bước củng cố quyền lực. Tại một bài phát biểu về Sự sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó trước một kỳ họp kín tại đại hội đảng lần thứ hai mươi của CPSU, 25 tháng Hai, 1956, Khrushev khiến cử toạ bị sốc khi lên án sự cai trị độc tài của Stalin và sự sùng bái cá nhân. Ông cũng tấn công các tội ác do các đàn em thân cận của Stalin tiến hành.
    Tác động của những chính sách của Sô viết rất rộng lớn. Bài diễn văn đã ngáng chân tính hợp pháp của những kẻ thù Stalin sót lại của ông, đặc biệt tăng thế lực của ông trong nước. Sau đó, Khrushev giảm bớt các ngăn cấm, thả tự do hàng triệu tù chính trị (những người ở trong các Gulag giảm từ 13 triệu năm 1953 xuống 5 triệu năm 1956-57) và bắt đầu các chính sách kinh tế nhấn mạnh hàng hoá thương mại hơn là sản xuất than và thép, cho phép mức sống tăng lên ngoạn mục và cùng lúc có mức tăng trưởng kinh tế cao. Sự giảm bớt kiểm soát cũng gây nên hiệu ứng mạnh trên các nước vệ tinh vùng Trung Âu, nhiều nước trong số họ cảm thấy bức bối về ảnh hưởng Sô viết lên công việc của họ. Những cuộc náo động xảy ra ở Ba Lan trong mùa hè năm 1956, dẫn tới sự trả đũa từ các lực lượng địa phương. Một sự biến động nhanh chóng tiếp nối dẫn tới sự nổi lên của W,adys,aw Gomu,ka trên đỉnh quyền lực vào tháng Mười. Điều này gây lên một cuộc đưa quân vào của Sô viết khi những người cộng sản Ba Lan đã bầu ông ta lên mà không cần tham vấn trước Kremlin. Nhưng Khrushev thoái lui vì Gomulka phát triển rộng rãi trong nước. Ba Lan vẫn là một thành viên của Hiệp ước Warsaw (được thành lập một năm trước), và đổi lại, Liên bang sô viết sẽ ít can thiệp hơn vào công việc nội bộ và bên ngoài của họ.
    Cùng năm đó, Cách mạng 1956 của Hungaria nổ ra bị quân đội Sô viết đàn áp dã man. Khoảng 25-50,000 người khởi nghĩa Hungaria và 7,000 quân Sô viết thiệt mạng, hàng ngàn người khác bị thương, và gần một phần tư triệu rời bỏ đất nước thành người tị nạn. Cuộc cách mạng là một cú đánh vào những người cộng sản ở các nước phương Tây; nhiều người trước đó ủng hộ Sô viết quay lại chỉ trích họ. Những năm sau đó Khrushev đánh bại một sự phối hợp của những người theo Stalin nhằm chiếm lại quyền lực, đặc biệt là đánh bại cái gọi là ?oNhóm chống đảng.? Sự kiện này cũng phản ánh trạng thái mới của chính trị Sô viết - cuộc tấn công có ý nghĩa quyết định nhất vào những kẻ theo Stalin được tiến hành bởi bộ trưởng quốc phòng Georgy Zhukov, và áp đặt những đe doạ đối với những kẻ bày mưu là rõ ràng, tuy nhiên, không kẻ nào trong ?onhóm chống đảng? bị giết hại: lúc đó một người bị chuyển sang điều khiển một nhà máy điện ở vùng Cáp cát, người kia Vyacheslav Molotov, trở thành đại sứ ở Mông Cổ. Khrushchev trở thành thủ tướng ngày 27 tháng Ba 1958, ngừng nắm quyền tuyệt đối trong nước - truyền thống sau đó được mọi người trước và sau ông từng làm.
    Giai đoạn mười năm sau cái chết của Stalin cũng chứng kiến sự đòi hỏi của quyền lực chính trị về sự áp bức. Đảng trở thành thể chế thống trị cảnh sát mật và quân đội.
    Giúp đỡ đối với các nước đang phát triển và nghiên cứu khoa học, đặc biệt kỹ thuật vũ trụ và vũ khí, giữ Liên xô ở vị trí một trong hai siêu cường của thế giới. Những người Sô viết đã phóng tầu vũ trụ bay quanh trái đất đầu tiên của loài người, Sputnik, nó bay quanh trái đất năm 1957. Người Sô viết cũng đưa người đầu tiên lên vũ trụ Yuri Gagarin, năm 1961.
    Khrushchev khôn hơn những đối thủ theo Stalin của ông. Nhưng ông bị những đối thủ chính trị coi - đặc biệt là những nhà kỹ trị chuyên nghiệp cấp cao đang nổi lên ?" là một kẻ nông dân quê mùa, người sẽ chặn ngang lời người khác để sỉ nhục họ.
    [sửa]
    Các cuộc cải cách và sự mất chức của Kruschev
    Trong những năm lãnh đạo, Khrushchev cố gắng thực hiện cải cách trong nhiều lĩnh vực. Các vấn đề của nông nghiệp Sô viết, một mối lo ngại lớn của Khrushchev từ đầu đã lôi cuốn được sự chú ý của những người trong tập thể lãnh đạo, dẫn tới một sự đổi mới quan trọng trong lĩnh vực này của nền kinh tế Sô viết. Nhà nước khuyến khích nông dân trồng cấy nhiều hơn trên đất riêng của họ, tăng chi phí cho mùa màng trồng tại các trang trại tập thể, và đầu tư hơn nữa vào nông ngiệp.
    Trong chiến dịch Virgin Lands Campaign của mình vào giữa thập kỷ 1950, Khrushchev đã mở nhiều vùng đất rộng lớn làm trang trại ở Kazakhstan và các vùng lân cận của Nga. Những vùng đất nông nghiệp mới đó trở thành dễ bị tổn thương trước hạn hán, nhưng trong một vài năm chúng đã mang lại những vụ mùa bội thu. Tuy nhiên, sau đó các cải cách nông nghiệp của Khrushchev đã chứng minh sự giảm sút sản lượng. Các kế hoạch của ông để trồng ngô và tăng lúa mỳ và bơ sữa phá sản, và việc tái cơ cấu các trang trại nông nghiệp thành những đơn vị lớn hơn gây ra sự lộn xộn ở các vùng nông thôn.
    Nỗ lực của Khrushchev nhằm cải cách công nghiệp và tổ chức hành chính thậm chí còn gây ra các vấn đề nghiêm trọng hơn. Trong một nỗ lực chính trị nhằm giảm bớt tình trạng quan liêu nhà nước, năm 1957 Khrushchev loại bỏ các bộ công nghiệp ở Moscow và thay thế chúng bằng các hội đồng kinh tế địa phương (sovnarkhozes).
    Mặc dù ông dự định dùng những uỷ ban kinh tế này có trách nhiệm nhiều hơn về những nhu cầu địa phương, việc bỏ tập trung trung ương trong công nghiệp dẫn tới sự phá vỡ và không hiệu quả. Liên quan tới việc bỏ tập trung trung ương là quyết định của Khrushchev năm 1962 nhằm phân lại vai các tổ chức đảng theo đường lối kinh tế hơn là theo hành chính. Kết quả chia rẽ bộ máy của đảng thành các lĩnh vực công nghiệp và công nghiệp tại các vùng (tỉnh) mức và bên dưới đóng góp vào sự xáo trộn và xa lánh nhiều cán bộ đảng ở mọi cấp. Tính chất triệu chứng của khó khăn kinh tế quốc gia là sự từ bỏ kế hoạch kinh tế đặc biệt bảy năm của Khrushchev (1959-65) năm 1963, hai năm trước khi hoàn thành. Tới năm 1964, danh tiếng của Khrushchev đã bị xuống thấp ở nhiều vùng. Tăng trưởng công nghiệp chậm lại trong khi nông nghiệp không có tiến triển. Bên ngoài, sự chia tách với Trung Quốc, việc xây dựng bức tường Berlin và cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã làm xói mòn hình ảnh nước Nga sô viết trên trường quốc tế, và các cố gắng của Khrushchev nhằm cải thiện quan hệ với phương Tây gây phản tác dụng nhiều trong quân đội. Cuối cùng, sự tái cơ cấu của đảng năm 1962 gây ra sự xáo trộn trong toàn hệ thống chính trị sô viết về quyền điều khiển. Trong chính sách quân sự, sự tàn nhẫn của Khrushchev trong việc theo đuổi một chính sách phát triển các lực lượng tên lửa Sô viết với mục tiêu giảm mức độ các lực lượng vũ trang, nhờ thế giảm số người trẻ tuổi dành cho lực lượng sản xuất và giảm các nguồn tài nguyên nhằm phát triển kinh tế, đặc biệt hàng hoá tiêu thụ nói chung. Chính sách này về mặt cá nhân cũng cho thấy là một thảm hoạ, làm những gương mặt chính yếu trong việc thành lập quân đội Sô viết xa lánh và đưa lên cực điểm sự thất bại (trong con mắt người Sô viết) về vụ khủng hoảng tên lửa với phương Tây như bức màn sắt Châu Âu trở nên chắc chắn hơn.
    Sự khoe khoang của Khrushchev về lực lượng tên lửa Sô viết cho phép John F. Kennedy có một lý do để chống lại Richard Nixon trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1960 ?" cái gọi là ''Lỗ hổng tên lửa''. Nhưng tất cả cố gắng của Khrushchev (có thể là ngay thật) nhằm xây dựng một mối quan hệ cá nhân với tổng thống mới không diễn ra, vì kiểu tổng hợp đặc trưng của sự khoe khoang của ông, sự tính toán sai lầm và sự rủi ro là kết quả của sự thất bại Cuba.
    Tháng mười 1964, trong khi Khrushchev đang nghỉ ở Crimea, Đoàn chủ tịch đưa ông ra khỏi bộ máy và từ chối cho phép ông đưa trường hợp của mình ra trước Uỷ ban trung ương. Khrushchev nghỉ hưu như một công dân sau khi người kế nhiệm ông tố cáo ông về ?ocác kế hoạch liều lĩnh, những kết luận thiếu chín chắn, và các quyết định hấp tấp.? Tuy nhiên, Khrushchev cũng phải được ghi nhớ về sự từ bỏ chủ nghĩa Stalin của ông, sự tự do hoá đáng nhi nhận trong nước và sự uyển chuyển lớn hơn ông mang lại cho lãnh đạo Sô viết

Chia sẻ trang này